![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
Tác giả
SAKURAZAWA NYOICHI (OHSAWA) DƯ TỤNG và NGẠN ÔN Dịch 1972 (NVTchỉnh sửa lần 1 17/2/2010) [b]HAI NGƯỜI THƯỢNG CỔ Du lịch sang ÂU TÂY (Jack et Mme Mitie en Occident) LỜI NÓI ĐẦU Tập sách này thuật lại chuyện phiêu lưu của hai người ngoại quốc du lịch các xứ Tây phương, do một ông vua gọi là “Văn Minh” cai trị, danh từ văn minh đối với họ nghĩa như chữ “Rừng Rú”. Trong hai người du khách, thì một người đàn ông 64 tuổi còn người đàn bà và là vợ 57 tuổi. Người đàn ông tên là Jack, người đàn bà tên là Mitie đều ở xứ “Thiên Quốc”. Từ nhiều thế kỷ nay, người Tây phương gọi nước họ là Thiên Quốc. nhưng dân bản xứ không biết đến danh từ ấy. Thiên Quốc là một xứ rất nhỏ bé, mất hút trong tận cùng đại dương, bị người Tây phương chinh phục, đến đô hộ và chia xẻ từ 80 năm nay. Ông Jack thì rất thông thạo phong tục và tiếng nói của người Tây phương, nhưng bà Mitie lại là người thủ cựu, chỉ biết nói tiếng mẹ đẻ mà thôi. Bà chưa hề khi nào ra khỏi hòn đảo, và là đô thị quê hương bà. Cuộc du lịch của hai người này gặp rất nhiều chuyện lạ và cảm động, còn nhiều hơn cuộc hành trình của Marco Polo ở Trung Hoa, hay là của Livingstone đi vào Trung tâm Phi Châu. Các bạn xem sẽ thấy nhiều điều bổ ích và rất thú vị. Nếu trong sách này có vài đoạn khó hiểu, phật ý, dễ ghét và khó chịu, đó không phải lỗi của tôi. Các bạn nên tìm hiểu cái “Tâm trạng cổ lổ” của hai người ngoại quốc ấy. Tôi cố gắng hết sức để chép lại cho đúng, các bạn muốn hiểu thấu, đó là công viêc của các bạn. Nhiều nhà bác học Tây phương đã xác định, có lẽ chìa khóa Thiên Quốc là ở đó. Như các bạn đã biết, có nhiều sách mới xuất bản, nhất là ở Pháp và Đức đã có bàn về cái chỗ cực đơn giản, tính tự nhiên, và cách “suy tưởng”, cả đến chỗ thần bí của cái “tâm trạng tối cổ ấy. Hình như “tâm trạng ấy” làm cho họ biết nhiều việc mà Tây phương không hề biết: Tiền kiếp, Nhân quả, Luân hồi, Mười hai giai đoạn của Linh hồn v.v… Nếu dụng cụ để nghiên cứu của chúng ta gọi là “khoa học” là tinh vi, và phân tích, nó hướng dẫn chúng ta càng ngày càng đến một thế giới phức tạp, nguyên tử và vi tế, thì bản năng trí tuệ của những người sở hữu cái “Tâm trạng tối cổ” gọi là “bất tài” ấy, lại hoàn toàn có thể trông thấy bằng mắt thường được và có tính tổng hợp.Các bạn không thể tưởng tượng được.Tâm lý của họ và tâm lý của chúng ta là hai thái cực. Tâm lý của chúng ta có tính cách miêu tả, cấp thời nhất định và luận lý, còn “Tâm lý cổ lổ” thì trừu tượng, tưởng tượng, vô định, hoặc Phật tính, (Đại thừa). Thật thế, đoạn sau đây tôi sẽ đề cập trở lại, ngôn ngữ của họ không biết đến thời gian, không số nhiều số ít, không có quán từ, không giống đực giống cái, ngôi thứ cũng không.Thường thường ngôn ngữ của họ không biết đến hoặc đồng hóa, phần chủ quan và khách quan. Họ rất lộn xộn trong tiếng “Có” và “Không” “Của tôi” và “Của anh”, “ của Chúng tôi” và “ của Các anh”. Có phải họ là Cộng sản không? Có lẽ có. Thật ra, tiếng nói này dành riêng cho dân cư ở một thế giới khác biệt, là thế giới vô tận, vô hạn, vô định, tuyệt đối, vĩnh cửu: Thiên Quốc. Nhưng có điều kỳ quái, và kinh dị nhất là tiếng “Dạ” của người Thiên Quốc. Nếu các bạn biếu một tiếng thịt bí tết cho một người Thiên Quốc đã ăn chay từ mấy ngàn năm, vì họ theo đạo Phật Giáo Đại Thừa, thì họ vẫn tiếp nhận một cách vui tươi, trong sạch, ngây thơ, chất phác, mặc dầu họ biết đấy là miếng thịt lấy trong xác chết của một con thú mà họ thương yêu như anh em ruột. Họ có nhăn mặt chút ít để cố gắng nuốt cho trôi miếng thịt, vì họ tự biết đã phạm giới tối cao của Đạo. Nhưng họ vẫn mỉm cười luôn luôn, thốt ra: “Ồ, ngon quá”, lại còn để lời cám ơn các bạn lắm nữa. Các bạn sẽ bảo: Chà láo quá! Nhưng đó là một cách lịch sự thông thường. Người xứ Thiên Quốc gặp cảnh ngộ nào cũng chịu đựng được tất cả, gặp việc khó khăn đến đâu họ cũng xem như việc vui thú, họ xem cái chết cũng như sự sống.Đó là thái độ của người Thiên quốc trước một sự gian nan thử thách. Sự phục tùng hoàn toàn vô điều kiện.Đó là tính thảo thuận tuyệt đối, sự trầm tĩnh trăm phần trăm của một học sinh hiền lành biết tuân theo, và ghi nhớ tât cả lời dạy của ông thầy, dù lời dạy ấy không thể hiểu thấu, hay là như cảnh một con chuột tàu hiền lành nằm trên bàn thí nghiệm, chịu đựng tất cả, chịu đựng hy sinh với bất kỳ giá nào. Nếu người xứ Thiên Quốc phải đóng một vai trò tử vì đạo, thì họ cũng nhận lãnh với một nụ cười vui tươi . Đó là sự mềm dẻo trừu tượng. Nếu các bạn cho thái độ đó là giả dối, thì các bạn hãy chỉ trích cái huyền học ấy, là cái phát minh ra tất cả mọi sự văn minh Á Đông, gồm có Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo, Thần đạo, Lão giáo, Hồi giáo, Khổng giáo, và những công trình mỹ thuật, văn chương, luân lý , văn hóa v.v… và các bạn phải đề xuất một cái gì để thay thế vào đó. Tất cả người Thiên Quốc sẽ hoan nghênh hết sức, và tuyệt đối phục tùng. Chính nhờ lễ phép, khiêm tốn, phục tùng ngây thơ ấy, mà tất cả dân tộc Á Phi đã sinh sống một cách thái bình và tự do suốt mấy ngàn năm, cho đến ngày bị nền văn minh Tây phương tràn tới cách đây độ trăm năm. Chính vì sự lễ phép, khiêm tốn, phục tùng, sự mềm dẻo của huyền bí ấy mà họ đã bị Tây phương chinh phục. Họ cam tâm để mặc kệ bị lệ thuộc như vậy. Nếu ngày nay có đôi việc tranh chấp về thuộc địa, đó là vì chúng ta đã quá lạm dụng hay lợi dụng hơi quá nhiều những đặc tính huyền bí của dân tộc Á Phi, mà không biết hoặc không hiểu, hay là không muốn hiểu tới cái “Tâm trạng cổ lổ” ấy. Nguyên lý vô song của huyền học ấy, xem bề ngoài rất đơn thuần, rất chất phác, nhưng sự thực thì rất sâu sắc, rất thực tế. Nó là một biện chứng pháp có lẽ uyên thâm nhất, và thực tế nhất. Biện chứng pháp của Hegel hay của Marx chỉ diễn dịch được đôi phần, hay một biến tấu trong biện chứng pháp của Viễn đông, một nhất nguyên luận có thể phân cực mà thôi. Sau khi nghe lời giải thích của ông Jack, tôi thấy có một Linh mục Cơ đốc cười và nói: “Biện chứng pháp nhất nguyên luận, một sự mâu thuẫn, ha! ha! ha! …” ông Jack rất buồn, không sao phấn khích được. Thật chán nản! Sau đó, Jack có đến tìm nhà tu sĩ ấy, với hy vọng gặp được một người Tây phương có thể hiểu được tâm trạng cổ lổ mà chưa một ai biết tới, hoặc ít kẻ thích. Ông Jack có đọc một cuốn sách của vị Linh mục ấy, và từ đó ông Jack mến phục vị Linh mục nhiều hơn. “ Tâm trạng cổ lổ” như đã trình bày trong bốn pho sách lớn của đại Triết gia Levy Bruhl, là cái tâm trạng chung của toàn dân Á Phi, hay của tất cả dân da màu. Hết thảy chủng tộc da màu có thể xem như là dân tộc đã từ nơi chôn rau cắt rốn ra đi phiêu lưu về miền Đông, bị ánh sáng hay chỗ mặt trời mọc quyến rũ, và tất cả người da trắng, lại còn phiêu lưu hơn nữa, lại đổ về phươngTây để tìm mặt trời lặn. Người Thiên Quốc tìm được một hòn đảo ở cuối cùng, rồi định cư tại đó. Dân Aztèque (Mễ Tây Cơ) và dân da đỏ là kẻ tiền phong của người Thiên quốc. Nói tóm lại, tôi chỉ muốn làm thông dịch viên trung thành của ông Jack và bà Mitie, để thuật lại, cho các bạn biết những chuyện ly kỳ của hai ông bà đã trải qua ở xứ rừng rú gọi là xứ “Văn minh”. Tôi cần thêm một hình dung từ cho tên ông Jack là: Thầy Phù Thủy. CHƯƠNG I Ăn cướp ở Ba Lê (Paris) Hai vợ chồng ông Jack đến Ba Lê hồi nửa đêm, đầu tháng ba Dương lịch. Từ sân bay Orly, hai ông bà phải đi về phi cảng Invalide ở trung tâm thành phố. Trời tối đen lại lạnh lắm, Phi cảng vắng vẻ buồn thiu. Không có ai đến đón cả, may đâu họ gặp được một chiếc taxi. Hai vợ chồng thuê đi đến đường Galvani. Tài xế đòi 1000 quan, lại thêm 100 quan tiền thưởng nữa, Ông Jack đã thường quen lối eo xách của các tài xế ở các đô thị lớn, nhất là ở Calcutta (Ấn độ) và Nairobi, cho rằng giá ấy là vừa phải, nhưng bà Mitie, tính thủ cựu nên rất phàn nàn, vì ở xứ của bà chỉ trả 10 quan cho xe Rikisyama, và 50 quan cho taxi, không kể đoạn đường xa hay gần. Thật vậy, bất kỳ đến hải cảng nào, họ luôn luôn có cảm tưởng xấu xa. Kỉ niệm buồn nhất là khi đến cơ quan hải quan nước Ấn độ, nước do người thừa kế Thánh Cam địa cai trị. Điều quá lạ lùng là khi vừa mới bước chân vào một nước hòa bình rộng lớn như thế mà đã thấy ngay phong khí đồi bại. Những công chức kể cả cảnh sát và kiểm soát viên hải quan của đại Cộng hòa Hồi Ấn, đều tống tiền người ngoại quốc như bọn ăn cướp, huống gì bọn tài xế và lao công vận tải. Vả lại, theo lời ông Jack, trong thế giới chỉ có nước Ấn Độ là nơi, mỗi khi muốn xin cho được một tờ chiếu khán nhập cảnh, lưu trú, hay xuất cảnh, là việc khó khăn nhất. Nếu thật như thế thì đó là một sự mâu thuẫn xấu xa, vì Ấn Độ là một xứ mến khách của Đức Phật. Nhưng Ấn Độ là một nước mới người thái cổ ấy nói họ sẽ tiến bộ và cải cách một ngày gần đây. Ở Châu Âu, Thụy Sĩ là những nước có tiếng hiếu khách và hào hiệp nhất thế giới mà cũng còn có các tệ đoan ấy nữa kia. Một viên chức hải quan Thụy Sĩ đã buộc chúng tôi trả 1.500 quan mỗi người. Tôi phải xuất 3.000 quan trả cho hai vợ chồng chúng tôi. Sau vài tuần lễ, chúng tôi qua Đức trở về và lần này họ chỉ đòi có 500 quan cho mỗi người. Rõ lạ lùng không? Người đồ đệ ông Jack ở đường Galvani đi vắng, hai ông bà phải đứng đợi một tiếng đồng hồ… không thấy chủ nhà về. Sau cùng ông Jack đi tìm một xe taxi trong đêm tối lạnh lẽo, để di chuyển hành trang đến một khách sạn cách đó độ 5, 6 trăm thước. Đêm đã khuya rất khó mà kiếm cho được xe, may thay lại gặp được một xe taxi, chịu chở hai ông bà và hành lý với giá là 300 quan. Khi đến khách sạn, đang ngồi trong một phòng nhỏ mà phải thuê với giá rất đắt, bà Mitie bỗng kêu vang lên, mặt mày tái mét: - Tôi bỏ quên cái xách tay của tôi trên xe rồi! Cả hai ông bà đều sửng sốt, giấy thông hành, tiền bạc, nữ trang (tất cả gia sản) đều trong đó cả. Khoảng hai giờ sáng, người tài xế trở lại, đem cái xách tay đến, vật hoàn nguyên chủ, ông Jack thưởng cho tài xế 3.000 quan và cảm ơn, một cách nồng nhiệt. Bà Mitie mừng chảy nước mắt, cũng ngỏ lời cảm tạ bằng tiếng Thiên Quốc, anh tài xể không hiểu gì cả, sung sướng và ngạc nhiên từ giã ra về. Hai người Thiên Quốc vui vẻ trở lại và kết luận rằng: - Luôn luôn có ÂM và có DƯƠNG, có tốt và có xấu, chỗ nào và ở cấp bực nào cũng thế. Ta không nên chỉ trích điều xấu, vì điều xấu chỉ là mặt trái của điều tốt. - Thật thế, nguyên lý vô song ÂM DƯƠNG của chúng ta cũng có giá trị ở Tây phương. Luôn đến cả xứ văn minh cũng thế! Hạnh phúc biết bao!… Nhưng người ta có thể nói lên được rằng: “Không còn kẻ ăn cướp nữa, không còn kẻ lương thiện” nữa chăng? - Sao lại không được, mình có biết đêm nay tôi thường nói là gì không? Nhờ bọn ăn cướp tài xế … - Và cũng nhờ bọn tài xế lương thiện … - Tư tưởng phi mâu thuẫn là một thị giác loạn sắc theo vô song nguyên lý … Phải chịu đựng điều xấu cũng như tốt, chết như sống, cái khó như cái dễ, với luôn luôn vui thích. Nếu người ta chỉ thấy một bên của sự vật thế là bệnh loạn sắc về tinh thần. Nếu người ta chỉ muốn tìm phía tốt của sự vật, thế là ngạo mạn, kiêu căng, độc tôn chủ nghĩa, tự kỷ trung tâm chủ nghĩa, nếu người ta muốn phá hủy cái gì mình không ưa thích, đó là điên. Muốn có sức khỏe, giàu có, tiện nghi, trí thức,… phải dấn thân vào nỗi khó khăn, vì rằng cái khuynh hướng, mạnh tự nhiên của chúng ta thuộc về cảm giác và cảm tình, tức là khát vọng về tiện nghi, giàu có, dễ dàng. - Và còn nào là nóng, rét, đói khát thường xuyên nữa? chính vì thế mà chúng ta rời bỏ xứ gọi là “Rừng rú” và những bạn hữu gọi là “Thái cổ” rất hòa bình, rất hiền từ, để đi tìm kẻ cướp, kẻ trộm ở các nước “Văn minh”. Nếu chúng ta không thấy bọn họ, té ra cuộc du hành của chúng ta hóa thành uổng phí thì giờ vô ích. [/b] CHƯƠNG II. NGUYÊN DO TÍNH HUNG BẠO TÂY PHƯƠNG Hai người Thiên Quốc, nhất là bà Mitie, rất ghê tởm việc sát sanh. Tín đồ Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo, Phật giáo v.v… ít nhất có 2, 3 trăm triệu người cũng không ưa sát sanh. Các bạn thấy những người ăn mày nghèo khó hay những bệnh nhân nan y ngồi ở các con đường phố lớn, dưới cơn nắng chang chang ở CALCUTTA (4 triệu dân), bắt những con rận trong áo quần của bọ, rồi phóng sinh. Dân Ấn Độ tránh đạp những con sâu con kiến, tránh uống nước, huống gì lại tận diệt loài vi trùng bằng các thứ thuốc độc hóa học mãnh liệt. Trong sự tôn trọng đời sống, họ còn nhiệt tâm hơn cả bác sĩ A. SCHWEITZER. Bác sĩ SCHWEITZER giết vi trùng không nghĩ gì đến lý thuyết của ông. Dân Ấn Độ còn ghê tởm sự mổ xẻ và cưa tay cắt chân, dù là cắt xẻ sơ sài cũng vậy. Họ không muốn thấy máu chảy, nhưng trong bệnh viện của SCHWEITZER ngày nào cũng có những cảnh như thế. Người Thiên Quốc thích bông hoa và cỏ hoang, họ có lập một trường dạy cắm hoa.Việc cắm hoa là một tôn giáo từ bi đối với giống mong manh và có kiếp sống ngắn ngủi. Tôn giáo này nhất thiết cấm không ai được cắt cành cây và lá cây. Vì thế, mỗi khi trông thấy những cánh hoa bày bán ở chợ hoặc để trong phòng khách, hoặc trong các tủ kiếng, hoặc cắm ở độc bình, thì bà Mitio rất xúc động đến rùng mình thở ra, bà nói rằng: “Ôi những đóa hoa khổ sở của tôi ơi, người ta đã cắt bẻ các con một cách tàn bạo như thế ư?”. Bà ta nói như đối với con ruột của bà vậy… Nhưng sự xúc động mãnh liệt nhất, cảm động nhất và ghê [/b] |
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
tởm sâu sắc nhất trong đời sống của họ, là khi thình lình vào một nhà thờ ở PARIS, trông thấy một thây ma trần truồng bị đâm thủng nhiều chỗ, và tay chân đều bị đóng đinh trên một cây chữ thập bằng gỗ.
