![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
Tác giả
SAKURAZAWA NYOICHI (OHSAWA) DƯ TỤNG và NGẠN ÔN Dịch 1972 (NVTchỉnh sửa lần 1 17/2/2010) [b]HAI NGƯỜI THƯỢNG CỔ Du lịch sang ÂU TÂY (Jack et Mme Mitie en Occident) LỜI NÓI ĐẦU Tập sách này thuật lại chuyện phiêu lưu của hai người ngoại quốc du lịch các xứ Tây phương, do một ông vua gọi là “Văn Minh” cai trị, danh từ văn minh đối với họ nghĩa như chữ “Rừng Rú”. Trong hai người du khách, thì một người đàn ông 64 tuổi còn người đàn bà và là vợ 57 tuổi. Người đàn ông tên là Jack, người đàn bà tên là Mitie đều ở xứ “Thiên Quốc”. Từ nhiều thế kỷ nay, người Tây phương gọi nước họ là Thiên Quốc. nhưng dân bản xứ không biết đến danh từ ấy. Thiên Quốc là một xứ rất nhỏ bé, mất hút trong tận cùng đại dương, bị người Tây phương chinh phục, đến đô hộ và chia xẻ từ 80 năm nay. Ông Jack thì rất thông thạo phong tục và tiếng nói của người Tây phương, nhưng bà Mitie lại là người thủ cựu, chỉ biết nói tiếng mẹ đẻ mà thôi. Bà chưa hề khi nào ra khỏi hòn đảo, và là đô thị quê hương bà. Cuộc du lịch của hai người này gặp rất nhiều chuyện lạ và cảm động, còn nhiều hơn cuộc hành trình của Marco Polo ở Trung Hoa, hay là của Livingstone đi vào Trung tâm Phi Châu. Các bạn xem sẽ thấy nhiều điều bổ ích và rất thú vị. Nếu trong sách này có vài đoạn khó hiểu, phật ý, dễ ghét và khó chịu, đó không phải lỗi của tôi. Các bạn nên tìm hiểu cái “Tâm trạng cổ lổ” của hai người ngoại quốc ấy. Tôi cố gắng hết sức để chép lại cho đúng, các bạn muốn hiểu thấu, đó là công viêc của các bạn. Nhiều nhà bác học Tây phương đã xác định, có lẽ chìa khóa Thiên Quốc là ở đó. Như các bạn đã biết, có nhiều sách mới xuất bản, nhất là ở Pháp và Đức đã có bàn về cái chỗ cực đơn giản, tính tự nhiên, và cách “suy tưởng”, cả đến chỗ thần bí của cái “tâm trạng tối cổ ấy. Hình như “tâm trạng ấy” làm cho họ biết nhiều việc mà Tây phương không hề biết: Tiền kiếp, Nhân quả, Luân hồi, Mười hai giai đoạn của Linh hồn v.v… Nếu dụng cụ để nghiên cứu của chúng ta gọi là “khoa học” là tinh vi, và phân tích, nó hướng dẫn chúng ta càng ngày càng đến một thế giới phức tạp, nguyên tử và vi tế, thì bản năng trí tuệ của những người sở hữu cái “Tâm trạng tối cổ” gọi là “bất tài” ấy, lại hoàn toàn có thể trông thấy bằng mắt thường được và có tính tổng hợp.Các bạn không thể tưởng tượng được.Tâm lý của họ và tâm lý của chúng ta là hai thái cực. Tâm lý của chúng ta có tính cách miêu tả, cấp thời nhất định và luận lý, còn “Tâm lý cổ lổ” thì trừu tượng, tưởng tượng, vô định, hoặc Phật tính, (Đại thừa). Thật thế, đoạn sau đây tôi sẽ đề cập trở lại, ngôn ngữ của họ không biết đến thời gian, không số nhiều số ít, không có quán từ, không giống đực giống cái, ngôi thứ cũng không.Thường thường ngôn ngữ của họ không biết đến hoặc đồng hóa, phần chủ quan và khách quan. Họ rất lộn xộn trong tiếng “Có” và “Không” “Của tôi” và “Của anh”, “ của Chúng tôi” và “ của Các anh”. Có phải họ là Cộng sản không? Có lẽ có. Thật ra, tiếng nói này dành riêng cho dân cư ở một thế giới khác biệt, là thế giới vô tận, vô hạn, vô định, tuyệt đối, vĩnh cửu: Thiên Quốc. Nhưng có điều kỳ quái, và kinh dị nhất là tiếng “Dạ” của người Thiên Quốc. Nếu các bạn biếu một tiếng thịt bí tết cho một người Thiên Quốc đã ăn chay từ mấy ngàn năm, vì họ theo đạo Phật Giáo Đại Thừa, thì họ vẫn tiếp nhận một cách vui tươi, trong sạch, ngây thơ, chất phác, mặc dầu họ biết đấy là miếng thịt lấy trong xác chết của một con thú mà họ thương yêu như anh em ruột. Họ có nhăn mặt chút ít để cố gắng nuốt cho trôi miếng thịt, vì họ tự biết đã phạm giới tối cao của Đạo. Nhưng họ vẫn mỉm cười luôn luôn, thốt ra: “Ồ, ngon quá”, lại còn để lời cám ơn các bạn lắm nữa. Các bạn sẽ bảo: Chà láo quá! Nhưng đó là một cách lịch sự thông thường. Người xứ Thiên Quốc gặp cảnh ngộ nào cũng chịu đựng được tất cả, gặp việc khó khăn đến đâu họ cũng xem như việc vui thú, họ xem cái chết cũng như sự sống.Đó là thái độ của người Thiên quốc trước một sự gian nan thử thách. Sự phục tùng hoàn toàn vô điều kiện.Đó là tính thảo thuận tuyệt đối, sự trầm tĩnh trăm phần trăm của một học sinh hiền lành biết tuân theo, và ghi nhớ tât cả lời dạy của ông thầy, dù lời dạy ấy không thể hiểu thấu, hay là như cảnh một con chuột tàu hiền lành nằm trên bàn thí nghiệm, chịu đựng tất cả, chịu đựng hy sinh với bất kỳ giá nào. Nếu người xứ Thiên Quốc phải đóng một vai trò tử vì đạo, thì họ cũng nhận lãnh với một nụ cười vui tươi . Đó là sự mềm dẻo trừu tượng. Nếu các bạn cho thái độ đó là giả dối, thì các bạn hãy chỉ trích cái huyền học ấy, là cái phát minh ra tất cả mọi sự văn minh Á Đông, gồm có Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo, Thần đạo, Lão giáo, Hồi giáo, Khổng giáo, và những công trình mỹ thuật, văn chương, luân lý , văn hóa v.v… và các bạn phải đề xuất một cái gì để thay thế vào đó. Tất cả người Thiên Quốc sẽ hoan nghênh hết sức, và tuyệt đối phục tùng. Chính nhờ lễ phép, khiêm tốn, phục tùng ngây thơ ấy, mà tất cả dân tộc Á Phi đã sinh sống một cách thái bình và tự do suốt mấy ngàn năm, cho đến ngày bị nền văn minh Tây phương tràn tới cách đây độ trăm năm. Chính vì sự lễ phép, khiêm tốn, phục tùng, sự mềm dẻo của huyền bí ấy mà họ đã bị Tây phương chinh phục. Họ cam tâm để mặc kệ bị lệ thuộc như vậy. Nếu ngày nay có đôi việc tranh chấp về thuộc địa, đó là vì chúng ta đã quá lạm dụng hay lợi dụng hơi quá nhiều những đặc tính huyền bí của dân tộc Á Phi, mà không biết hoặc không hiểu, hay là không muốn hiểu tới cái “Tâm trạng cổ lổ” ấy. Nguyên lý vô song của huyền học ấy, xem bề ngoài rất đơn thuần, rất chất phác, nhưng sự thực thì rất sâu sắc, rất thực tế. Nó là một biện chứng pháp có lẽ uyên thâm nhất, và thực tế nhất. Biện chứng pháp của Hegel hay của Marx chỉ diễn dịch được đôi phần, hay một biến tấu trong biện chứng pháp của Viễn đông, một nhất nguyên luận có thể phân cực mà thôi. Sau khi nghe lời giải thích của ông Jack, tôi thấy có một Linh mục Cơ đốc cười và nói: “Biện chứng pháp nhất nguyên luận, một sự mâu thuẫn, ha! ha! ha! …” ông Jack rất buồn, không sao phấn khích được. Thật chán nản! Sau đó, Jack có đến tìm nhà tu sĩ ấy, với hy vọng gặp được một người Tây phương có thể hiểu được tâm trạng cổ lổ mà chưa một ai biết tới, hoặc ít kẻ thích. Ông Jack có đọc một cuốn sách của vị Linh mục ấy, và từ đó ông Jack mến phục vị Linh mục nhiều hơn. “ Tâm trạng cổ lổ” như đã trình bày trong bốn pho sách lớn của đại Triết gia Levy Bruhl, là cái tâm trạng chung của toàn dân Á Phi, hay của tất cả dân da màu. Hết thảy chủng tộc da màu có thể xem như là dân tộc đã từ nơi chôn rau cắt rốn ra đi phiêu lưu về miền Đông, bị ánh sáng hay chỗ mặt trời mọc quyến rũ, và tất cả người da trắng, lại còn phiêu lưu hơn nữa, lại đổ về phươngTây để tìm mặt trời lặn. Người Thiên Quốc tìm được một hòn đảo ở cuối cùng, rồi định cư tại đó. Dân Aztèque (Mễ Tây Cơ) và dân da đỏ là kẻ tiền phong của người Thiên quốc. Nói tóm lại, tôi chỉ muốn làm thông dịch viên trung thành của ông Jack và bà Mitie, để thuật lại, cho các bạn biết những chuyện ly kỳ của hai ông bà đã trải qua ở xứ rừng rú gọi là xứ “Văn minh”. Tôi cần thêm một hình dung từ cho tên ông Jack là: Thầy Phù Thủy. CHƯƠNG I Ăn cướp ở Ba Lê (Paris) Hai vợ chồng ông Jack đến Ba Lê hồi nửa đêm, đầu tháng ba Dương lịch. Từ sân bay Orly, hai ông bà phải đi về phi cảng Invalide ở trung tâm thành phố. Trời tối đen lại lạnh lắm, Phi cảng vắng vẻ buồn thiu. Không có ai đến đón cả, may đâu họ gặp được một chiếc taxi. Hai vợ chồng thuê đi đến đường Galvani. Tài xế đòi 1000 quan, lại thêm 100 quan tiền thưởng nữa, Ông Jack đã thường quen lối eo xách của các tài xế ở các đô thị lớn, nhất là ở Calcutta (Ấn độ) và Nairobi, cho rằng giá ấy là vừa phải, nhưng bà Mitie, tính thủ cựu nên rất phàn nàn, vì ở xứ của bà chỉ trả 10 quan cho xe Rikisyama, và 50 quan cho taxi, không kể đoạn đường xa hay gần. Thật vậy, bất kỳ đến hải cảng nào, họ luôn luôn có cảm tưởng xấu xa. Kỉ niệm buồn nhất là khi đến cơ quan hải quan nước Ấn độ, nước do người thừa kế Thánh Cam địa cai trị. Điều quá lạ lùng là khi vừa mới bước chân vào một nước hòa bình rộng lớn như thế mà đã thấy ngay phong khí đồi bại. Những công chức kể cả cảnh sát và kiểm soát viên hải quan của đại Cộng hòa Hồi Ấn, đều tống tiền người ngoại quốc như bọn ăn cướp, huống gì bọn tài xế và lao công vận tải. Vả lại, theo lời ông Jack, trong thế giới chỉ có nước Ấn Độ là nơi, mỗi khi muốn xin cho được một tờ chiếu khán nhập cảnh, lưu trú, hay xuất cảnh, là việc khó khăn nhất. Nếu thật như thế thì đó là một sự mâu thuẫn xấu xa, vì Ấn Độ là một xứ mến khách của Đức Phật. Nhưng Ấn Độ là một nước mới người thái cổ ấy nói họ sẽ tiến bộ và cải cách một ngày gần đây. Ở Châu Âu, Thụy Sĩ là những nước có tiếng hiếu khách và hào hiệp nhất thế giới mà cũng còn có các tệ đoan ấy nữa kia. Một viên chức hải quan Thụy Sĩ đã buộc chúng tôi trả 1.500 quan mỗi người. Tôi phải xuất 3.000 quan trả cho hai vợ chồng chúng tôi. Sau vài tuần lễ, chúng tôi qua Đức trở về và lần này họ chỉ đòi có 500 quan cho mỗi người. Rõ lạ lùng không? Người đồ đệ ông Jack ở đường Galvani đi vắng, hai ông bà phải đứng đợi một tiếng đồng hồ… không thấy chủ nhà về. Sau cùng ông Jack đi tìm một xe taxi trong đêm tối lạnh lẽo, để di chuyển hành trang đến một khách sạn cách đó độ 5, 6 trăm thước. Đêm đã khuya rất khó mà kiếm cho được xe, may thay lại gặp được một xe taxi, chịu chở hai ông bà và hành lý với giá là 300 quan. Khi đến khách sạn, đang ngồi trong một phòng nhỏ mà phải thuê với giá rất đắt, bà Mitie bỗng kêu vang lên, mặt mày tái mét: - Tôi bỏ quên cái xách tay của tôi trên xe rồi! Cả hai ông bà đều sửng sốt, giấy thông hành, tiền bạc, nữ trang (tất cả gia sản) đều trong đó cả. Khoảng hai giờ sáng, người tài xế trở lại, đem cái xách tay đến, vật hoàn nguyên chủ, ông Jack thưởng cho tài xế 3.000 quan và cảm ơn, một cách nồng nhiệt. Bà Mitie mừng chảy nước mắt, cũng ngỏ lời cảm tạ bằng tiếng Thiên Quốc, anh tài xể không hiểu gì cả, sung sướng và ngạc nhiên từ giã ra về. Hai người Thiên Quốc vui vẻ trở lại và kết luận rằng: - Luôn luôn có ÂM và có DƯƠNG, có tốt và có xấu, chỗ nào và ở cấp bực nào cũng thế. Ta không nên chỉ trích điều xấu, vì điều xấu chỉ là mặt trái của điều tốt. - Thật thế, nguyên lý vô song ÂM DƯƠNG của chúng ta cũng có giá trị ở Tây phương. Luôn đến cả xứ văn minh cũng thế! Hạnh phúc biết bao!… Nhưng người ta có thể nói lên được rằng: “Không còn kẻ ăn cướp nữa, không còn kẻ lương thiện” nữa chăng? - Sao lại không được, mình có biết đêm nay tôi thường nói là gì không? Nhờ bọn ăn cướp tài xế … - Và cũng nhờ bọn tài xế lương thiện … - Tư tưởng phi mâu thuẫn là một thị giác loạn sắc theo vô song nguyên lý … Phải chịu đựng điều xấu cũng như tốt, chết như sống, cái khó như cái dễ, với luôn luôn vui thích. Nếu người ta chỉ thấy một bên của sự vật thế là bệnh loạn sắc về tinh thần. Nếu người ta chỉ muốn tìm phía tốt của sự vật, thế là ngạo mạn, kiêu căng, độc tôn chủ nghĩa, tự kỷ trung tâm chủ nghĩa, nếu người ta muốn phá hủy cái gì mình không ưa thích, đó là điên. Muốn có sức khỏe, giàu có, tiện nghi, trí thức,… phải dấn thân vào nỗi khó khăn, vì rằng cái khuynh hướng, mạnh tự nhiên của chúng ta thuộc về cảm giác và cảm tình, tức là khát vọng về tiện nghi, giàu có, dễ dàng. - Và còn nào là nóng, rét, đói khát thường xuyên nữa? chính vì thế mà chúng ta rời bỏ xứ gọi là “Rừng rú” và những bạn hữu gọi là “Thái cổ” rất hòa bình, rất hiền từ, để đi tìm kẻ cướp, kẻ trộm ở các nước “Văn minh”. Nếu chúng ta không thấy bọn họ, té ra cuộc du hành của chúng ta hóa thành uổng phí thì giờ vô ích. [/b] CHƯƠNG II. NGUYÊN DO TÍNH HUNG BẠO TÂY PHƯƠNG Hai người Thiên Quốc, nhất là bà Mitie, rất ghê tởm việc sát sanh. Tín đồ Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo, Phật giáo v.v… ít nhất có 2, 3 trăm triệu người cũng không ưa sát sanh. Các bạn thấy những người ăn mày nghèo khó hay những bệnh nhân nan y ngồi ở các con đường phố lớn, dưới cơn nắng chang chang ở CALCUTTA (4 triệu dân), bắt những con rận trong áo quần của bọ, rồi phóng sinh. Dân Ấn Độ tránh đạp những con sâu con kiến, tránh uống nước, huống gì lại tận diệt loài vi trùng bằng các thứ thuốc độc hóa học mãnh liệt. Trong sự tôn trọng đời sống, họ còn nhiệt tâm hơn cả bác sĩ A. SCHWEITZER. Bác sĩ SCHWEITZER giết vi trùng không nghĩ gì đến lý thuyết của ông. Dân Ấn Độ còn ghê tởm sự mổ xẻ và cưa tay cắt chân, dù là cắt xẻ sơ sài cũng vậy. Họ không muốn thấy máu chảy, nhưng trong bệnh viện của SCHWEITZER ngày nào cũng có những cảnh như thế. Người Thiên Quốc thích bông hoa và cỏ hoang, họ có lập một trường dạy cắm hoa.Việc cắm hoa là một tôn giáo từ bi đối với giống mong manh và có kiếp sống ngắn ngủi. Tôn giáo này nhất thiết cấm không ai được cắt cành cây và lá cây. Vì thế, mỗi khi trông thấy những cánh hoa bày bán ở chợ hoặc để trong phòng khách, hoặc trong các tủ kiếng, hoặc cắm ở độc bình, thì bà Mitio rất xúc động đến rùng mình thở ra, bà nói rằng: “Ôi những đóa hoa khổ sở của tôi ơi, người ta đã cắt bẻ các con một cách tàn bạo như thế ư?”. Bà ta nói như đối với con ruột của bà vậy… Nhưng sự xúc động mãnh liệt nhất, cảm động nhất và ghê [/b] |
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
tởm sâu sắc nhất trong đời sống của họ, là khi thình lình vào một nhà thờ ở PARIS, trông thấy một thây ma trần truồng bị đâm thủng nhiều chỗ, và tay chân đều bị đóng đinh trên một cây chữ thập bằng gỗ.