Bà Mitie thất thần, bỏ chạy trốn rất mau. Thời thường bà đi rất chậm, đi chậm như các người đàn bà ở Thiên Quốc, còn chậm hơn cả trong những phim “NHẬT BẢN” nữa, nhưng trường hợp đặc biệt hôm ấy bà ta đi rất nhanh. - Bà nói Tôi thiết tưởng Chính đó là nguồn gốc của sự tàn bạo Tây phương tại Á Đông và Viễn Đông, từ việc sát hại người Trung Hoa trong trận Nha phiến chiến tranh, cho đến cuộc tàn sát 313.814 đàn bà và trẻ em vô tội và không có khí giới tại Quảng Đảo (Hiroshima) và Trường Kỳ( Nagasaki) do 2 quả bom nguyên tử đầu tiên.Đó là sự phản đối tự nhiên của 1 phụ nữ Thiên Quốc, sinh sống tại một xứ mấy ngàn năm chưa hề biết chiến tranh là gì, cho tới khi văn minh Tây phương tràn tới xâm chiếm, - Tâm lý độc ác làm sao! Trưng bày một xác chết, đóng đinh tay chân và đâm lủng … và cảnh ấy luôn luôn ở đâu cũng thấy …. Một sự phô trương lặp đi lặp lại thường xuyên và được xem miễn phí. - Đó là một sự phát minh của Âu Tây, chí như Thiên Chúa Giáo chính thống Đông Phương thì không hề có. - Nếu người ta tượng trưng Thiên Chúa Giáo bằng cách đó, thì việc người Tây Phương đi chiếm thuộc địa các nước trên hoàn cầu bằng võ lực là lẽ tất nhiên. Văn minh Tây Phương luôn luôn đẫm máu .Tất cả các xứ và tất cả các đảo nhỏ mà người da trắng đặt chân tới, đều hóa ra bãi chiến trường, mặc dù người dân bản xứ vốn tính hòa bình. - Mình nói đúng lắm. - Vậy chúng ta nên trở về nước, càng sớm càng hay, chứ đi du lịch làm chi nữa.Nhìn thấy thây ma, và những dân tộc tôn sùng thây ma ấy, tôi rất khó chịu. Mình thử nhìn mấy cành hoa nhỏ kia bị cắt xén một cách độc ác … - Tôi hiểu lắm, mình là một giáo sư dạy cắm hoa, nên nói có lý lắm. Nhưng chúng ta nên tìm thấy cái tốt, chớ nên chuyên tìm cái xấu. - Tôi không phải chỉ trích gì cả. Tôi chỉ nói rằng, tôi không thể trông thấy mãi chuyện đó khắp nơi, và ngày nào cũng đều thấy. - Tôi hiểu mình lắm, mình không bao giờ chỉ trích, vậy chúng ta nên từ bỏ chỗ này mà đi. Một hôm, đi qua trước nhà thờ ở tỉnh Fribourg nước Đức, hai người không dám vào. Thật đau khổ khi nhìn thấy cảnh tang thương hư nát vì bom đạn của nhà thờ. Chỉ đứng đằng xa, hai người đưa mắt nhìn nhà thờ một cách lặng lẽ. Bà Mitie nói thầm: - Mấy chiếc xe hơi sang trọng đậu đằng kia là của ai vậy? Có phải ở từ xa đến chăng? Còn du khách có phải người ngoại quốc cả chăng? - Phải, phải. Nhiều người Mỹ giàu có lắm. Mỗi chiếc xe giá đến hàng triệu quan. Mình muốn có một chiếc không? - Chắc chúng ta không đời nào có được. Mình không mua đâu, tôi biết, thôi không nên thảo luận chuyện đó nữa. Nhưng, tôi tự hỏi, tại sao họ lại đến đây? Họ đến viếng nhà thờ để làm gì? Có phải để chiêm ngưỡng vẻ đẹp chăng? Nhưng vẻ đẹp này buồn tẻ quá, thô bạo quá, lạt lẽo quá, và có lẽ ngạo nghễ quá. Hay đến để xem cảnh đồ sộ chăng? Nhưng ở Hoa kỳ có chán vạn cảnh nhà nguy nga to lớn gấp bội cảnh nhà thờ kia. Vậy họ đến đây để làm gì? Để tiêu khiển chăng? - Đó hoàn toàn chỉ vì hiếu kỳ thôi, có lẻ để giết thì giờ, và xài tiền của. Thế nào trong đó cũng có vài cớ chứ. - Nếu chỉ để giết thời giờ, hoặc để xài của, thì đáng buồn và đáng tiếc cho họ lắm. - A, hãy xem kìa, có người đã đi ra đó… mình thử vào xem họ đã làm gì trong đó. - Không, không, tôi không dám vào, … trong ấy thế nào cũng có thây ma. - Phải, nhưng họ đã làm gì trong ấy? - Họ cầu nguyện cho Hòa bình và Tự do. - Không, đâu phải là cầu nguyện, chỉ là nài xin ,theo nguyên lý vô song của chúng ta, sự cầu nguyện phải là một trầm tư mặc tưởng về trật tự vũ trụ ÂM DƯƠNG,về sự biến dịch và bất dịch, về lòng biết ơn và thân phận con người trong vũ trụ vô tận… để cho trí tuệ của chúng ta được phát triển, hầu có thể trông thấu qua tất cả thời gian vô cùng và không gian vô tận, tuyệt đối, vượt ra ngoài thế giới hữu hạn, và tương đối này, khiến cho chúng ta được hưởng một cảnh an vui vĩnh viễn, và tình thương yêu vô hạn. - Nhưng ở đây lại trái hẳn, Người ta chỉ cần cái hạnh phúc cấp thời của thế giới hữu hạn, tạm bợ lừa dối này … - Tóm lại, đó là một cách nài xin, khẩn cầu, hay là một mối dục vọng quá mãnh liệt. - Té ra đi cầu khẩn một cái quý hóa nhất với cái xác chết. Thật là buồn chán, và đáng thương thay! … Chứ họ không hiểu như thế sao? Không có lẽ …Họ là một dân tộc gọi là “văn minh” và họ có khoa học tính? - Nhưng đây là lúc đúng nhất để họ quay lưng với “văn minh” hay “khoa học”. Họ tạm quên một lúc cái văn minh khoa học của họ, để hồi tỉnh lại ở trong cái vũ trụ vô tận, tuyệt đối, trường cừu, là nơi mà không gian, thời gian không thể làm trở ngại được, vả lại nơi chướng ngại ấy có chăng cũng chỉ là việc tưởng tượng. - Thế cũng như các thợ lặn của nước chúng ta chứ gì? Họ lặn xuống tận đáy bể sâu và tối tăm để mò tìm ngọc trai, họ lặn rồi thỉnh thoảng nổi lên mặt nước để thở không khí trong sạch và vô tận … - Ừ, phải rồi, rất tiếc là không có một ai chịu khó dạy bảo cho họ biết cách tự do vô tận, và công bằng tuyệt đối ấy, cách thở không khí trong sạch, để chỉ vẻ cho họ biết rằng chính ở đó người ta mới tìm thấy cảnh tự do vô tận, sự công bằng tuyệt đối, và sự vui thú vĩnh cửu ở đời - Sao? Không có ai cả à? Không có ai thuyết giáo cả sao? Khó tin quá! - Chắc hẳn cũng có. Nhưng không có ai biết, và truyền bá về cơ cấu vũ trụ. Sự liên hệ của cái vô tận này với thế giới hữu hạn là một điểm đơn thuần kỷ hà trừu tượng của cái vô tận. Họ tưởng rằng điểm trừu tượng, tưởng tượng kỷ hà ở riêng ngoài cái vô tận. Nếu một điểm kỷ hà có thể có ngoài cái vô tận, thì cái vô tận này chỉ là một điểm hữu hạn khác, hay là vô hiện hữu. -Vậy thì các nhà truyền đạo Cơ Đốc giáo của Châu Âu đều chủ trương nhị nguyên luận chăng? - Đúng thế, họ cho rằng Thượng đế và ma quỷ, thiện và ác là hai thái cực tương phản vĩnh cửu. Đó là mối tranh luận nhị nguyên không khi nào chấm dứt. Họ cũng biết rằng hai đầu mối một nam châm hay là kiềm tính (Alcelinité) và thoan tính (Acidiete), chỉ là hai cách phát biểu của một cái thiên nhiên …. Nhưng họ không hiểu cái đồng nhất của điều thiện vả điều ác. Ấy là một tâm lý rất khó hiểu. Trí phán đoán của họ từ giai đoạn thứ ba đến giai đoạn thứ bảy đều bị che lấp. - Vậy thì nên lấy Nhất nguyên luận, Vô Song Nguyên Lý của chúng ta, mà bày dạy cho họ. Đó là họ bị bệnh thần kinh, mình nên chữa trị cho họ. - Như mình đã biết, tôi cố gắng chỉ vẽ chỗ đó hết sức từ 35 năm nay. Cũng vì vậy mà mình đã bán hết tất cả châu báu của mình, để cung cấp cho tôi có đủ phương tiện qua lại Âu Châu hơn 10 lần , để theo đuổi sứ mệnh Nhất Nguyên của tôi . Và đã 21 năm nay, đây là lần đầu tiên tôi quay lại Âu Châu , nhưng tôi đã già, bạn bè cũng không còn nữa …. Và cũng không có một thanh niên khoa học nào chú ý đến cả! Chao ôi! - Nhưng, mình không có lý do nào đến thất vọng cũng không đến phải từ bỏ …. Mình nên tiếp tục sứ mạng Nhất Nguyên của mình, cái đó rất đơn giản, rất dễ hiểu, nhất là rất thực tế… là Vô Song Nguyên Lý của chúng ta …. Tại sao từ mấy hôm đến đây, mình có vẻ buồn lắm vậy? Mình đã sống trở lại giữa thành phố Paris, và giữa Âu Châu yêu mến của mình rồi kia mà. - Mình nói đúng, tôi không nên buồn nữa, nhưng vẫn có cái gì nặng nề để trong óc tôi, tôi cố gắng quên nó đi …. Nhưng có nhiều lúc nỗi buồn ấy lại trở lại. Chính khi nào tôi đứng trước một nhà thờ, hay đứng trước một người mộ Đạo đang cầu nguyện trước bàn thờ, thì nỗi buồn ấy trở nên một nỗi đau khổ, như khi mình đứng trước cái thây ma khủng khiếp ấy … Trông thấy một người Thiên Quốc trốn tránh cái chỗ mà người Âu Châu lưu lại để cầu nguyện …. Tôi không biết giải thích làm sao cho mình rõ về tâm trạng “Văn Minh” ấy, vì sao tôi đã bất lực không thể giải thích cái “tâm trạng Thái Cổ” của chúng ta cho các dân tộc mộ Đạo hay khoa học, đồng thời là dân rất hiền hậu, rất can đảm, và vì sao tôi… - Mình không còn thông cảm với trí phán đoán cao siêu của mình rồi sao? - Mình tưởng trí phán đoán cao siêu của tôi bị mờ ám rồi sao? Lúc ấy đúng lúc chuông nhà thờ đánh 12 giờ, vang dội trên không trung cao vút. - Ồ, tiếng chuông rõ êm tai! - Chính là tiếng chuông mà chúng ta đã nghe khi sáng tại khách sạn. - Ồ nghe êm tai quá, có người rung chuông chăng? - Không có, máy cả. Ở đây chẳng phải như ở xứ Nhất Nguyên của chúng ta là nơi nhân công rất rẻ. - Giờ nào chuông cũng đánh chăng? - Cứ đúng 15 phút thì chuông đánh. - Như thế là đồng hồ chứ gì? - Chính thế. - À bây giờ tôi mới hiểu tại sao người ta không đến nhà thờ đúng giờ. - Tại sao? - Mình biết chứ, ở xứ mình người ta đánh chuông giờ Dần (con cọp) (4 giờ sáng). Người ta thức dậy khi 3 giờ, đến giờ Dần người ta mới bắt đầu làm công việc hàng ngày, còn tu sĩ Phật giáo thì cầu nguyện, nghĩa là trầm tư mặc tưởng về sự cấu tạo của vũ trụ. Đến giờ con Thỏ (6 giờ) khi nghe tiếng đại hồng chung đánh, người ta vội vã đi đến chùa. Ồ tiếng chuông lớn ấy êm tai làm sao!…. Tiếng chuông ngân rền như thúc giục chúng ta, như giọng âu yếm của người mẹ hiền. Nếu chúng ta bận việc không đến nhà thờ được thì tiếng chuông ấy như đưa chúng ta đến cõi vũ trụ vô biên, cảnh tự do vô tận, chỗ công lý tuyệt đối và mối hạnh phúc vĩnh cửu. - Thật vậy, tiếng chuông của họ và tiếng chuông của chúng ta hoàn toàn khác nhau xa. - Tiếng chuông thân yêu của chúng ta, đánh thức chúng ta giữa cái vô tận, còn tiếng chuông rung ở đây làm ta đắm chìm trong cõi hữu hạn vội vã, bó buộc, lăn lộn với mục đích làm cho ra tiền. Ở xứ ta, chuông đánh để mở tri giác cho chúng ta vui hưởng sự cao cả của vũ trụ vô tận và vĩnh viễn, còn tiếng chuông ở đây, lại xiềng xích chúng ta trong thế giới hữu hạn, vây kín trong bức tường sắt gọi là “thời gian” và “không gian”.… Thật đáng buồn! - Vậy ai đã phát minh ra cái chuông ấy? Ở đây người ta thường nói “thì giờ là tiền bạc” Thế thì tiền bạc phát minh ra chứ gì? - Chúng ta đang ở địa ngục chăng? - Đúng lắm, ở đây là đế quốc của tiền bạc. Không có tiền thì chẳng làm gì được. Người ta không thể sống, cũng như không thể thở không khí tự do, nếu không có tiền…. Vậy thì chúng ta làm cho có một ít tiền. - Chúng ta hãy trở về Thiên Quốc đi. Ở ta mọi người có thể sống ngoài những bức tường sắt ấy. Người ta có thể thở không khí trong sạch mà không tốn kém gì cả. Người ta có thể ăn những cây cỏ thiên nhiên vô tận, không có bón phân hóa học, những lá cây ngon lành, mà cho đến ăn rễ cây Bồ Công Anh ... - Thế họ không biết ÂM DƯƠNG sao? Hai năng lực tương phản ấy, cấu tạo, kích thích, phá hủy và tái tạo tất cả cái gì ở thế giới này. Ly tâm lực và cầu tâm lực là nguồn gốc tất cả tinh lực. Nhưng mình há không thường nói cho tôi biết, cái khí cụ mạnh nhất trong những hiện tượng thiên nhiên gọi là “vật lý học”. Cái này đã phân biệt hai năng lực tương phản ấy làm căn bản cho tất cả những vật hiện hữu trong vũ trụ, hơn nữa nó cần tìm ra sự mâu thuẫn hoặc sự tương phản ở tất cả cấp bậc. - Nhưng có điều người ta chưa nhận ra hai cái năng lực căn bản ấy như hai bàn tay sáng tạo, chỉ do một bộ óc, tức là cái vô tận. Họ đều là nhị nguyên luận từ ngày lọt lòng mẹ. - Có phải họ đều mắc bệnh loạn sắc không? - Họ cãi nhau, chia ra làm hai khối tương phản, một bên duy vật một bên duy tâm. Sự tranh luận ấy rất sôi nổi và rất lâu. Thật là khốc liệt và khổ não.Bác sĩ CARREL, bạn thân của ta, là một nạn nhân của cuộc tranh luận ấy. - Vậy thì người ta không biết ý nghĩa chính của cây thập tự giá mà chúng ta trông thấy khắp nơi tận trong miền sơn cước xa xăm, hiu quạnh hoặc ở các đô thị lớn, (như ở Fribourg), hoặc ở các thôn xóm nhỏ nghèo khó, trong những phòng khách, trong những khách sạn … nhưng thập tự giá được xem như một vật phụ tùng chăng? Người ta lại không biết rằng, cây thập tự giá ấy là biểu hiện của hai năng lực tương phản của cái vô cực, tuyệt đối sao? Người ta chỉ giữ lại cái hình ảnh thôi, vì sao vậy? Có phải vì thương xót hay vì ám thị mà họ đương chuẩn bị đi đến một cứu cánh tương tự chăng? - Có lẽ người ta quên rồi. - Vậy thì mình nên truyền bá lý thuyết Nhất Nguyên luận, là cái rất hữu ích, rất thích thú, mà nhất là rất thực tiễn. - Như mình đã biết, tôi đã truyền ra từ 35 năm nay, nhưng họ không hiểu gì cả. Vì thế tôi quá buồn. - Nhưng mình có nói với tôi rằng, hiện có hàng ngàn y sĩ Pháp và Đức đã nghiên cứu môn châm chích theo sách của mình, và họ đã đem áp dụng, rằng sách của mình cũng đã bán được hết.… - Thật thế. Nhưng tôi lầm. Họ đã nghiên cứu nền cựu y thuật ngoại quốc một cách rất lạ lùng tỉ mỉ và cố chấp, mà họ không chú trọng gì đến lý thuyết nhất nguyên luận có thể phân cực được. - Đó có phải là một bệnh thần kinh hay duy tâm chăng? Rõ bệnh trầm trọng. Tại sao người tạ không chú trọng đến lý thuyết? Mình thường nói rằng lý thuyết không thực hành thì vô ích, mà thực hành không lý thuyết thì nguy hiểm. Thế là đã giao cái súng đại liên cho một trẻ con ngu dại, chính mình phải chịu trách nhiệm … - Chính cái đó đã làm cho tôi băn khoăn. Tôi không hiểu được cái tâm trạng của người “Văn Minh” chúng ta còn ngây thơ cổ hủ quá chăng? - Chúng ta đã thấy thây ma và cây thập tự giá treo khắp nơi và rất nhiều trong các nhà thờ. Nhà thờ là một lâu đài quan trọng nhất của bất kỳ đô thị hay thôn xóm nào. Chúng ta đã chú ý đầu tiên, và thấp thoáng đằng xa khi bọn mình lần bước đến … và những nhà thờ với cây thập tự giá ấy, hồi xưa ít nhất là dùng làm trung tâm sinh hoạt của thôn xã và trung tâm giáo dục. Những Linh Mục được xem như người hướng đạo của nhân dân. Theo như người mọi rợ Tây phương, thì Thiên Chúa giáo là một trường học thuộc địa, để giáo huấn về việc đã tìm ra được vũ trụ, do các bậc hiền triết Đông phương nghĩ ra. Tại sao không thể truyền bá trở lại cái nhất nguyên tận gốc của chúng ta để tránh sự hiểu lầm? Bây giờ mình đến đây là chỉ có thế. Cũng vì cái sứ mạng ấy, mà tôi phải bán tất cả châu báu |
|
|
![]()
Bài viết
#3
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
của tôi. Nhưng không sao, việc đó xứng đáng lắm. Người ta sẽ tìm lại những ngọc trai ấy, ở dưới biển có vô số.
- Hai vợ chồng vừa đi vừa bàn tán với nhau như thế, thì cũng vừa đến trước một tòa lâu đài: Trường Đại Học FRIBOURG. Hai vợ chồng ngừng lại, rất nhiều sinh viên đi qua. Ông Jack đứng nhìn rất lâu những chữ lớn mạ vàng ở trên lâu đài. DIE WAHRHEIT WIRD EUCH MACHEN FREI - Mình ngắm gì đây? Những chữ ấy nghĩa là gì? Nói cho tôi biết với. Ông Jack không trả lời. Ông ngồi yên lặng trên một ghế băng cứ chăm chăm nhìn những dòng chữ mạ vàng ấy. DIE WAHRHEIT WIRD EUCH MACHEN FREI - Mình không hiểu những chữ Đức ấy chăng? Bà Mitie nói, ông Jack vẫn yên lặng chăm chú nhìn dòng chữ. - Đó là một câu có nghĩa: “Sự thật sẽ làm cho bạn được tự do” hay là “Sự thật sẽ cho bạn tất cả tự do”. - Hay lắm, hay lắm, đó là điều mà mình thường tâm niệm. Những chữ đó họ đã chạm khắc và thiếp vàng, mình nên ghi vào tâm não, ồ, xin lỗi … - Đối với tôi, câu nói có hai ẩn ý, thật khó mà giải thích được. 1. Đối với người “Văn Minh” Tây phương, sự thật nghĩa là gì? 2. Vì sao người ta dạy điều trái sự thật trong tòa lâu đài đồ sộ này? Chúng ta thử bàn đến điều bí ẩn này; theo trí phán đoán cao siêu của chúng ta thì chân lý chỉ có thể duy nhất, vĩnh viễn, vô tận. Nói tóm lại, đó là sự cấu tạo của vũ trụ, nguồn gốc tất cả cuộc đời (Sinh khí, sinh mạng và dung mạo). Vậy là một bộ ba đó là đối với người chỉ có một bộ óc phán đoán kém, vì chỗ phán đoán cao siêu bị mờ ám đi, những nhà thuyết giáo đầu tiên, Tây phương đem truyền cái chân lý của Viễn đông đã tìm được ấy, phải bắt buộc giải thích một cách bóng bẩy nghĩa là bằng một ngôn ngữ từ tốn, dễ cảm của giai đoạn hai trong sự phán đoán, như Thần linh, Cha và con (l’Ésprit, le Père, et le Fils). Và những kẻ truyền ngôn vụng về ấy, cho rằng những cái đó như ba hình thức tuyệt đối khác nhau, đáng lẽ phải xem như ba hình thức của một chân lý duy nhất mới phải. Đó là nguyên do của tất cả mọi cái đau đớn, khốn khổ, và tội lỗi … - Nếu chân lý không được duy nhất, vô tận, tuyệt đối, thì không phải là chân lý nữa. Nếu nó phải phân chia ra, thế là bởi “sự kiện” hữu hạn do thời gian và không gian làm ranh giới. Người ta có thể định nghĩa nó bằng ba chữ C. G. S (centimètre, gramma, seconde) (1phân, 1 lượng,1 giây) chỉ có giá trị trong thế giới tương đối, hữu hạn và tạm bợ. Nhưng người ta không thể định nghĩa cái vô tận, cái tuyệt đối, cái vĩnh viễn với khí cụ C. G. S ấy được. Thí dụ: Ký ức, tư tưởng, tự do, công bằng, lạc thú, tối cao, trí tưởng tượng, lòng ham muốn.v.v… và v.v…. Như vậy “DIE WISSENSCHAFT”. Khoa học dựa trên cái khí cụ duy nhất C. G. S chỉ có thể nghiên cứu những sự vật, hữu hạn, tương đối và tạm thời, nghĩa là sự trái ngược của chân lý. Nếu những ai nghiên cứu về môn văn hóa mà chưa dùng được cái khí cụ C.G.S này thì cố gắng du nhập nó vào càng sớm, càng tốt. Trường đại học thật ra chỉ là phản ảnh của thế giới. Cần nên xây dựng 1 nền khoa học chân chính để có thể nghiên cứu tất cả khoa học “C. G. S” và cả sự cấu tạo vũ trụ nữa. Không nên phủ nhận sự cấu tạo biện chứng của vũ trụ, duy vật và duy tâm, và trước tiên nên nghiên cứu duy tâm do sự cấu tạo của vũ trụ, rồi sau đó mới nghiên cứu đến duy vật do “C. G. S”. - Đời xưa người ta đã chủ trương như vậy. Nhưng từ một vài thế kỷ nay người ta bỏ hẳn không còn nghiên cứu sự cấu tạo vũ trụ nữa. Tại sao vậy? Đó lại là một ẩn ý khác nữa. - Tôi hiểu rồi, nó rất đơn giản. - Tôi biết rồi, thật là giản dị, vì người Tây phương càng ngày càng trở nên Dương (bệnh cận thị và loạn sắc) chỉ vì họ ăn uống bậy bạ. - Phải, đúng rồi. Nhưng ai là kẻ chịu trách nhiệm tất cả cái ấy? - Đó là điều khó hiểu thứ tư. - Mình biết chứ. Đó là những kẻ truyền giáo Viễn Đông ở Tây phương, những người truyền giáo thành ra kẻ chài lưới phiêu lưu, không trổng tỉa, những kẻ không cày bừa, không trồng tỉa theo đức tình kiên nhẫn của họ, thì thành ra tính cảm giác tinh tế, rồi dần dần trở nên vô cảm giác, đơn thuần, thô kệch, bạo dạn và cuối cùng họ sinh ra keo kiệt và tàn bạo. Cho đến những kẻ ăn thịt thú vật cũng đều như thế. Sinh lý học là căn bản của tâm lý học mà cách dưỡng sinh lại là gốc nguồn của sinh lý. Thượng tầng cơ sở gọi là tâm lý học phải chú trọng nghiên cứu các căn nguyên sự cấu tạo, phát triển và cải thiện bộ não phán đoán như trong triết học Vedanta, Phật Giáo, Lão Giáo…Ở Viễn Đông người ta đã thực hiện cái đó hoàn toàn, tỉ mỉ và vững bền từ mấy ngàn năm rồi. Mình đã có nói, ở Âu châu có một vài nhà tư tưởng cô lập, như các ông: ALEXIS CARREL, PAUL CARTON, AUGUSTE LUMIERE, LEON BINET v.v… đã bắt đầu nghiên cứu về sự phán đoán. - Nhưng tại sao ở Tây phương lại có sự chậm trễ lạ lùng như thế? Tại sao phải quay trở lại thời ngàn xưa. Trong khi tìm cái chân lý nguyên thủy? Ở Tây phương không có một Đức Phật, một Dê du, một Nagarjuna, một Asanga, một Lão Tử, một Tôn Tử nào cả sao? Thật là khó hiểu và khó tin! Và sự biến cải của Hy Lạp, La Mã, Âu Châu và giáo lý của Dê du đã chứng tỏ trong lịch sử của các dân tộc Tây phương, từ trang đầu đến trang cuối. Sự biến cải này đầy dẫy những việc tàn sát, kinh doanh, sát nhân, giết chóc, nghèo đói và đế quốc suy bại. Cảnh tượng ấy càng ngày càng gia tăng. Hiện thời tất cả nhân loại đang lo lắng kinh khủng về mối đe dọa bom nguyên tử …. Tận thế sắp đến nơi. - Vì sao có sự thoái hóa? Mình không nói rõ cho tôi biết … - Ừ, nhưng tôi còn nói tiếp. Những người “văn minh” Tây phương thực ra có phải xảo trá nhất trên thế giới, và tàn bạo nhất như trong lịch sử và tin tức hàng ngày đã cho ta biết chăng? Trong thâm tâm của họ lại không có một mảy may nào lòng nhân từ và tinh tế chăng? Ít nhất cũng có chút lương tri chứ? Trong trường hợp đó, một ngày kia, sớm muộn gì rồi ai cũng sẽ có đâm chồi nở hoa phát triển ra chứ. Nếu không thể, tất nhiên sẽ có ngày tận thế, như ở Tây phương người ta thường nói. Họ đã có nhiều tân phát minh lắm! nhưng tất cả những điều phát minh ấy, chỉ nhắm vào mục đích tiện nghi, kinh tế, khoái lạc, hoặc bạo lực mà thôi. Nói tóm lại, tất cả đều do trí phán đoán về giai đoạn thứ hai, hay là giai đoạn thứ ba (cảm giác hoặc cảm tình phát sinh, chứ không phải cốt để cho hạnh phúc vĩnh viễn, cũng chẳng phải cho tự do vô biên, huống gì cho nhân loại bị đe dọa. Ta chỉ liếc mắt nhìn bảng danh sách những người được giải thưởng NOBEL, thì biết lấy tất cả những việc phát minh chỉ dành riêng cho hạnh phúc phù vân ,tự do hữu hạn, nghĩa là cải thiện lời nói để phụng sự cho bạo lực hay là một lời từ chương vô ích. - Nhưng cũng còn một phần tử tinh anh, như MATGIOL GUENON, TYNHHEE và nhiều đồ đệ của GANDHI đã cố gắng du nhập quan niệm về vũ trụ và cách suy tưởng của Viễn Đông. - Phải, nhưng họ nào có hiểu Vô song nguyên lý là căn bản của tất cả triết lý, tất cả khoa học và tất cả văn minh Viễn Đông. Nếu có một số ngưởi rất ít biết tới, họ cũng không sinh hoạt hằng ngày, mà họ cũng không thực hành tới. Mình hẳn còn nhớ, có một người Pháp tác giả một quyển sách về Thiền tông, ông ta tuyên bố: Giáo lý ấy rất hay, tôi chỉ nghiên cứu nó về phương diện tâm lý. Còn căn bản vật lý học của Thiền tông tôi không thích. Hoặc là họ thuyết minh ra một cách sai lầm, coi nó như một thuật thần bí, hay là một tôn giáo. - Sự thuyết minh một cách sai lạc đi, là một ngụy trang để che dấu cái hoàn toàn ngu si. - Và ngu si là kém hiểu biết, tức là trí phán đoán bị che bịt, hay là sự phán đoán ấy bị mờ ám ngăn cản ta không thấy được toàn diện mặt thực của vũ trụ, và định vị trí ta ở cõi trần thế tương đối, hữu hạn, cực nhỏ, và tính cách tự kỷ. Sự ngu si chính là không biết đến cách cấu tạo của vũ trụ. Và sự lầm lỗi về thuyết minh là tự đầu độc, hay là tự phụ ngộ đạo của người ngu si, nếu không là người theo nhị nguyên. Thật tôi chẳng bao giờ lấy làm ngạc nhiên và thất vọng như thế. - Phải lắm, tôi nhớ lại vẻ buồn bã của mình hôm ấy rồi. - Vì sao lại bào chữa một hành vi và thần thánh hóa cái đó ?? Người ta e sợ khía cạnh giả tâm của lý thuyết, người ta cần một cái mặt nạ để che đậy một sự hoàn toàn ngu si. Do là một sự trốn tránh, kiêu căng, hay ngạo mạn cũng như sự im lặng. - Chính dân tộc theo thuyết nhị nguyên thường hay sợ sệt những người theo nhị nguyên thuyết hay sợ sệt từ khi mới hiện bào thai. Và tất cả những ai tự xưng “tín đồ” , “hiếu đạo” hay “thần bí”. Kỳ thực trong thâm tâm đều là người theo thuyết nhị nguyên giả dạng thông thái, lý trí, và ngạo mạn. - Dù thế nào nữa, chúng ta cần phải giải thích rõ hơn. - Đành rồi, chúng ta cố gắng làm cho được. Nhưng còn bao nỗi khó khăn phải đương đầu vượt qua. - Nhưng mình nói rằng, chỉ có thất bại đau đớn, và thất vọng, người ta mới được một bài học. - Vậy thì mình là một người giảng đạo cho tôi sao? - Không phải, chỉ là một cái máy nói thôi. - A ……DIE WHARHEIT WIRD EUCH DACHEN FREI. CHƯƠNG III ĐIỀU MÊ TÍN TRONG RỪNG RÚ GỌI LÀ “VĂN MINH” THỊT Bà Thái Cổ, mỗi khi vào nhà thờ, lại trông thấy một thây ma bị đâm thủng bên hông, và hai tay hai chân bị đóng trên cây thập tự giá bằng gỗ, sinh ra cảm xúc, nên quyết định không đi vảo nơi ấy nữa. Nhưng một hôm, bà vào trong chợ, bà lại ngạc nhiên trông thấy hằng chục cái đầu heo cạo sạch lông và nhiểu cái chân nhỏ, giống như chân trẻ con mới sinh, lại rất nhiều hàng chả, hàng thịt, hàng bán cá. - Bà nói: Tại sao có nhiều hàng bán thịt, chả, và tại sao rất ít hàng bán rau thịt như thế? Ở tại nước của bà, ngày nào bà cũng thích đi chợ. Ở đó, chợ bày bán các thứ rau quả, sản xuất theo tửng mùa, làm bà cảm thấy vui sướng. Hàng ngày đi chợ mua hoa quả là một bổn phận rất thích thú. Nhưng bây giờ, ở đây, bà rất ngại ngùng khi đi chợ, vì thấy những thây thú vật phơi bày ra khắp chợ, xem rất khó chịu. - Vì sao người ta ăn rất nhiều thịt như vậy? - Chỉ vì không có nhiều rau quả. - Thì tại sao không trồng rau nhiều lên? - Ở một xứ quá Âm, người ta không trồng được nhiều thảo mộc, mình xem ở đây rất ít thảo mộc, còn ở bên ta thì rất nhiều. - Hàng trăm thứ phải không? -Phải, đúng thế, có lẽ ở xứ ta có hàng ngàn vật thực, (thú vật và thảo mộc) kể cả cỏ hoang và rong dưới sông hay rong biển … Ăn thật ngon. - Hạnh phúc của “núi”, hạnh phúc của “thôn dã”, hạnh phúc của “bể” và hạnh phúc của “sông ngòi”. Này những rong biển rất quý hóa, nào Okitumo” và “Hetumo”, Aonosi”, “Hiziki” và “Isige”…. - Lại có hàng trăm thứ cá nữa… - Nhưng thỉnh thoảng chúng ta ăn một ít cá, thì cũng là kẻ ăn xác chết rồi ạ.? - Phải, đúng thế thì chúng ta không nên trách người “văn minh” ăn xác chết. - Thật thế, nếu trọn đời chúng ta chỉ ăn một con tôm nhỏ, chúng ta cũng không trách những người ăn một con voi. Nếu trọn đời chúng ta chỉ có một lần vô tình sát hại một côn trùng nhỏ, một con muỗi, thế cũng là kẻ “sát sanh”, chúng ta không có quyền, chỉ trích những kẻ khác là “sát nhân”. Không nên oán ghét những kẻ ăn thịt, con người được tự do, muốn làm gì thì làm. Con người có thể ăn chay hay ăn thịt, tùy sở thích hay tuỳ hoàn cảnh. Nhưng phải có một vài giới hạn. Theo thuyết Vô song nguyên lý của chúng ta, người ta có thể làm- hay nói phải làm thì đúng hơn suốt đời tùy sức muốn làm gì thì làm. Nhưng phải tránh lạm dụng, hai chữ tự do, rồi trở thành kẻ hà tiện hay mê tín. Người ta phải có lý luận. - Nhưng khoan! Có phải ở đây ăn nhiều thịt chỉ vì mê tín không? Có cần ăn như thế không? Ở xứ khí hậu lạnh này người ta không thể ăn thịt được chăng? - Được lắm chứ, vả chăng mình cũng biết rằng nhiều thú vật chỉ ăn hoa quả, về mùa đông chúng chỉ ăn cây cỏ khô và nước thôi. Kìa những loài chim ở trên trời, và loài thỏ trong rừng ở miền núi non phủ tuyết chúng đều sống như thế cả. - Nói về sinh vật học, con người hơn được thú vật là nhờ có trí thông minh, thể chất, xã hội tính, lý tưởng và năng lực suy xét. Tính cách thích ứng của con người càng rộng hơn, tóm lại, chính tính thích ứng vô tận ấy làm cho ta có sự tự do vô biên. Những người bệnh nặng về bộ tiêu hóa, trí phán đoán ở giai đoạn cảm giác, tình cảm, trí tuệ, xã hội tính, và tư tưởng, đau cả về cơ thể và tinh thần. Họ đã đến giai đoạn giữa bệnh về cơ thể và tinh thần: bệnh biến ứng. Chúng ta vẫn tự do kiêng hoặc ăn những loại thực phẩm nào tùy thích. Chúng ta có tự do vô tận, nếu không là hoàn toàn. Nếu chúng ta không từ bỏ được một cái gì, hay là nếu về mặt vật chất, tâm trí hoặc tinh thần mà chúng ta cũng không chịu đựng được cái gì đó, thế là triệu chứng có bệnh. Chúng ta đã mắc một bệnh về thể chất hay tinh thần khá nặng rồi đó. Nhưng sinh lý học là căn bản của tâm lý học, tất cả bệnh tâm lý hoặc bệnh tinh thần chỉ là một chuyển hóa của bệnh cơ thể. Bệnh này có thể phân tích như bệnh vật chất. Nhưng chúng ta vốn có sẵn sự thích ứng vô tận. Nếu ngay từ lúc ban đầu chúng ta đã ở vào một hoàn cảnh nào rồi, thì chúng ta có thể quen với tất cả các hoàn cảnh sinh vật, xã hội, kinh tế, hoặc lý tưởng ấy. Đấy đời sống nó phức tạp rõ ràng như thế. Thật lạ là chúng ta có lắm thói quen trẻ con, có khi đụng chạm với kẻ không cùng một hoàn cảnh, truyền thống của chúng ta! Chúng ta uống sữa như đứa bé mới đẻ chưa mọc răng, tranh chấp hay bàn cãi lăng nhăng về chính trị, kinh tế hoặc văn hóa, lý sự hung tợn, như hồi chúng ta còn trẻ con mọi rợ hay tự phụ, tự tôn, hoặc kiêu căng với những cái nhỏ nhặt, tạm bợ, tương đối mà cho đấy là sự vĩnh viễn, vững bền, tuyệt đối có giá trị vô-tận như dây chuyền, hột xoàn, xâu ngọc hoặc ngọc trai xỏ vào lỗ tai, vào lỗ mũi hay vào môi, hoặc là có rất nhiều bạc giấy, có những “bằng cấp” hay “tước phẩm” gì, xem như kho bảo vật. Tất cả cái đó lợi ích thật, nhưng xu hướng ấy, nếu vượt quá một giới hạn nào, nó sẽ trở thành “mê tín”, “tín điều”, “ lòng tin xấu”, “ tin mù quáng”, “bạo lực”, những cái này chỉ là hà tiện, ích kỉ, chấp nhất, lạm dụng ,độc quyền hay độc đoán. Vả cái giới hạn ấy làm biên giới giữa thế giới tương đối và thế giới vô tận, tuyệt đối, giữa nhà tương tư khoa học, thâm nhiễm khoa học, và nhà tự do tư tưởng, những kẻ không thấy sự cấu tạo vũ trụ, luôn luôn ở ngoài giới hạn, tức nhiên luôn luôn bị đe dọa mất của báu, còn những người hiểu rõ sự cấu tạo của vũ trụ, nói cách khác là “chân lý”, được ở trong sự phong phú vô tận, và có thể |
|
|
![]()
Bài viết
#4
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
làm tất cả cái gì mình muốn, mà không có cái gì ngăn cản được.