Bà Mitie thất thần, bỏ chạy trốn rất mau. Thời thường bà đi rất chậm, đi chậm như các người đàn bà ở Thiên Quốc, còn chậm hơn cả trong những phim “NHẬT BẢN” nữa, nhưng trường hợp đặc biệt hôm ấy bà ta đi rất nhanh. - Bà nói Tôi thiết tưởng Chính đó là nguồn gốc của sự tàn bạo Tây phương tại Á Đông và Viễn Đông, từ việc sát hại người Trung Hoa trong trận Nha phiến chiến tranh, cho đến cuộc tàn sát 313.814 đàn bà và trẻ em vô tội và không có khí giới tại Quảng Đảo (Hiroshima) và Trường Kỳ( Nagasaki) do 2 quả bom nguyên tử đầu tiên.Đó là sự phản đối tự nhiên của 1 phụ nữ Thiên Quốc, sinh sống tại một xứ mấy ngàn năm chưa hề biết chiến tranh là gì, cho tới khi văn minh Tây phương tràn tới xâm chiếm, - Tâm lý độc ác làm sao! Trưng bày một xác chết, đóng đinh tay chân và đâm lủng … và cảnh ấy luôn luôn ở đâu cũng thấy …. Một sự phô trương lặp đi lặp lại thường xuyên và được xem miễn phí. - Đó là một sự phát minh của Âu Tây, chí như Thiên Chúa Giáo chính thống Đông Phương thì không hề có. - Nếu người ta tượng trưng Thiên Chúa Giáo bằng cách đó, thì việc người Tây Phương đi chiếm thuộc địa các nước trên hoàn cầu bằng võ lực là lẽ tất nhiên. Văn minh Tây Phương luôn luôn đẫm máu .Tất cả các xứ và tất cả các đảo nhỏ mà người da trắng đặt chân tới, đều hóa ra bãi chiến trường, mặc dù người dân bản xứ vốn tính hòa bình. - Mình nói đúng lắm. - Vậy chúng ta nên trở về nước, càng sớm càng hay, chứ đi du lịch làm chi nữa.Nhìn thấy thây ma, và những dân tộc tôn sùng thây ma ấy, tôi rất khó chịu. Mình thử nhìn mấy cành hoa nhỏ kia bị cắt xén một cách độc ác … - Tôi hiểu lắm, mình là một giáo sư dạy cắm hoa, nên nói có lý lắm. Nhưng chúng ta nên tìm thấy cái tốt, chớ nên chuyên tìm cái xấu. - Tôi không phải chỉ trích gì cả. Tôi chỉ nói rằng, tôi không thể trông thấy mãi chuyện đó khắp nơi, và ngày nào cũng đều thấy. - Tôi hiểu mình lắm, mình không bao giờ chỉ trích, vậy chúng ta nên từ bỏ chỗ này mà đi. Một hôm, đi qua trước nhà thờ ở tỉnh Fribourg nước Đức, hai người không dám vào. Thật đau khổ khi nhìn thấy cảnh tang thương hư nát vì bom đạn của nhà thờ. Chỉ đứng đằng xa, hai người đưa mắt nhìn nhà thờ một cách lặng lẽ. Bà Mitie nói thầm: - Mấy chiếc xe hơi sang trọng đậu đằng kia là của ai vậy? Có phải ở từ xa đến chăng? Còn du khách có phải người ngoại quốc cả chăng? - Phải, phải. Nhiều người Mỹ giàu có lắm. Mỗi chiếc xe giá đến hàng triệu quan. Mình muốn có một chiếc không? - Chắc chúng ta không đời nào có được. Mình không mua đâu, tôi biết, thôi không nên thảo luận chuyện đó nữa. Nhưng, tôi tự hỏi, tại sao họ lại đến đây? Họ đến viếng nhà thờ để làm gì? Có phải để chiêm ngưỡng vẻ đẹp chăng? Nhưng vẻ đẹp này buồn tẻ quá, thô bạo quá, lạt lẽo quá, và có lẽ ngạo nghễ quá. Hay đến để xem cảnh đồ sộ chăng? Nhưng ở Hoa kỳ có chán vạn cảnh nhà nguy nga to lớn gấp bội cảnh nhà thờ kia. Vậy họ đến đây để làm gì? Để tiêu khiển chăng? - Đó hoàn toàn chỉ vì hiếu kỳ thôi, có lẻ để giết thì giờ, và xài tiền của. Thế nào trong đó cũng có vài cớ chứ. - Nếu chỉ để giết thời giờ, hoặc để xài của, thì đáng buồn và đáng tiếc cho họ lắm. - A, hãy xem kìa, có người đã đi ra đó… mình thử vào xem họ đã làm gì trong đó. - Không, không, tôi không dám vào, … trong ấy thế nào cũng có thây ma. - Phải, nhưng họ đã làm gì trong ấy? - Họ cầu nguyện cho Hòa bình và Tự do. - Không, đâu phải là cầu nguyện, chỉ là nài xin ,theo nguyên lý vô song của chúng ta, sự cầu nguyện phải là một trầm tư mặc tưởng về trật tự vũ trụ ÂM DƯƠNG,về sự biến dịch và bất dịch, về lòng biết ơn và thân phận con người trong vũ trụ vô tận… để cho trí tuệ của chúng ta được phát triển, hầu có thể trông thấu qua tất cả thời gian vô cùng và không gian vô tận, tuyệt đối, vượt ra ngoài thế giới hữu hạn, và tương đối này, khiến cho chúng ta được hưởng một cảnh an vui vĩnh viễn, và tình thương yêu vô hạn. - Nhưng ở đây lại trái hẳn, Người ta chỉ cần cái hạnh phúc cấp thời của thế giới hữu hạn, tạm bợ lừa dối này … - Tóm lại, đó là một cách nài xin, khẩn cầu, hay là một mối dục vọng quá mãnh liệt. - Té ra đi cầu khẩn một cái quý hóa nhất với cái xác chết. Thật là buồn chán, và đáng thương thay! … Chứ họ không hiểu như thế sao? Không có lẽ …Họ là một dân tộc gọi là “văn minh” và họ có khoa học tính? - Nhưng đây là lúc đúng nhất để họ quay lưng với “văn minh” hay “khoa học”. Họ tạm quên một lúc cái văn minh khoa học của họ, để hồi tỉnh lại ở trong cái vũ trụ vô tận, tuyệt đối, trường cừu, là nơi mà không gian, thời gian không thể làm trở ngại được, vả lại nơi chướng ngại ấy có chăng cũng chỉ là việc tưởng tượng. - Thế cũng như các thợ lặn của nước chúng ta chứ gì? Họ lặn xuống tận đáy bể sâu và tối tăm để mò tìm ngọc trai, họ lặn rồi thỉnh thoảng nổi lên mặt nước để thở không khí trong sạch và vô tận … - Ừ, phải rồi, rất tiếc là không có một ai chịu khó dạy bảo cho họ biết cách tự do vô tận, và công bằng tuyệt đối ấy, cách thở không khí trong sạch, để chỉ vẻ cho họ biết rằng chính ở đó người ta mới tìm thấy cảnh tự do vô tận, sự công bằng tuyệt đối, và sự vui thú vĩnh cửu ở đời - Sao? Không có ai cả à? Không có ai thuyết giáo cả sao? Khó tin quá! - Chắc hẳn cũng có. Nhưng không có ai biết, và truyền bá về cơ cấu vũ trụ. Sự liên hệ của cái vô tận này với thế giới hữu hạn là một điểm đơn thuần kỷ hà trừu tượng của cái vô tận. Họ tưởng rằng điểm trừu tượng, tưởng tượng kỷ hà ở riêng ngoài cái vô tận. Nếu một điểm kỷ hà có thể có ngoài cái vô tận, thì cái vô tận này chỉ là một điểm hữu hạn khác, hay là vô hiện hữu. -Vậy thì các nhà truyền đạo Cơ Đốc giáo của Châu Âu đều chủ trương nhị nguyên luận chăng? - Đúng thế, họ cho rằng Thượng đế và ma quỷ, thiện và ác là hai thái cực tương phản vĩnh cửu. Đó là mối tranh luận nhị nguyên không khi nào chấm dứt. Họ cũng biết rằng hai đầu mối một nam châm hay là kiềm tính (Alcelinité) và thoan tính (Acidiete), chỉ là hai cách phát biểu của một cái thiên nhiên …. Nhưng họ không hiểu cái đồng nhất của điều thiện vả điều ác. Ấy là một tâm lý rất khó hiểu. Trí phán đoán của họ từ giai đoạn thứ ba đến giai đoạn thứ bảy đều bị che lấp. - Vậy thì nên lấy Nhất nguyên luận, Vô Song Nguyên Lý của chúng ta, mà bày dạy cho họ. Đó là họ bị bệnh thần kinh, mình nên chữa trị cho họ. - Như mình đã biết, tôi cố gắng chỉ vẽ chỗ đó hết sức từ 35 năm nay. Cũng vì vậy mà mình đã bán hết tất cả châu báu của mình, để cung cấp cho tôi có đủ phương tiện qua lại Âu Châu hơn 10 lần , để theo đuổi sứ mệnh Nhất Nguyên của tôi . Và đã 21 năm nay, đây là lần đầu tiên tôi quay lại Âu Châu , nhưng tôi đã già, bạn bè cũng không còn nữa …. Và cũng không có một thanh niên khoa học nào chú ý đến cả! Chao ôi! - Nhưng, mình không có lý do nào đến thất vọng cũng không đến phải từ bỏ …. Mình nên tiếp tục sứ mạng Nhất Nguyên của mình, cái đó rất đơn giản, rất dễ hiểu, nhất là rất thực tế… là Vô Song Nguyên Lý của chúng ta …. Tại sao từ mấy hôm đến đây, mình có vẻ buồn lắm vậy? Mình đã sống trở lại giữa thành phố Paris, và giữa Âu Châu yêu mến của mình rồi kia mà. - Mình nói đúng, tôi không nên buồn nữa, nhưng vẫn có cái gì nặng nề để trong óc tôi, tôi cố gắng quên nó đi …. Nhưng có nhiều lúc nỗi buồn ấy lại trở lại. Chính khi nào tôi đứng trước một nhà thờ, hay đứng trước một người mộ Đạo đang cầu nguyện trước bàn thờ, thì nỗi buồn ấy trở nên một nỗi đau khổ, như khi mình đứng trước cái thây ma khủng khiếp ấy … Trông thấy một người Thiên Quốc trốn tránh cái chỗ mà người Âu Châu lưu lại để cầu nguyện …. Tôi không biết giải thích làm sao cho mình rõ về tâm trạng “Văn Minh” ấy, vì sao tôi đã bất lực không thể giải thích cái “tâm trạng Thái Cổ” của chúng ta cho các dân tộc mộ Đạo hay khoa học, đồng thời là dân rất hiền hậu, rất can đảm, và vì sao tôi… - Mình không còn thông cảm với trí phán đoán cao siêu của mình rồi sao? - Mình tưởng trí phán đoán cao siêu của tôi bị mờ ám rồi sao? Lúc ấy đúng lúc chuông nhà thờ đánh 12 giờ, vang dội trên không trung cao vút. - Ồ, tiếng chuông rõ êm tai! - Chính là tiếng chuông mà chúng ta đã nghe khi sáng tại khách sạn. - Ồ nghe êm tai quá, có người rung chuông chăng? - Không có, máy cả. Ở đây chẳng phải như ở xứ Nhất Nguyên của chúng ta là nơi nhân công rất rẻ. - Giờ nào chuông cũng đánh chăng? - Cứ đúng 15 phút thì chuông đánh. - Như thế là đồng hồ chứ gì? - Chính thế. - À bây giờ tôi mới hiểu tại sao người ta không đến nhà thờ đúng giờ. - Tại sao? - Mình biết chứ, ở xứ mình người ta đánh chuông giờ Dần (con cọp) (4 giờ sáng). Người ta thức dậy khi 3 giờ, đến giờ Dần người ta mới bắt đầu làm công việc hàng ngày, còn tu sĩ Phật giáo thì cầu nguyện, nghĩa là trầm tư mặc tưởng về sự cấu tạo của vũ trụ. Đến giờ con Thỏ (6 giờ) khi nghe tiếng đại hồng chung đánh, người ta vội vã đi đến chùa. Ồ tiếng chuông lớn ấy êm tai làm sao!…. Tiếng chuông ngân rền như thúc giục chúng ta, như giọng âu yếm của người mẹ hiền. Nếu chúng ta bận việc không đến nhà thờ được thì tiếng chuông ấy như đưa chúng ta đến cõi vũ trụ vô biên, cảnh tự do vô tận, chỗ công lý tuyệt đối và mối hạnh phúc vĩnh cửu. - Thật vậy, tiếng chuông của họ và tiếng chuông của chúng ta hoàn toàn khác nhau xa. - Tiếng chuông thân yêu của chúng ta, đánh thức chúng ta giữa cái vô tận, còn tiếng chuông rung ở đây làm ta đắm chìm trong cõi hữu hạn vội vã, bó buộc, lăn lộn với mục đích làm cho ra tiền. Ở xứ ta, chuông đánh để mở tri giác cho chúng ta vui hưởng sự cao cả của vũ trụ vô tận và vĩnh viễn, còn tiếng chuông ở đây, lại xiềng xích chúng ta trong thế giới hữu hạn, vây kín trong bức tường sắt gọi là “thời gian” và “không gian”.… Thật đáng buồn! - Vậy ai đã phát minh ra cái chuông ấy? Ở đây người ta thường nói “thì giờ là tiền bạc” Thế thì tiền bạc phát minh ra chứ gì? - Chúng ta đang ở địa ngục chăng? - Đúng lắm, ở đây là đế quốc của tiền bạc. Không có tiền thì chẳng làm gì được. Người ta không thể sống, cũng như không thể thở không khí tự do, nếu không có tiền…. Vậy thì chúng ta làm cho có một ít tiền. - Chúng ta hãy trở về Thiên Quốc đi. Ở ta mọi người có thể sống ngoài những bức tường sắt ấy. Người ta có thể thở không khí trong sạch mà không tốn kém gì cả. Người ta có thể ăn những cây cỏ thiên nhiên vô tận, không có bón phân hóa học, những lá cây ngon lành, mà cho đến ăn rễ cây Bồ Công Anh ... - Thế họ không biết ÂM DƯƠNG sao? Hai năng lực tương phản ấy, cấu tạo, kích thích, phá hủy và tái tạo tất cả cái gì ở thế giới này. Ly tâm lực và cầu tâm lực là nguồn gốc tất cả tinh lực. Nhưng mình há không thường nói cho tôi biết, cái khí cụ mạnh nhất trong những hiện tượng thiên nhiên gọi là “vật lý học”. Cái này đã phân biệt hai năng lực tương phản ấy làm căn bản cho tất cả những vật hiện hữu trong vũ trụ, hơn nữa nó cần tìm ra sự mâu thuẫn hoặc sự tương phản ở tất cả cấp bậc. - Nhưng có điều người ta chưa nhận ra hai cái năng lực căn bản ấy như hai bàn tay sáng tạo, chỉ do một bộ óc, tức là cái vô tận. Họ đều là nhị nguyên luận từ ngày lọt lòng mẹ. - Có phải họ đều mắc bệnh loạn sắc không? - Họ cãi nhau, chia ra làm hai khối tương phản, một bên duy vật một bên duy tâm. Sự tranh luận ấy rất sôi nổi và rất lâu. Thật là khốc liệt và khổ não.Bác sĩ CARREL, bạn thân của ta, là một nạn nhân của cuộc tranh luận ấy. - Vậy thì người ta không biết ý nghĩa chính của cây thập tự giá mà chúng ta trông thấy khắp nơi tận trong miền sơn cước xa xăm, hiu quạnh hoặc ở các đô thị lớn, (như ở Fribourg), hoặc ở các thôn xóm nhỏ nghèo khó, trong những phòng khách, trong những khách sạn … nhưng thập tự giá được xem như một vật phụ tùng chăng? Người ta lại không biết rằng, cây thập tự giá ấy là biểu hiện của hai năng lực tương phản của cái vô cực, tuyệt đối sao? Người ta chỉ giữ lại cái hình ảnh thôi, vì sao vậy? Có phải vì thương xót hay vì ám thị mà họ đương chuẩn bị đi đến một cứu cánh tương tự chăng? - Có lẽ người ta quên rồi. - Vậy thì mình nên truyền bá lý thuyết Nhất Nguyên luận, là cái rất hữu ích, rất thích thú, mà nhất là rất thực tiễn. - Như mình đã biết, tôi đã truyền ra từ 35 năm nay, nhưng họ không hiểu gì cả. Vì thế tôi quá buồn. - Nhưng mình có nói với tôi rằng, hiện có hàng ngàn y sĩ Pháp và Đức đã nghiên cứu môn châm chích theo sách của mình, và họ đã đem áp dụng, rằng sách của mình cũng đã bán được hết.… - Thật thế. Nhưng tôi lầm. Họ đã nghiên cứu nền cựu y thuật ngoại quốc một cách rất lạ lùng tỉ mỉ và cố chấp, mà họ không chú trọng gì đến lý thuyết nhất nguyên luận có thể phân cực được. - Đó có phải là một bệnh thần kinh hay duy tâm chăng? Rõ bệnh trầm trọng. Tại sao người tạ không chú trọng đến lý thuyết? Mình thường nói rằng lý thuyết không thực hành thì vô ích, mà thực hành không lý thuyết thì nguy hiểm. Thế là đã giao cái súng đại liên cho một trẻ con ngu dại, chính mình phải chịu trách nhiệm … - Chính cái đó đã làm cho tôi băn khoăn. Tôi không hiểu được cái tâm trạng của người “Văn Minh” chúng ta còn ngây thơ cổ hủ quá chăng? - Chúng ta đã thấy thây ma và cây thập tự giá treo khắp nơi và rất nhiều trong các nhà thờ. Nhà thờ là một lâu đài quan trọng nhất của bất kỳ đô thị hay thôn xóm nào. Chúng ta đã chú ý đầu tiên, và thấp thoáng đằng xa khi bọn mình lần bước đến … và những nhà thờ với cây thập tự giá ấy, hồi xưa ít nhất là dùng làm trung tâm sinh hoạt của thôn xã và trung tâm giáo dục. Những Linh Mục được xem như người hướng đạo của nhân dân. Theo như người mọi rợ Tây phương, thì Thiên Chúa giáo là một trường học thuộc địa, để giáo huấn về việc đã tìm ra được vũ trụ, do các bậc hiền triết Đông phương nghĩ ra. Tại sao không thể truyền bá trở lại cái nhất nguyên tận gốc của chúng ta để tránh sự hiểu lầm? Bây giờ mình đến đây là chỉ có thế. Cũng vì cái sứ mạng ấy, mà tôi phải bán tất cả châu báu |
|
|
![]()
Bài viết
#3
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
của tôi. Nhưng không sao, việc đó xứng đáng lắm. Người ta sẽ tìm lại những ngọc trai ấy, ở dưới biển có vô số.