- Mình là một mục sư đại tài. Tôi đã nghe mình nói nhiều rồi. Bây giờ mình có muốn tôi lặp lại từng chữ một trong tất cả các điều mà mình vừa mới nói đó không? - Được, tốt thôi không nói nữa, xin tóm tắt. Tôi muốn nói rằng, mê tín, đức tin, lý trí, tất cả những điều đó, ta không nên phê bình. Những cái đó phải được tôn trọng và nó có lý do tồn-tại. - Hiển nhiên là mọi sự đều có lý do tồn tại của nó. - Lý do là điều chứng minh của trí phán đoán. - Bởi vậy nó có lắm chuyện mâu thuẫn với mặt ngoài chống đối nhau. - Vậy thì, để chấm dứt mối phân tranh ấy, người ta cần phải có một trí phán đoán tiến bộ hơn. - Nhưng vì sự tranh luận ấy, người ta luôn luôn làm cho óc phán đoán tiến hóa. - Thật thế, không có tranh luận, dầu náo nhiệt hay yên tịnh, thì trí phán đoán của chúng ta không sao phát triển được. Mình có đọc lịch sử hẳn biết con người đã tranh đấu từ ngàn năm xưa. Đối với nhân loại, không có một lối thoát nào khỏi chiến tranh bất lợi đến thế. Vì sao? - Sự mê tín, sự giáo dục, sinh lý học, y học, xã hội học, đều do trí phán đoán lầm lạc, những điều đó chỉ khiến cho trí phán đoán về cảm giác, cảm tình và lý trí của chúng ta thêm hèn hạ mà thôi.Nhưng óc phán đoán thấp kém lại quá mạnh hơn óc phán đoán cao siêu, bởi vì chúng ở về thế giới hữu hình, vật chất, còn trí phán đoán cao siêu lại thuộc về thế giới vô hình. - Đấy, do đó mà có sự mâu thuẫn luôn luôn, bất tuyệt: cần phải lấy óc phán đoán cao siêu quá yếu để sửa chữa và hướng dẫn óc phán đoán thấp kém quá mạnh, bởi vì trí phán đoán thấp kém( cảm tình, cảm giác) là hữu hình. Còn phán đoán cao siêu là vô hình, lí tưởng. Phương thức lấy trí phán đoán cao siêu để điều khiển trí phán đoán đê hạ, là do các nhà tư tưởng, hiền triết phát minh từ đời xưa. Đó là một cách giáo huấn vừa thực hành vừa lý thuyết. Nhưng trong khoảng mấy thể kỷ do các đồ đệ, và các nhà chú giải, đã làm cho nó biến đổi dần dần. Đến khi đem du nhập vào các nước ngoài, thì lý thuyết cũng như thực hành lại hoàn toàn sai biệt thêm nữa. Bởi lẽ ấy, nên hình thức hiện thời của Cơ đốc giáo, Phật giáo, Ấn độ giáo đều biến đổi. Mà sự biến đổi đáng chú ý nhất là các điều giáo huấn ấy lại bị sự “mê tín” ô trọc bao phủ, và không có nhà Tu sĩ nào có thể cứu vớt nhân loại ra khỏi vết xấu ngàn năm gọi là “trọng tội”, “sát nhân”, “chiến tranh”, “tật bệnh” v…v…Mặc dù đã có những khí cụ tối tân, và lực lựơng có tổ chức như cảnh sát, chính phủ, y học v..v.. Còn các bậc hiền triết tư tưởng ngày xưa, dù họ ở đâu,họ cũng thành lập được 1 xã hội hòa bình và tự do bằng cách cầu nguyện và tiết thực, rất là dễ dàng, mà không cần đến khí cụ gì hết. Người ta có thể nói một cách đơn giản rằng, điều mê tín là một sự ngu si gọi là “đức tin” hay là một tâm trạng thô sơ, nó xác tín rằng có một mãnh lực phi thừong và siêu thiên nhiên. Đức tin là một hình thức ảo thuật. Nếu ai tin tưởng vào y dược, cách trị bệnh, cách giải phẫu, mà không am từong đến bản chất, cơ cấu, và giá trị của nó, thì người đó là tội nhân của cái ngu si, nô lệ của sự mê tín của nó. Phần nhiều bị mê tín quấy phá là những hạng người này: Tất cả những ai khuyên dùng, hay dùng thuốc Aspirine, Quinin, thuốc trụ sinh, tất cả những ai lệ thuộc vào y học, luật pháp, dù thiên nhiên hay khoa học, mà không biết đến hoặc không muốn nghiên cứu tận nguyên nhân, cơ cấu và giá trị của nó, nói tóm lại, tất thảy những ai mượn trí phán đoán của người làm của mình, đều bị điều mê tín ăn tươi nuốt sống. Những nhà thông thái tìm được một vị thuốc thần hiệu nào đó, mà không biết nguồn gốc chính của bệnh, đều là đồ đệ của môn ảo thuật. Ăn thịt là một sự mê tín, nếu không thì cũng một sự thích khẩu hay là cách tu dưỡng ấy chỉ căn cứ trên niềm tin rằng thịt có nhiều chất đản bạch tinh, nhiệt lượng, hoặc sinh tố cần thiết cho sức khỏe. Nhưng có nhiều người không ăn thịt mà cũng vẫn mạnh khỏe, và sung sướng lắm. Ăn thịt bởi thích thú là bệnh tự kỷ trung tâm, ích kỷ và tâm trạng trẻ con, thể là nó phụ lực cho sự tự sát của chúng ta về phương diện canh nông, kinh tế, và sinh lý. Các nhà hiền triết tư tưởng như Platon, Thích Ca đã nói rất có lý rằng loài người không nên ăn thịt. Nhưng không thể phủ nhận tính ích kỷ, dù nó là một thành quả của trí phán đoán đê hèn của chúng ta. Trí phán đoán, như nền tảng chính của nó là trí nhớ cần được tôn trọng dù nó thấp kém, bởi vì không có trí phán đoán thấp hèn thì không có trí phán đoán cao siêu. Các bạn thử tưởng tượng một thế giới dân cư toàn là những hạng người tư tưởng có óc cao siêu, chắc các bạn không muốn ở vào thế giới ấy, vì không có cái gì vui thú cả (nếu các bạn quá ham mê với đời sống phù du, phức tạp, đầy dẫy người trọng phạm, kẻ tầm thường, người phạm pháp, bệnh tật, chuyện rắc rối, sự nghèo khổ, đó là vì phán đoán hèn kém của các bạn mà sinh ra, và cũng chỉ thâu nhận được những cái đó mà thôi), và những nhà tân văn báo chí, tiểu thuyết gia, cũng như cảnh sát viên, y sĩ, sẽ bị thất nghiệp. Ở vào một thế giới như thế người ta sẽ mệt nhọc và nếu không phiền muộn, thì cũng buồn tẻ quá. Sự thất vượt của cái giá tưởng, đó là lý do sự hiện hữu của chúng ta. Vậy thì không nên từ bỏ trí phán đoán thấp hèn. Chúng ta cần có cả trí phán đoán thấp hèn, đồng thời có cả trí phán đoán cao siêu. Hay tốt hơn, chúng ta nên cho trí phán đoán đê hèn có giá trị như ngọn đèn điện soi đường lúc đêm tối. Và chúng ta nên nhớ rằng, ngọn đèn ấy được sáng là nhờ mặt trời chiếu lúc ban ngày. Trí phán đoán thấp kém là nhân tạo, còn trí phán đoán cao siêu đó rất yếu ớt và họ cũng không chút nào biết ơn cái năng lực của mặt trời cả. Sự mê tín ăn thịt là một ham muốn về nhục dục do khoa học gọi là y khoa sinh lý học, hoặc phép tiết thực tán trợ, lại được bọn tư bản củng cố và khuyến khích, mà tư bản chỉ là một thành quả của phán đoán thấp kém. Lần dở xem lịch sử và cách tu dưỡng của các dân tộc, các bạn có thể chứng minh điều ấy. Ngày xưa dù ở Pháp hay ở Đức người ta cũng không ăn thịt nhiều như vậy. Những bạn hữu của ông Albert Schweitzer, trong thời thơ ấu, đã trách ông ăn thịt bằng cách nấu xúp, mỗi tuần một lần hoặc hai lần. TRÁI CÂY A, chính ông là người lừng danh ở xứ Thiên Quốc đấy phải không? - Ông biết tôi ạ? - Vâng, tôi có biết ông. Ông có nói: “Nên ăn thật nhiều loại ngũ cốc, và đừng nên ăn trái cây”, có phải không? Một người bạn của tôi, đã theo đúng lời của ông, trong mùa hạ này đã phá hủy tất cả cây trái trong vườn của anh ta. Chúng tôi nhất định phản đối lý thuyết của ông. Một nhà sáng lập xuất bản một tờ báo ở Paris, trước mặt người Thiên Quốc, khi ông này đến thăm tại văn phòng báo chí, ông chủ báo đã tuyên bố rằng, trong các buổi nói chuyện, hoặc trên tờ báo nguyệt san của chúng tôi, về sức khỏe, chúng tôi khuyên nên ăn trái cây, hoặc các loại do trái cây chế tạo ra. Ông chủ báo mới 50 tuổi, nhưng tóc đã hoa râm và thưa thớt, như ở tuổi 60. Khi nghe lời công kích mãnh liệt của ông chủ báo. Người Thiên Quốc rất ngạc nhiên, bèn nói. - Nhưng tôi vẫn khuyên một vài người được ăn trái cây tùy thể chất của họ. Tôi sẽ gởi đến ông quyển sách bằng Pháp văn tôi vừa mới xuất bản; xin ông đọc kỹ, rồi phê bình gắt gao và khách quan, bởi vì đây là một vấn đề rất quan hệ. Ông Jack trở lại với bà vợ đương chờ ông ở trong xe hơi. Khi xe chạy ngang qua thành phố Paris để về khách sạn; Ông ta bắt đầu nói chuyện, vừa suy nghĩ những lời nói của nhà xuất bản báo. - Ở châu Âu, vẫn có người ăn chay. Họ đứng lên công kích một cách can đảm thói quen ăn thịt những người “văn minh”. Những người ăn chay đó trước kia vẫn ăn thịt. có phải những người ăn chay rất thích ăn trái cây không? - Phải, người này có nói với tôi, đã ăn trái cây từ 15 năm rồi. Nhưng trước kia anh ta ăn rất nhiều thịt. Cái đó chỉ xem diện mạo, bộ răng, con mắt và lỗ tai của anh ta thì đủ biết. - Thế người đó có phải là một anh cách mạng, dưỡng sinh chăng? Và như vậy, anh ta không có một lý thuyết khoa học nào cả chăng? Thế có phải là một cảm tình chủ nghĩa chăng? Có lẽ lý thuyết của anh ta dựa trên trí phán đoán thuộc về giai đoạn thứ ba. - Phải nó như thế đó. Anh ta ăn thịt đã lâu, nếu hôm nay đi đến chỗ đối lập… - Tốt lắm, hễ “cực Âm thì sinh Dương, cực Dương thì sinh Âm”. Đó là một chứng cớ linh động, lương năng người ta chưa mất đâu, ở Âu Châu cũng vậy; dù họ lý luận với trí phán đoán ở giai đoạn thứ năm, phán đoán xã hội, nghĩa là về phương diện kinh tế, quốc gia và quốc tế, rồi sẽ đi lần đến phán đoán giai đoạn thứ sáu, và phán đoán giai đoạn cao siêu. - Lẽ tất nhiên Nhưng hẳn còn xa, đương còn kiềm hãm trong bộ áo giáp tình cảm. - Họ không hiểu vì sao rất ít người ăn chay, và tại sao những người ăn thịt đã hối cải, sau một thời gian ngắn lại rất mau trở lại ăn thịt… hơn nữa, vì sao lại có nhiều người ăn chay bị đau ốm nhiều hơn kẻ ăn thịt - Câu chuyện cứ nói tới nói lui rất vui thú, có phải giống như việc cưới hỏi ly dị ở Hoa kỳ không? “Bà X và ông Y đã cưới hỏi nhau, bà thì lần thứ sáu, ông thì lần thứ tư, nhưng ông Y là chồng thứ nhất, và thứ ba của bà X… - Mình đừng nói đùa nữa - Xin lỗi mình, tôi nói thực, không nói đùa. - Vì sao họ cứ ham mê trái cây? - Có lẽ họ là con cháu loài khỉ, hay loài đại tinh tinh chăng? - Không phải nói đùa đâu… Họ say đắm sinh tố, khoáng chất, và họ tán dương những cái đó. Nhưng, cách tổ hợp của sinh tố đều rất phức tạp, khác biệt, có khi tương phản ở phạm vi tác dụng nữa. Trong các khoáng vật cũng thế, chất nạp (sodium) tương phản với chất giáp (potassium). Người ta không biết gì về nguồn gốc về sự cấu tạo, cách tổ thành của sinh tố, hoặc của khoáng vật. Vả lại người ta không chịu tìm nguyên nhân chính của trạng thái bất năng (không có năng lượng) của sinh tố và khoáng chất. Đó chỉ là một giả định kinh nghiệm mà thôi. Vì sao họ lại quá đơn giản, quá nhẹ dạ, quá cận thị như thế? Họ đành tự thỏa mãn với tân giả thuyết, nó là cái củng cố trí phán đoán của họ thuộc về cảm giác, tình cảm, hay lý trí. Chính đó là sự nguy hiểm của luận lý quy nạp. Các nhà bác học, trước tiên cần phải nghiên cứu cái luận lý vạn năng hay phổ quát. Tất cả thế giới trước hết phải nghiên cứu luận lý phổ quát, sự cấu tạo của vũ trụ, và vô song nguyên lý. Luận lý hình thức của Kant, luận lý quy nạp của Bacon, và hết thảy kỹ thuật phân tích, phải được xây dựng lại trên nền tảng cụ thể của sự cấu tạo vũ trụ, có được như thế, tất cả mọi đau khổ của nền văn minh mới có thể chữa trị được. - Nói tóm lại, ăn trái cây hay là ăn chay đều là mê tín cả, cũng như tất cả các học thuyết, hay tôn giáo.. Mình có nhớ chuyện cô con gái của Giáo sư P… chủ tịch hội tiết thực không? - A cô gái bé người bị biến hình thể, có con Mắt lé và sắp sửa đau bệnh bại ấy? mẹ nó độ chừng 65 tuổi, già hơn tuổi thật đến 10 tuổi. - Và một người con gái lớn, giúp việc cho cha nó, là một ông quản lý xuất bản tờ báo… “Sự thật”. - Phải người con gái đã đau tử cung và kinh-nguyệt không đều. - Và ông bác sĩ danh tiếng, nhờ có viết nhiều sách về Phật giáo? - Ông ấy đau tim - Và ông thầy nhu đạo rất được kính-trọng? - Ông này cũng đau ốm luôn luôn. - Có phải tất cả những người ấy là nạn nhân của sự ăn chay bằng trái cây phải không? - Mình chớ nên kết tội họ. Họ đều là những người không biết cách cấu tạo của vũ trụ, những bí mật của sự sống. Họ nhập khẩu vật thực rất Âm, hoàn toàn khác với khí hậu cực âm của Âu-Châu. Hay là họ thực hành và phổ biến một cách dinh dưỡng riêng biệt và cá thể, có hiệu lực trong trường hợp cực Dưong, thế là đối chứng, trị liệu pháp. - Nói tóm lại, nguời ta không biết nguyên tắc nấu ăn, nhất là cách nấu đồ ăn chay. - Mình chắc lấy làm lạ mà trông thấy bếp núc của người Tây phương, quá đơn giản và quá thô kệch. - Họ có một vài cách nấu ăn chuyên môn, và rất nhiều vật dụng, đồ gia vị, hương vị, dầu, mỡ, đường, tương hột cải, dấm, rượu. Hơn nữa, lại có rất nhiều thịt thú vật và cá mùi vị rất ngon lành. Vậy thì không cần trông cậy vào kỹ thuật. Đó vì sao cách nấu nướng của Tây Phương không được phát triển, và hoàn toàn khác biệt với cách nấu ăn của chúng ta. - Phải, chúng ta có một nghệ thuật tinh vi và sâu sắc, sáng tạo cái gì một cách tuyệt đối mới. - Cách nấu ăn của chúng ta dung nạp ít chất nguyên tố, muối rất quan trọng và là món gia vị độc nhất. Dầu thảo mộc xem như món xa xỉ phẩm gạo và một ít rau quả hoang, hoặc mình trồng, thế là đủ rồi. muối chiếm địa vị chủ tể trong nhà bếp. - Ấy là một nghệ thuật sáng tạo và tinh vi phi thường. Anh đầu bếp chính là một viên y sĩ tài tử. Cũng như một đại nhạc sĩ chỉ dùng hai hay ba âm giai, sáng-tác một nhạc khúc, một điệu múa, một hành khúc, một cấp điệu, cũng hơi giống như người thổi kèn, hay người thổi ống sáo, thổi nên một âm điệu trong trẻo chỉ nhờ cái kèn hay đơn giản, chỉ nhờ một ống tre nhỏ dài độ ba tấc, không máy móc gì ráo. Nhưng nhất là anh đầu bếp cũng là một thi sĩ như MHITMAN, VERLAINE, RODENBACH, MALHARME, hay là PIERRE LOUYS. Những bài thơ của nó đơn sơ, trầm tĩnh, dễ hiểu, nhưng rất sâu sắc và biểu tượng. Tuy nhiên, rất ít kẻ hiểu tất cả nghĩa lý và tất cả cái cao thượng về cách điều chế nấu nướng môn tiết thực và trường sinh. Phương pháp ẩm thực này không những có ích cho sức khỏe, mà còn đưa tới tự do vô hạn, không những được vui thú về cảm giác, mà còn vui thích vĩnh viễn, không những mối cảm tình được đứng đắn mà rút cuộc trí phán đoán được nâng cao. - Nhưng sự ăn chay và ăn trái cây tuyệt nhiên, không dựa vào nghệ thuật chuyên môn hay lý thuyết nào cả, đó chỉ là sự phản ứng hay sự thịnh hành của khoa học ngụy trang,của lý trí theo thời thượng mà thôi. Thịnh hành có nghĩa là do kết quả xu phụ của trí phán đoán về cảm giác, cảm tình hay là lý trí. Chính tôi là kẻ “ngu dốt nhất đời”, mà còn biết như thế, tại sao những người “văn minh” mà mình sùng bái lại không biết cái đó? Thế thì sự thật, họ còn ngu si hơn người thượng cổ, trái với những điều mà mình đã nói chăng? - Mình hãy kiên nhẫn, người văn minh thật là văn minh thông thái gấp mấy người thái cổ chúng ta. Họ có một nền “văn minh” vĩ đại, chế tạo những tàu bay chuyên chở chúng ta từ hòn đảo bé nhỏ nước chúng ta, bay trên những đại dương mênh mông, Ấn độ, Phi Châu, rồi qua đến đây, xứ Âu Châu. Họ có bom nguyên tử, chỉ trong vài giây đồng hồ giết chết những 313.000 người dân Nhật Bổn không có khí giới, họ có bệnh viện to lớn tân thời, có trường Đại học nguy nga, có xe hơi sang trọng, có xe ca láng bóng. - Nhưng những điều phát minh ấy có ích gì? Những cái đó chỉ dùng để giết người, phá hoại, tăng thêm tiện nghi và thích dụng mà thôi. Những phát minh ấy nếu không hại cũng rất vô ích cho sự xây dựng hạnh phúc trường cửu, tự do vô tận, và công bằng tuyệt đối. - Mình quá nóng nảy, điều kết luận của mình hơi vội vàng. Trong nhóm người “văn minh” ấy cũng có một nhóm thượng lưu trí thức khá nhiều. họ thuộc vào ba nhóm chồng chất nhau: Một nhóm thì thuộc về trí phán đoán lý trí, một nhóm thuộc về phán đoán kinh tế hay luân lý, sau cùng một nhóm thuộc về phán đoán lý tưởng. Ba nhóm của phán đoán cao thượng ấy càng ngày càng ít đi. Chính nhờ nhóm phán đoán lý trí mà người ta đã thực-hiện được biết bao điều phát minh đẹp đẽ sáng lạng. Đa số thuộc về ba giai đoạn thấp kém (cảm tình, cảm giác hay máy móc) được nhóm trí thức hay thiểu số phán đoán cao hơn (lí trí, xã hội và lí tưởng) điều khiển và huấn luyện và họ đã xây dựng và sáng tạo lên được nền văn minh ấy. Nhưng chuyện cũng lạ, nó thiếu mất một số ít phần tử tinh anh khác, tinh anh trong nhóm tinh anh, tức là nhóm có trí phán đoán tối cao cuối cùng: phán đoán cao siêu, tuyệt đối và nhất nguyện. Sáu giai đoạn kia đều có tính cách nhị nguyên .Mình thấy vì sao chúng ta bị thất vọng và ngạc nhiên khi viếng thăm nhiều người thuộc vào hạng thượng lưu trí thức:linh mục, nhà triệu phú,giáo sư, bác sĩ, “lãnh tụ”, “tín ngưỡng”, thần bí, cuồng tín hay cố chấp, giáo dục gia, đại kỹ nghệ gia, tư pháp quan, luật sư. Tất cả đều có tính nhị nguyên. Không có ai cho mình là thượng đế cả. Chúng ta chưa hề gặp được một thiểu số tiến bộ nhất trong đám thiểu số. Nếu họ là hạng người tín ngưỡng, thì lại nhị nguyên tính, bởi vì người ta tin rằng có Chúa ở chỗ nào đó trên cõi trời vĩnh viễn. Người ta đã lãng quên, hoặc hoàn toàn không hiểu, và bất cứ trừơng hợp nào không khi nào người ta tự hỏi “vì sao tôi có thể suy nghĩ, nhớ lại, trông thấy, hiểu biết và mơ ước, hay là “lương tâm” là cái gì? Người ta cần phải nói rằng “suy tưởng” là “có” thay vì câu “tôi tư tưởng vậy thì tôi có”. Con người có suy nghĩ là trường cửu, “tồn tại” là “vĩnh viễn”. Người nào suy nghĩ vô tận và luôn luôn với vô tận, thì có tuyệt đối và vĩnh cửu, kẻ “tư tưởng” vĩnh cửu, thì chính đó là vĩnh cửu rồi. Người nào “không tư tưởng” hay chỉ tư tưởng những sự việc tạm thời, đó là một hiện tượng hảo huyền, tưởng tượng và hư vô, cũng như chết rồi. - Chúng ta nói về vấn đề gì đó? - Muốn nói chuyện mê tín à? Nhưng tôi đang nói cho mình nghe đó. Tất cả những điều phát minh của nhị nguyên, mà người ta đã suy nghĩ ra được ở trong thế giới tương đối và hữu hạn này, và tất cả cái gì (ảo ảnh) ở trong đó tưởng như vĩnh cửu, vô hạn, tuyệt đối đều là “mê tín” gồm có tất cả các học thuyết và tôn giáo nữa. - Vậy thì hoàn toàn khác biệt với điều cấm kỵ của chúng ta rồi. - Phải, điều cấm kỵ của chúng ta là một phát minh của “nhà tư tưởng vĩnh cửu”. Đó là một diễn dịch hay giải thích của vĩnh cửu, sự cấu tạo của vũ trụ. Ở Âu Châu cũng có điều gì giống như thế, gọi là “luân lý”. Đó là hình thức ràng buộc chúng ta. Ở Âu Châu mà bị xiềng xích là một điều bất đắc dĩ. Nếu ai bẻ khóa đứt dây, thì nguời ta xem kẻ đó là bất lương. Nhưng sự thật thì “điều cấm kỵ” của người “văn minh” cố để trói buộc người khác hơn là để trói buộc mình. Không ai tôn trọng điều ấy triệt để. Bởi vậy mới có sự cần thiết phải lập “luật pháp”, nghĩa là phải có một lực lượng rất mãnh liệt. Tuy nhiên, ai ai cũng cố gắng để thoát ra ngoài vòng pháp luật, đó là dùng 1 sức mạnh thần diệu khác gọi là “tiền bạc”.Bởi lý do ấy, mà ở lao tù Âu Châu, người ta chỉ thấy giam cầm những hạng người nghèo cực không có tiền của mà thôi. “Điều cấm kỵ” của chúng ta không thể vi phạm được. “Điều cấm kỵ” của chúng ta là tôn kính, tình thương, lòng tự ái, ánh sáng của chúng ta. Đó là sự vui sướng, thỏa mãn trường tồn của chúng ta. - Xã hội của những nước “văn minh” ví như một thân thể, kiểm soát tự ý do một hệ thống thần kinh: “Luân lý”, thế nào cũng bị cưỡng chế không nhiều thì ít. Còn luân lý của chúng ta lại tự động điều khiển do bộ thần kinh giao cảm là “điều cấm kỵ”. Luân lý là một tự động tính. Chính cũng nhờ thế mà ở nước chúng ta “Frankenstein”, là tên khổng lồ, tàn bạo, mù quáng, hung dữ gọi là “cảnh sát” hay “hiền binh” mà tất cả thế giới đều ghê tởm. Người ta gọi cái đó là “cần thiết xấu xa. - Nhưng về chuyện trái cây, mình muốn nói thế nào? - Chủ nghĩa ăn trái cây ạ? Mình còn chưa hiểu những điều tôi nói đến sao? Phán đoán gì mà tệ lắm vậy! - Tôi là kẻ ngu dốt ở đời này… - Lẽ tự nhiên rằng, cái “thuyết” ấy là một điều phát minh của phán đoán về giai đoạn thứ hai hay thứ ba: Cảm giác, cảm tình. Người ta có thể dùng một giai đoạn khác cao hơn của trí phán đoán để vượt qua biên giới ấy: phán đoán lý trí hay là kinh tế. - Làm thế nào - Những dân tộc ăn trái cây ở Phi Châu, ở Ấn Độ, đều không được sung sướng cũng không thông minh gì cả, trái lại họ còn khốn khổ hơn nữa. Có nhiều bộ lạc bị tiêu diệt hay hấp hối gần chết vì sự nhập cảng của “văn minh” Tây Phương .Những khí-cụ tai hại nhất để giết chết dân bổn xứ hay thổ dân (chỉ ở Ấn Độ đã có 50 triệu) ăn trái cây hay ăn chay, là những món: rượu, đường, hóa học, chocolat, sữa đặc, dược phẩm, Y sĩ và tiền bạc. Những vật thực này còn nhiều hiệu lực hơn cả bom đạn, lính giết người, và tàu bay nữa. Bằng chứng này ở Đông Dương và ở Phi Châu, hàng ngày khắp nơi đều có xảy ra, hao phí hằng tỷ hằng tỷ quan. Cũng như bài học kinh nghiệm ở Hồng Kông, ngày nay người ta đem tái diễn bài học ấy lại ở đảo Chypre. - Và ở Lambaréné, ở Congo, ở Kenya, ở Tanganika, và tất thảy những xứ Nam Phi và ở Hy lạp nữa… vả lại chính ở Âu Châu người ta vẫn biết rằng, các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương “lỗ tai dài” bị tiêu diệt bởi “lỗ tai ngắn”. Người ta lại còn không biết rằng, người “ăn chay” (nhất là người ăn “trái cây” trước tiên có hại cho việc sinh dục, biến đổi trạng thái siêu thoát tình dục, thành ác cảm tình dục, tán trợ sự phá thai, đẻ non, trẻ sơ sinh chết yểu tăng thêm nhiều, đau bại, đau tim… cuối cùng đến nhân khẩu sút giảm,v…v.. - Không nên công kích người “văn minh”, họ không biết những điều họ đã làm, . chúng ta nên suy nghĩ lại cho kỹ càng, ấy là hành vi của nhóm tinh anh trong nhóm thiểu sổ tinh anh kém thế nhất. Người ta mong đợi có một đấng Cứu thế mà không biết rằng thế gian khi mới tạo lập đã có một quan năng phán đoán kỳ diệu là: Tư tưởng, tưởng tượng và Đấng Cứu Thế cũng chỉ là một phần tử của trần gian mà thôi. - Nhưng, như thế thì không khó gì cả… vì sao mà họ không hiểu? - Bởi vì họ là nhị nguyên - Tại sao họ lại nhị nguyên? - Bởi vì họ nuôi dưỡng với những thực phẩm quá Dương trong nhiều thế kỷ, và rút cục, vì quá tham Âm nên trở thành Âm. Dương hút âm, Thái dương thì thu hút Thái Âm. -Thuyết ăn trái cây chỉ là 1 chuyển hướng của thuyết ăn thịt … phải rồi, đó là nhân quả! - Tâm trạng Dương là bạo dạn, can đảm, đơn giản, và hung dữ cực điểm, tâm trạng ấy một khi đã đến cao độ, thì trở thành nhút nhát, do dự, phức tạp, phân tích, ghen ghét, nghi ngờ, nghi ngờ chính mình nữa. Nhưng tâm trạng ấy lại thỉnh cẩu sự thống nhất sự vĩnh viễn, vô tận, tuyệt đối như chốn quê hương xa xôi, của nó đã bỏ quên, không quen thuộc và xa lạ. - Vậy thì nhị nguyên thuyết, sự thật chỉ là một đứa con hoang đàng khốn khổ của thuyết Nhất nguyên chăng. - Nhị nguyên thuyết là một người mắc bệnh loạn sắc rất trầm trọng, họ chỉ trông thấy một phía vật chất hay một phía tinh thần mà thôi, hay nói đúng hơn là một chứng thần kinh thác loạn, nó phát sinh ra tất cả mọi đau khổ và tự diệt. - Bây giờ làm sao để chữa bệnh ấy? - Thì chỉ ăn uống theo những vật thực thông thường như trí phán đoán đã suy xét. - Những ông “văn minh”có nghe theo lời mình không? Có hiểu không? Không đời nào họ nghe. Nếu có nghe tôi nói chăng nữa, họ cũng chẳng hiểu gì ráo. Và nếu họ có hiểu lời tôi nói chăng nữa, thì họ cũng biến đổi cái đó thành một tôn giáo, hay một môn thần bí. Nên nói với hạng trí thức có lý tưởng, hay là với hạng tinh anh trong nhóm tinh anh thiểu số có trí phán đoán cao siêu thì phải hơn. - Làm thế nào tìm gặp được một nhóm tinh anh đó? - Mình đã biết rồi chứ, chính là mục đích, cố gắng của chúng ta từ ngày đến đây, làm hao tiền tốn của khá bộn bề. .. đến đổi mình phải lo ngại. - Phải chờ năm này đến năm nọ sao? - Hằng năm, phải, có lẽ phải chờ đến hằng thế kỷ… - Hằng thế kỷ ạ? - Hằng thế kỷ, phải. Mình còn nhớ quyển sách “ Meeting of East and West” (Cuộc gặp gỡ Đông và Tây) của Giáo sư Northrop, trong đó có nói rằng: “Những người da trắng đã tận lực, hơn một thế kỷ nay, để chinh phục các dân tộc da màu ở Đông Phương, trước tiên dùng võ lực, và tàn bạo, kế đến dùng chính trị (võ lực trá hình), tiếp đến bằng kinh tế (sức mạnh gọi là tiền bạc) và sau cùng là dùng văn hóa (tài khuyến-dụ): ba chữ : “S” tức là (sex) đàn bà, (Screen) màn ảnh chiếu bóng, và (Sport) thể-thao. Nhưng vô hiệu quả.Cái gì họ cũng thu nạp tất cả, nhưng bây giờ họ đều phản bội, công kích chúng ta. Thật là quân bội ơn!” - Phải, tôi còn nhớ. Mình đã thức suốt 57 đêm để dịch quyển sách ấy. - Đã nhiều lần tôi có viết cho ông ấy những bức thư rất dài (hơn một trăm trang) ông ta cũng hiểu tôi, nhưng bằng lý trí mà thôi, không có gì hơn nữa. Sự hiểu biết của ông ta hoàn toàn thuộc về hình thức. Trí phán đoán tối cao của người Tây Phương là như thế đó. - Phải, không có một phản ứng nào thực tế cả. - Mình còn nhớ bức thư có giọng buồn rầu của Sir Philip Gibbs, tác giả quyển sách “Pageant of Years “ (sự diễn hành niên đại) quyển sách rất có ích này chăng? Đây, bức thư của tác giả sách: “Sự diễn hành của niên đại”. “ Tôi lấy làm tiếc, nhưng tôi rất ngu dốt về triết học và đức hiển minh của Viễn Đông… Văn minh Tây phương chắc chắn bị thất bại trong công cuộc thiết lập hòa bình và công lý cho nhân loại, và lịch sử của Tây phương gần đây chứa đầy những chuyện chiến tranh, tàn phá và độc ác. “ Nay tôi muốn bắt đầu nghiên cứu triết học, Đông phương, thì tuổi đã quá già rồi, chỉ chờ ngày hồn lìa khỏi xác nữa thôi. Nó sẽ không lâu nữa đâu và giai đoạn mới về kiến thức và hiểu biết có lẽ có ngày sẽ đến”. - Đó chính là thiểu số của nhóm tinh anh Tây phương, có quan niệm nghiên cứu về tâm trạng thượng cổ, nhưng cuối cùng người ta từ bỏ. Việc này cũng giống một trường hợp của Đại gia lịch sử học Toynbee sau một thời gian dài nghiên cứu, ông ta kết luận rằng, Cơ đốc giáo nên tiến một bước nữa về Phật giáo “Đại thừa”… nhưng đã chậm trễ quá rồi. Nay trước hết cần phải khôi phục lại các khoa sinh lý, vật lý và luận lý học. - Nhưng có lẽ chỉ có một ông ta hiểu mình thôi chăng? - Miễn sao chúng ta có dịp gặp ông ta là được. - Mình có thất vọng không? - Có và không, chúng ta sẽ xem… - Mình có e ngại về tiền bạc không? Tôi còn một sợi dây chuyền bằng ngọc lớn, ngày mai tôi sẽ đem bán, và chúng ta có thể sống ở Âu Châu thêm một vài tháng nữa. Mình đừng có lo ngại gì hết. Mình đã chữa lành cho nhiều bệnh nhân người da trắng: Bệnh bại, bệnh bạch huyết, bệnh suyễn, tê bại, ung thư ruột; sung huyết, tím đánh gấp, phong thấp… bệnh bón táo nặng, bạch niệu, nước đái đường… Mình trị lành nhiều bệnh như thế mà không có ai thù lao, mình như ở nước ta cả. Có một vài người trả cho mình số bạc 10.000 quan. Té ra họ đánh giá đời sống của họ, sự tự do và hạnh phúc của họ chỉ có 10.000 thôi sao? Thật quá ít! Còn ở xứ Thiên Quốc chúng ta, họ biếu cho chúng ta những vật quý báu mà họ đã làm đổ mồ hôi suốt năm, có khi dám hy sinh đến tánh mạng nữa; như lúa gạo mới thu hoạch ngọc trai ở biển, ngọc trai có màu sắc ở đồng quê, nghĩa là các thứ hột đậu đỏ, vàng, xanh những hột lúa mạch, kê… thật là đẹp và quý biết bao nhiêu! Những vật thực ấy sau khi nuôi cả nhà đến 100 học sinh rồi, có còn dư lại đem phân phát cho những bạn hữu nghèo khó. Người ta tưởng thưởng cho chúng ta, năm này qua năm khác, những cái gì mà họ có, và sẽ có suốt cả đời sống của họ. Hơn nữa họ còn giúp đỡ chúng ta phổ biến nguyên lý vô song để hiến hạnh phúc trường cửu cho tất cả mọi người… - Mình thật bất công. Mình không biết ở đây đa số đều sống bằng nghề “làm thuê” cả sao? - Tức là những kẻ nô lệ, xiềng xích bởi một sợi dây tiền bạc vô hình. - Nhưng mình có nói rằng, một người da trắng tên là Lincoln, đã giải phóng nô lệ cho dân da đen kia mà? Thế nay còn việc ấy nữa sao? - Không phải như việc Lincoln đã giải phóng cho tất cả dân da đen. Những kẻ nô lệ “làm thuê” đây không phải là dân da đen mà người da trắng bắt tận trong rừng rú ở Phi Châu, rồi đem về bán cho người Âu Mỹ đâu. Đây là người da trắng tình nguyện bán đời sống của họ. - Vậy thì việc người da trắng bắt anh chị em chúng ta ở Phi Châu đem bán cho người Âu Châu, Mỹ Châu, không phải là một tội phạm, mà đó là một nghề nghiệp làm ăn lương thiện sao? - Phải, phải lắm, “làm thuê” là một nghề đáng quý trọng. - Việc ấy đáng khen phục biết bao nhiêu! - Tất cả các học đường và đại học đường mục đích cốt dạy cách thức thế nào để trở thành một người “làm công” đáng quý trọng. - Mình không biết rằng, tất thảy các nước Tây Phương đều bị cai trị bởi một ông vua “kinh tể”. - Tốt lắm! Kinh tế có nghĩa là “cái nhìn” theo trật tự của vũ trụ có phải vậy không? Nếu cái nhà của con người thống trị theo trật tự của vũ trụ, nguyên lý vô song, thì hòa bình ngự trị một cách tự do… - Mình không hiểu đâu, “kinh tế” có nghĩa là tiền bạc… - Tại sao không có nghĩa là vàng? -Tiền bạc tức là vàng đó… - Thật thế ạ? Tôi chưa hiểu gì cả… - “Kinh tế” là sức mạnh để thống trị, còn tiền bạc (hay là vàng) là biểu hiện của nó. - Sức mạnh thống trị. - Phải nó là xứ rừng rú. - Nhưng rừng rú ở xứ ta cũng như rừng rú ở Ấn Độ hoặc Phi Châu, không bị sức mạnh thống trị, chỉ có vô song nguyên lý không thôi, không phát biểu, nhưng ai ai cũng biết nó một cách hoàn toàn cả rồi. - Ở Âu Châu, sức mạnh là pháp luật - Vậy thì cái đó làm cho rắc rối mọi sự việc, và ồn ào thêm lên. Người ta chưa biết sức mạnh là trí phán đoán cao siêu sao? Và họ cũng không biết sức mạnh tối cao, hay đúng hơn là con người và tất cả vạn vật ở trong vũ trụ, chỉ là một khí cụ của trí phán đoán cao siêu vận dụng hết cả sao? Vũ trụ vô tận, trường cửu, tuyệt đối, trong đó có địa cầu chúng ta ở nữa chỉ là một phần tử cực nhỏ, hữu hạn, và tương đối, ấy là phán đoán, cao siêu đó rồi. |
|
|
![]()
Bài viết
#5
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
- Ông vua có sức mạnh là ông vua “văn minh”.