- Hai vợ chồng vừa đi vừa bàn tán với nhau như thế, thì cũng vừa đến trước một tòa lâu đài: Trường Đại Học FRIBOURG. Hai vợ chồng ngừng lại, rất nhiều sinh viên đi qua. Ông Jack đứng nhìn rất lâu những chữ lớn mạ vàng ở trên lâu đài. DIE WAHRHEIT WIRD EUCH MACHEN FREI - Mình ngắm gì đây? Những chữ ấy nghĩa là gì? Nói cho tôi biết với. Ông Jack không trả lời. Ông ngồi yên lặng trên một ghế băng cứ chăm chăm nhìn những dòng chữ mạ vàng ấy. DIE WAHRHEIT WIRD EUCH MACHEN FREI - Mình không hiểu những chữ Đức ấy chăng? Bà Mitie nói, ông Jack vẫn yên lặng chăm chú nhìn dòng chữ. - Đó là một câu có nghĩa: “Sự thật sẽ làm cho bạn được tự do” hay là “Sự thật sẽ cho bạn tất cả tự do”. - Hay lắm, hay lắm, đó là điều mà mình thường tâm niệm. Những chữ đó họ đã chạm khắc và thiếp vàng, mình nên ghi vào tâm não, ồ, xin lỗi … - Đối với tôi, câu nói có hai ẩn ý, thật khó mà giải thích được. 1. Đối với người “Văn Minh” Tây phương, sự thật nghĩa là gì? 2. Vì sao người ta dạy điều trái sự thật trong tòa lâu đài đồ sộ này? Chúng ta thử bàn đến điều bí ẩn này; theo trí phán đoán cao siêu của chúng ta thì chân lý chỉ có thể duy nhất, vĩnh viễn, vô tận. Nói tóm lại, đó là sự cấu tạo của vũ trụ, nguồn gốc tất cả cuộc đời (Sinh khí, sinh mạng và dung mạo). Vậy là một bộ ba đó là đối với người chỉ có một bộ óc phán đoán kém, vì chỗ phán đoán cao siêu bị mờ ám đi, những nhà thuyết giáo đầu tiên, Tây phương đem truyền cái chân lý của Viễn đông đã tìm được ấy, phải bắt buộc giải thích một cách bóng bẩy nghĩa là bằng một ngôn ngữ từ tốn, dễ cảm của giai đoạn hai trong sự phán đoán, như Thần linh, Cha và con (l’Ésprit, le Père, et le Fils). Và những kẻ truyền ngôn vụng về ấy, cho rằng những cái đó như ba hình thức tuyệt đối khác nhau, đáng lẽ phải xem như ba hình thức của một chân lý duy nhất mới phải. Đó là nguyên do của tất cả mọi cái đau đớn, khốn khổ, và tội lỗi … - Nếu chân lý không được duy nhất, vô tận, tuyệt đối, thì không phải là chân lý nữa. Nếu nó phải phân chia ra, thế là bởi “sự kiện” hữu hạn do thời gian và không gian làm ranh giới. Người ta có thể định nghĩa nó bằng ba chữ C. G. S (centimètre, gramma, seconde) (1phân, 1 lượng,1 giây) chỉ có giá trị trong thế giới tương đối, hữu hạn và tạm bợ. Nhưng người ta không thể định nghĩa cái vô tận, cái tuyệt đối, cái vĩnh viễn với khí cụ C. G. S ấy được. Thí dụ: Ký ức, tư tưởng, tự do, công bằng, lạc thú, tối cao, trí tưởng tượng, lòng ham muốn.v.v… và v.v…. Như vậy “DIE WISSENSCHAFT”. Khoa học dựa trên cái khí cụ duy nhất C. G. S chỉ có thể nghiên cứu những sự vật, hữu hạn, tương đối và tạm thời, nghĩa là sự trái ngược của chân lý. Nếu những ai nghiên cứu về môn văn hóa mà chưa dùng được cái khí cụ C.G.S này thì cố gắng du nhập nó vào càng sớm, càng tốt. Trường đại học thật ra chỉ là phản ảnh của thế giới. Cần nên xây dựng 1 nền khoa học chân chính để có thể nghiên cứu tất cả khoa học “C. G. S” và cả sự cấu tạo vũ trụ nữa. Không nên phủ nhận sự cấu tạo biện chứng của vũ trụ, duy vật và duy tâm, và trước tiên nên nghiên cứu duy tâm do sự cấu tạo của vũ trụ, rồi sau đó mới nghiên cứu đến duy vật do “C. G. S”. - Đời xưa người ta đã chủ trương như vậy. Nhưng từ một vài thế kỷ nay người ta bỏ hẳn không còn nghiên cứu sự cấu tạo vũ trụ nữa. Tại sao vậy? Đó lại là một ẩn ý khác nữa. - Tôi hiểu rồi, nó rất đơn giản. - Tôi biết rồi, thật là giản dị, vì người Tây phương càng ngày càng trở nên Dương (bệnh cận thị và loạn sắc) chỉ vì họ ăn uống bậy bạ. - Phải, đúng rồi. Nhưng ai là kẻ chịu trách nhiệm tất cả cái ấy? - Đó là điều khó hiểu thứ tư. - Mình biết chứ. Đó là những kẻ truyền giáo Viễn Đông ở Tây phương, những người truyền giáo thành ra kẻ chài lưới phiêu lưu, không trổng tỉa, những kẻ không cày bừa, không trồng tỉa theo đức tình kiên nhẫn của họ, thì thành ra tính cảm giác tinh tế, rồi dần dần trở nên vô cảm giác, đơn thuần, thô kệch, bạo dạn và cuối cùng họ sinh ra keo kiệt và tàn bạo. Cho đến những kẻ ăn thịt thú vật cũng đều như thế. Sinh lý học là căn bản của tâm lý học mà cách dưỡng sinh lại là gốc nguồn của sinh lý. Thượng tầng cơ sở gọi là tâm lý học phải chú trọng nghiên cứu các căn nguyên sự cấu tạo, phát triển và cải thiện bộ não phán đoán như trong triết học Vedanta, Phật Giáo, Lão Giáo…Ở Viễn Đông người ta đã thực hiện cái đó hoàn toàn, tỉ mỉ và vững bền từ mấy ngàn năm rồi. Mình đã có nói, ở Âu châu có một vài nhà tư tưởng cô lập, như các ông: ALEXIS CARREL, PAUL CARTON, AUGUSTE LUMIERE, LEON BINET v.v… đã bắt đầu nghiên cứu về sự phán đoán. - Nhưng tại sao ở Tây phương lại có sự chậm trễ lạ lùng như thế? Tại sao phải quay trở lại thời ngàn xưa. Trong khi tìm cái chân lý nguyên thủy? Ở Tây phương không có một Đức Phật, một Dê du, một Nagarjuna, một Asanga, một Lão Tử, một Tôn Tử nào cả sao? Thật là khó hiểu và khó tin! Và sự biến cải của Hy Lạp, La Mã, Âu Châu và giáo lý của Dê du đã chứng tỏ trong lịch sử của các dân tộc Tây phương, từ trang đầu đến trang cuối. Sự biến cải này đầy dẫy những việc tàn sát, kinh doanh, sát nhân, giết chóc, nghèo đói và đế quốc suy bại. Cảnh tượng ấy càng ngày càng gia tăng. Hiện thời tất cả nhân loại đang lo lắng kinh khủng về mối đe dọa bom nguyên tử …. Tận thế sắp đến nơi. - Vì sao có sự thoái hóa? Mình không nói rõ cho tôi biết … - Ừ, nhưng tôi còn nói tiếp. Những người “văn minh” Tây phương thực ra có phải xảo trá nhất trên thế giới, và tàn bạo nhất như trong lịch sử và tin tức hàng ngày đã cho ta biết chăng? Trong thâm tâm của họ lại không có một mảy may nào lòng nhân từ và tinh tế chăng? Ít nhất cũng có chút lương tri chứ? Trong trường hợp đó, một ngày kia, sớm muộn gì rồi ai cũng sẽ có đâm chồi nở hoa phát triển ra chứ. Nếu không thể, tất nhiên sẽ có ngày tận thế, như ở Tây phương người ta thường nói. Họ đã có nhiều tân phát minh lắm! nhưng tất cả những điều phát minh ấy, chỉ nhắm vào mục đích tiện nghi, kinh tế, khoái lạc, hoặc bạo lực mà thôi. Nói tóm lại, tất cả đều do trí phán đoán về giai đoạn thứ hai, hay là giai đoạn thứ ba (cảm giác hoặc cảm tình phát sinh, chứ không phải cốt để cho hạnh phúc vĩnh viễn, cũng chẳng phải cho tự do vô biên, huống gì cho nhân loại bị đe dọa. Ta chỉ liếc mắt nhìn bảng danh sách những người được giải thưởng NOBEL, thì biết lấy tất cả những việc phát minh chỉ dành riêng cho hạnh phúc phù vân ,tự do hữu hạn, nghĩa là cải thiện lời nói để phụng sự cho bạo lực hay là một lời từ chương vô ích. - Nhưng cũng còn một phần tử tinh anh, như MATGIOL GUENON, TYNHHEE và nhiều đồ đệ của GANDHI đã cố gắng du nhập quan niệm về vũ trụ và cách suy tưởng của Viễn Đông. - Phải, nhưng họ nào có hiểu Vô song nguyên lý là căn bản của tất cả triết lý, tất cả khoa học và tất cả văn minh Viễn Đông. Nếu có một số ngưởi rất ít biết tới, họ cũng không sinh hoạt hằng ngày, mà họ cũng không thực hành tới. Mình hẳn còn nhớ, có một người Pháp tác giả một quyển sách về Thiền tông, ông ta tuyên bố: Giáo lý ấy rất hay, tôi chỉ nghiên cứu nó về phương diện tâm lý. Còn căn bản vật lý học của Thiền tông tôi không thích. Hoặc là họ thuyết minh ra một cách sai lầm, coi nó như một thuật thần bí, hay là một tôn giáo. - Sự thuyết minh một cách sai lạc đi, là một ngụy trang để che dấu cái hoàn toàn ngu si. - Và ngu si là kém hiểu biết, tức là trí phán đoán bị che bịt, hay là sự phán đoán ấy bị mờ ám ngăn cản ta không thấy được toàn diện mặt thực của vũ trụ, và định vị trí ta ở cõi trần thế tương đối, hữu hạn, cực nhỏ, và tính cách tự kỷ. Sự ngu si chính là không biết đến cách cấu tạo của vũ trụ. Và sự lầm lỗi về thuyết minh là tự đầu độc, hay là tự phụ ngộ đạo của người ngu si, nếu không là người theo nhị nguyên. Thật tôi chẳng bao giờ lấy làm ngạc nhiên và thất vọng như thế. - Phải lắm, tôi nhớ lại vẻ buồn bã của mình hôm ấy rồi. - Vì sao lại bào chữa một hành vi và thần thánh hóa cái đó ?? Người ta e sợ khía cạnh giả tâm của lý thuyết, người ta cần một cái mặt nạ để che đậy một sự hoàn toàn ngu si. Do là một sự trốn tránh, kiêu căng, hay ngạo mạn cũng như sự im lặng. - Chính dân tộc theo thuyết nhị nguyên thường hay sợ sệt những người theo nhị nguyên thuyết hay sợ sệt từ khi mới hiện bào thai. Và tất cả những ai tự xưng “tín đồ” , “hiếu đạo” hay “thần bí”. Kỳ thực trong thâm tâm đều là người theo thuyết nhị nguyên giả dạng thông thái, lý trí, và ngạo mạn. - Dù thế nào nữa, chúng ta cần phải giải thích rõ hơn. - Đành rồi, chúng ta cố gắng làm cho được. Nhưng còn bao nỗi khó khăn phải đương đầu vượt qua. - Nhưng mình nói rằng, chỉ có thất bại đau đớn, và thất vọng, người ta mới được một bài học. - Vậy thì mình là một người giảng đạo cho tôi sao? - Không phải, chỉ là một cái máy nói thôi. - A ……DIE WHARHEIT WIRD EUCH DACHEN FREI. CHƯƠNG III ĐIỀU MÊ TÍN TRONG RỪNG RÚ GỌI LÀ “VĂN MINH” THỊT Bà Thái Cổ, mỗi khi vào nhà thờ, lại trông thấy một thây ma bị đâm thủng bên hông, và hai tay hai chân bị đóng trên cây thập tự giá bằng gỗ, sinh ra cảm xúc, nên quyết định không đi vảo nơi ấy nữa. Nhưng một hôm, bà vào trong chợ, bà lại ngạc nhiên trông thấy hằng chục cái đầu heo cạo sạch lông và nhiểu cái chân nhỏ, giống như chân trẻ con mới sinh, lại rất nhiều hàng chả, hàng thịt, hàng bán cá. - Bà nói: Tại sao có nhiều hàng bán thịt, chả, và tại sao rất ít hàng bán rau thịt như thế? Ở tại nước của bà, ngày nào bà cũng thích đi chợ. Ở đó, chợ bày bán các thứ rau quả, sản xuất theo tửng mùa, làm bà cảm thấy vui sướng. Hàng ngày đi chợ mua hoa quả là một bổn phận rất thích thú. Nhưng bây giờ, ở đây, bà rất ngại ngùng khi đi chợ, vì thấy những thây thú vật phơi bày ra khắp chợ, xem rất khó chịu. - Vì sao người ta ăn rất nhiều thịt như vậy? - Chỉ vì không có nhiều rau quả. - Thì tại sao không trồng rau nhiều lên? - Ở một xứ quá Âm, người ta không trồng được nhiều thảo mộc, mình xem ở đây rất ít thảo mộc, còn ở bên ta thì rất nhiều. - Hàng trăm thứ phải không? -Phải, đúng thế, có lẽ ở xứ ta có hàng ngàn vật thực, (thú vật và thảo mộc) kể cả cỏ hoang và rong dưới sông hay rong biển … Ăn thật ngon. - Hạnh phúc của “núi”, hạnh phúc của “thôn dã”, hạnh phúc của “bể” và hạnh phúc của “sông ngòi”. Này những rong biển rất quý hóa, nào Okitumo” và “Hetumo”, Aonosi”, “Hiziki” và “Isige”…. - Lại có hàng trăm thứ cá nữa… - Nhưng thỉnh thoảng chúng ta ăn một ít cá, thì cũng là kẻ ăn xác chết rồi ạ.? - Phải, đúng thế thì chúng ta không nên trách người “văn minh” ăn xác chết. - Thật thế, nếu trọn đời chúng ta chỉ ăn một con tôm nhỏ, chúng ta cũng không trách những người ăn một con voi. Nếu trọn đời chúng ta chỉ có một lần vô tình sát hại một côn trùng nhỏ, một con muỗi, thế cũng là kẻ “sát sanh”, chúng ta không có quyền, chỉ trích những kẻ khác là “sát nhân”. Không nên oán ghét những kẻ ăn thịt, con người được tự do, muốn làm gì thì làm. Con người có thể ăn chay hay ăn thịt, tùy sở thích hay tuỳ hoàn cảnh. Nhưng phải có một vài giới hạn. Theo thuyết Vô song nguyên lý của chúng ta, người ta có thể làm- hay nói phải làm thì đúng hơn suốt đời tùy sức muốn làm gì thì làm. Nhưng phải tránh lạm dụng, hai chữ tự do, rồi trở thành kẻ hà tiện hay mê tín. Người ta phải có lý luận. - Nhưng khoan! Có phải ở đây ăn nhiều thịt chỉ vì mê tín không? Có cần ăn như thế không? Ở xứ khí hậu lạnh này người ta không thể ăn thịt được chăng? - Được lắm chứ, vả chăng mình cũng biết rằng nhiều thú vật chỉ ăn hoa quả, về mùa đông chúng chỉ ăn cây cỏ khô và nước thôi. Kìa những loài chim ở trên trời, và loài thỏ trong rừng ở miền núi non phủ tuyết chúng đều sống như thế cả. - Nói về sinh vật học, con người hơn được thú vật là nhờ có trí thông minh, thể chất, xã hội tính, lý tưởng và năng lực suy xét. Tính cách thích ứng của con người càng rộng hơn, tóm lại, chính tính thích ứng vô tận ấy làm cho ta có sự tự do vô biên. Những người bệnh nặng về bộ tiêu hóa, trí phán đoán ở giai đoạn cảm giác, tình cảm, trí tuệ, xã hội tính, và tư tưởng, đau cả về cơ thể và tinh thần. Họ đã đến giai đoạn giữa bệnh về cơ thể và tinh thần: bệnh biến ứng. Chúng ta vẫn tự do kiêng hoặc ăn những loại thực phẩm nào tùy thích. Chúng ta có tự do vô tận, nếu không là hoàn toàn. Nếu chúng ta không từ bỏ được một cái gì, hay là nếu về mặt vật chất, tâm trí hoặc tinh thần mà chúng ta cũng không chịu đựng được cái gì đó, thế là triệu chứng có bệnh. Chúng ta đã mắc một bệnh về thể chất hay tinh thần khá nặng rồi đó. Nhưng sinh lý học là căn bản của tâm lý học, tất cả bệnh tâm lý hoặc bệnh tinh thần chỉ là một chuyển hóa của bệnh cơ thể. Bệnh này có thể phân tích như bệnh vật chất. Nhưng chúng ta vốn có sẵn sự thích ứng vô tận. Nếu ngay từ lúc ban đầu chúng ta đã ở vào một hoàn cảnh nào rồi, thì chúng ta có thể quen với tất cả các hoàn cảnh sinh vật, xã hội, kinh tế, hoặc lý tưởng ấy. Đấy đời sống nó phức tạp rõ ràng như thế. Thật lạ là chúng ta có lắm thói quen trẻ con, có khi đụng chạm với kẻ không cùng một hoàn cảnh, truyền thống của chúng ta! Chúng ta uống sữa như đứa bé mới đẻ chưa mọc răng, tranh chấp hay bàn cãi lăng nhăng về chính trị, kinh tế hoặc văn hóa, lý sự hung tợn, như hồi chúng ta còn trẻ con mọi rợ hay tự phụ, tự tôn, hoặc kiêu căng với những cái nhỏ nhặt, tạm bợ, tương đối mà cho đấy là sự vĩnh viễn, vững bền, tuyệt đối có giá trị vô-tận như dây chuyền, hột xoàn, xâu ngọc hoặc ngọc trai xỏ vào lỗ tai, vào lỗ mũi hay vào môi, hoặc là có rất nhiều bạc giấy, có những “bằng cấp” hay “tước phẩm” gì, xem như kho bảo vật. Tất cả cái đó lợi ích thật, nhưng xu hướng ấy, nếu vượt quá một giới hạn nào, nó sẽ trở thành “mê tín”, “tín điều”, “ lòng tin xấu”, “ tin mù quáng”, “bạo lực”, những cái này chỉ là hà tiện, ích kỉ, chấp nhất, lạm dụng ,độc quyền hay độc đoán. Vả cái giới hạn ấy làm biên giới giữa thế giới tương đối và thế giới vô tận, tuyệt đối, giữa nhà tương tư khoa học, thâm nhiễm khoa học, và nhà tự do tư tưởng, những kẻ không thấy sự cấu tạo vũ trụ, luôn luôn ở ngoài giới hạn, tức nhiên luôn luôn bị đe dọa mất của báu, còn những người hiểu rõ sự cấu tạo của vũ trụ, nói cách khác là “chân lý”, được ở trong sự phong phú vô tận, và có thể |
|
|
![]()
Bài viết
#4
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
làm tất cả cái gì mình muốn, mà không có cái gì ngăn cản được.
- Mình là một mục sư đại tài. Tôi đã nghe mình nói nhiều rồi. Bây giờ mình có muốn tôi lặp lại từng chữ một trong tất cả các điều mà mình vừa mới nói đó không? - Được, tốt thôi không nói nữa, xin tóm tắt. Tôi muốn nói rằng, mê tín, đức tin, lý trí, tất cả những điều đó, ta không nên phê bình. Những cái đó phải được tôn trọng và nó có lý do tồn-tại. - Hiển nhiên là mọi sự đều có lý do tồn tại của nó. - Lý do là điều chứng minh của trí phán đoán. - Bởi vậy nó có lắm chuyện mâu thuẫn với mặt ngoài chống đối nhau. - Vậy thì, để chấm dứt mối phân tranh ấy, người ta cần phải có một trí phán đoán tiến bộ hơn. - Nhưng vì sự tranh luận ấy, người ta luôn luôn làm cho óc phán đoán tiến hóa. - Thật thế, không có tranh luận, dầu náo nhiệt hay yên tịnh, thì trí phán đoán của chúng ta không sao phát triển được. Mình có đọc lịch sử hẳn biết con người đã tranh đấu từ ngàn năm xưa. Đối với nhân loại, không có một lối thoát nào khỏi chiến tranh bất lợi đến thế. Vì sao? - Sự mê tín, sự giáo dục, sinh lý học, y học, xã hội học, đều do trí phán đoán lầm lạc, những điều đó chỉ khiến cho trí phán đoán về cảm giác, cảm tình và lý trí của chúng ta thêm hèn hạ mà thôi.Nhưng óc phán đoán thấp kém lại quá mạnh hơn óc phán đoán cao siêu, bởi vì chúng ở về thế giới hữu hình, vật chất, còn trí phán đoán cao siêu lại thuộc về thế giới vô hình. - Đấy, do đó mà có sự mâu thuẫn luôn luôn, bất tuyệt: cần phải lấy óc phán đoán cao siêu quá yếu để sửa chữa và hướng dẫn óc phán đoán thấp kém quá mạnh, bởi vì trí phán đoán thấp kém( cảm tình, cảm giác) là hữu hình. Còn phán đoán cao siêu là vô hình, lí tưởng. Phương thức lấy trí phán đoán cao siêu để điều khiển trí phán đoán đê hạ, là do các nhà tư tưởng, hiền triết phát minh từ đời xưa. Đó là một cách giáo huấn vừa thực hành vừa lý thuyết. Nhưng trong khoảng mấy thể kỷ do các đồ đệ, và các nhà chú giải, đã làm cho nó biến đổi dần dần. Đến khi đem du nhập vào các nước ngoài, thì lý thuyết cũng như thực hành lại hoàn toàn sai biệt thêm nữa. Bởi lẽ ấy, nên hình thức hiện thời của Cơ đốc giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo đều biến đổi. Mà sự biến đổi đáng chú ý nhất là các điều giáo huấn ấy lại bị sự “mê tín” ô trọc bao phủ, và không có nhà Tu sĩ nào có thể cứu vớt nhân loại ra khỏi vết xấu ngàn năm gọi là “trọng tội”, “sát nhân”, “chiến tranh”, “tật bệnh” v…v…Mặc dù đã có những khí cụ tối tân, và lực lựơng có tổ chức như cảnh sát, chính phủ, y học v..v.. Còn các bậc hiền triết tư tưởng ngày xưa, dù họ ở đâu,họ cũng thành lập được 1 xã hội hòa bình và tự do bằng cách cầu nguyện và tiết thực, rất là dễ dàng, mà không cần đến khí cụ gì hết. Người ta có thể nói một cách đơn giản rằng, điều mê tín là một sự ngu si gọi là “đức tin” hay là một tâm trạng thô sơ, nó xác tín rằng có một mãnh lực phi thừong và siêu thiên nhiên. Đức tin là một hình thức ảo thuật. Nếu ai tin tưởng vào y dược, cách trị bệnh, cách giải phẫu, mà không am từong đến bản chất, cơ cấu, và giá trị của nó, thì người đó là tội nhân của cái ngu si, nô lệ của sự mê tín của nó. Phần nhiều bị mê tín quấy phá là những hạng người này: Tất cả những ai khuyên dùng, hay dùng thuốc Aspirine, Quinin, thuốc trụ sinh, tất cả những ai lệ thuộc vào y học, luật pháp, dù thiên nhiên hay khoa học, mà không biết đến hoặc không muốn nghiên cứu tận nguyên nhân, cơ cấu và giá trị của nó, nói tóm lại, tất thảy những ai mượn trí phán đoán của người làm của mình, đều bị điều mê tín ăn tươi nuốt sống. Những nhà thông thái tìm được một vị thuốc thần hiệu nào đó, mà không biết nguồn gốc chính của bệnh, đều là đồ đệ của môn ảo thuật. Ăn thịt là một sự mê tín, nếu không thì cũng một sự thích khẩu hay là cách tu dưỡng ấy chỉ căn cứ trên niềm tin rằng thịt có nhiều chất đản bạch tinh, nhiệt lượng, hoặc sinh tố cần thiết cho sức khỏe. Nhưng có nhiều người không ăn thịt mà cũng vẫn mạnh khỏe, và sung sướng lắm. Ăn thịt bởi thích thú là bệnh tự kỷ trung tâm, ích kỷ và tâm trạng trẻ con, thể là nó phụ lực cho sự tự sát của chúng ta về phương diện canh nông, kinh tế, và sinh lý. Các nhà hiền triết tư tưởng như Platon, Thích Ca đã nói rất có lý rằng loài người không nên ăn thịt. Nhưng không thể phủ nhận tính ích kỷ, dù nó là một thành quả của trí phán đoán đê hèn của chúng ta. Trí phán đoán, như nền tảng chính của nó là trí nhớ cần được tôn trọng dù nó thấp kém, bởi vì không có trí phán đoán thấp hèn thì không có trí phán đoán cao siêu. Các bạn thử tưởng tượng một thế giới dân cư toàn là những hạng người tư tưởng có óc cao siêu, chắc các bạn không muốn ở vào thế giới ấy, vì không có cái gì vui thú cả (nếu các bạn quá ham mê với đời sống phù du, phức tạp, đầy dẫy người trọng phạm, kẻ tầm thường, người phạm pháp, bệnh tật, chuyện rắc rối, sự nghèo khổ, đó là vì phán đoán hèn kém của các bạn mà sinh ra, và cũng chỉ thâu nhận được những cái đó mà thôi), và những nhà tân văn báo chí, tiểu thuyết gia, cũng như cảnh sát viên, y sĩ, sẽ bị thất nghiệp. Ở vào một thế giới như thế người ta sẽ mệt nhọc và nếu không phiền muộn, thì cũng buồn tẻ quá. Sự thất vượt của cái giá tưởng, đó là lý do sự hiện hữu của chúng ta. Vậy thì không nên từ bỏ trí phán đoán thấp hèn. Chúng ta cần có cả trí phán đoán thấp hèn, đồng thời có cả trí phán đoán cao siêu. Hay tốt hơn, chúng ta nên cho trí phán đoán đê hèn có giá trị như ngọn đèn điện soi đường lúc đêm tối. Và chúng ta nên nhớ rằng, ngọn đèn ấy được sáng là nhờ mặt trời chiếu lúc ban ngày. Trí phán đoán thấp kém là nhân tạo, còn trí phán đoán cao siêu đó rất yếu ớt và họ cũng không chút nào biết ơn cái năng lực của mặt trời cả. Sự mê tín ăn thịt là một ham muốn về nhục dục do khoa học gọi là y khoa sinh lý học, hoặc phép tiết thực tán trợ, lại được bọn tư bản củng cố và khuyến khích, mà tư bản chỉ là một thành quả của phán đoán thấp kém. Lần dở xem lịch sử và cách tu dưỡng của các dân tộc, các bạn có thể chứng minh điều ấy. Ngày xưa dù ở Pháp hay ở Đức người ta cũng không ăn thịt nhiều như vậy. Những bạn hữu của ông Albert Schweitzer, trong thời thơ ấu, đã trách ông ăn thịt bằng cách nấu xúp, mỗi tuần một lần hoặc hai lần. TRÁI CÂY A, chính ông là người lừng danh ở xứ Thiên Quốc đấy phải không? - Ông biết tôi ạ? - Vâng, tôi có biết ông. Ông có nói: “Nên ăn thật nhiều loại ngũ cốc, và đừng nên ăn trái cây”, có phải không? Một người bạn của tôi, đã theo đúng lời của ông, trong mùa hạ này đã phá hủy tất cả cây trái trong vườn của anh ta. Chúng tôi nhất định phản đối lý thuyết của ông. Một nhà sáng lập xuất bản một tờ báo ở Paris, trước mặt người Thiên Quốc, khi ông này đến thăm tại văn phòng báo chí, ông chủ báo đã tuyên bố rằng, trong các buổi nói chuyện, hoặc trên tờ báo nguyệt san của chúng tôi, về sức khỏe, chúng tôi khuyên nên ăn trái cây, hoặc các loại do trái cây chế tạo ra. Ông chủ báo mới 50 tuổi, nhưng tóc đã hoa râm và thưa thớt, như ở tuổi 60. Khi nghe lời công kích mãnh liệt của ông chủ báo. Người Thiên Quốc rất ngạc nhiên, bèn nói. - Nhưng tôi vẫn khuyên một vài người được ăn trái cây tùy thể chất của họ. Tôi sẽ gởi đến ông quyển sách bằng Pháp văn tôi vừa mới xuất bản; xin ông đọc kỹ, rồi phê bình gắt gao và khách quan, bởi vì đây là một vấn đề rất quan hệ. Ông Jack trở lại với bà vợ đương chờ ông ở trong xe hơi. Khi xe chạy ngang qua thành phố Paris để về khách sạn; Ông ta bắt đầu nói chuyện, vừa suy nghĩ những lời nói của nhà xuất bản báo. - Ở châu Âu, vẫn có người ăn chay. Họ đứng lên công kích một cách can đảm thói quen ăn thịt những người “văn minh”. Những người ăn chay đó trước kia vẫn ăn thịt. có phải những người ăn chay rất thích ăn trái cây không? - Phải, người này có nói với tôi, đã ăn trái cây từ 15 năm rồi. Nhưng trước kia anh ta ăn rất nhiều thịt. Cái đó chỉ xem diện mạo, bộ răng, con mắt và lỗ tai của anh ta thì đủ biết. - Thế người đó có phải là một anh cách mạng, dưỡng sinh chăng? Và như vậy, anh ta không có một lý thuyết khoa học nào cả chăng? Thế có phải là một cảm tình chủ nghĩa chăng? Có lẽ lý thuyết của anh ta dựa trên trí phán đoán thuộc về giai đoạn thứ ba. - Phải nó như thế đó. Anh ta ăn thịt đã lâu, nếu hôm nay đi đến chỗ đối lập… - Tốt lắm, hễ “cực Âm thì sinh Dương, cực Dương thì sinh Âm”. Đó là một chứng cớ linh động, lương năng người ta chưa mất đâu, ở Âu Châu cũng vậy; dù họ lý luận với trí phán đoán ở giai đoạn thứ năm, phán đoán xã hội, nghĩa là về phương diện kinh tế, quốc gia và quốc tế, rồi sẽ đi lần đến phán đoán giai đoạn thứ sáu, và phán đoán giai đoạn cao siêu. - Lẽ tất nhiên Nhưng hẳn còn xa, đương còn kiềm hãm trong bộ áo giáp tình cảm. - Họ không hiểu vì sao rất ít người ăn chay, và tại sao những người ăn thịt đã hối cải, sau một thời gian ngắn lại rất mau trở lại ăn thịt… hơn nữa, vì sao lại có nhiều người ăn chay bị đau ốm nhiều hơn kẻ ăn thịt - Câu chuyện cứ nói tới nói lui rất vui thú, có phải giống như việc cưới hỏi ly dị ở Hoa kỳ không? “Bà X và ông Y đã cưới hỏi nhau, bà thì lần thứ sáu, ông thì lần thứ tư, nhưng ông Y là chồng thứ nhất, và thứ ba của bà X… - Mình đừng nói đùa nữa - Xin lỗi mình, tôi nói thực, không nói đùa. - Vì sao họ cứ ham mê trái cây? - Có lẽ họ là con cháu loài khỉ, hay loài đại tinh tinh chăng? - Không phải nói đùa đâu… Họ say đắm sinh tố, khoáng chất, và họ tán dương những cái đó. Nhưng, cách tổ hợp của sinh tố đều rất phức tạp, khác biệt, có khi tương phản ở phạm vi tác dụng nữa. Trong các khoáng vật cũng thế, chất nạp (sodium) tương phản với chất giáp (potassium). Người ta không biết gì về nguồn gốc về sự cấu tạo, cách tổ thành của sinh tố, hoặc của khoáng vật. Vả lại người ta không chịu tìm nguyên nhân chính của trạng thái bất năng (không có năng lượng) của sinh tố và khoáng chất. Đó chỉ là một giả định kinh nghiệm mà thôi. Vì sao họ lại quá đơn giản, quá nhẹ dạ, quá cận thị như thế? Họ đành tự thỏa mãn với tân giả thuyết, nó là cái củng cố trí phán đoán của họ thuộc về cảm giác, tình cảm, hay lý trí. Chính đó là sự nguy hiểm của luận lý quy nạp. Các nhà bác học, trước tiên cần phải nghiên cứu cái luận lý vạn năng hay phổ quát. Tất cả thế giới trước hết phải nghiên cứu luận lý phổ quát, sự cấu tạo của vũ trụ, và vô song nguyên lý. Luận lý hình thức của Kant, luận lý quy nạp của Bacon, và hết thảy kỹ thuật phân tích, phải được xây dựng lại trên nền tảng cụ thể của sự cấu tạo vũ trụ, có được như thế, tất cả mọi đau khổ của nền văn minh mới có thể chữa trị được. - Nói tóm lại, ăn trái cây hay là ăn chay đều là mê tín cả, cũng như tất cả các học thuyết, hay tôn giáo.. Mình có nhớ chuyện cô con gái của Giáo sư P… chủ tịch hội tiết thực không? - A cô gái bé người bị biến hình thể, có con Mắt lé và sắp sửa đau bệnh bại ấy? mẹ nó độ chừng 65 tuổi, già hơn tuổi thật đến 10 tuổi. - Và một người con gái lớn, giúp việc cho cha nó, là một ông quản lý xuất bản tờ báo… “Sự thật”. - Phải người con gái đã đau tử cung và kinh-nguyệt không đều. - Và ông bác sĩ danh tiếng, nhờ có viết nhiều sách về Phật giáo? - Ông ấy đau tim - Và ông thầy nhu đạo rất được kính-trọng? - Ông này cũng đau ốm luôn luôn. - Có phải tất cả những người ấy là nạn nhân của sự ăn chay bằng trái cây phải không? - Mình chớ nên kết tội họ. Họ đều là những người không biết cách cấu tạo của vũ trụ, những bí mật của sự sống. Họ nhập khẩu vật thực rất Âm, hoàn toàn khác với khí hậu cực âm của Âu-Châu. Hay là họ thực hành và phổ biến một cách dinh dưỡng riêng biệt và cá thể, có hiệu lực trong trường hợp cực Dưong, thế là đối chứng, trị liệu pháp. - Nói tóm lại, nguời ta không biết nguyên tắc nấu ăn, nhất là cách nấu đồ ăn chay. - Mình chắc lấy làm lạ mà trông thấy bếp núc của người Tây phương, quá đơn giản và quá thô kệch. - Họ có một vài cách nấu ăn chuyên môn, và rất nhiều vật dụng, đồ gia vị, hương vị, dầu, mỡ, đường, tương hột cải, dấm, rượu. Hơn nữa, lại có rất nhiều thịt thú vật và cá mùi vị rất ngon lành. Vậy thì không cần trông cậy vào kỹ thuật. Đó vì sao cách nấu nướng của Tây Phương không được phát triển, và hoàn toàn khác biệt với cách nấu ăn của chúng ta. - Phải, chúng ta có một nghệ thuật tinh vi và sâu sắc, sáng tạo cái gì một cách tuyệt đối mới. - Cách nấu ăn của chúng ta dung nạp ít chất nguyên tố, muối rất quan trọng và là món gia vị độc nhất. Dầu thảo mộc xem như món xa xỉ phẩm gạo và một ít rau quả hoang, hoặc mình trồng, thế là đủ rồi. muối chiếm địa vị chủ tể trong nhà bếp. - Ấy là một nghệ thuật sáng tạo và tinh vi phi thường. Anh đầu bếp chính là một viên y sĩ tài tử. Cũng như một đại nhạc sĩ chỉ dùng hai hay ba âm giai, sáng-tác một nhạc khúc, một điệu múa, một hành khúc, một cấp điệu, cũng hơi giống như người thổi kèn, hay người thổi ống sáo, thổi nên một âm điệu trong trẻo chỉ nhờ cái kèn hay đơn giản, chỉ nhờ một ống tre nhỏ dài độ ba tấc, không máy móc gì ráo. Nhưng nhất là anh đầu bếp cũng là một thi sĩ như MHITMAN, VERLAINE, RODENBACH, MALHARME, hay là PIERRE LOUYS. Những bài thơ của nó đơn sơ, trầm tĩnh, dễ hiểu, nhưng rất sâu sắc và biểu tượng. Tuy nhiên, rất ít kẻ hiểu tất cả nghĩa lý và tất cả cái cao thượng về cách điều chế nấu nướng môn tiết thực và trường sinh. Phương pháp ẩm thực này không những có ích cho sức khỏe, mà còn đưa tới tự do vô hạn, không những được vui thú về cảm giác, mà còn vui thích vĩnh viễn, không những mối cảm tình được đứng đắn mà rút cuộc trí phán đoán được nâng cao. - Nhưng sự ăn chay và ăn trái cây tuyệt nhiên, không dựa vào nghệ thuật chuyên môn hay lý thuyết nào cả, đó chỉ là sự phản ứng hay sự thịnh hành của khoa học ngụy trang,của lý trí theo thời thượng mà thôi. Thịnh hành có nghĩa là do kết quả xu phụ của trí phán đoán về cảm giác, cảm tình hay là lý trí. Chính tôi là kẻ “ngu dốt nhất đời”, mà còn biết như thế, tại sao những người “văn minh” mà mình sùng bái lại không biết cái đó? Thế thì sự thật, họ còn ngu si hơn người thượng cổ, trái với những điều mà mình đã nói chăng? - Mình hãy kiên nhẫn, người văn minh thật là văn minh thông thái gấp mấy người thái cổ chúng ta. Họ có một nền “văn minh” vĩ đại, chế tạo những tàu bay chuyên chở chúng ta từ hòn đảo bé nhỏ nước chúng ta, bay trên những đại dương mênh mông, Ấn độ, Phi Châu, rồi qua đến đây, xứ Âu Châu. Họ có bom nguyên tử, chỉ trong vài giây đồng hồ giết chết những 313.000 người dân Nhật Bổn không có khí giới, họ có bệnh viện to lớn tân thời, có trường Đại học nguy nga, có xe hơi sang trọng, có xe ca láng bóng. - Nhưng những điều phát minh ấy có ích gì? Những cái đó chỉ dùng để giết người, phá hoại, tăng thêm tiện nghi và thích dụng mà thôi. Những phát minh ấy nếu không hại cũng rất vô ích cho sự xây dựng hạnh phúc trường cửu, tự do vô tận, và công bằng tuyệt đối. - Mình quá nóng nảy, điều kết luận của mình hơi vội vàng. Trong nhóm người “văn minh” ấy cũng có một nhóm thượng lưu trí thức khá nhiều. họ thuộc vào ba nhóm chồng chất nhau: Một nhóm thì thuộc về trí phán đoán lý trí, một nhóm thuộc về phán đoán kinh tế hay luân lý, sau cùng một nhóm thuộc về phán đoán lý tưởng. Ba nhóm của phán đoán cao thượng ấy càng ngày càng ít đi. Chính nhờ nhóm phán đoán lý trí mà người ta đã thực-hiện được biết bao điều phát minh đẹp đẽ sáng lạng. Đa số thuộc về ba giai đoạn thấp kém (cảm tình, cảm giác hay máy móc) được nhóm trí thức hay thiểu số phán đoán cao hơn (lí trí, xã hội và lí tưởng) điều khiển và huấn luyện và họ đã xây dựng và sáng tạo lên được nền văn minh ấy. Nhưng chuyện cũng lạ, nó thiếu mất một số ít phần tử tinh anh khác, tinh anh trong nhóm tinh anh, tức là nhóm có trí phán đoán tối cao cuối cùng: phán đoán cao siêu, tuyệt đối và nhất nguyện. Sáu giai đoạn kia đều có tính cách nhị nguyên .Mình thấy vì sao chúng ta bị thất vọng và ngạc nhiên khi viếng thăm nhiều người thuộc vào hạng thượng lưu trí thức:linh mục, nhà triệu phú,giáo sư, bác sĩ, “lãnh tụ”, “tín ngưỡng”, thần bí, cuồng tín hay cố chấp, giáo dục gia, đại kỹ nghệ gia, tư pháp quan, luật sư. Tất cả đều có tính nhị nguyên. Không có ai cho mình là thượng đế cả. Chúng ta chưa hề gặp được một thiểu số tiến bộ nhất trong đám thiểu số. Nếu họ là hạng người tín ngưỡng, thì lại nhị nguyên tính, bởi vì người ta tin rằng có Chúa ở chỗ nào đó trên cõi trời vĩnh viễn. Người ta đã lãng quên, hoặc hoàn toàn không hiểu, và bất cứ trừơng hợp nào không khi nào người ta tự hỏi “vì sao tôi có thể suy nghĩ, nhớ lại, trông thấy, hiểu biết và mơ ước, hay là “lương tâm” là cái gì? Người ta cần phải nói rằng “suy tưởng” là “có” thay vì câu “tôi tư tưởng vậy thì tôi có”. Con người có suy nghĩ là trường cửu, “tồn tại” là “vĩnh viễn”. Người nào suy nghĩ vô tận và luôn luôn với vô tận, thì có tuyệt đối và vĩnh cửu, kẻ “tư tưởng” vĩnh cửu, thì chính đó là vĩnh cửu rồi. Người nào “không tư tưởng” hay chỉ tư tưởng những sự việc tạm thời, đó là một hiện tượng hảo huyền, tưởng tượng và hư vô, cũng như chết rồi. - Chúng ta nói về vấn đề gì đó? - Muốn nói chuyện mê tín à? Nhưng tôi đang nói cho mình nghe đó. Tất cả những điều phát minh của nhị nguyên, mà người ta đã suy nghĩ ra được ở trong thế giới tương đối và hữu hạn này, và tất cả cái gì (ảo ảnh) ở trong đó tưởng như vĩnh cửu, vô hạn, tuyệt đối đều là “mê tín” gồm có tất cả các học thuyết và tôn giáo nữa. - Vậy thì hoàn toàn khác biệt với điều cấm kỵ của chúng ta rồi. - Phải, điều cấm kỵ của chúng ta là một phát minh của “nhà tư tưởng vĩnh cửu”. Đó là một diễn dịch hay giải thích của vĩnh cửu, sự cấu tạo của vũ trụ. Ở Âu Châu cũng có điều gì giống như thế, gọi là “luân lý”. Đó là hình thức ràng buộc chúng ta. Ở Âu Châu mà bị xiềng xích là một điều bất đắc dĩ. Nếu ai bẻ khóa đứt dây, thì nguời ta xem kẻ đó là bất lương. Nhưng sự thật thì “điều cấm kỵ” của người “văn minh” cố để trói buộc người khác hơn là để trói buộc mình. Không ai tôn trọng điều ấy triệt để. Bởi vậy mới có sự cần thiết phải lập “luật pháp”, nghĩa là phải có một lực lượng rất mãnh liệt. Tuy nhiên, ai ai cũng cố gắng để thoát ra ngoài vòng pháp luật, đó là dùng 1 sức mạnh thần diệu khác gọi là “tiền bạc”.Bởi lý do ấy, mà ở lao tù Âu Châu, người ta chỉ thấy giam cầm những hạng người nghèo cực không có tiền của mà thôi. “Điều cấm kỵ” của chúng ta không thể vi phạm được. “Điều cấm kỵ” của chúng ta là tôn kính, tình thương, lòng tự ái, ánh sáng của chúng ta. Đó là sự vui sướng, thỏa mãn trường tồn của chúng ta. - Xã hội của những nước “văn minh” ví như một thân thể, kiểm soát tự ý do một hệ thống thần kinh: “Luân lý”, thế nào cũng bị cưỡng chế không nhiều thì ít. Còn luân lý của chúng ta