- Tôi cho xứ rừng rú hơn xứ văn minh. - Pháp luật của chúng ta là vô song nguyên lý, cái biện chứng pháp thực dụng ấy, người Tây Phương cần phải hiểu biết. Nếu không thì luật pháp của chúng ta, là vô song nguyên lý cao siêu và duy nhất không thể phổ biến được, cho đến cả hòa bình trường cửu, tự do vô tận, công bằng tuyệt đối cũng không thể thực hiện được… - Mình nghĩ rằng tất cả bệnh tật đều có thể chữa lành bằng các “Cầu nguyện và nhịn đói”. Đó là một cách khả thi mà mình luôn luôn vui lòng trải qua. Cái bệnh gọi là “văn minh” ấy, khi đi “tìm nấm” ở rừng lucioles, mình đã có nói với tôi rằng, lúc trước, có một vài nhà tư tưởng Âu Tây đã chẩn mạch đoán biết cái “văn minh” ấy là một bệnh tai hại cho tất cả nhân loại… - A…! E.Carpenter, whitman, spengler, rudof, stei-ner, schopenhauer, J.J.Rousseau, Veltaire… phải không. - Phải đó. Nhưng bây giờ họ ở đâu? Họ thành cái gì rồi? - Họ không còn nữa. - Nhưng không. Họ ở nơi mình, mình biết lắm chứ. Đó là sự thác sinh linh hồn. Họ chính là tiền thân của mình. Bây giờ, mình trở lại thế gian để thi hành nhiệm vụ sứ mệnh của họ. - Phải… phải… thật thế. Tôi không cần lập lại sự lầm lỗi của họ. Tôi cũng rất âm như Carpenter. Tôi rất lạc quan, biếng nhác, và ấu trĩ như Whitman, cũng như Spengler, tôi quá chăm chú phê bình, tôi hay ngang ngược và tự tôn như Rudolf, Steiner, quá thông thái và bi quan như Schopenhauer… cũng như Robespierre, tội quá hung hăng, và vội vàng… Nhưng tôi cũng không cần bắt đầu trở lại đời sống của lão Tử, của Phật thích ca, vai trò ấy chỉ thích hợp đúng với thời đại ấy. - Ấy là ý nghĩa linh hồn thác sinh của mình. - Tôi đã hiểu rồi, nhưng mình có hiểu “kinh tế” là cái ra sao không? - A, vua “kinh tế”? chưa, tôi chưa hiểu lắm. - Mình sao đặc sệt người Thiên Quốc quá; sự thật, tại hòn đảo nhỏ của chúng ta không có “kinh tế”, ở đó người ta tự lực sống một đời sống tự nhiên theo sự cấu tạo của vũ trụ. Ở đó đời sống cần phải sáng tạo, chúng ta không những không được hoang phí và xài phá vật sản sản xuất của người khác, mà còn thực hiện nguyên lý vô song nữa. Ỷ tại vào vật sản xuất của người lao động, xem như một sự bóc lột, ký sinh vào người nô lệ, hay là một trọng tội, chúng ta tiêu thụ càng ít càng hay, ăn ít, mặc sơ sài. Ở nhà tầm thường: “Mái nhà quý hồ khỏi dột, ăn uống cốt để khỏi chết…” Nhưng chúng ta còn mang ơn nhiều kẻ khác, như những người lao động tầm thường, thật thà, khiêm tốn, đơn giản, bạo dạn và nghèo khổ. Vậy là chúng ta nên hiến tất cả những cái gì mà chúng ta có, nhất là cái rất quý báu của chúng ta: như đời sống chúng ta, tình yêu thương tuyệt đối vô tư của chúng ta, giải thích nguyên lý vô song cho mọi người Nguỵ thiên, dị giáo… Cho, cho, cho, đó là đời sống của người Thiên quốc. Không cần xin, không xin chi hết, hoàn toàn giải thoát. Đó là con đường chúng ta phải đi, đó là nguyên tắc kinh tế của chúng ta. - Đó là lẽ tự nhiên. Chúng ta sống như thế. - Kinh tế Tây phương trái hẳn trăm phần trăm. Kinh tế mà người ta dạy ở các Đại học đường và các trường của Tây phương, là nghệ thuật bóc lột những dân lao động cho đến mức tối đa. Ở đây mà nói cho ai cái gì, là có ý lấy lại nhiều hơn: Kinh tế tây phương là nghệ thuật lấy, ăn trộm, và cái ấy là do sự bóc lột tàn bạo. - Với cả sức mạnh nữa sao? - Phải, phải, mình thử xem các cuộc chiến tranh. Chúng ta thấy hai đại thế chiến, và độ 50 cuộc chiến tranh khác ở chỗ này, chỗ kia. Thế giới này luôn luôn ở trong tình trạng chiến tranh nóng hay chiến tranh lạnh. Người ta nói đó là một chứng bệnh của người da trắng. - Nhưng, có thể nói rằng, ở tại xứ chúng ta, từ khởi thủy, dân tộc Thái cổ chúng ta không hề có chiến tranh, cho đến khi “văn minh” Âu Tây du nhập vào, phải …. Cho đến khi giống người da trắng bước vào vũ đài. Ấy chỉ từ một hai thế kỷ đó, quả địa cầu và các bể Đại dương của tinh hệ này mới trở thành một sân khấu lưu huyết tan tành độc ác. - Giống như lời trong thơ của Sir Philip Gibbs đã nói nhiễm phải không? Như vậy thì không phải là “văn minh” mà là một bệnh dương mai, hay là bệnh dịch hạch chăng? Những đại nhân vật, như Churchill, Ike, Truman, và những nhân vật khác thì thế nào? - Chúng đều là những đại tướng rất mạnh của ông vua “kinh tế” đó. - Tôi không hiểu gì cả. Không thể có lý như thế. - Họ đều là sinh viên được đào luyện những điều ấy ở các học đường và trừơng Đại học hết thảy. - Và ở các nhà thờ, người ta đã dạy những điều gì? - Ở đó người ta đã dạy cầu nguyện để được Đức Chúa Trời phù hộ. - Chúa Trời mà cũng phục vụ cho “kinh tế” à? Bảo vệ cho kẻ giết người? có lẽ nào như thế, mình chế nhạo đó. - Sự thật vượt quá sự tưởng tượng. Thú vị lắm nhỉ? Cũng vì thế mà chúng ta đến xứ Tây Phương này, để biết sự thật của một thế giới đối nghịch, từ sự đi đứng đến tư tưởng, đều lộn xộn trái ngược. Sức mạnh ở óc não, trí tuệ ở dưới chân, sắc đẹp bề ngoài, xấu xa trong lòng. Phòng khách mỹ thuật là nơi chế tạo đàn bà để phản bội đàn ông, là nơi để giết chồng và những bạn hữu của họ. Ở đây ái tính là giết người, là ăn tươi nuốt sống người ta. - Ở xứ vua “kinh tế”, ái tình là để chiếm đoạt hay ăn trộm tài sản vật chất: tiền bạc, sức mạnh, sắc đẹp, kỹ thuật hay trí thức. Còn ái tình ở xứ chúng ta, thì của cho ai không cần đền đáp. - Vua “kinh tế” có phải là đại nghiệp chủ không? - Phải, ấy là một lầm lỗi lớn khi chúng ta gọi “Hoàng đế nước Thiên Quốc”. Tiếng “Hoàng đế” có nghĩa là có sức mạnh về chính trị, kinh tế và độc tài”… - Thế là đây cũng trái ngược với ông vua của nước chúng ta. Vua nước chúng ta không có lâu dài, quân đội, mà chỉ có một mái nhà để nước mưa khỏi dột xuống phòng ngủ, chỉ có thực phẩm đơn sơ để ăn cho khỏi chết đói. - Vua “kinh tế” Tây phương là một kỹ thuật để sống phong phú và phung phí còn kinh tế của nước chúng ta là một kỹ thuật sống, đời sống sáng tạo, nghèo khó và khó khăn: Như đói khổ, lạnh, nóng, lao động cực nhọc.. làm việc cho có tiền để cung cấp cái ăn cái mặc cho trẻ con xóm giềng… Để truyền bá lý thuyết vô song nguyên lý, là cái đảm bảo hạnh phúc trường cửu, tự do vô tận, công bằng tuyệt đối… - Nhưng ở Tây Phương đây, ai ai cũng có rất nhiều đồ vật dụng, bàn ghế, tủ kệ, rất nhiều đồ mỹ thuật, tranh treo đầy tường, chén bát cổ, đồ nấu ăn xưa, cho đến những giầy dép cũng để đầy ở phòng khách và phòng ăn. Nhà bà A và nhà bà B. như là một tàng cổ viên. Những đồ vật ấy rồi sẽ bị tiêu diệt. Nó là đồ chiếm hữu độc quyền, độc đoán cướp trộm đủ mọi cách và tất cả mọi cơ hội. Chiếm quyền sở hữu và cất giữ những sản vật phù ba vô ích ấy, nó chỉ xui giục thêm lòng thèm khát ganh ghét, có khi còn gây thêm tai họa nữa? - Mình nói rất phải, nhưng chúng ta đang ở đây là xứ Tây Phương nghĩa là ở xứ hoàn toàn đối nghịch! lý luận của chúng ta không có giá trị gì hết. - Ai cũng có của rất nhiều, các bà A. và các bà B. Còn giàu hơn những người đại phú ở nước chúng ta. Ở nước chúng ta không có ai khoe của, ai có cái nhà đẹp, thì luôn luôn có cái phòng đệp nhất để dành tiếp rước bạn bè hay khách lạ không được phép chưng bày những đồ mỹ thuật không có bàn ghế, chỉ trừ một cái bàn gỗ có để một bình cắm hoa hoang dại theo mùa, ngoài ra không có gì nữa. Nơi đó không phải là một viện bảo tàng, chứa đầy những vật kỉ niệm chết. Đứng trước cảnh tượng ấy chúng ta bị chết ngộp vì mùi ghê gớm những thây ma dục vọng, biển lận của những kẻ sống, đời sống bóc lột xâm chiếm của những kẻ khác. Và chính những bà cất giữ vật kỷ niệm ấy, cũng như những đồ mỹ thuật đã cũ rích và những xác sống ép khô đã bị biến thể bởi bệnh phong thấp và các bệnh phong tình… - Tuy nhiên, họ cũng biết câu tục ngữ của chúng ta “người giàu lên được thiên đường còn khó hơn con lạc đà chui qua lò trôn kim”. - Người ta càng giàu có ở thế giới tương đối bao nhiêu, thì càng nghèo khó ở thế giới vô tận, vĩnh viễn và tuyệt đối bấy nhiêu. Người ta càng giàu nhất hoặc về kinh tế, hoặc về tài năng, lại càng nghèo khổ về tinh thần và trí tuệ nhiều hơn. - Mình thử xem hai đoạn mà người con tinh thần chúng ta đã cắt trong một tờ báo. Đây là một chứng minh về kinh tế của vô song nguyên lý. Đoạn thứ nhất chỉ cho chúng ta biết, văn minh đã làm thế nào để giết chết dân tộc tối cố. vô tội, can đảm, và lương thiện bằng cách khai thác tài nguyên rồi bồi thường lại bằng các thứ rượu độc sự thống kê cũng chưa được hoàn toàn, còn cách đầu độc khác nguy hiểm hơn: Đường sữa đặc, choclat, kẹo, bánh, bánh sữa, nước cái cây ép bằng hóa học, có pha màu hóa học môi trường bệnh ung thư, những chất này khi vào thân thể sẽ biến thành rựợu hết cả. Đoạn thứ hai còn vui thú hơn nữa, nó tỏ cho chúng ta biết những vật thực nuôi binh lính tổn hao biết chừng nào, và đồ thực phẩm ấy có hại cho sức khỏe binh lính biết bao nhiêu. Hơn nữa, sau khi “hòa bình” rồi, người ta cần chi phí hằng tỷ bạc để giáo huấn, biến hóa những người dân thái cổ ngây thơ, hiền lành và can đảm trở thành dân văn minh giả hiệu, lờ mờ, độc ác và bất lương và lập nên những bệnh viện để chữa bệnh cho dân bản xứ tối cổ nạn nhân của rựợu, đường, bánh ngọt và sản phẩm thú vật chế tạo, sản phẩm kỹ thuật hóa học chế tạo… - Kinh tế phong phú, kinh tế lạm dụng, tạo nên và tăng thêm tiện nghi, thích thú, đó là đời sống tân thời đến mức độ cao nhất. Tiện nghi và thích thú càng kích thích cuộc sống vật chất ham chuông nhục dục, nó phát sinh ra tất cả mọi tội lỗi và nhờ sự giáo dục chuyên nghiệp và giao thông nhanh chóng mà những tội lỗi ấy biến thành trí thức hơn, kỹ nghệ hóa, quốc tế hóa hơn.Rút cục chỉ làm cho nhân loại chết chóc mà thôi. - Trong nền kinh tế phong phú, và nền kinh tế “mái nhà đủ che nắng mưa dột, cái nào hơn? - Thật khó xác định,Gandhi phủ nhận cái thứ nhất, nhưng đồ đệ ông ta cố gắng thâu nhận nó… - Người ta có thể thu nhập “văn minh” nếu họ đừng quên “vô song nguyên lý” của chúng ta… TRÁI CÂY Kết Luận Các Y Sĩ và những người phàm tục chỉ trích tôi, họ nói rằng: 1/ “Tại sao ăn trái cây không tốt?” Nhưng tôi đâu có nói như thế. Trái cây tốt và rất ngon, tôi không phủ nhận điều ấy. Tôi ưa thích và quý chúng nó lắm. 2/ “Tại sao người ta không nên ăn trái cây?” Nhưng tôi không nói lời nào như thế. Tôi chỉ nói rằng “Không nên ăn một số trái cây trong một vài trường hợp nào đó” mục đích y thuật Viễn đông là để biến đổi một bệnh nhân thành một người tự do để có thể ăn uống theo ý muốn của mình, bất kể món gì, cho đến thuốc độc nữa. 3/ -“Tất cả cải gì sinh ra và là để cho người ta dùng người ta có quyền hưởng thụ thảy”. Đó là một lý luận hoàn toàn tự kỳ trung tâm, độc chiếm, có phân kiêu căng ,ích kỷ. Chúng ta tha thiết có nhà triệu phú để di sản lại cho một kẻ thừa kế. Người này có quyền lạm dụng và cũng không tự đầu độc. Nếu tất cả cái gì sinh ra là để hiện cho người dùng, vậy ta có thể vui vẻ thu nhận hết thảy mà không phân biệt gì cả chăng? Trước hết, ai là kẻ nhân chứng xác nhận rằng, tất cả vật ấy là sở hữu của bạn ? hay là người ta có thể thừa nhận các thứ vi trùng, độc chất nguy hiểm, những bọn trộm cướp, cũng đều cho như là ân nhân cả được chăng? 4/ SAINT PAUL có nói rằng, tất cả cái gì chúa trời đã ban cho con người đều là tốt cả, và không có món thực phẩm nào đáng kiêng kỵ . Câu nói ấy rất đúng . Nhưng những loại trái cây đã sinh ra đó có phải chỉ độc nhất để cho con người dùng mà thôi sao? Trái cây có phải vì con người mà sản sinh ra sao? Ai chứng minh điều đó ? các loại cầm thú khác không có quyền ăn trái cây sao? Tất cả các trái cây người ta ăn hiện nay có phải do con người chế biến ra một cách nhân tạo để kiếm tiền không? Nếu theo luật công bằng mà phân phát, thì mỗi người mỗi năm các bạn ăn được bao nhiêu trái táo? Các bạn nói mỗi năm ,các bạn chỉ ăn 4% nho trái ở Pháp còn bao nhiêu thì để dùng làm rượu vậy là mỗi mùa các bạn tiêu thụ đến 2500% nho trái, các bạn sẽ có 25 lần nhiều hơn trẻ con đẻ thiếu tháng và có 25 lần nhiều hơn trẻ con bị bệnh “biến thể” và có 25 lần hiều hơn trẻ con bị bệnh bại . không tin lời tôi, các bạn cứ tự điều tra rồi sẽ biết. Sau hết, tôi rất lấy làm ngạc nhiên với sự phán đoán thấp kém, ích kỷ, độc chiếm, ấu trĩ của những người chăm chú vào thuyết ăn trái cây và những bọn a tòng mù quáng, do ở đâu mà tri giác bị mờ ám như thế? Hiệu quả dùng trái cây để chữa một bệnh nhân ăn thịt quá nhiều là một phát minh rất vẻ vang đó là thiên tài của y sĩ CARTON. Chúng ra nên ghi nhớ luôn luôn điều ấy, nhưng đồng thời chúng ta cũng phải nên cải thiện cho hoàn hảo thêm một phát triển lý thuyết của ông ta ra, chứ không nên bắt chước một cách mù quáng. Điều phát minh ấy chúng ta nên biện giải theo phương pháp khoa học. Các Y Sĩ và các bệnh nhân bắt chước và lặp lại sự phán đoán của người khác như cái máy hát một cách mù quáng như thế, thật tôi không sao hiểu được. Đó là Y Sĩ máy nói và bệnh nhân máy nói…! Tại sao mà có nhiều máy nói như thế? “Bởi vì sinh viên y khoa đều kém tư cách, không hạn định tuổi nhập học. Đến 30 tuổi, sau khi đã trượt vỏ chuối nhiều keo trong 12 năm liền học sinh còn cầu may thi vào trường Y khoa”. Người ta nói rằng, các sinh viên y khoa trong số người có thể bị tự nhiên đào thải. Người ta nói thế, nhưng tôi không thể tin… Vậy thì sự nan giải độc nhất không thể tưởng tượng nầy đâu mà có? “Vì sao trái cây đều tốt?” “Nó tốt vì nó theo cảm giác của chúng ta”… “Thế thì theo kinh nghiệm ư? Có chứng minh được bằng cách khoa học không?” “Nhưng biết bao loại thú vật ăn trái cây mà vẫn mạnh khỏe”. “Vậy các bạn có vui lòng đồng hóa với loài khỉ với trình độ tri thức như chúng nó không?” “Những trái cây sinh ra để người dùng, thì người ta có thể “ăn uống được” “Vậy con người phát minh lửa để làm gì? Các bạn có muốn tân diệt sự khác biệt giữa cái văn minh của con người với đời sống của thú vật ở rừng núi hay thổ dân không?” “Nhưng chất sinh tố C rất quý cho con người biết bao” “Toàn loại sinh tố C là cái gì các bạn không biết.Rất nhiều chứng bệnh đặc biệt như: đau tim, suyễn, vẫy cá, cơ thể dị ứng, đều do ăn nhiều trái cây và rau sống mà sinh ra cả đó sao? - A! Trí phán đoán cổ hủ quá! Đó là trí phán đoán ở giai đoạn thứ hai, gọi là “cảm giác” hay là “mê tín” óc phán đoán của người thông minh làm tôi rùng mình. KẾT LUẬN: Điều mà ông Jack muốn nói về chuyện ăn chay và ăn trái cây, theo tôi tưởng, có thể tóm tắt mấy hàng như sau: Những người bản chất quá DƯƠNG, có thể dùng trái cây được vì nó sẽ vô hiệu hóa những cặn bã độc hại của chất thịt mà họ đã ăn lâu năm. Ăn trái cây với trường hợp này thì rất có hiệu quả. Còn những bệnh nhân bản chất quá ÂM, lại ăn uống vật thực nhiều ÂM, ăn đồ thảo mộc quá nhiều ,trái cây, đường hay là chữa trị đã lâu ngày bằng dược phẩm có chất hóa học, chứa nhiều chất ma túy, thoan chất sinh tố, sinh tố B2, B1, H, B12, hoặc Nicotinsaureamide v..v…Những bệnh nhân này thì cấm tuyệt không được ăn trái cây. Người ta có thể kiểm soát rất dễ dàng hậu quả về sự bành trướng ÂM của trái cây. Các bạn thử cho 1 đứa bé có khuynh hướng đái dầm ăn nhiều trái cây thì ngay đêm đó đứa bé sẽ đái dầm. Các bạn lại cho 1 người đàn bà mang thai ăn nhiều trái cây thì người đàn bà ấy sẽ sinh thiếu tháng và đứa bé