lại tự động điều khiển do bộ thần kinh giao cảm là “điều cấm kỵ”. Luân lý là một tự động tính. Chính cũng nhờ thế mà ở nước chúng ta “Frankenstein”, là tên khổng lồ, tàn bạo, mù quáng, hung dữ gọi là “cảnh sát” hay “hiền binh” mà tất cả thế giới đều ghê tởm. Người ta gọi cái đó là “cần thiết xấu xa. - Nhưng về chuyện trái cây, mình muốn nói thế nào? - Chủ nghĩa ăn trái cây ạ? Mình còn chưa hiểu những điều tôi nói đến sao? Phán đoán gì mà tệ lắm vậy! - Tôi là kẻ ngu dốt ở đời này… - Lẽ tự nhiên rằng, cái “thuyết” ấy là một điều phát minh của phán đoán về giai đoạn thứ hai hay thứ ba: Cảm giác, cảm tình. Người ta có thể dùng một giai đoạn khác cao hơn của trí phán đoán để vượt qua biên giới ấy: phán đoán lý trí hay là kinh tế. - Làm thế nào - Những dân tộc ăn trái cây ở Phi Châu, ở Ấn Độ, đều không được sung sướng cũng không thông minh gì cả, trái lại họ còn khốn khổ hơn nữa. Có nhiều bộ lạc bị tiêu diệt hay hấp hối gần chết vì sự nhập cảng của “văn minh” Tây Phương .Những khí-cụ tai hại nhất để giết chết dân bổn xứ hay thổ dân (chỉ ở Ấn Độ đã có 50 triệu) ăn trái cây hay ăn chay, là những món: rượu, đường, hóa học, chocolat, sữa đặc, dược phẩm, Y sĩ và tiền bạc. Những vật thực này còn nhiều hiệu lực hơn cả bom đạn, lính giết người, và tàu bay nữa. Bằng chứng này ở Đông Dương và ở Phi Châu, hàng ngày khắp nơi đều có xảy ra, hao phí hằng tỷ hằng tỷ quan. Cũng như bài học kinh nghiệm ở Hồng Kông, ngày nay người ta đem tái diễn bài học ấy lại ở đảo Chypre. - Và ở Lambaréné, ở Congo, ở Kenya, ở Tanganika, và tất thảy những xứ Nam Phi và ở Hy lạp nữa… vả lại chính ở Âu Châu người ta vẫn biết rằng, các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương “lỗ tai dài” bị tiêu diệt bởi “lỗ tai ngắn”. Người ta lại còn không biết rằng, người “ăn chay” (nhất là người ăn “trái cây” trước tiên có hại cho việc sinh dục, biến đổi trạng thái siêu thoát tình dục, thành ác cảm tình dục, tán trợ sự phá thai, đẻ non, trẻ sơ sinh chết yểu tăng thêm nhiều, đau bại, đau tim… cuối cùng đến nhân khẩu sút giảm,v…v.. - Không nên công kích người “văn minh”, họ không biết những điều họ đã làm, . chúng ta nên suy nghĩ lại cho kỹ càng, ấy là hành vi của nhóm tinh anh trong nhóm thiểu sổ tinh anh kém thế nhất. Người ta mong đợi có một đấng Cứu thế mà không biết rằng thế gian khi mới tạo lập đã có một quan năng phán đoán kỳ diệu là: Tư tưởng, tưởng tượng và Đấng Cứu Thế cũng chỉ là một phần tử của trần gian mà thôi. - Nhưng, như thế thì không khó gì cả… vì sao mà họ không hiểu? - Bởi vì họ là nhị nguyên - Tại sao họ lại nhị nguyên? - Bởi vì họ nuôi dưỡng với những thực phẩm quá Dương trong nhiều thế kỷ, và rút cục, vì quá tham Âm nên trở thành Âm. Dương hút âm, Thái dương thì thu hút Thái Âm. -Thuyết ăn trái cây chỉ là 1 chuyển hướng của thuyết ăn thịt … phải rồi, đó là nhân quả! - Tâm trạng Dương là bạo dạn, can đảm, đơn giản, và hung dữ cực điểm, tâm trạng ấy một khi đã đến cao độ, thì trở thành nhút nhát, do dự, phức tạp, phân tích, ghen ghét, nghi ngờ, nghi ngờ chính mình nữa. Nhưng tâm trạng ấy lại thỉnh cẩu sự thống nhất sự vĩnh viễn, vô tận, tuyệt đối như chốn quê hương xa xôi, của nó đã bỏ quên, không quen thuộc và xa lạ. - Vậy thì nhị nguyên thuyết, sự thật chỉ là một đứa con hoang đàng khốn khổ của thuyết Nhất nguyên chăng. - Nhị nguyên thuyết là một người mắc bệnh loạn sắc rất trầm trọng, họ chỉ trông thấy một phía vật chất hay một phía tinh thần mà thôi, hay nói đúng hơn là một chứng thần kinh thác loạn, nó phát sinh ra tất cả mọi đau khổ và tự diệt. - Bây giờ làm sao để chữa bệnh ấy? - Thì chỉ ăn uống theo những vật thực thông thường như trí phán đoán đã suy xét. - Những ông “văn minh”có nghe theo lời mình không? Có hiểu không? Không đời nào họ nghe. Nếu có nghe tôi nói chăng nữa, họ cũng chẳng hiểu gì ráo. Và nếu họ có hiểu lời tôi nói chăng nữa, thì họ cũng biến đổi cái đó thành một tôn giáo, hay một môn thần bí. Nên nói với hạng trí thức có lý tưởng, hay là với hạng tinh anh trong nhóm tinh anh thiểu số có trí phán đoán cao siêu thì phải hơn. - Làm thế nào tìm gặp được một nhóm tinh anh đó? - Mình đã biết rồi chứ, chính là mục đích, cố gắng của chúng ta từ ngày đến đây, làm hao tiền tốn của khá bộn bề. .. đến đổi mình phải lo ngại. - Phải chờ năm này đến năm nọ sao? - Hằng năm, phải, có lẽ phải chờ đến hằng thế kỷ… - Hằng thế kỷ ạ? - Hằng thế kỷ, phải. Mình còn nhớ quyển sách “ Meeting of East and West” (Cuộc gặp gỡ Đông và Tây) của Giáo sư Northrop, trong đó có nói rằng: “Những người da trắng đã tận lực, hơn một thế kỷ nay, để chinh phục các dân tộc da màu ở Đông Phương, trước tiên dùng võ lực, và tàn bạo, kế đến dùng chính trị (võ lực trá hình), tiếp đến bằng kinh tế (sức mạnh gọi là tiền bạc) và sau cùng là dùng văn hóa (tài khuyến-dụ): ba chữ : “S” tức là (sex) đàn bà, (Screen) màn ảnh chiếu bóng, và (Sport) thể-thao. Nhưng vô hiệu quả.Cái gì họ cũng thu nạp tất cả, nhưng bây giờ họ đều phản bội, công kích chúng ta. Thật là quân bội ơn!” - Phải, tôi còn nhớ. Mình đã thức suốt 57 đêm để dịch quyển sách ấy. - Đã nhiều lần tôi có viết cho ông ấy những bức thư rất dài (hơn một trăm trang) ông ta cũng hiểu tôi, nhưng bằng lý trí mà thôi, không có gì hơn nữa. Sự hiểu biết của ông ta hoàn toàn thuộc về hình thức. Trí phán đoán tối cao của người Tây Phương là như thế đó. - Phải, không có một phản ứng nào thực tế cả. - Mình còn nhớ bức thư có giọng buồn rầu của Sir Philip Gibbs, tác giả quyển sách “Pageant of Years “ (sự diễn hành niên đại) quyển sách rất có ích này chăng? Đây, bức thư của tác giả sách: “Sự diễn hành của niên đại”. “ Tôi lấy làm tiếc, nhưng tôi rất ngu dốt về triết học và đức hiển minh của Viễn Đông… Văn minh Tây phương chắc chắn bị thất bại trong công cuộc thiết lập hòa bình và công lý cho nhân loại, và lịch sử của Tây phương gần đây chứa đầy những chuyện chiến tranh, tàn phá và độc ác. “ Nay tôi muốn bắt đầu nghiên cứu triết học, Đông phương, thì tuổi đã quá già rồi, chỉ chờ ngày hồn lìa khỏi xác nữa thôi. Nó sẽ không lâu nữa đâu và giai đoạn mới về kiến thức và hiểu biết có lẽ có ngày sẽ đến”. - Đó chính là thiểu số của nhóm tinh anh Tây phương, có quan niệm nghiên cứu về tâm trạng thượng cổ, nhưng cuối cùng người ta từ bỏ. Việc này cũng giống một trường hợp của Đại gia lịch sử học Toynbee sau một thời gian dài nghiên cứu, ông ta kết luận rằng, Cơ đốc giáo nên tiến một bước nữa về Phật giáo “Đại thừa”… nhưng đã chậm trễ quá rồi. Nay trước hết cần phải khôi phục lại các khoa sinh lý, vật lý và luận lý học. - Nhưng có lẽ chỉ có một ông ta hiểu mình thôi chăng? - Miễn sao chúng ta có dịp gặp ông ta là được. - Mình có thất vọng không? - Có và không, chúng ta sẽ xem… - Mình có e ngại về tiền bạc không? Tôi còn một sợi dây chuyền bằng ngọc lớn, ngày mai tôi sẽ đem bán, và chúng ta có thể sống ở Âu Châu thêm một vài tháng nữa. Mình đừng có lo ngại gì hết. Mình đã chữa lành cho nhiều bệnh nhân người da trắng: Bệnh bại, bệnh bạch huyết, bệnh suyễn, tê bại, ung thư ruột; sung huyết, tím đánh gấp, phong thấp… bệnh bón táo nặng, bạch niệu, nước đái đường… Mình trị lành nhiều bệnh như thế mà không có ai thù lao, mình như ở nước ta cả. Có một vài người trả cho mình số bạc 10.000 quan. Té ra họ đánh giá đời sống của họ, sự tự do và hạnh phúc của họ chỉ có 10.000 thôi sao? Thật quá ít! Còn ở xứ Thiên Quốc chúng ta, họ biếu cho chúng ta những vật quý báu mà họ đã làm đổ mồ hôi suốt năm, có khi dám hy sinh đến tánh mạng nữa; như lúa gạo mới thu hoạch ngọc trai ở biển, ngọc trai có màu sắc ở đồng quê, nghĩa là các thứ hột đậu đỏ, vàng, xanh những hột lúa mạch, kê… thật là đẹp và quý biết bao nhiêu! Những vật thực ấy sau khi nuôi cả nhà đến 100 học sinh rồi, có còn dư lại đem phân phát cho những bạn hữu nghèo khó. Người ta tưởng thưởng cho chúng ta, năm này qua năm khác, những cái gì mà họ có, và sẽ có suốt cả đời sống của họ. Hơn nữa họ còn giúp đỡ chúng ta phổ biến nguyên lý vô song để hiến hạnh phúc trường cửu cho tất cả mọi người… - Mình thật bất công. Mình không biết ở đây đa số đều sống bằng nghề “làm thuê” cả sao? - Tức là những kẻ nô lệ, xiềng xích bởi một sợi dây tiền bạc vô hình. - Nhưng mình có nói rằng, một người da trắng tên là Lincoln, đã giải phóng nô lệ cho dân da đen kia mà? Thế nay còn việc ấy nữa sao? - Không phải như việc Lincoln đã giải phóng cho tất cả dân da đen. Những kẻ nô lệ “làm thuê” đây không phải là dân da đen mà người da trắng bắt tận trong rừng rú ở Phi Châu, rồi đem về bán cho người Âu Mỹ đâu. Đây là người da trắng tình nguyện bán đời sống của họ. - Vậy thì việc người da trắng bắt anh chị em chúng ta ở Phi Châu đem bán cho người Âu Châu, Mỹ Châu, không phải là một tội phạm, mà đó là một nghề nghiệp làm ăn lương thiện sao? - Phải, phải lắm, “làm thuê” là một nghề đáng quý trọng. - Việc ấy đáng khen phục biết bao nhiêu! - Tất cả các học đường và đại học đường mục đích cốt dạy cách thức thế nào để trở thành một người “làm công” đáng quý trọng. - Mình không biết rằng, tất thảy các nước Tây Phương đều bị cai trị bởi một ông vua “kinh tể”. - Tốt lắm! Kinh tế có nghĩa là “cái nhìn” theo trật tự của vũ trụ có phải vậy không? Nếu cái nhà của con người thống trị theo trật tự của vũ trụ, nguyên lý vô song, thì hòa bình ngự trị một cách tự do… - Mình không hiểu đâu, “kinh tế” có nghĩa là tiền bạc… - Tại sao không có nghĩa là vàng? -Tiền bạc tức là vàng đó… - Thật thế ạ? Tôi chưa hiểu gì cả… - “Kinh tế” là sức mạnh để thống trị, còn tiền bạc (hay là vàng) là biểu hiện của nó. - Sức mạnh thống trị. - Phải nó là xứ rừng rú. - Nhưng rừng rú ở xứ ta cũng như rừng rú ở Ấn Độ hoặc Phi Châu, không bị sức mạnh thống trị, chỉ có vô song nguyên lý không thôi, không phát biểu, nhưng ai ai cũng biết nó một cách hoàn toàn cả rồi. - Ở Âu Châu, sức mạnh là pháp luật - Vậy thì cái đó làm cho rắc rối mọi sự việc, và ồn ào thêm lên. Người ta chưa biết sức mạnh là trí phán đoán cao siêu sao? Và họ cũng không biết sức mạnh tối cao, hay đúng hơn là con người và tất cả vạn vật ở trong vũ trụ, chỉ là một khí cụ của trí phán đoán cao siêu vận dụng hết cả sao? Vũ trụ vô tận, trường cửu, tuyệt đối, trong đó có địa cầu chúng ta ở nữa chỉ là một phần tử cực nhỏ, hữu hạn, và tương đối, ấy là phán đoán, cao siêu đó rồi. |
|
|
![]()
Bài viết
#5
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
- Ông vua có sức mạnh là ông vua “văn minh”.
- Tôi cho xứ rừng rú hơn xứ văn minh. - Pháp luật của chúng ta là vô song nguyên lý, cái biện chứng pháp thực dụng ấy, người Tây Phương cần phải hiểu biết. Nếu không thì luật pháp của chúng ta, là vô song nguyên lý cao siêu và duy nhất không thể phổ biến được, cho đến cả hòa bình trường cửu, tự do vô tận, công bằng tuyệt đối cũng không thể thực hiện được… - Mình nghĩ rằng tất cả bệnh tật đều có thể chữa lành bằng các “Cầu nguyện và nhịn đói”. Đó là một cách khả thi mà mình luôn luôn vui lòng trải qua. Cái bệnh gọi là “văn minh” ấy, khi đi “tìm nấm” ở rừng lucioles, mình đã có nói với tôi rằng, lúc trước, có một vài nhà tư tưởng Âu Tây đã chẩn mạch đoán biết cái “văn minh” ấy là một bệnh tai hại cho tất cả nhân loại… - A…! E.Carpenter, whitman, spengler, rudof, stei-ner, schopenhauer, J.J.Rousseau, Veltaire… phải không. - Phải đó. Nhưng bây giờ họ ở đâu? Họ thành cái gì rồi? - Họ không còn nữa. - Nhưng không. Họ ở nơi mình, mình biết lắm chứ. Đó là sự thác sinh linh hồn. Họ chính là tiền thân của mình. Bây giờ, mình trở lại thế gian để thi hành nhiệm vụ sứ mệnh của họ. - Phải… phải… thật thế. Tôi không cần lập lại sự lầm lỗi của họ. Tôi cũng rất âm như Carpenter. Tôi rất lạc quan, biếng nhác, và ấu trĩ như Whitman, cũng như Spengler, tôi quá chăm chú phê bình, tôi hay ngang ngược và tự tôn như Rudolf, Steiner, quá thông thái và bi quan như Schopenhauer… cũng như Robespierre, tội quá hung hăng, và vội vàng… Nhưng tôi cũng không cần bắt đầu trở lại đời sống của lão Tử, của Phật thích ca, vai trò ấy chỉ thích hợp đúng với thời đại ấy. - Ấy là ý nghĩa linh hồn thác sinh của mình. - Tôi đã hiểu rồi, nhưng mình có hiểu “kinh tế” là cái ra sao không? - A, vua “kinh tế”? chưa, tôi chưa hiểu lắm. - Mình sao đặc sệt người Thiên Quốc quá; sự thật, tại hòn đảo nhỏ của chúng ta không có “kinh tế”, ở đó người ta tự lực sống một đời sống tự nhiên theo sự cấu tạo của vũ trụ. Ở đó đời sống cần phải sáng tạo, chúng ta không những không được hoang phí và xài phá vật sản sản xuất của người khác, mà còn thực hiện nguyên lý vô song nữa. Ỷ tại vào vật sản xuất của người lao động, xem như một sự bóc lột, ký sinh vào người nô lệ, hay là một trọng tội, chúng ta tiêu thụ càng ít càng hay, ăn ít, mặc sơ sài. Ở nhà tầm thường: “Mái nhà quý hồ khỏi dột, ăn uống cốt để khỏi chết…” Nhưng chúng ta còn mang ơn nhiều kẻ khác, như những người lao động tầm thường, thật thà, khiêm tốn, đơn giản, bạo dạn và nghèo khổ. Vậy là chúng ta nên hiến tất cả những cái gì mà chúng ta có, nhất là cái rất quý báu của chúng ta: như đời sống chúng ta, tình yêu thương tuyệt đối vô tư của chúng ta, giải thích nguyên lý vô song cho mọi người Nguỵ thiên, dị giáo… Cho, cho, cho, đó là đời sống của người Thiên quốc. Không cần xin, không xin chi hết, hoàn toàn giải thoát. Đó là con đường chúng ta phải đi, đó là nguyên tắc kinh tế của chúng ta. - Đó là lẽ tự nhiên. Chúng ta sống như thế. - Kinh tế Tây phương trái hẳn trăm phần trăm. Kinh tế mà người ta dạy ở các Đại học đường và các trường của Tây phương, là nghệ thuật bóc lột những dân lao động cho đến mức tối đa. Ở đây mà nói cho ai cái gì, là có ý lấy lại nhiều hơn: Kinh tế tây phương là nghệ thuật lấy, ăn trộm, và cái ấy là do sự bóc lột tàn bạo. - Với cả sức mạnh nữa sao? - Phải, phải, mình thử xem các cuộc chiến tranh. Chúng ta thấy hai đại thế chiến, và độ 50 cuộc chiến tranh khác ở chỗ này, chỗ kia. Thế giới này luôn luôn ở trong tình trạng chiến tranh nóng hay chiến tranh lạnh. Người ta nói đó là một chứng bệnh của người da trắng. - Nhưng, có thể nói rằng, ở tại xứ chúng ta, từ khởi thủy, dân tộc Thái cổ chúng ta không hề có chiến tranh, cho đến khi “văn minh” Âu Tây du nhập vào, phải …. Cho đến khi giống người da trắng bước vào vũ đài. Ấy chỉ từ một hai thế kỷ đó, quả địa cầu và các bể Đại dương của tinh hệ này mới trở thành một sân khấu lưu huyết tan tành độc ác. - Giống như lời trong thơ của Sir Philip Gibbs đã nói nhiễm phải không? Như vậy thì không phải là “văn minh” mà là một bệnh dương mai, hay là bệnh dịch hạch chăng? Những đại nhân vật, như Churchill, Ike, Truman, và những nhân vật khác thì thế nào? - Chúng đều là những đại tướng rất mạnh của ông vua “kinh tế” đó. - Tôi không hiểu gì cả. Không thể có lý như thế. - Họ đều là sinh viên được đào luyện những điều ấy ở các học đường và trừơng Đại học hết thảy. - Và ở các nhà thờ, người ta đã dạy những điều gì? - Ở đó người ta đã dạy cầu nguyện để được Đức Chúa Trời phù hộ. - Chúa Trời mà cũng phục vụ cho “kinh tế” à? Bảo vệ cho kẻ giết người? có lẽ nào như thế, mình chế nhạo đó. - Sự thật vượt quá sự tưởng tượng. Thú vị lắm nhỉ? Cũng vì thế mà chúng ta đến xứ Tây Phương này, để biết sự thật của một thế giới đối nghịch, từ sự đi đứng đến tư tưởng, đều lộn xộn trái ngược. Sức mạnh ở óc não, trí tuệ ở dưới chân, sắc đẹp bề ngoài, xấu xa trong lòng. Phòng khách mỹ thuật là nơi chế tạo đàn bà để phản bội đàn ông, là nơi để giết chồng và những bạn hữu của họ. Ở đây ái tính là giết người, là ăn tươi nuốt sống người ta. - Ở xứ vua “kinh tế”, ái tình là để chiếm đoạt hay ăn trộm tài sản vật chất: tiền bạc, sức mạnh, sắc đẹp, kỹ thuật hay trí thức. Còn ái tình ở xứ chúng ta, thì của cho ai không cần đền đáp. - Vua “kinh tế” có phải là đại nghiệp chủ không? - Phải, ấy là một lầm lỗi lớn khi chúng ta gọi “Hoàng đế nước Thiên Quốc”. Tiếng “Hoàng đế” có nghĩa là có sức mạnh về chính trị, kinh tế và độc tài”… - Thế là đây cũng trái ngược với ông vua của nước chúng ta. Vua nước chúng ta không có lâu dài, quân đội, mà chỉ có một mái nhà để nước mưa khỏi dột xuống phòng ngủ, chỉ có thực phẩm đơn sơ để ăn cho khỏi chết đói. - Vua “kinh tế” Tây phương là một kỹ thuật để sống phong phú và phung phí còn kinh tế của nước chúng ta là một kỹ thuật sống, đời sống sáng tạo, nghèo khó và khó khăn: Như đói khổ, lạnh, nóng, lao động cực nhọc.. làm việc cho có tiền để cung cấp cái ăn cái mặc cho trẻ con xóm giềng… Để truyền bá lý thuyết vô song nguyên lý, là cái đảm bảo hạnh phúc trường cửu, tự do vô tận, công bằng tuyệt đối… - Nhưng ở Tây Phương đây, ai ai cũng có rất nhiều đồ vật dụng, bàn ghế, tủ kệ, rất nhiều đồ mỹ thuật, tranh treo đầy tường, chén bát cổ, đồ nấu ăn xưa, cho đến những giầy dép cũng để đầy ở phòng khách và phòng ăn. Nhà bà A và nhà bà B. như là một tàng cổ viên. Những đồ vật ấy rồi sẽ bị tiêu diệt. Nó là đồ chiếm hữu độc quyền, độc đoán cướp trộm đủ mọi cách và tất cả mọi cơ hội. Chiếm quyền sở hữu và cất giữ những sản vật phù ba vô ích ấy, nó chỉ xui giục thêm lòng thèm khát ganh ghét, có khi còn gây thêm tai họa nữa? - Mình nói rất phải, nhưng chúng ta đang ở đây là xứ Tây Phương nghĩa là ở xứ hoàn toàn đối nghịch! lý luận của chúng ta không có giá trị gì hết. - Ai cũng có của rất nhiều, các bà A. và các bà B. Còn giàu hơn những người đại phú ở nước chúng ta. Ở nước chúng ta không có ai khoe của, ai có cái nhà đẹp, thì luôn luôn có cái phòng đệp nhất để dành tiếp rước bạn bè hay khách lạ không được phép chưng bày những đồ mỹ thuật không có bàn ghế, chỉ trừ một cái bàn gỗ có để một bình cắm hoa hoang dại theo mùa, ngoài ra không có gì nữa. Nơi đó không phải là một viện bảo tàng, chứa đầy những vật kỉ niệm chết. Đứng trước cảnh tượng ấy chúng ta bị chết ngộp vì mùi ghê gớm những thây ma dục vọng, biển lận của những kẻ sống, đời sống bóc lột xâm chiếm của những kẻ khác. Và chính những bà cất giữ vật kỷ niệm ấy, cũng như những đồ mỹ thuật đã cũ rích và những xác sống ép khô đã bị biến thể bởi bệnh phong thấp và các bệnh phong tình… - Tuy nhiên, họ cũng biết câu tục ngữ của chúng ta “người giàu lên được thiên đường còn khó hơn con lạc đà chui qua lò trôn kim”. - Người ta càng giàu có ở thế giới tương đối bao nhiêu, thì càng nghèo khó ở thế giới vô tận, vĩnh viễn và tuyệt đối bấy nhiêu. Người ta càng giàu nhất hoặc về kinh tế, hoặc về tài năng, lại càng nghèo khổ về tinh thần và trí tuệ nhiều hơn. - Mình thử xem hai đoạn mà người con tinh thần chúng ta đã cắt trong một tờ báo. Đây là một chứng minh về kinh tế của vô song nguyên lý. Đoạn thứ nhất chỉ cho chúng ta biết, văn minh đã làm thế nào để giết chết dân tộc tối cố. vô tội, can đảm, và lương thiện bằng cách khai thác tài nguyên rồi bồi thường lại bằng các thứ rượu độc sự thống kê cũng chưa được hoàn toàn, còn cách đầu độc khác nguy hiểm hơn: Đường sữa đặc, choclat, kẹo, bánh, bánh sữa, nước cái cây ép bằng hóa học, có pha màu hóa học môi trường bệnh ung thư, những chất này khi vào thân thể sẽ biến thành rựợu hết cả. Đoạn thứ hai còn vui thú hơn nữa, nó tỏ cho chúng ta biết những vật thực nuôi binh lính tổn hao biết chừng nào, và đồ thực phẩm ấy có hại cho sức khỏe binh lính biết bao nhiêu. Hơn nữa, sau khi “hòa bình” rồi, người ta cần chi phí hằng tỷ bạc để giáo huấn, biến hóa những người dân thái cổ ngây thơ, hiền lành và can đảm trở thành dân văn minh giả hiệu, lờ mờ, độc ác và bất lương và lập nên những bệnh viện để chữa bệnh cho dân bản xứ tối cổ nạn nhân của rựợu, đường, bánh ngọt và sản phẩm thú vật chế tạo, sản phẩm kỹ thuật hóa học chế tạo… - Kinh tế phong phú, kinh tế lạm dụng, tạo nên và tăng thêm tiện nghi, thích thú, đó là đời sống tân thời đến mức độ cao nhất. Tiện nghi và thích thú càng kích thích cuộc sống vật chất ham chuông nhục dục, nó phát sinh ra tất cả mọi tội lỗi và nhờ sự giáo dục chuyên nghiệp và giao thông nhanh chóng mà những tội lỗi ấy biến thành trí thức hơn, kỹ nghệ hóa, quốc tế hóa hơn.Rút cục chỉ làm cho nhân loại chết chóc mà thôi. - Trong nền kinh tế phong phú, và nền kinh tế “mái nhà đủ che nắng mưa dột, cái nào hơn? - Thật khó xác định,Gandhi phủ nhận cái thứ nhất, nhưng đồ đệ ông ta cố gắng thâu nhận nó… - Người ta có thể thu nhập “văn minh” nếu họ đừng quên “vô song nguyên lý” của chúng ta… TRÁI CÂY Kết Luận Các Y Sĩ và những người phàm tục chỉ trích tôi, họ nói rằng: 1/ “Tại sao ăn trái cây không tốt?” Nhưng tôi đâu có nói như thế. Trái cây tốt và rất ngon, tôi không phủ nhận điều ấy. Tôi ưa thích và quý chúng nó lắm. 2/ “Tại sao người ta không nên ăn trái cây?” Nhưng tôi không nói lời nào như thế. Tôi chỉ nói rằng “Không nên ăn một số trái cây trong một vài trường hợp nào đó” mục đích y thuật Viễn đông là để biến đổi một bệnh nhân thành một người tự do để có thể ăn uống theo ý muốn của mình, bất kể món gì, cho đến thuốc độc nữa. 3/ -“Tất cả cải gì sinh ra và là để cho người ta dùng người ta có quyền hưởng thụ thảy”. Đó là một lý luận hoàn toàn tự kỳ trung tâm, độc chiếm, có phân kiêu căng ,ích kỷ. Chúng ta tha thiết có nhà triệu phú để di sản lại cho một kẻ thừa kế. Người này có quyền lạm dụng và cũng không tự đầu độc. Nếu tất cả cái gì sinh ra là để hiện cho người dùng, vậy ta có thể vui vẻ thu nhận hết thảy mà không phân biệt gì cả chăng? Trước hết, ai là kẻ nhân chứng xác nhận rằng, tất cả vật ấy là sở hữu của bạn ? hay là người ta có thể thừa nhận các thứ vi trùng, độc chất nguy hiểm, những bọn trộm cướp, cũng đều cho như là ân nhân cả được chăng? 4/ SAINT PAUL có nói rằng, tất cả cái gì chúa trời đã ban cho con người đều là tốt cả, và không có món thực phẩm nào đáng kiêng kỵ . Câu nói ấy rất đúng . Nhưng những loại trái cây đã sinh ra đó có phải chỉ độc nhất để cho con người dùng mà thôi sao? Trái cây có phải vì con người mà sản sinh ra sao? Ai chứng minh điều đó ? các loại cầm thú khác không có quyền ăn trái cây sao? Tất cả các trái cây người ta ăn hiện nay có phải do con người chế biến ra một cách nhân tạo để kiếm tiền không? Nếu theo luật công bằng mà phân phát, thì mỗi người mỗi năm các bạn ăn được bao nhiêu trái táo? Các bạn nói mỗi năm ,các bạn chỉ ăn 4% nho trái ở Pháp còn bao nhiêu thì để dùng làm rượu vậy là mỗi mùa các bạn tiêu thụ đến 2500% nho trái, các bạn sẽ có 25 lần nhiều hơn trẻ con đẻ thiếu tháng và có 25 lần nhiều hơn trẻ con bị bệnh “biến thể” và có 25 lần hiều hơn trẻ con bị bệnh bại . không tin lời tôi, các bạn cứ tự điều tra rồi sẽ biết. Sau hết, tôi rất lấy làm ngạc nhiên với sự phán đoán thấp kém, ích kỷ, độc chiếm, ấu trĩ của những người chăm chú vào thuyết ăn trái cây và những bọn a tòng mù quáng, do ở đâu mà tri giác bị mờ ám như thế? Hiệu quả dùng trái cây để chữa một bệnh nhân ăn thịt quá nhiều là một phát minh rất vẻ vang đó là thiên tài của y sĩ CARTON. Chúng ra nên ghi nhớ luôn luôn điều ấy, nhưng đồng thời chúng ta cũng phải nên cải thiện cho hoàn hảo thêm một phát triển lý thuyết của ông ta ra, chứ không nên bắt chước một cách mù quáng. Điều phát minh ấy chúng ta nên biện giải theo phương pháp khoa học. Các Y Sĩ và các bệnh nhân bắt chước và lặp lại sự phán đoán của người khác như cái máy hát một cách mù quáng như thế, thật tôi không sao hiểu được. Đó là Y Sĩ máy nói và bệnh nhân máy nói…! Tại sao mà có nhiều máy nói như thế? “Bởi vì sinh viên y khoa đều kém tư cách, không hạn định tuổi nhập học. Đến 30 tuổi, sau khi đã trượt vỏ chuối nhiều keo trong 12 năm liền học sinh còn cầu may thi vào trường Y khoa”. Người ta nói rằng, các sinh viên y khoa trong số người có thể bị tự nhiên đào thải. Người ta nói thế, nhưng tôi không thể tin… Vậy thì sự nan giải độc nhất không thể tưởng tượng nầy đâu mà có? “Vì sao trái cây đều tốt?” “Nó tốt vì nó theo cảm giác của chúng ta”… “Thế thì theo kinh nghiệm ư? Có chứng minh được bằng cách khoa học không?” “Nhưng biết bao loại thú vật ăn trái cây mà vẫn mạnh khỏe”. “Vậy các bạn có vui lòng đồng hóa với loài khỉ với trình độ tri thức như chúng nó không?” “Những trái cây sinh ra để người dùng, thì người ta có thể “ăn uống được” “Vậy con người phát minh lửa để làm gì? Các bạn có muốn tân diệt sự khác biệt giữa cái văn minh của con người với đời sống của thú vật ở rừng núi hay thổ dân không?” “Nhưng chất sinh tố C rất quý cho con người biết bao” “Toàn loại sinh tố C là cái gì các bạn không biết.Rất nhiều chứng bệnh đặc biệt như: đau tim, suyễn, vẫy cá, cơ thể dị ứng, đều do ăn nhiều trái cây và rau sống mà sinh ra cả đó sao? - A! Trí phán đoán cổ hủ quá! Đó là trí phán đoán ở giai đoạn thứ hai, gọi là “cảm giác” hay là “mê tín” óc phán đoán của người thông minh làm tôi rùng mình. KẾT LUẬN: Điều mà ông Jack muốn nói về chuyện ăn chay và ăn trái cây, theo tôi tưởng, có thể tóm tắt mấy hàng như sau: Những người bản chất quá DƯƠNG, có thể dùng trái cây được vì nó sẽ vô hiệu hóa những cặn bã độc hại của chất thịt mà họ đã ăn lâu năm. Ăn trái cây với trường hợp này thì rất có hiệu quả. Còn những bệnh nhân bản chất quá ÂM, lại ăn uống vật thực nhiều ÂM, ăn đồ thảo mộc quá nhiều ,trái cây, đường hay là chữa trị đã lâu ngày bằng dược phẩm có chất hóa học, chứa nhiều chất ma túy, thoan chất sinh tố, sinh tố B2, B1, H, B12, hoặc Nicotinsaureamide v..v…Những bệnh nhân này thì cấm tuyệt không được ăn trái cây. Người ta có thể kiểm soát rất dễ dàng hậu quả về sự bành trướng ÂM của trái cây. Các bạn thử cho 1 đứa bé có khuynh hướng đái dầm ăn nhiều trái cây thì ngay đêm đó đứa bé sẽ đái dầm. Các bạn lại cho 1 người đàn bà mang thai ăn nhiều trái cây thì người đàn bà ấy sẽ sinh thiếu tháng và đứa bé mới sinh sẽ bị chết ngay. Người đàn bà nào thường ăn trái cây thì sẽ không sinh đẻ được 90% người rụng nhiều tóc là vì thích ăn trái cây . Người nào không hay ăn trái cây mà bây giờ ăn một trái mận hay một trái đào, thì qua ngày mai, khi chải tóc sẽ thấy tóc rụng 10 lần nhiều hơn. Kẻ nào ăn trái cây hàng ngày sẽ mất hết tính ham muốn tình dục. Kẻ nào nguyên bản chất ÂM hoặc nhiều hoặc ít, bởi dòng dõi hay bởi hay ăn đồ trái thì mất luôn tình dục, tính tình càng ngày càng trở thành mềm yếu, và cho tình dục là đáng ghét, đáng ghê tởm. Khi dân cư của một công xã, hay của một xứ nào đều ăn trái cây, thì trên bản đồ nhân khẩu học ta thấy dân số giảm một cách rõ ràng. Số người đau bệnh tê bại, thân hình biến thể, tì lệ với số cây ăn quả, số trái cây sản xuất, tiêu thụ , hay nhập cảng. Mùa đau bệnh tê bại phù hợp với mùa sản xuất trái cây. Tại Hoa Kỳ, bệnh tê bại (poliomelite) lưu hành trạng thái một bệnh phong thổ riêng của xứ ấy, để bài trử độc chất của bệnh, người ta dùng máy bay rải bột hóa học D.D.T, xem như một trận tuyết đổ trắng xóa, bao phủ cả thành phố Nhưng phải biết rằng, chính bệnh ấy là do người buôn trái cây khắp đường phố mà phát sinh ra. Những loài đại tinh tinh và loải khỉ, đều là giống Homosapiens biến thái. Kẻ nào ưa thích và thường hay ăn nhiều trái cây, thì dần dần trở nên nghi hoặc, ghen ghét, sợ sệt, lưỡng lự, và nhát lạnh, rút cuộc mắt bệnh đau tim Đàn bà ăn nhiều trái cây tử cung biến thể, kinh nguyệt không đều. Những bệnh ung thư, cũng đều do ăn bánh kẹo và thường xuyên hay ăn trái cây. Và trái cây không có nhiều nhiệt lượng. Về phương diện kinh tế và canh nông, không nên khuyến khích sản xuất trái cây. Nếu người ta biến các vườn nho nước Pháp thành các cánh đồng trồng ngũ cốc, thì nước Pháp mỗi năm sản xuất được hàng triệu tấn ngũ cốc và không cần nhập cảng nữa. Ông Jack khuyên các bạn muốn chứng minh lý thuyết của ông ta có đúng không, các bạn hãy thử ăn hay cho một vài người ăn hàng ngày một số trái cây (một trăm hay hai trăm gramme) thì trong thời gian rất ngắn, các bạn sẽ thấy khuynh hướng bệnh tim, áp huyết cao phát hiện rõ ràng. Ông thường hỏi thăm tin tức công việc trồng hoa quả ở Âu Châu, về sự tăng gia diện tích trồng cây ăn quả, về sự tăng gia hàng năm số lượng trái cây sản xuất và số người mới gia nhập đầu tiên vào việc ăn trái cây, để biết các khuynh hướng ấy có thật có vài lợi ích, không phải là lành bệnh tạm thời mà có kết quả lành bệnh tận gốc không. Nếu thấy không có lợi ích và kết quả sâu xa và trường cửu, thì ông ta mổ bụng tự tử. NHÀ THỜ - Y KHOA Y DƯỢC Chúa Trời, Chúa Trời là cái gì? Ở đâu? Hai người Thiên Quốc du lịch này, thường ngày nhất là ngày chủ nhật, trong khi đi dạo chơi, thường thấy nhiều người đi vô nhà thờ này, lắm kẻ ra nhà thờ nọ, điều đó làm cho hai người rất lấy làm lạ. - Vì sao người ta đến nhà thờ? Vì sao Ông Jack nói tôi không sao hiểu tâm trạng ấy được. - Khi ở nhà thờ đi họ có sung sướng không? Họ đi cầu nguyện mà Chúa Trời họ không hoàn toàn biết. Và họ rất sung sướng tuồng như Chúa đã nghe lời cầu nguyện của họ… - Thật là kỳ quái, dù họ là kẻ trí phán đoán ở bậc thấp kém, ta cũng phải lấy làm lạ, dù là họ đi cầu nguyện với ông Chúa mà họ là tin ở chỗ xa xôi, trong khi họ vẫn thừa nhận Chúa Trời : “Bậc phán đoán cao siêu” thì có thật. Nhưng đây là xứ sở của người “văn minh da trắng” và người ta đang ở vào thời đại gọi là khoa học và duy vật, không hay biết gì về hiện hữu của Chúa Trời. - Đây là kết quả của các mục sư truyền giáo trong nhiều thế kỷ, mà chính họ cũng không biết ai là Chúa Trời, và ông ở đâu, và cũng không biết rằng một vài người tới lui nhà thờ chỉ có một quan niệm mơ hồ hay là một ý tưởng cụ thể, để tìm một sự hỗ trợ về tâm lý. - Chúa Trời không chi khác hơn óc phán đoán cao siêu của chúng ta. Đấng cấu tạo vũ trụ ở hòn đảo nhỏ Thiên Quốc chúng ta không là mục tiêu để xin xỏ. Người nào biết Chúa thì biết tất cả. Người nào không biết Chúa, thì chỉ một mặt cầu xin, ăn mày, ăn trộm còn muốn ăn trộm chính cả Chúa nữa. - Nếu họ thành công, đó là ăn trộm một đặc quyền của Chúa, là trí phán đoán cao siêu. Khí cụ thiêng liêng khi vào tay kẻ trộm hóa thành một tà thuật. Vậy nhà thờ Tây phương là vườn ương giống thầy phù thủy có thế lực. Nhà thờ là nơi phát sinh ra sự mê tín. Kẻ nào thường hay đến nhà thờ, đều không bằng lòng với phát minh tạm thời. Họ còn keo kiệt hơn kẻ văn minh khác nữa. Đó là hạng ăn mày cực xấu tệ. họ còn phạm nhiều tội hơn cả khoa học. - Mình sao quá vội vàng, không nên chỉ trích ai cả, không nên phê bình ai hết. Vô song nguyên lý là một lưỡi gươm để tự sát như lưỡi kiếm của võ sĩ đạo Nhật Bản vậy.Nếu chúng ta không thể cứu vớt những kẻ khốn khổ vì phán đoán thấp kém, thì chỉ nên qui tội về sự bất lực của chúng ta mà thôi. - Đồng ý. Điều mà chúng ta phải làm trước tiên ở xứ phương Tây, cái xứ rừng thú gọi là “văn minh” này là kêu to lên: các anh phải nghe theo Vô song nguyên lý.Lý thuyết ấy nó sẽ giải thoát cho ta khỏi tất cả mọi sự đau khổ, tất cả mọi sự hoạn nạn, nó lại bảo đảm cho ta những tự do vô tận, hạnh phúc trường cừu, và công bằng tuyệt đối nữa. Đó là một biện chứng pháp thực dụng, một luận lý phổ quát bao gồm cả luận lý hình thức. Đó là điều ngày xưa người ta gọi là Chúa Trời. Đó là sự cấu tạo của vũ trụ, chính đó là Thần Linh. - Hôm nay mình có tài hùng biện lắm, bữa qua mình có ăn gì lạ không? - Cũng ăn đồ ăn như thường ngày, chứ không có món gì khác. Nhưng mình ,tôi thấy một hôm mình quá ÂM. Hôm qua mình có uống một ly rượu Champagne ở nhà bà C. Còn tôi thì tôi không uống… một giọt nước cũng không. Tôi đã nhịn đói. - Phải, mình đã nhịn đói. A, nhịn đói và cầu nguyện cần phải học hỏi chân lý, sự cấu tạo của vũ trụ, ở trần thế này còn có cái gì đáng học hơn nữa. Tất cả giáo dục ,tất cả cao đẳng học thuật về khoa học hay triết học đều vô ích và có hại, nếu không hiểu biết về chân lý về vũ trụ quan và nhân sinh quan. Lấy tư cách là Y Sĩ làm sao để cứu chữa một bệnh nhân? Làm sao có thể xét đoán một con người? Xét đoán là biết nguyên nhân tối hậu để giải thoát cái nguồn gốc tội lỗi. Ngoài chân lý, xét đoán nghĩa là trừng phạt. Sự trừng phạt ấy không bao giờ hết tội được. Giáo huấn mà không biết chân lý duy nhất, đó là đào tạo tội nhân tri thức. Làm chính trị mà không biết luật vũ trụ, ấy là bóc lọt nhân dân lao động, bằng cách hút máu, hoặc do sự đánh thuế hoặc do hi sinh tính mạng: chiến tranh. - Đó là tội phạm của nhà thờ, đã bỏ qua từ bao thế kỷ, không tuyên huấn Vô song nguyên lý của một tôn giáo Viễn Đông! - Hay là từ khởi thủy. - Nhưng tại sao những kẻ ấy lại đến nhà thờ? - Đó có lẽ là vì nhớ cảnh trí. - Thế thì cũng gần giống như đi thăm nghĩa địa? có phải là mục đích đi dạo mát, hay tìm niềm an ủi hay là đó cũng là do tính cách cảm tình?... Đó không phải là sự biết ơn sâu xa hay là hối hận nồng nhiệt, cũng không phải là để nhận thấy đời sống ở trên trần ai, là quá mỏng manh, vô định và vô thường. - nhưng có một điều lạ nhất, ấy là điều thanh niên thanh nữ xã thân theo đạo chú tâm hoàn toàn vào một tôn giáo, họ từ bỏ tất cả lạc thú gia đình hay hôn nhân, và từ bỏ tất cả tiện nghi ở đời. Điều đó có phải là lạ lùng không? - Phải thật