mới sinh sẽ bị chết ngay. Người đàn bà nào thường ăn trái cây thì sẽ không sinh đẻ được 90% người rụng nhiều tóc là vì thích ăn trái cây . Người nào không hay ăn trái cây mà bây giờ ăn một trái mận hay một trái đào, thì qua ngày mai, khi chải tóc sẽ thấy tóc rụng 10 lần nhiều hơn. Kẻ nào ăn trái cây hàng ngày sẽ mất hết tính ham muốn tình dục. Kẻ nào nguyên bản chất ÂM hoặc nhiều hoặc ít, bởi dòng dõi hay bởi hay ăn đồ trái thì mất luôn tình dục, tính tình càng ngày càng trở thành mềm yếu, và cho tình dục là đáng ghét, đáng ghê tởm. Khi dân cư của một công xã, hay của một xứ nào đều ăn trái cây, thì trên bản đồ nhân khẩu học ta thấy dân số giảm một cách rõ ràng. Số người đau bệnh tê bại, thân hình biến thể, tì lệ với số cây ăn quả, số trái cây sản xuất, tiêu thụ , hay nhập cảng. Mùa đau bệnh tê bại phù hợp với mùa sản xuất trái cây. Tại Hoa Kỳ, bệnh tê bại (poliomelite) lưu hành trạng thái một bệnh phong thổ riêng của xứ ấy, để bài trử độc chất của bệnh, người ta dùng máy bay rải bột hóa học D.D.T, xem như một trận tuyết đổ trắng xóa, bao phủ cả thành phố Nhưng phải biết rằng, chính bệnh ấy là do người buôn trái cây khắp đường phố mà phát sinh ra. Những loài đại tinh tinh và loải khỉ, đều là giống Homosapiens biến thái. Kẻ nào ưa thích và thường hay ăn nhiều trái cây, thì dần dần trở nên nghi hoặc, ghen ghét, sợ sệt, lưỡng lự, và nhát lạnh, rút cuộc mắt bệnh đau tim Đàn bà ăn nhiều trái cây tử cung biến thể, kinh nguyệt không đều. Những bệnh ung thư, cũng đều do ăn bánh kẹo và thường xuyên hay ăn trái cây. Và trái cây không có nhiều nhiệt lượng. Về phương diện kinh tế và canh nông, không nên khuyến khích sản xuất trái cây. Nếu người ta biến các vườn nho nước Pháp thành các cánh đồng trồng ngũ cốc, thì nước Pháp mỗi năm sản xuất được hàng triệu tấn ngũ cốc và không cần nhập cảng nữa. Ông Jack khuyên các bạn muốn chứng minh lý thuyết của ông ta có đúng không, các bạn hãy thử ăn hay cho một vài người ăn hàng ngày một số trái cây (một trăm hay hai trăm gramme) thì trong thời gian rất ngắn, các bạn sẽ thấy khuynh hướng bệnh tim, áp huyết cao phát hiện rõ ràng. Ông thường hỏi thăm tin tức công việc trồng hoa quả ở Âu Châu, về sự tăng gia diện tích trồng cây ăn quả, về sự tăng gia hàng năm số lượng trái cây sản xuất và số người mới gia nhập đầu tiên vào việc ăn trái cây, để biết các khuynh hướng ấy có thật có vài lợi ích, không phải là lành bệnh tạm thời mà có kết quả lành bệnh tận gốc không. Nếu thấy không có lợi ích và kết quả sâu xa và trường cửu, thì ông ta mổ bụng tự tử. NHÀ THỜ - Y KHOA Y DƯỢC Chúa Trời, Chúa Trời là cái gì? Ở đâu? Hai người Thiên Quốc du lịch này, thường ngày nhất là ngày chủ nhật, trong khi đi dạo chơi, thường thấy nhiều người đi vô nhà thờ này, lắm kẻ ra nhà thờ nọ, điều đó làm cho hai người rất lấy làm lạ. - Vì sao người ta đến nhà thờ? Vì sao Ông Jack nói tôi không sao hiểu tâm trạng ấy được. - Khi ở nhà thờ đi họ có sung sướng không? Họ đi cầu nguyện mà Chúa Trời họ không hoàn toàn biết. Và họ rất sung sướng tuồng như Chúa đã nghe lời cầu nguyện của họ… - Thật là kỳ quái, dù họ là kẻ trí phán đoán ở bậc thấp kém, ta cũng phải lấy làm lạ, dù là họ đi cầu nguyện với ông Chúa mà họ là tin ở chỗ xa xôi, trong khi họ vẫn thừa nhận Chúa Trời : “Bậc phán đoán cao siêu” thì có thật. Nhưng đây là xứ sở của người “văn minh da trắng” và người ta đang ở vào thời đại gọi là khoa học và duy vật, không hay biết gì về hiện hữu của Chúa Trời. - Đây là kết quả của các mục sư truyền giáo trong nhiều thế kỷ, mà chính họ cũng không biết ai là Chúa Trời, và ông ở đâu, và cũng không biết rằng một vài người tới lui nhà thờ chỉ có một quan niệm mơ hồ hay là một ý tưởng cụ thể, để tìm một sự hỗ trợ về tâm lý. - Chúa Trời không chi khác hơn óc phán đoán cao siêu của chúng ta. Đấng cấu tạo vũ trụ ở hòn đảo nhỏ Thiên Quốc chúng ta không là mục tiêu để xin xỏ. Người nào biết Chúa thì biết tất cả. Người nào không biết Chúa, thì chỉ một mặt cầu xin, ăn mày, ăn trộm còn muốn ăn trộm chính cả Chúa nữa. - Nếu họ thành công, đó là ăn trộm một đặc quyền của Chúa, là trí phán đoán cao siêu. Khí cụ thiêng liêng khi vào tay kẻ trộm hóa thành một tà thuật. Vậy nhà thờ Tây phương là vườn ương giống thầy phù thủy có thế lực. Nhà thờ là nơi phát sinh ra sự mê tín. Kẻ nào thường hay đến nhà thờ, đều không bằng lòng với phát minh tạm thời. Họ còn keo kiệt hơn kẻ văn minh khác nữa. Đó là hạng ăn mày cực xấu tệ. họ còn phạm nhiều tội hơn cả khoa học. - Mình sao quá vội vàng, không nên chỉ trích ai cả, không nên phê bình ai hết. Vô song nguyên lý là một lưỡi gươm để tự sát như lưỡi kiếm của võ sĩ đạo Nhật Bản vậy.Nếu chúng ta không thể cứu vớt những kẻ khốn khổ vì phán đoán thấp kém, thì chỉ nên qui tội về sự bất lực của chúng ta mà thôi. - Đồng ý. Điều mà chúng ta phải làm trước tiên ở xứ phương Tây, cái xứ rừng thú gọi là “văn minh” này là kêu to lên: các anh phải nghe theo Vô song nguyên lý.Lý thuyết ấy nó sẽ giải thoát cho ta khỏi tất cả mọi sự đau khổ, tất cả mọi sự hoạn nạn, nó lại bảo đảm cho ta những tự do vô tận, hạnh phúc trường cừu, và công bằng tuyệt đối nữa. Đó là một biện chứng pháp thực dụng, một luận lý phổ quát bao gồm cả luận lý hình thức. Đó là điều ngày xưa người ta gọi là Chúa Trời. Đó là sự cấu tạo của vũ trụ, chính đó là Thần Linh. - Hôm nay mình có tài hùng biện lắm, bữa qua mình có ăn gì lạ không? - Cũng ăn đồ ăn như thường ngày, chứ không có món gì khác. Nhưng mình ,tôi thấy một hôm mình quá ÂM. Hôm qua mình có uống một ly rượu Champagne ở nhà bà C. Còn tôi thì tôi không uống… một giọt nước cũng không. Tôi đã nhịn đói. - Phải, mình đã nhịn đói. A, nhịn đói và cầu nguyện cần phải học hỏi chân lý, sự cấu tạo của vũ trụ, ở trần thế này còn có cái gì đáng học hơn nữa. Tất cả giáo dục ,tất cả cao đẳng học thuật về khoa học hay triết học đều vô ích và có hại, nếu không hiểu biết về chân lý về vũ trụ quan và nhân sinh quan. Lấy tư cách là Y Sĩ làm sao để cứu chữa một bệnh nhân? Làm sao có thể xét đoán một con người? Xét đoán là biết nguyên nhân tối hậu để giải thoát cái nguồn gốc tội lỗi. Ngoài chân lý, xét đoán nghĩa là trừng phạt. Sự trừng phạt ấy không bao giờ hết tội được. Giáo huấn mà không biết chân lý duy nhất, đó là đào tạo tội nhân tri thức. Làm chính trị mà không biết luật vũ trụ, ấy là bóc lọt nhân dân lao động, bằng cách hút máu, hoặc do sự đánh thuế hoặc do hi sinh tính mạng: chiến tranh. - Đó là tội phạm của nhà thờ, đã bỏ qua từ bao thế kỷ, không tuyên huấn Vô song nguyên lý của một tôn giáo Viễn Đông! - Hay là từ khởi thủy. - Nhưng tại sao những kẻ ấy lại đến nhà thờ? - Đó có lẽ là vì nhớ cảnh trí. - Thế thì cũng gần giống như đi thăm nghĩa địa? có phải là mục đích đi dạo mát, hay tìm niềm an ủi hay là đó cũng là do tính cách cảm tình?... Đó không phải là sự biết ơn sâu xa hay là hối hận nồng nhiệt, cũng không phải là để nhận thấy đời sống ở trên trần ai, là quá mỏng manh, vô định và vô thường. - nhưng có một điều lạ nhất, ấy là điều thanh niên thanh nữ xã thân theo đạo chú tâm hoàn toàn vào một tôn giáo, họ từ bỏ tất cả lạc thú gia đình hay hôn nhân, và từ bỏ tất cả tiện nghi ở đời. Điều đó có phải là lạ lùng không? - Phải thật thế, đó có phải là lạ lùng lắm không? ở nước Thiên Quốc, Nhật Bản hay ở Trung Hoa, không khi nào có những sự kiện như thế … - Vậy có phải vì tính cách cảm tình không?.. - Có lẽ …hay là một cuộc cách mạng tinh thần chắc chắn bởi phản ứng chống lại quá ÂM, mà cha mẹ chúng quá DƯƠNG (ăn thịt quá nhiều) đã di truyền cho chúng. Nhưng tóm lại, phải lấy làm buồn mà trông thấy bao nhiêu thanh niên nam nữ chuyên chú vào chốn tăng lữ, đành xây lưng lại với cái xã hội duy vật, kinh tế khoa học và tư bản, trốn tránh những thăng trầm thế sự, mà chỉ có trải qua chốn ba đào này mới có thể tìm được con đường chân chính và duy nhất, con đường có thể hướng dẫn đến cõi hạnh phúc trường cửu. - Có lẽ ta vào đại học đường thì hay hơn ? - Không ở đó còn tệ hại hơn nữa. - Vì sao vậy? Nghiên cứu y thuật đối chứng trị liệu, là một môn tiêu diệt nhân loại, hoặc hủy hoại tự nhiên tuyển trạch là cái làm cho chúng ta được thêm mạnh, hoặc bắt buộc chủng đậu, dùng thuốc trụ sinh, lấy bộ phận cơ thể nhân tạo thay vào như : răng, con mắt, thận, tim, ruột, hoặc mổ xẻ chảy máu… nghiên cứu sách vở tôn giáo … - Sự thí nghiệm giết người bằng lý hóa học, sinh vật, hóa học, y học, hay chính trị học, nó bi thảm cho thanh niên thanh nữ, nhưng còn hơn sự nghiên cứu tôn giáo. - Vì sao vậy? - Bởi vì tàn sát độc ác cấp thời ít đau đớn hơn là đầu độc trì hoãn… hay là kéo dài ngày trông đợi của một người bị xử án tử hình. - Từ ngày chúng ta đến Âu Châu, mình đã hơi trở nên một người tàn nhẫn mình gần Âu Hóa rồi chăng? - Nhưng tôi chỉ mới được 2 lần ăn tiệc tại nhà hàng ngươi Pháp mà thôi… - Chúng ta trông thấy biết bao nhiêu người hung ác và tàn nhẫn ở các đường phố, hoặc ở trong xe điện ngầm. Nhất là mấy phụ nữ điệu bộ nam nhân, biểu lộ một tâm lý trái ngược, nói la ồn ào, khó chịu, dữ tợn. có phải những phụ nữ này đã phá hủy nhiều ít tính tình tao nhã, kiều mị, lịch sự của phái phụ nữ chúng ta rồi không? - A! tôi còn nhớ… cách đây vài tháng, chúng ra có đến viếng một bệnh viện lớn chuyên trị bệnh thần kinh, ở tại miền núi xa. Đó là một tòa nhà lộng lẫy , chính là một tòa lâu đài tân thời, xây cất bên một cái hồ lớn có phong cảnh tuyệt đẹp… Đứng xa trông, người ta tưởng đó là cửa vào thiên đường … - A! tôi còn nhớ, thật buồn quá. - Và có bà tu sĩ mặc áo trắng đứng chỗ ngưỡng cửa đi vào nữa? - Bà ấy nhất định xua đuổi chúng ta với một giọng nói lãnh đạm, oai nghiêm… - Bà ta đã tuyên bố: “Hai người không được vào xem bên trong nhà này”. - Mình có xin phép vào thăm một Y sĩ, có phải không? - Phải đúng như thế. Rồi bà ấy trả lời: “Không có y sĩ nào ở đây cả”. Câu trả lời làm tôi ngạc nhiên, tôi hỏi lại: “Vậy ai chịu trách nhiệm chữa trị bệnh nhân?” - Rồi sao nữa? - Bà ta nói: trong bệnh viện không có ai hết, chỉ có một viên Y sĩ ở tại tỉnh lỵ thỉnh thoảng lại thăm…Ở đây không cần Y sĩ. Các bệnh nhân đều “ nan y” cả. Rồi bà ta đóng cửa lại. -Trước mặt mình? -Người ta xem các bệnh nhân khốn khổ không khác gì một tội phạm bị án tù chung thân, không có ai chăm nôm ,chăm sóc đến cả .Cũng vì thế mà các ông như Schumann Meier chết như một tù nhân … - Y sĩ gì mà độc ác thế? - Không những các Y sĩ độc ác đối với bênh nhân, mà đến cả cha mẹ bệnh nhân cũng từ bỏ không thèm ngó đến nữa . Thật ra không phải là hung ác mà chỉ vì ngu si, bất lực, vô ý thức của y thuật Tây Phương, và tự kỷ trung tâm của trí phán đoán thuộc giai đoạn hai. - Không có Y Sĩ nào trị lành bịnh tinh thần sao? - Tôi không nghe ai nói đến điều này. - Nhưng nước ta, bệnh này đều trị lành cả, mình đã chữa hàng trăm bệnh… Mình thường nói rằng bệnh tinh thần thuộc về giai đoạn 3 của chứng bệnh con người, vậy thi so với các bệnh thuộc giai đoạn 4 và giai đoạn 5 hay giai đoạn 6, thì bệnh giai đoạn 3 rất dễ chữa đặc biệt là bệnh trúng phong, theo phương pháp tiết thực chúng ta thì chỉ trong vài ngày là bệnh có thể lành hẳn - So với bệnh tinh thần, thuộc giai đoạn 7 (kiêu căng nhị nguyên) thì càng dễ lắm. Nhưng rốt cuộc Y thuật phương Tây là đối chứng trị liệu. Vả chăng triệu chứng bệnh thần kinh không thể thấy được nên không thể trị lành. Đó là nguyên do sự hung ác của bệnh viện ấy. Sự hung ác là một đứa trẻ ghê gớm của trí phán đoán thấp kém. - Sự độc ác cai quản tất cả cách trị liệu của Tây Phương…Họ công phạt triệu chứng, hủy hoại, tàn sát vi trùng, độc chất, ký sinh trùng, cưa cắt tay chân, mổ xẻ các cơ quan bị đau hay không đau… - Đó là chỗ hơn kém của y khoa đối chứng trị liệu pháp. - Vì sao có ưu điểm? - Bởi vì họ chữa cấp thời triệu chứng. Tôi không phục phương pháp giải phẫu cấp tốc ấy, tôi mong họ phát triển và áp dụng đến cực điểm, cho khắp nơi và cho tất cả mọi bệnh tật …Cắt trái tim bị đau, óc não, trái thận, phổi, gan…là thúc giục cho phương pháp đối chứng trị liệu mau sụp đổ thảm hại… - Hay nói đúng hơn, là tận diệt nhân loại…? - Không phải, sự sụp đổ y khoa, sẽ thức tỉnh trí phán đoán cao siêu của con người. - Nhưng còn nhiều xưởng lớn chế tạo dược phẩm.. Mình còn nhớ ông giám đốc 1 công ty chế dược liệu bị đau tim từ 10 năm rưỡi, sau khi dùng tất cả số dược phẩm của ông ta chế (đã bán ra hơn trăm tỷ) và sau khi được những Y sĩ có danh tiếng trên thế giới điều trị mà vẫn vô hiệu quả kia chứ? Dược phẩm của ông ta đều vô hiệu, nhưng đều bán chạy được hết….Và ông giám đốc ấy rất kiêu căng và rất ngạo mạn! |
|
|
![]()
Bài viết
#6
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
- Phải……Nhưng…Sự suy sụp Y khoa cũng có thể làm cho nhân loại suy vi mau chóng dưới một hình thức khác: bệnh tinh thần và tâm linh
- Cuối cùng, y khoa sẽ đi đến đâu? Nó đưa nhân loại đến chỗ nào? - Y khoa . và cả dược khoa nữa sẽ đi đến chỗ sụp đổ hoàn toàn. - Cái đó sẽ mất nhiều năm. CHƯƠNG IV THÀNH PHỐ VERDUN Ở Trung Hoa có câu nói rằng: Chúng ta nên đợi trăm năm hoặc vài trăm năm nữa, nước sông Hoàng Hà có ngày sẽ trở thành trong biếc. Chúng ta hãy kiên nhẫn. Trời bao phủ nhiều mây. Ông S. lái chiếc xe “Versaille”, trong ấy có hai người Thượng Cổ. Ông S. bấm nút lò sưởi trong xe để ngồi cho ấm. Ở ngoài trời rất lạnh. Xe chạy 120 cây số một giờ, êm thấm không nghe tiếng kêu, đi qua một cánh đồng hoang phế mênh mông, trọc trụi dị kỳ, không có rừng cây đẹp như các nơi khác, cũng không có một con sinh vật nào. Đây đó, những chóp núi đằng xa, dập dờn màu xám, trông thấy dựng lên những khối lớn đen, hình vuông đẹp: Những bia kỷ niệm chiến tranh. Những đám mây u ám hạ xuống rất thấp, và tiếp giáp đến chân trời khi đến một khúc quẹo, bỗng nhiên trông thấy một cánh đồng phủ đầy hoa trắng … Xe chạy chậm, người ta thấy cánh đồng rõ hơn, hoa nở trái mùa. Sự thật đó không phải là hoa, mà là hàng ngàn cây thập tự giá trắng, dưới ấy là nơi an nghỉ ngàn năm của các binh lính. Chỗ ấy là nghĩa địa trong trăm cái nghĩa địa của trận VERDUN. Qua một đường quẹo khác, không thấy nghĩa địa nữa Xe đậu lại trước một đài kỷ niệm lớn bằng đá màu xám, ở giữa đứng lên một cái tháp vuông bề cao 40 mét. Bốn mặt cái tháp ấy, xây 4 cây thập tự giá nổi lên trên chóp đài kỷ niệm, tối nào cũng có đèn pha từ Douaumont chiếu đèn đỏ, trắng, sáng khắp cánh đồng mênh mông, để canh gác suốt đêm cho vô số các trận vong chiến sĩ … Hầm hài cốt Douaumont, trung tâm mộ địa khô khan của đài kỷ niệm ấy, mặc dù đã lâu 40 năm rồi, nay vẫn còn biểu hiện dấu tích chiến tranh, một cuộc tàn sát vô cùng tàn bạo. Tất cả mọi người, đàn ông hay đàn bà, trẻ con hay người lớn, ít ra là một lần hay nhiều lần, hay hơn nữa mỗi năm một lần, đến đó để xem cho hiểu biết và học hỏi cái nghĩa “chiến tranh” nó ra thế nào. Cần nên biết hòn núi hài cốt ấy: tay, chân, sọ bể hãy còn nguyên, cóp nhặt ở một trong 36 khu của mặt trận Verdun. Những hài cốt ấy, chồng chất đầy trong những hầm quan tài chạy dài theo hành lang hai bên, và dưới chân của bốn phía tháp, có 18 hộc chia đểu hai phía tả hữu. Những sọ, tay, chân ấy … tất cả