thế, đó có phải là lạ lùng lắm không? ở nước Thiên Quốc, Nhật Bản hay ở Trung Hoa, không khi nào có những sự kiện như thế … - Vậy có phải vì tính cách cảm tình không?.. - Có lẽ …hay là một cuộc cách mạng tinh thần chắc chắn bởi phản ứng chống lại quá ÂM, mà cha mẹ chúng quá DƯƠNG (ăn thịt quá nhiều) đã di truyền cho chúng. Nhưng tóm lại, phải lấy làm buồn mà trông thấy bao nhiêu thanh niên nam nữ chuyên chú vào chốn tăng lữ, đành xây lưng lại với cái xã hội duy vật, kinh tế khoa học và tư bản, trốn tránh những thăng trầm thế sự, mà chỉ có trải qua chốn ba đào này mới có thể tìm được con đường chân chính và duy nhất, con đường có thể hướng dẫn đến cõi hạnh phúc trường cửu. - Có lẽ ta vào đại học đường thì hay hơn ? - Không ở đó còn tệ hại hơn nữa. - Vì sao vậy? Nghiên cứu y thuật đối chứng trị liệu, là một môn tiêu diệt nhân loại, hoặc hủy hoại tự nhiên tuyển trạch là cái làm cho chúng ta được thêm mạnh, hoặc bắt buộc chủng đậu, dùng thuốc trụ sinh, lấy bộ phận cơ thể nhân tạo thay vào như : răng, con mắt, thận, tim, ruột, hoặc mổ xẻ chảy máu… nghiên cứu sách vở tôn giáo … - Sự thí nghiệm giết người bằng lý hóa học, sinh vật, hóa học, y học, hay chính trị học, nó bi thảm cho thanh niên thanh nữ, nhưng còn hơn sự nghiên cứu tôn giáo. - Vì sao vậy? - Bởi vì tàn sát độc ác cấp thời ít đau đớn hơn là đầu độc trì hoãn… hay là kéo dài ngày trông đợi của một người bị xử án tử hình. - Từ ngày chúng ta đến Âu Châu, mình đã hơi trở nên một người tàn nhẫn mình gần Âu Hóa rồi chăng? - Nhưng tôi chỉ mới được 2 lần ăn tiệc tại nhà hàng ngươi Pháp mà thôi… - Chúng ta trông thấy biết bao nhiêu người hung ác và tàn nhẫn ở các đường phố, hoặc ở trong xe điện ngầm. Nhất là mấy phụ nữ điệu bộ nam nhân, biểu lộ một tâm lý trái ngược, nói la ồn ào, khó chịu, dữ tợn. có phải những phụ nữ này đã phá hủy nhiều ít tính tình tao nhã, kiều mị, lịch sự của phái phụ nữ chúng ta rồi không? - A! tôi còn nhớ… cách đây vài tháng, chúng ra có đến viếng một bệnh viện lớn chuyên trị bệnh thần kinh, ở tại miền núi xa. Đó là một tòa nhà lộng lẫy , chính là một tòa lâu đài tân thời, xây cất bên một cái hồ lớn có phong cảnh tuyệt đẹp… Đứng xa trông, người ta tưởng đó là cửa vào thiên đường … - A! tôi còn nhớ, thật buồn quá. - Và có bà tu sĩ mặc áo trắng đứng chỗ ngưỡng cửa đi vào nữa? - Bà ấy nhất định xua đuổi chúng ta với một giọng nói lãnh đạm, oai nghiêm… - Bà ta đã tuyên bố: “Hai người không được vào xem bên trong nhà này”. - Mình có xin phép vào thăm một Y sĩ, có phải không? - Phải đúng như thế. Rồi bà ấy trả lời: “Không có y sĩ nào ở đây cả”. Câu trả lời làm tôi ngạc nhiên, tôi hỏi lại: “Vậy ai chịu trách nhiệm chữa trị bệnh nhân?” - Rồi sao nữa? - Bà ta nói: trong bệnh viện không có ai hết, chỉ có một viên Y sĩ ở tại tỉnh lỵ thỉnh thoảng lại thăm…Ở đây không cần Y sĩ. Các bệnh nhân đều “ nan y” cả. Rồi bà ta đóng cửa lại. -Trước mặt mình? -Người ta xem các bệnh nhân khốn khổ không khác gì một tội phạm bị án tù chung thân, không có ai chăm nôm ,chăm sóc đến cả .Cũng vì thế mà các ông như Schumann Meier chết như một tù nhân … - Y sĩ gì mà độc ác thế? - Không những các Y sĩ độc ác đối với bênh nhân, mà đến cả cha mẹ bệnh nhân cũng từ bỏ không thèm ngó đến nữa . Thật ra không phải là hung ác mà chỉ vì ngu si, bất lực, vô ý thức của y thuật Tây Phương, và tự kỷ trung tâm của trí phán đoán thuộc giai đoạn hai. - Không có Y Sĩ nào trị lành bịnh tinh thần sao? - Tôi không nghe ai nói đến điều này. - Nhưng nước ta, bệnh này đều trị lành cả, mình đã chữa hàng trăm bệnh… Mình thường nói rằng bệnh tinh thần thuộc về giai đoạn 3 của chứng bệnh con người, vậy thi so với các bệnh thuộc giai đoạn 4 và giai đoạn 5 hay giai đoạn 6, thì bệnh giai đoạn 3 rất dễ chữa đặc biệt là bệnh trúng phong, theo phương pháp tiết thực chúng ta thì chỉ trong vài ngày là bệnh có thể lành hẳn - So với bệnh tinh thần, thuộc giai đoạn 7 (kiêu căng nhị nguyên) thì càng dễ lắm. Nhưng rốt cuộc Y thuật phương Tây là đối chứng trị liệu. Vả chăng triệu chứng bệnh thần kinh không thể thấy được nên không thể trị lành. Đó là nguyên do sự hung ác của bệnh viện ấy. Sự hung ác là một đứa trẻ ghê gớm của trí phán đoán thấp kém. - Sự độc ác cai quản tất cả cách trị liệu của Tây Phương…Họ công phạt triệu chứng, hủy hoại, tàn sát vi trùng, độc chất, ký sinh trùng, cưa cắt tay chân, mổ xẻ các cơ quan bị đau hay không đau… - Đó là chỗ hơn kém của y khoa đối chứng trị liệu pháp. - Vì sao có ưu điểm? - Bởi vì họ chữa cấp thời triệu chứng. Tôi không phục phương pháp giải phẫu cấp tốc ấy, tôi mong họ phát triển và áp dụng đến cực điểm, cho khắp nơi và cho tất cả mọi bệnh tật …Cắt trái tim bị đau, óc não, trái thận, phổi, gan…là thúc giục cho phương pháp đối chứng trị liệu mau sụp đổ thảm hại… - Hay nói đúng hơn, là tận diệt nhân loại…? - Không phải, sự sụp đổ y khoa, sẽ thức tỉnh trí phán đoán cao siêu của con người. - Nhưng còn nhiều xưởng lớn chế tạo dược phẩm.. Mình còn nhớ ông giám đốc 1 công ty chế dược liệu bị đau tim từ 10 năm rưỡi, sau khi dùng tất cả số dược phẩm của ông ta chế (đã bán ra hơn trăm tỷ) và sau khi được những Y sĩ có danh tiếng trên thế giới điều trị mà vẫn vô hiệu quả kia chứ? Dược phẩm của ông ta đều vô hiệu, nhưng đều bán chạy được hết….Và ông giám đốc ấy rất kiêu căng và rất ngạo mạn! |
|
|
![]()
Bài viết
#6
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
- Phải……Nhưng…Sự suy sụp Y khoa cũng có thể làm cho nhân loại suy vi mau chóng dưới một hình thức khác: bệnh tinh thần và tâm linh
- Cuối cùng, y khoa sẽ đi đến đâu? Nó đưa nhân loại đến chỗ nào? - Y khoa . và cả dược khoa nữa sẽ đi đến chỗ sụp đổ hoàn toàn. - Cái đó sẽ mất nhiều năm. CHƯƠNG IV THÀNH PHỐ VERDUN Ở Trung Hoa có câu nói rằng: Chúng ta nên đợi trăm năm hoặc vài trăm năm nữa, nước sông Hoàng Hà có ngày sẽ trở thành trong biếc. Chúng ta hãy kiên nhẫn. Trời bao phủ nhiều mây. Ông S. lái chiếc xe “Versaille”, trong ấy có hai người Thượng Cổ. Ông S. bấm nút lò sưởi trong xe để ngồi cho ấm. Ở ngoài trời rất lạnh. Xe chạy 120 cây số một giờ, êm thấm không nghe tiếng kêu, đi qua một cánh đồng hoang phế mênh mông, trọc trụi dị kỳ, không có rừng cây đẹp như các nơi khác, cũng không có một con sinh vật nào. Đây đó, những chóp núi đằng xa, dập dờn màu xám, trông thấy dựng lên những khối lớn đen, hình vuông đẹp: Những bia kỷ niệm chiến tranh. Những đám mây u ám hạ xuống rất thấp, và tiếp giáp đến chân trời khi đến một khúc quẹo, bỗng nhiên trông thấy một cánh đồng phủ đầy hoa trắng … Xe chạy chậm, người ta thấy cánh đồng rõ hơn, hoa nở trái mùa. Sự thật đó không phải là hoa, mà là hàng ngàn cây thập tự giá trắng, dưới ấy là nơi an nghỉ ngàn năm của các binh lính. Chỗ ấy là nghĩa địa trong trăm cái nghĩa địa của trận VERDUN. Qua một đường quẹo khác, không thấy nghĩa địa nữa Xe đậu lại trước một đài kỷ niệm lớn bằng đá màu xám, ở giữa đứng lên một cái tháp vuông bề cao 40 mét. Bốn mặt cái tháp ấy, xây 4 cây thập tự giá nổi lên trên chóp đài kỷ niệm, tối nào cũng có đèn pha từ Douaumont chiếu đèn đỏ, trắng, sáng khắp cánh đồng mênh mông, để canh gác suốt đêm cho vô số các trận vong chiến sĩ … Hầm hài cốt Douaumont, trung tâm mộ địa khô khan của đài kỷ niệm ấy, mặc dù đã lâu 40 năm rồi, nay vẫn còn biểu hiện dấu tích chiến tranh, một cuộc tàn sát vô cùng tàn bạo. Tất cả mọi người, đàn ông hay đàn bà, trẻ con hay người lớn, ít ra là một lần hay nhiều lần, hay hơn nữa mỗi năm một lần, đến đó để xem cho hiểu biết và học hỏi cái nghĩa “chiến tranh” nó ra thế nào. Cần nên biết hòn núi hài cốt ấy: tay, chân, sọ bể hãy còn nguyên, cóp nhặt ở một trong 36 khu của mặt trận Verdun. Những hài cốt ấy, chồng chất đầy trong những hầm quan tài chạy dài theo hành lang hai bên, và dưới chân của bốn phía tháp, có 18 hộc chia đểu hai phía tả hữu. Những sọ, tay, chân ấy … tất cả hài cốt ấy, xưa kia đều là những binh sĩ anh dũng trẻ hoặc già … và tất thảy binh sĩ ấy đều tưởng nhớ đến cha mẹ, vợ con bạn bè là những người cũng trông đợi họ, với tương lai sung sướng và quá khứ đằm thắm vui tươi … và họ tưởng nhớ như vậy cho đến ngày lâm chung. Nhưng họ đã bị bỏ rơi. Những chiến sĩ (độ 160.000) được lượm xác đều chôn tại một trong 40 nghĩa địa Pháp, hai nghĩa địa Hoa kỳ, hoặc 29 nghĩa địa Đức Hai người Thượng Cổ cảm động, đi theo một cựu chiến binh dẫn lộ, đi qua những nhà cầu tối om, ẩm ướt, trơn trượt, dễ sợ, những đường hầm có vách tường ngăn những nhà hầm đỡ đạn, bệnh xá, phòng sĩ quan … đồn lũy … Vài giờ sau, hai người ngồi một chiếc xe hơi của một người con tinh thần của họ. Anh sinh viên này ở Đức đã từ hai năm nay, lái xe đưa ông bà về Paris. - Được đến viếng thăm Verdun, bãi chiến trường, và đường hầm có nhiều từng ấy, chắc mình vui lòng nhắm mắt nhỉ? - Phải … từ bốn mươi năm nay, tôi chưa từng du ngoạn những thắng cảnh mà kẻ du lịch thường hay tới lui như tháp Eiffel chẳng hạn, nhưng có ước vọng được đến thăm Verdun. Mộng tưởng ấy ngày nay tôi đã đạt được. - Và chúng ta đã thấy những gì? - Tôi đã mục kích cái vĩ đại và cái huy hoàng ảm đạm của trí phán đoán thấp hèn, mù quáng, cảm giác, cảm tình và lý trí ấy, không thể tưởng tượng lại có những cánh đồng chất đầy xương cốt, rộng hàng ngàn mẫu đất. - Ấy là trí phán đoán ảo ảnh của con người. Thật buồn quá! - Đã có 160.000 nấm mồ chiến sĩ trận vong, trong khoảng 4 năm. Ngày 6 8 1945, ở Đồi Mã, lại có một đống hài cốt hơn 200.000 bị giết chết trong nháy mắt. Và bây giờ người ta còn đương tiếp tục viết trang lịch sử bằng máu như thế nữa. Người ta chuẩn bị chiến tranh. - Hơn nữa chiến tranh vẫn tiếp tục luôn luôn … tại Tunisic, Maroc, Algérie, Chypre, Suez, Kenya… - Chúng ta có đến viếng ở tại trong xóm Holzinhaus, Shwarawald, chỉ đếm vỏn vẹn có mười một nóc nhà, mà cũng có một cái đài kỷ niệm nhỏ, mình còn nhớ không? - Phải, nhớ rồi, tôi còn nhớ được lúc mình đứng lại chiêm ngưỡng rất lâu trước cái đài kỷ niệm 10 chiến sĩ tử trận ấy, thì có một ông già lại gần nói rằng, ông ta bị mất một đứa con một trong trận chiến tranh. - Phải đó. - Trông thấy óc phán đoán thấp kém của con người mà buồn quá! Tại sao không có một người nào trí phán đoán cho cao thượng minh mẫn hết cả, - Đó là trường hợp của hàng triệu triệu người. Trí phán đoán của nhân loại hoàn toàn bị che lấp. Phần cao siêu và duy nhất bị mờ ám. - Đến bao giờ trí phán đoán cao siêu mới lóe sáng? E nó không đời nào có chăng? - Ánh mặt trời phán đoán cao siêu của chúng ta chói sáng từ vô thủy, và mãi mãi, nhưng bị mây mù che lấp mất ánh sáng của nó. - Mây và sương mù ấy là cái gì? - Nó là giáo dục đui mù, chuyên nghiệp, cảm giác, cảm tình, lý trí, xã hội, lý tưởng, hoàn toàn tự kỷ trung tâm, độc chiếm, của người Tây phương hay là Duy Tân chủ nghĩa. - Chúng ta không có một học đường, cũng không có một Đại học viện nào dạy: “Die Wharheit Wird euch machen frei” bởi thế nên chúng ta không có chiến tranh. - Ấn Độ, Trung Hoa và hàng ngàn quần đảo ở Thái Bình Dương, trước khi bị người “văn minh” xâm chiếm, cũng không hề biết chiến tranh… - Thế thì ta đóng cửa lại, đừng cho người “văn minh” vào? - Không được. - Tại sao thế? - Bởi vì nếu chúng ta xua đuổi không cho họ đến, thì họ dùng vũ lực đánh chúng ta. Mà bế quan tòa cảng là nhị nguyên tính rồi. Chúng ta tiếp đón họ hình như bậc người phán đoán cao siêu phái đến. Ấy là nguyên lý của chúng ta, nguyên lý của tất cả người Viễn Đông. Vì vậy các dân tộc này tiếp đón họ rất nồng hậu, sẵn sàng để cho họ tùy nghi sử dụng tất cả, đối với họ như vai đàn anh, như bậc thầy, như người ân nhân cũng như kẻ khốn khổ, cho đến khi người da trắng bạo dạn, hung dữ, bất nghĩa, keo cú, loạn sắc, đối xử lại với tâm trạng “cổ lổ” chiếm đoạt tất cả tài nguyên lấy làm của tư hữu, đồng hóa người “Thái cổ” với kẻ ngu dốt, bóc lột nhân dân lao động xem như hạng tôi mọi. Người da trắng dựa trên sức mạnh tàn bạo, thiết lập pháp luật một cách rất dễ dàng, bởi vì người “Thái cổ” thường tuân theo pháp luật, mà bản tánh thiên nhiên của dân này chỉ biết tuân theo pháp luật duy nhất, là pháp luật “cấm kỵ” bất khả xâm phạm, và họ không khi nào lấy võ lực chống lại với võ lực. Họ tự an ủi mà nói rằng: “Chúng ta hãy đợi 100 năm nữa nước sông Hoàng Hà đục sẽ trở lại trong xanh”. Họ không biết luật pháp là cái gì. “Rồi bọn xâm lược tuyên bố rằng những xứ “Thượng Cổ” này là “Thuộc địa” của họ, lần lượt hết nước này đến nước khác, viện lý rằng những xứ này do họ phát kiến đầu tiên. Người da trắng quá tự kỷ trung tâm họ đồng hóa sự phát kiến với sự thủ đắc. Người da trắng xem người Thượng cổ có lòng quảng đại, tuồng như loài thú vật hay loại cây cỏ, hay như giống hạ đắng, không đời nào hiểu biết và nghiên cứu quan niệm về Thế giới, về văn hóa của chúng nó được. Tuy nhiên, người da trắng cũng thừa nhận một trong mấy tôn giáo của dân Thượng cổ, đã cũ đến 2.000 năm mà họ vẫn còn bảo tồn cho đến ngày nay, xem như một giáo lý uyên thâm và duy nhất ở thế-giới này. Gần đây, lần đầu tiên, họ có dựng lên một tôn giáo riêng biệt của họ: Khoa học. Đó là một cuộc cách mạng táo bạo, can đảm, chống lại Chúa Trời đã biến đổi và lỗi thời, họ muốn khai thác Thiên đường làm thực dân khoa học, họ có thể “đè bẹp” và “chiếm đoạt” được tất cả quyền năng của Chúa Trời, không ngờ Chúa Trời không gì khác hơn là trí phán đoán cao siêu. Ấy là một sự đại tiến bộ của giống da trắng. Họ đã thoát ra khỏi giai đoạn 2 và 3 của phán đoán, và đã bước lên tầng thứ 4: phán đoán lý trí. Nhưng còn phải trải qua hai giai đoạn nữa: Kinh tế, luân lý, và lý tưởng, khi đó mới đạt đến giai đoạn cuối cùng: phán đoán cao siêu. Tuy nhiên, phải còn nhiều thế kỷ, hay đúng hơn là mất hàng ngàn năm nữa, nếu họ không thay đổi phương hướng trong khi trải qua một tân giáo dục về sinh vật học, sinh lý học, và luận lý học, mà cứ tuân theo đúng Vô song nguyên lý là môn biện chứng pháp thực dụng thì mới được. Nếu không, thì người dân Thượng cổ sẽ thâu hồi cái nguyên lý độc nhất mà họ đã mất .Cái nguyên lý làm cho họ có lòng đại lượng đối với những kẻ ngoại quốc hung ác xâm lăng và bất lương. - Vậy thì giữa người dân Thượng cổ và người văn minh, ai là kẻ lấy lại trước nguyên lý ai là người lấy lại trước nguyên lý vô song? - Điều ấy chúng ta hoàn toàn đứng ngoài cuộc. Vả lại, phàm trong một cuộc thi đua, ta không nên bình quân những kẻ cạnh tranh, đem người giỏi đặt vào địa vị thất thế, để bù lại với người trình độ kém hơn. - Vậy thì người “văn minh” có được bình quân cho họ vào hạng kém hơn một chút có được chăng? - Không được, phải đặt họ đứng ngang hàng với người “Thượng cổ”, bởi vì người “Thượng cổ” đã bị mất gốc rễ cổ truyền xưa đến mấy ngàn năm của họ đi rồi. Đứng trên phương diện sinh lý học mà nói, thì người “Thượng cổ” nên bình quân cho họ thắng thế hơn người “văn minh”, vì họ chỉ là người “văn minh” nhập cảng, nhưng về phương diện tâm lý học thì lại trái hẳn. - Như thế, thì “người thượng cổ” sẽ thắng cuộc chăng? - Sẽ trái ngược lại … có thể … - Vì sao thế? - À, mình quên Tôn Tử rồi sao? Nhà đại hiền triết ấy, tác giả danh tiếng nhất trong 7 nhà binh pháp chiến lược - Nhưng… - Ông ta nói: (x) “ Cái gì mềm dẻo và vững chắc, thì được phát triển, “ Cái gì yếu đuối và hoạt động, thì trở thành có danh tiếng, “ Cái gì yếu đuối và mềm dẻo, sẽ bị chiếm đoạt “ Cái gì cứng rắn và hoạt động, thì thế nào cũng sụp đổ”. Lex ex Occidente, lux ex Oriente. ----------------------------------------------------------------------------------------- (x) cái gì ngoại Âm (mềm) nội Dương (cứng) thì phát triển vô cùng. Yếu (ÂM) bên ngoài, nhưng có động tác hoạt động và có khí lực (DƯƠNG) thì được danh tiếng. Ngoài mềm trong yếu thì bị mất sạch. Cái gì ngoài cứng và tác động mạnh, thì sớm muộn gì rồi cũng sụp đổ, không có ngoại lệ. CHIẾN TRANH Tại sao ở Tây-phương và các nước bị người Tây phương xâm chiếm hoặc đô hộ, hay có nhiều cuộc tàn sát? Tại sao người “văn minh” Tây phương nơi nào có họ đặt chân đến, đều phát xuất ra nhiều chiến tranh? Chém giết người đồng loại là một trọng tội, đáng tiếc, không ai muốn phạm tội ấy cả! Tất cả mọi người do kết quả một sự xúc động mãnh liệt, hay do trí phán đoán thấp kém, như phán đoán cảm tình, cảm giác; mà phạm một trọng tội nào đó, đều tự biết phán xét tội mình. Nếu không như thế, thì là người mắc bệnh tinh thần, nạn nhân của trí phán đoán cao siêu bị ảnh hưởng giáo dục xấu xa làm mờ ám…! Nhưng các chính phủ, bị trọng tội, thì không bị trừng phạt đến. chính phủ không khi nào biết tự phán xử tội lỗi của mình, mà trái lại chỉ biết chiến tranh. Sức mạnh, hung dữ, và khí giới có thể thiết lập hòa bình không? Lịch sử đã nói “không”. Tất thảy mọi người đều công nhận như thế. Nhưng người ta vẫn gây ra chiến tranh! Tại sao người “văn minh” ưa chiến tranh? Bởi vì họ là “văn minh” Người ta dùng quân đội, khí giới giết người trong cuộc chiến tranh, đó không khác gì là biểu hiện sự sợ sệt. Nhưng sự sợ sệt là một trong những đặc tính không biết sự cấu tạo của vũ trụ, đức tin. Chính phủ khởi sự chiến tranh, bởi vì trong đó gồm có nhiều người tin tưởng vào sức mạnh, và không biết sự cấu tạo vũ trụ. Những người dân bị động viên để giết chết đồng loại bởi chính phủ của họ như thế, họ cũng đều không biết gì về cách cấu tạo của vũ trụ. Sự sợ sệt, sự tin tưởng vào sức mạnh hay hung bạo, sự ngu dốt về cấu tạo vũ trụ, đều do ảnh hưởng giáo dục và cái vô dụng của tôn giáo. Những dân tộc ngu dốt thích làm tôi tớ, những nhà chính trị hiếu chiến, các nhà bác học phát minh những khí giới càng ngày càng tàn khốc, đều do cái lò giáo dục đúc ra cả. Nếu muốn thiết lập nền hòa bình và tự do, ở trên quả địa cầu này, thì phải thay đổi cách giáo dục lại. Muốn ngăn cản chiến tranh, chúng ta phải tạo một nền tân giáo dục, để vén cái màn phán đoán cao siêu của chúng ta, ngoài ra không có phương cách nào khác hơn nữa. Nhưng phán đoán cao siêu lại tùy thuộc độc nhất ở nơi sinh lý, cũng như một cái máy thu thanh, phẩm chất tốt hay xấu phải tuỳ thuộc nơi cách kiến tạo và nguyên liệu của nó. Để khai quang cho trí phán đoán cao siêu của con người, người ta trước hết phải gây dựng sinh lý của mình. Phải tái tạo con người từ lúc ban đầu. Vậy tân giáo dục cần phải có cả sinh vật học, sinh lý học và luận lý học. Tất cả triết lý Viễn Đông đã vạch rõ nguyên tắc một nền giáo dục như vậy, nhưng một khi đã rơi vào tay chuyên môn nhà nghề gọi là “giáo dục gia” hay là “tu sĩ” thì nền giáo dục ấy bị thay hình đổi dạng, và trở thành xưởng kỹ nghệ sản xuất một khối người nô lệ ngu si. Nhưng tại sao không có một người “văn minh” nào hiểu biết điều siêu việt, và quan trọng về sự cấu tạo của vũ trụ theo như người Viễn Đông đã biết? Tại sao vậy? Tại sao vậy? Tại sao vậy? Những kẻ đã giết chết 313.814 đàn bà, trẻ con, con nít mới sinh, thường dân lao động không có khí giới ở Trường Kỳ và Quảng Đảo, có tự động phê phán không? Không có thể có! Tôi đương tìm người nào sẽ trả lời cho tôi một câu mãn ý. CHƯƠNG V BỜ BỂ AZUR (côte d’Azur) - Ông H và vợ ông ta là người nào? - Họ đều ở trên trời rơi xuống. - Chúng ta hai người Thượng Cổ nghèo khó hoàn toàn là người ngoại quốc, tại sao đôi vợ chồng ấy quá dễ thương, can đảm, thông minh, nhất là họ tiếp đãi chúng ta tử tế như thế? - Họ hoàn toàn như tính người “ thượng cổ” của nước Thiên Quốc. - Tại sao chúng ta cảm thấy khi ở gần với ông bà H hoàn toàn như “ở nhà mình” vậy? - Không có “ tại sao” hết, vì tất cả những người có bệnh tự kỷ trung tâm, bất thường, bất nghĩa, keo cú, mềm yếu như bông gòn, quá ngu si và quá duy vật, đã làm cho chúng ta thối chí nản lòng, còn cặp vợ chồng ấy thì khuyến khích chúng ta nhiều lắm. - Trong dịp nghỉ hè, quãng đường chúng ta phải đi bốn ngàn cây số mất 40 ngày. Nếu chúng ta không gặp ông bà H, thì ít nhất chúng ta cũng phải chi phí mất hàng ngàn quan để di chuyển hành lý và ăn, trọ ở khách sạn . Một sự tốn kém như thế, chúng ta không sao đài thọ nổi. Nhưng việc đi nghỉ hè này của chúng ta lại ít tốn kém. - Một chuyện lạ lùng! - Vậy bây giờ mình nên làm cái gì cho hai ông bà H. - Chúng ta nên tặng cho hai ông bà H, một món quà, một huy chương danh dự lớn nhất của nước Thiên quốc, được chăng? - Đồng ý. - Lại thêm một đứa con gái, và một con trai, mà hai ông bà H muốn nuôi như con đẻ của họ vậy. - Nhưng hai đứa bé ấy, chúng ta làm sao có? - Đó là đứa cháu gái và cháu trai của chúng ta! Mẹ chúng là Sophie, cha chúng là Alexis, nhờ ta kiếm một gia đình người pháp phúc hậu, để cho họ làm con nuôi, vì họ quá nhiều con, có đến một tá… mỗi bên lo một phần. - A thật vậy! - Chúng nó sẽ sung sướng cực điểm… - Ông Jack và bà Mitie, ngồi ở một khách sạn, cùng nhau đàm đạo về việc hai vợ chồng ông H, như thế. Việc này thường xảy ra luôn. Hai bên được gặp nhau lần thứ nhất, là một việc tình cờ. Vào một ngày tháng bảy, lần đầu tiên hai người ngoại quốc đến ga Bollene (vaucluse). Bạn của họ là Dr Parodi và ông H., chủ nhân của chiếc xe đi cấm trại, đã chực sẵn ở đó, chính xe đi cắm trại ấy đã đưa hai người “thượng cổ” đến nghỉ ở lại vài ngày ở trai cộng đồng của ấp trưởng sư Lanza del Vasto. Trong khi đi đường ông Jack có nói chuyện một vài phút với ông H. Khi đến nơi, hai người chia tay. Bởi vì ông H. thuộc nhóm của Lanza del Vasto cư trú tại một nông trại, cách chỗ cắm trại cộng đồng năm trăm thước. Sau 5 ngày, hai người thượng cổ từ giã trại cộng đồng. Chiếc xe đi cắm trại của ông H. lại đưa hai người đến tận ga. - Ông H. hỏi: Bây giờ hai ông bà đi đau? - Chúng tôi đi Lioux. - Lioux? Lioux ở đâu? - Tôi cũng không biết, tôi tưởng có lẽ Lioux ở gần Avignon. - Được, tôi xin đưa hai ông bà đến Avignon, bởi vì chúng tôi đi Vence gần Nice. Như thế ông bà khỏi phải đợi xe lửa ở ga. Như thế câu chuyện bắt đầu. Ở trên xe có cô S.T. và vài người bạn nữa. Đến Avignon, người thượng cổ rất sửng sốt khi nghe nói Lioux ở về phía đông miền sơn cước, cách đó 50 cây số, không có đường đi bằng xe lửa hay xe buýt gì được cả. Hai người thượng cổ phải thay đổi chương trình. Nếu ở đảo nhỏ của họ. thì họ rất sung sướng mà đi bộ liền ngay. Nhưng khốn nạn chân của họ đã bị nhốt tù trong đôi giầy da cứng, không thể đi theo ý muốn. - Tôi dùng xe tôi đưa hai ông bà đến tận Lioux. Một lần nữa, ông Jack ngạc nhiên đưa mắt nhìn ông H. - Chúng ta đi, Nếu hai ông bà thuê xe taxi, phải tốn mất 10.000 quan. Tôi xin đưa ông bà đi, thôi lên xe, lên xe. - Hai người ngoại quốc phải đi xe, mặc dù họ không muốn lắm. Đến Lioux, hai vợ chồng ngoại quốc gặp hai vợ chồng ông G. Là người mà Jack đã liên lạc bằng thư từ năm năm nay. Để cảm ơn ông H, người “ thượng cổ” bắt đầu kể chuyện về y khoa kỳ diệu và đã cũ mấy ngàn năm của xứ Thiên quốc mà ông ta đã thực hành trên bốn mươi năm nay. Bà H. , Cô Simone ngồi chung xe từ Bollene, với bạn cô Lu Cas, ông bà G. ,Ông P, tất thẩy đều vui vẻ, đây là lần đầu tiên, ở sân khách sạn “ Clos Fleuri” của ông G. ,ông Jack khởi sự giảng bài học lạ lùng về Vô song nguyên lý của tất cả triết học và tất cả khoa học của nước Thiên quốc. Rồi mấy ngày sau đó, bài học về nguyên lý vô song được diễn giảng đến 30 giờ từ mai cho đến chiều tối. ban đêm, ông bà H. ngủ trong chiếc xe đi cắm trại của họ, còn các bạn hữu thì ngủ ở tại khách sạn. Ai nấy đều hân hoan theo dõi buổi học cho đến cùng. Trong lúc ấy bà Mitie sửa soạn nấu món ăn trường sinh và đồ ăn tráng miệng. Buổi học tập xong rồi, họ đều về hết. Ông bà H, rất lấy làm sung sướng lại đưa hai người Thiên quốc trở về trại của họ ở Vence, đi ngang qua một cánh đồng Oải hương thảo (lavande). Chiếc xe đi cắm trại của ông H. tiếp tục du lịch, đi các tỉnh Vence, Nice, Monte Carlo, Manton, Marseille, Martigue, Artes, Sete, Perpignan, Pyrenea, Mur De, Par Res, Monte Dore, Vichy v.v.. tất cả phí tổn ăn ở tại khách sạn, mua đồ vật kỷ niệm, đều do ông H. đài thọ. - Ông H. Nói: “Tôi là tài xế của ông bà, chiếc xe này cũng thuộc về của ông bà, hai ông bà là thầy của tôi, tôi xin lái xe đưa hai ông bà đi bất cứ chỗ nào hai ông bà muốn”. Cuộc du hành bất ngờ của hai người ngoại quốc này, là một cuộc du hành vòng quanh đầu tiên trong đời của họ. Họ trông thấy và học hỏi rất nhiều chuyện, nhất là được thưởng thức nhiều món ăn địa phương của nước Pháp. Vì Y lý của nước Thiên Quốc chú trọng về tiết thực và trường sinh, nên họ lấy làm lạ kỳ trông thấy những món ăn của người ngoại quốc, nhất là các món ăn truyền thống. Ông bà H. cùng đi chung trong 40 ngày, cũng học hỏi được rất nhiều chuyện của hai người Thiên quốc. Sau cùng họ định từ bỏ nhà dưỡng bệnh của họ mới xây dựng vài năm trước đây. Hai ông bà H là người rất ngay thật họ đã nhờ sự ăn chay và trái cây cứu chữa, họ từ bỏ tất cả để mở một cái nhà dưỡng bệnh để đem lại sức khoẻ cho cả mọi người. Nhưng hạnh phúc họ cũng không được trường cửu, tật bệnh lại tái sinh. Khi đó họ nhận thấy rằng sức khoẻ sinh lý chưa phải là hoàn hảo. Khi họ gặp hai người ngoại quốc này, họ thực hành một cuộc du lịch lâu dài trong chân lý, (tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, công bằng tuyệt đối). Họ học hỏi được nhiều chuyện hoàn toàn mới mẻ. Họ thực hành những điều đã học hỏi được. Họ càng ngày càng được vui sướng và trẻ trung hơn, ít cảm thấy mệt nhọc, tóc không rụng nữa,. Ông H. không còn bụng phệ nữa, tóc bạc nay đen trở lại. Bà H. thì đẹp thêm… Chỉ trong 40 ngày mà họ trẻ lại mười tuổi. Họ tin tưởng vào cuộc sống mà là cái tinh lực từ trong nguồn sâu kín của sự cấu tạo chảy ra. Và nhất là họ phát kiến được một chân trời sáng lạng. một mục tiêu tân sinh hoạt, sự vui thú trường cửu sắp đến. Cũng vì thế họ định từ bỏ cái nhà an dưỡng khá phát đạt, sổ chi thu hàng tháng có đến một triệu quan. Họ định việc phân phối các sản phẩm “ ăn chay trái cây” và định sáng lập một cái nhà cốt dùng nuôi những trẻ con vô thừa nhận, đồng thời làm trường dạy cho chúng nó về sinh lý học, sinh vậthọc và luận lý học , là những điều mà họ đã được hai người Thiên quốc truyền giáo cho Sau này chúng nó trưởng thành thì đã sẵn có trí hiểu biết về Vô song nguyên lý. Họ định hiến tất cả cho cái nhà tân tạo này. Hai vợ chồng ông H. là người rất tốt, một khi đã tìm ra chân lý rồi, thì họ hoàn toàn chú tâm vào để thực hành hàng ngày. Đó mới là chân chính vui sống. Sống như thế mới đáng nên sống. Người ta sống ở địa cầu này, hạnh phúc không phải ở chỗ thu góp nhiều tiền lắm của, hoặc quan niệm những sự vô ích hữu hại, nhưng cốt nơi xây dựng một đời sống cho được sung sướng, tự do và vui thú. Đây hoàn toàn là sự ngẫu nhiên, mà hai người ngoại quốc từ một hòn đảo nhỏ ở khuất lấp tận bể Thái Bình Dương, lại gặp một đôi vợ chồng rất khả ái trong số 40 triệu dân Pháp. Chuyện cũng kỳ lạ. Ông Jack và bà Mitie tự hỏi: - Tại sao chúng ta không tìm được hàng ngàn người như cặp vợ chồng ông ấy? - Tuy nhiên, chúng ta có gặp nhiều người và chúng ta cũng có giải thích Vô song nguyên lý cho họ. Nhiều người đã lành bệnh và những người trí thức đều nói: “ Xin cảm ơn ông ngàn lần”. Nhưng họ không nghiên cứu triết lý ấy cho thấu đáo, đặc biệt là với nhóm Y sĩ, chúng ta có giải thích tỉ mỉ cho họ nhiều lần trong 50 tiếng đồng hồ. - Trong thời gian học tập, tất cả đều có vẻ hứng thú , nhưng lớp giảng kết thúc, thì họ biệt dạng, họ còn sống chăng? Hay là xấu hổ vì bệnh họ được lành? - Điều mà làm cho chúng ta khó chịu, không phải là họ không đài thọ phí tổn giao thông cho chúng ta. Nhưng nếu họ không cảm ơn, nếu họ không tỏ ra vui vẻ mà bày dạy phương pháp của chúng ta lại cho khách thân chủ của họ, ấy là chúng ta bị hoàn toàn lỗi lầm trong sự giải thích về Vô song nguyên lý của chúng ta. Vậy chúng ta đã có sai lầm điều gì? - Không có sai lầm gì hết. Nhưng nếu họ không định thay đổi hướng sinh sống của họ như hai vợ chồng ông H. thì chắc chắn chúng ta có sai lầm. Chúng ta nên suy nghĩ lại, nếu không sẽ thành một người chuyên nghiệp chữa bệnh cốt để lấy tiền, chúng ta là người nước Thiên quốc, con người tự do, con đẻ của đại thiên nhiên, được thừa hưởng, một kho vàng rất lớn, là nguyên lý Vô song (chìa khoá của tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, và công bằng tuyệt đối), chúng ta không nên từ bỏ cái thiên chức ấy mà làm tiền, trái lại, chúng ta nên phân phối kho vàng ấy cho những kẻ nghèo khổ. Nếu Y sĩ mà có ý làm giàu, là họ đã thi hành một nghề nghiệp quá ti tiện hơn cả nghề làm đĩ, và nghề bất lương nữa. Nếu họ làm giàu như một viên giáo sư, hoặc như một ông luật sư, thế họ là đại ký sinh trùng của người ngu dốt và người phạm tội. Những Y sĩ hành nghề của họ, mà không đủ khả năng trị lành bệnh của chính mình, hoặc gia đình mình, đều là kẻ phạm trọng tội đã có “ cầu chứng hợp pháp”. Họ còn khốn nạn hơn bọn cướp rất tàn bạo trên thế giới, trước sau gì cũng sẽ bị trừng trị. - Nhưng cũng có một Y sĩ, như Y sĩ C., chịu hy sinh mỗi tuần hai ngày, và tự móc túi mình trả phỉ tổn di chuyển, để đến khám bệnh cho những bệnh nhân “kinh tế quẫn bách”… A, Y sĩ C. như là người Thiên quốc. Phải, đã 30 năm rồi, lúc ông ta còn là một sinh viên, có gặp tôi một lần, lúc bấy giờ ông ta có mua một quyển sách của tôi bằng tiếng Pháp, mà đọc không hiểu gì cả. Lúc ấy ông ta còn trẻ lắm, bị cưỡng bức phải học “ Y khoa chính thức và cổ điển” ấy hơn 10 năm, hoàn toàn thất vọng, ông ta đọc lại quyển sách của tôi, và định đi đến Thiên quốc để hỏi ý kiến tôi. Và đó là một sự xuất hiện bất ngờ… - Nhưng để riêng phần ông Y sĩ C. Còn người nào nữa đi tìm chân lý, hiện họ ở đâu? - Cái đó rất tự nhiên, người ta dạy và người ta học: “ Wharheit wird euch machen Frei”. “ Kinh tế”, nghĩa là “ Freiheit” bạc giá ở viện đại học. - Nhưng ai truyền Cơ Đốc giáo? Người ta đã ghét Cơ Đốc giáo. Cơ Đốc giáo đã bị phản đạo rồi chăng? - Phải, người ta đã hoàn toàn phản đạo Cơ Đốc. Câu “ không nên sát sanh” đã bị trắng trợn vi phạm, người ta ngày nào cũng sát hại: người chồng giết bạn của vợ, con giết cha, anh em trai giết chị em gái v.v... Người mạnh giết kẻ yếu, tư bản giết kẻ thua sút kinh tế bằng cách bóc lột họ,người lao động đình công không chịu làm việc, luôn luôn sức mạnh làm chủ tế…! Không nên kháng cự lại những sự ngược đãi: nếu bị đánh má bên phải thì đưa luôn má bên trái cho họ. Câu nói này bị lật ngược trở lại bội phần: kẻ nào hơi va chạm mình một chút thì đánh, đánh người ta cho đến chết. Không những đánh mà giết những kẻ không đánh mình, mà còn đánh giết những người không bằng lòng mua thuốc độc của mình: thuốc phiện. ( mình nên nhớ trân giặc tàn khốc nha phiến chiến tranh). Kẻ nào từ chối Y khoa Tây phương (đã giết chết gần 70 ngàn người Y sĩ chính thức và cổ truyền của Nhật Bản), kẻ nào công kích thuyết tân chế độ xã hội Tây phương cho là một lý thuyết vô lý, và những khí cụ giết người hèn nhát nhất ,vô luân lý nhất, tỷ như cơ quan an ninh, quân đội là khí cụ mù quáng phạm tội, nô lệ, súng trường, súng lục, đại bác. Mình cũng biết rằng võ sĩ đạo chân chính chỉ chấp nhận sự bắn cung như một việc trầm tư mặc tưởng và để giải thoát một cách có triết lý, và lưỡi kiếm là để tự xử mình hay là vì trung thành với chế độ vua cũ, quân chủ cũ. Họ vui lòng từ bỏ địa vị xã hội cổ truyền, trở thành một nông dân lương thiện, để kết liễu đời sống, mà không hề kháng nghị, tức là đưa má bên kia ra vậy. Và có chuyện một vài thanh niên võ sĩ đạo đã hân hạnh mổ bụng trước mặt viên lãnh sự Pháp, ông này không thể chịu nổi đứng trông sự đau đớn cho đến cùng, nửa chừng phải bỏ mà đi chỗ khác. Ông thủ tướng võ sĩ đạo tự sát, mà không dùng đến lưỡi gươm của mình lại nhờ các võ sĩ đạo khác quá can đảm và quá trung thành với chế độ cũ để thị hành thay thế lưỡi gươm, và ông ta đã nếm thử mùi an ủi. Cuộc cải cách của vua Minh Trị Nhật Bản, chính phù hợp với câu bi đát : “đưa má kia ra” ấy, cho người “ văn minh” ngoại quốc, họ đặt tên thánh là “ tâm trạng cổ lổ” tức là tâm trạng những giống dân da màu . Cái tâm trạng ấy, do nguyên lý Vô song sinh ra, nó đã cũ kỷ, hàng ngàn năm rồi, từ khi con cháu,dòng quý tộc “ võ sĩ đạo” bước chân đến đảo Yamoto. Nỏ gốc ở Ấn độ, căn nguyên Phệ đà triết học, cái tâm trạng ấy người văn minh không đời nào hiểu được. - Cũng vì thế mà người “ văn minh Tây phương” mới hoàn toàn biến hoá cái “tâm trạng” cổ lổ vốn tánh ôn hoà ,tinh tế, tràn trề văn hoá nhân loại, hiểu biết tất cả, có thể phục tòng vô điều kiện, và tự phê phán, thành cái “ tâm trạng văn minh Tây phương”, là tâm trạng độc ác, tự kỳ trung tâm, độc đoán thái thậm, luôn luôn bất mãn tất cả, thấm đầy ý tưởng kẻ mạnh, cưỡng chế pháp luật, tham lam bạc vàng, tinh thần tự phê bệnh hoạn, tìm tòi tiện nghi, thực dụng tối đa võ khí giết người. Đó là căn nguyên tình trạng của một tân chủng tộc da màu, mô phỏng theo người “ văn minh”, hiếu chiến, phiến loạn… |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 7th July 2025 - 04:56 PM |