hài cốt ấy, xưa kia đều là những binh sĩ anh dũng trẻ hoặc già … và tất thảy binh sĩ ấy đều tưởng nhớ đến cha mẹ, vợ con bạn bè là những người cũng trông đợi họ, với tương lai sung sướng và quá khứ đằm thắm vui tươi … và họ tưởng nhớ như vậy cho đến ngày lâm chung. Nhưng họ đã bị bỏ rơi. Những chiến sĩ (độ 160.000) được lượm xác đều chôn tại một trong 40 nghĩa địa Pháp, hai nghĩa địa Hoa kỳ, hoặc 29 nghĩa địa Đức Hai người Thượng Cổ cảm động, đi theo một cựu chiến binh dẫn lộ, đi qua những nhà cầu tối om, ẩm ướt, trơn trượt, dễ sợ, những đường hầm có vách tường ngăn những nhà hầm đỡ đạn, bệnh xá, phòng sĩ quan … đồn lũy … Vài giờ sau, hai người ngồi một chiếc xe hơi của một người con tinh thần của họ. Anh sinh viên này ở Đức đã từ hai năm nay, lái xe đưa ông bà về Paris. - Được đến viếng thăm Verdun, bãi chiến trường, và đường hầm có nhiều từng ấy, chắc mình vui lòng nhắm mắt nhỉ? - Phải … từ bốn mươi năm nay, tôi chưa từng du ngoạn những thắng cảnh mà kẻ du lịch thường hay tới lui như tháp Eiffel chẳng hạn, nhưng có ước vọng được đến thăm Verdun. Mộng tưởng ấy ngày nay tôi đã đạt được. - Và chúng ta đã thấy những gì? - Tôi đã mục kích cái vĩ đại và cái huy hoàng ảm đạm của trí phán đoán thấp hèn, mù quáng, cảm giác, cảm tình và lý trí ấy, không thể tưởng tượng lại có những cánh đồng chất đầy xương cốt, rộng hàng ngàn mẫu đất. - Ấy là trí phán đoán ảo ảnh của con người. Thật buồn quá! - Đã có 160.000 nấm mồ chiến sĩ trận vong, trong khoảng 4 năm. Ngày 6 8 1945, ở Đồi Mã, lại có một đống hài cốt hơn 200.000 bị giết chết trong nháy mắt. Và bây giờ người ta còn đương tiếp tục viết trang lịch sử bằng máu như thế nữa. Người ta chuẩn bị chiến tranh. - Hơn nữa chiến tranh vẫn tiếp tục luôn luôn … tại Tunisic, Maroc, Algérie, Chypre, Suez, Kenya… - Chúng ta có đến viếng ở tại trong xóm Holzinhaus, Shwarawald, chỉ đếm vỏn vẹn có mười một nóc nhà, mà cũng có một cái đài kỷ niệm nhỏ, mình còn nhớ không? - Phải, nhớ rồi, tôi còn nhớ được lúc mình đứng lại chiêm ngưỡng rất lâu trước cái đài kỷ niệm 10 chiến sĩ tử trận ấy, thì có một ông già lại gần nói rằng, ông ta bị mất một đứa con một trong trận chiến tranh. - Phải đó. - Trông thấy óc phán đoán thấp kém của con người mà buồn quá! Tại sao không có một người nào trí phán đoán cho cao thượng minh mẫn hết cả, - Đó là trường hợp của hàng triệu triệu người. Trí phán đoán của nhân loại hoàn toàn bị che lấp. Phần cao siêu và duy nhất bị mờ ám. - Đến bao giờ trí phán đoán cao siêu mới lóe sáng? E nó không đời nào có chăng? - Ánh mặt trời phán đoán cao siêu của chúng ta chói sáng từ vô thủy, và mãi mãi, nhưng bị mây mù che lấp mất ánh sáng của nó. - Mây và sương mù ấy là cái gì? - Nó là giáo dục đui mù, chuyên nghiệp, cảm giác, cảm tình, lý trí, xã hội, lý tưởng, hoàn toàn tự kỷ trung tâm, độc chiếm, của người Tây phương hay là Duy Tân chủ nghĩa. - Chúng ta không có một học đường, cũng không có một Đại học viện nào dạy: “Die Wharheit Wird euch machen frei” bởi thế nên chúng ta không có chiến tranh. - Ấn Độ, Trung Hoa và hàng ngàn quần đảo ở Thái Bình Dương, trước khi bị người “văn minh” xâm chiếm, cũng không hề biết chiến tranh… - Thế thì ta đóng cửa lại, đừng cho người “văn minh” vào? - Không được. - Tại sao thế? - Bởi vì nếu chúng ta xua đuổi không cho họ đến, thì họ dùng vũ lực đánh chúng ta. Mà bế quan tòa cảng là nhị nguyên tính rồi. Chúng ta tiếp đón họ hình như bậc người phán đoán cao siêu phái đến. Ấy là nguyên lý của chúng ta, nguyên lý của tất cả người Viễn Đông. Vì vậy các dân tộc này tiếp đón họ rất nồng hậu, sẵn sàng để cho họ tùy nghi sử dụng tất cả, đối với họ như vai đàn anh, như bậc thầy, như người ân nhân cũng như kẻ khốn khổ, cho đến khi người da trắng bạo dạn, hung dữ, bất nghĩa, keo cú, loạn sắc, đối xử lại với tâm trạng “cổ lổ” chiếm đoạt tất cả tài nguyên lấy làm của tư hữu, đồng hóa người “Thái cổ” với kẻ ngu dốt, bóc lột nhân dân lao động xem như hạng tôi mọi. Người da trắng dựa trên sức mạnh tàn bạo, thiết lập pháp luật một cách rất dễ dàng, bởi vì người “Thái cổ” thường tuân theo pháp luật, mà bản tánh thiên nhiên của dân này chỉ biết tuân theo pháp luật duy nhất, là pháp luật “cấm kỵ” bất khả xâm phạm, và họ không khi nào lấy võ lực chống lại với võ lực. Họ tự an ủi mà nói rằng: “Chúng ta hãy đợi 100 năm nữa nước sông Hoàng Hà đục sẽ trở lại trong xanh”. Họ không biết luật pháp là cái gì. “Rồi bọn xâm lược tuyên bố rằng những xứ “Thượng Cổ” này là “Thuộc địa” của họ, lần lượt hết nước này đến nước khác, viện lý rằng những xứ này do họ phát kiến đầu tiên. Người da trắng quá tự kỷ trung tâm họ đồng hóa sự phát kiến với sự thủ đắc. Người da trắng xem người Thượng cổ có lòng quảng đại, tuồng như loài thú vật hay loại cây cỏ, hay như giống hạ đắng, không đời nào hiểu biết và nghiên cứu quan niệm về Thế giới, về văn hóa của chúng nó được. Tuy nhiên, người da trắng cũng thừa nhận một trong mấy tôn giáo của dân Thượng cổ, đã cũ đến 2.000 năm mà họ vẫn còn bảo tồn cho đến ngày nay, xem như một giáo lý uyên thâm và duy nhất ở thế-giới này. Gần đây, lần đầu tiên, họ có dựng lên một tôn giáo riêng biệt của họ: Khoa học. Đó là một cuộc cách mạng táo bạo, can đảm, chống lại Chúa Trời đã biến đổi và lỗi thời, họ muốn khai thác Thiên đường làm thực dân khoa học, họ có thể “đè bẹp” và “chiếm đoạt” được tất cả quyền năng của Chúa Trời, không ngờ Chúa Trời không gì khác hơn là trí phán đoán cao siêu. Ấy là một sự đại tiến bộ của giống da trắng. Họ đã thoát ra khỏi giai đoạn 2 và 3 của phán đoán, và đã bước lên tầng thứ 4: phán đoán lý trí. Nhưng còn phải trải qua hai giai đoạn nữa: Kinh tế, luân lý, và lý tưởng, khi đó mới đạt đến giai đoạn cuối cùng: phán đoán cao siêu. Tuy nhiên, phải còn nhiều thế kỷ, hay đúng hơn là mất hàng ngàn năm nữa, nếu họ không thay đổi phương hướng trong khi trải qua một tân giáo dục về sinh vật học, sinh lý học, và luận lý học, mà cứ tuân theo đúng Vô song nguyên lý là môn biện chứng pháp thực dụng thì mới được. Nếu không, thì người dân Thượng cổ sẽ thâu hồi cái nguyên lý độc nhất mà họ đã mất .Cái nguyên lý làm cho họ có lòng đại lượng đối với những kẻ ngoại quốc hung ác xâm lăng và bất lương. - Vậy thì giữa người dân Thượng cổ và người văn minh, ai là kẻ lấy lại trước nguyên lý ai là người lấy lại trước nguyên lý vô song? - Điều ấy chúng ta hoàn toàn đứng ngoài cuộc. Vả lại, phàm trong một cuộc thi đua, ta không nên bình quân những kẻ cạnh tranh, đem người giỏi đặt vào địa vị thất thế, để bù lại với người trình độ kém hơn. - Vậy thì người “văn minh” có được bình quân cho họ vào hạng kém hơn một chút có được chăng? - Không được, phải đặt họ đứng ngang hàng với người “Thượng cổ”, bởi vì người “Thượng cổ” đã bị mất gốc rễ cổ truyền xưa đến mấy ngàn năm của họ đi rồi. Đứng trên phương diện sinh lý học mà nói, thì người “Thượng cổ” nên bình quân cho họ thắng thế hơn người “văn minh”, vì họ chỉ là người “văn minh” nhập cảng, nhưng về phương diện tâm lý học thì lại trái hẳn. - Như thế, thì “người thượng cổ” sẽ thắng cuộc chăng? - Sẽ trái ngược lại … có thể … - Vì sao thế? - À, mình quên Tôn Tử rồi sao? Nhà đại hiền triết ấy, tác giả danh tiếng nhất trong 7 nhà binh pháp chiến lược - Nhưng… - Ông ta nói: (x) “ Cái gì mềm dẻo và vững chắc, thì được phát triển, “ Cái gì yếu đuối và hoạt động, thì trở thành có danh tiếng, “ Cái gì yếu đuối và mềm dẻo, sẽ bị chiếm đoạt “ Cái gì cứng rắn và hoạt động, thì thế nào cũng sụp đổ”. Lex ex Occidente, lux ex Oriente. ----------------------------------------------------------------------------------------- (x) cái gì ngoại Âm (mềm) nội Dương (cứng) thì phát triển vô cùng. Yếu (ÂM) bên ngoài, nhưng có động tác hoạt động và có khí lực (DƯƠNG) thì được danh tiếng. Ngoài mềm trong yếu thì bị mất sạch. Cái gì ngoài cứng và tác động mạnh, thì sớm muộn gì rồi cũng sụp đổ, không có ngoại lệ. CHIẾN TRANH Tại sao ở Tây-phương và các nước bị người Tây phương xâm chiếm hoặc đô hộ, hay có nhiều cuộc tàn sát? Tại sao người “văn minh” Tây phương nơi nào có họ đặt chân đến, đều phát xuất ra nhiều chiến tranh? Chém giết người đồng loại là một trọng tội, đáng tiếc, không ai muốn phạm tội ấy cả! Tất cả mọi người do kết quả một sự xúc động mãnh liệt, hay do trí phán đoán thấp kém, như phán đoán cảm tình, cảm giác; mà phạm một trọng tội nào đó, đều tự biết phán xét tội mình. Nếu không như thế, thì là người mắc bệnh tinh thần, nạn nhân của trí phán đoán cao siêu bị ảnh hưởng giáo dục xấu xa làm mờ ám…! Nhưng các chính phủ, bị trọng tội, thì không bị trừng phạt đến. chính phủ không khi nào biết tự phán xử tội lỗi của mình, mà trái lại chỉ biết chiến tranh. Sức mạnh, hung dữ, và khí giới có thể thiết lập hòa bình không? Lịch sử đã nói “không”. Tất thảy mọi người đều công nhận như thế. Nhưng người ta vẫn gây ra chiến tranh! Tại sao người “văn minh” ưa chiến tranh? Bởi vì họ là “văn minh” Người ta dùng quân đội, khí giới giết người trong cuộc chiến tranh, đó không khác gì là biểu hiện sự sợ sệt. Nhưng sự sợ sệt là một trong những đặc tính không biết sự cấu tạo của vũ trụ, đức tin. Chính phủ khởi sự chiến tranh, bởi vì trong đó gồm có nhiều người tin tưởng vào sức mạnh, và không biết sự cấu tạo vũ trụ. Những người dân bị động viên để giết chết đồng loại bởi chính phủ của họ như thế, họ cũng đều không biết gì về cách cấu tạo của vũ trụ. Sự sợ sệt, sự tin tưởng vào sức mạnh hay hung bạo, sự ngu dốt về cấu tạo vũ trụ, đều do ảnh hưởng giáo dục và cái vô dụng của tôn giáo. Những dân tộc ngu dốt thích làm tôi tớ, những nhà chính trị hiếu chiến, các nhà bác học phát minh những khí giới càng ngày càng tàn khốc, đều do cái lò giáo dục đúc ra cả. Nếu muốn thiết lập nền hòa bình và tự do, ở trên quả địa cầu này, thì phải thay đổi cách giáo dục lại. Muốn ngăn cản chiến tranh, chúng ta phải tạo một nền tân giáo dục, để vén cái màn phán đoán cao siêu của chúng ta, ngoài ra không có phương cách nào khác hơn nữa. Nhưng phán đoán cao siêu lại tùy thuộc độc nhất ở nơi sinh lý, cũng như một cái máy thu thanh, phẩm chất tốt hay xấu phải tuỳ thuộc nơi cách kiến tạo và nguyên liệu của nó. Để khai quang cho trí phán đoán cao siêu của con người, người ta trước hết phải gây dựng sinh lý của mình. Phải tái tạo con người từ lúc ban đầu. Vậy tân giáo dục cần phải có cả sinh vật học, sinh lý học và luận lý học. Tất cả triết lý Viễn Đông đã vạch rõ nguyên tắc một nền giáo dục như vậy, nhưng một khi đã rơi vào tay chuyên môn nhà nghề gọi là “giáo dục gia” hay là “tu sĩ” thì nền giáo dục ấy bị thay hình đổi dạng, và trở thành xưởng kỹ nghệ sản xuất một khối người nô lệ ngu si. Nhưng tại sao không có một người “văn minh” nào hiểu biết điều siêu việt, và quan trọng về sự cấu tạo của vũ trụ theo như người Viễn Đông đã biết? Tại sao vậy? Tại sao vậy? Tại sao vậy? Những kẻ đã giết chết 313.814 đàn bà, trẻ con, con nít mới sinh, thường dân lao động không có khí giới ở Trường Kỳ và Quảng Đảo, có tự động phê phán không? Không có thể có! Tôi đương tìm người nào sẽ trả lời cho tôi một câu mãn ý. CHƯƠNG V BỜ BỂ AZUR (côte d’Azur) - Ông H và vợ ông ta là người nào? - Họ đều ở trên trời rơi xuống. - Chúng ta hai người Thượng Cổ nghèo khó hoàn toàn là người ngoại quốc, tại sao đôi vợ chồng ấy quá dễ thương, can đảm, thông minh, nhất là họ tiếp đãi chúng ta tử tế như thế? - Họ hoàn toàn như tính người “ thượng cổ” của nước Thiên Quốc. - Tại sao chúng ta cảm thấy khi ở gần với ông bà H hoàn toàn như “ở nhà mình” vậy? - Không có “ tại sao” hết, vì tất cả những người có bệnh tự kỷ trung tâm, bất thường, bất nghĩa, keo cú, mềm yếu như bông gòn, quá ngu si và quá duy vật, đã làm cho chúng ta thối chí nản lòng, còn cặp vợ chồng ấy thì khuyến khích chúng ta nhiều lắm. - Trong dịp nghỉ hè, quãng đường chúng ta phải đi bốn ngàn cây số mất 40 ngày. Nếu chúng ta không gặp ông bà H, thì ít nhất chúng ta cũng phải chi phí mất hàng ngàn quan để di chuyển hành lý và ăn, trọ ở khách sạn . Một sự tốn kém như thế, chúng ta không sao đài thọ nổi. Nhưng việc đi nghỉ hè này của chúng ta lại ít tốn kém. - Một chuyện lạ lùng! - Vậy bây giờ mình nên làm cái gì cho hai ông bà H. - Chúng ta nên tặng cho hai ông bà H, một món quà, một huy chương danh dự lớn nhất của nước Thiên quốc, được chăng? - Đồng ý. - Lại thêm một đứa con gái, và một con trai, mà hai ông bà H muốn nuôi như con đẻ của họ vậy. - Nhưng hai đứa bé ấy, chúng ta làm sao có? - Đó là đứa cháu gái và cháu trai của chúng ta! Mẹ chúng là Sophie, cha chúng là Alexis, nhờ ta kiếm một gia đình người pháp phúc hậu, để cho họ làm con nuôi, vì họ quá nhiều con, có đến một tá… mỗi bên lo một phần. - A thật vậy! - Chúng nó sẽ sung sướng cực điểm… - Ông Jack và bà Mitie, ngồi ở một khách sạn, cùng nhau đàm đạo về việc hai vợ chồng ông H, như thế. Việc này thường xảy ra luôn. Hai bên được gặp nhau lần thứ nhất, là một việc tình cờ. Vào một ngày tháng bảy, lần đầu tiên hai người ngoại quốc đến ga Bollene (vaucluse). Bạn của họ là Dr Parodi và ông H., chủ nhân của chiếc xe đi cấm trại, đã chực sẵn ở đó, chính xe đi cắm trại ấy đã đưa hai người “thượng cổ” đến nghỉ ở lại vài ngày ở trai cộng đồng của ấp trưởng sư Lanza del Vasto. Trong khi đi đường ông Jack có nói chuyện một vài phút với ông H. Khi đến nơi, hai người chia tay. Bởi vì ông H. thuộc nhóm của Lanza del Vasto cư trú tại một nông trại, cách chỗ cắm trại cộng đồng năm trăm thước. Sau 5 ngày, hai người thượng cổ từ giã trại cộng đồng. Chiếc xe đi cắm trại của ông H. lại đưa hai người đến tận ga. - Ông H. hỏi: Bây giờ hai ông bà đi đau? - Chúng tôi đi Lioux. - Lioux? Lioux ở đâu? - Tôi cũng không biết, tôi tưởng có lẽ Lioux ở gần Avignon. - Được, tôi xin đưa hai ông bà đến Avignon, bởi vì chúng tôi đi Vence gần Nice. Như thế ông bà khỏi phải đợi xe lửa ở ga. Như thế câu chuyện bắt đầu. Ở trên xe có cô S.T. và vài người bạn nữa. Đến Avignon, người thượng cổ rất sửng sốt khi nghe nói Lioux ở về phía đông miền sơn cước, cách đó 50 cây số, không có đường đi bằng xe lửa hay xe buýt gì được cả. Hai người thượng cổ phải thay đổi chương trình. Nếu ở đảo nhỏ của họ. thì họ rất sung sướng mà đi bộ liền ngay. Nhưng khốn nạn chân của họ đã bị nhốt tù trong đôi giầy da cứng, không thể đi theo ý muốn. - Tôi dùng xe tôi đưa hai ông bà đến tận Lioux. Một lần nữa, ông Jack ngạc nhiên đưa mắt nhìn ông H. - Chúng ta đi, Nếu hai ông bà thuê xe taxi, phải tốn mất 10.000 quan. Tôi xin đưa ông bà đi, thôi lên xe, lên xe. - Hai người ngoại quốc phải đi xe, mặc dù họ không muốn lắm. Đến Lioux, hai vợ chồng ngoại quốc gặp hai vợ chồng ông G. Là người mà Jack đã liên lạc bằng thư từ năm năm nay. Để cảm ơn ông H, người “ thượng cổ” bắt đầu kể chuyện về y khoa kỳ diệu và đã cũ mấy ngàn năm của xứ Thiên quốc mà ông ta đã thực hành trên bốn mươi năm nay. Bà H. , Cô Simone ngồi chung xe từ Bollene, với bạn cô Lu Cas, ông bà G. ,Ông P, tất thẩy đều vui vẻ, đây là lần đầu tiên, ở sân khách sạn “ Clos Fleuri” của ông G. ,ông Jack khởi sự giảng bài học lạ lùng về Vô song nguyên lý của tất cả triết học và tất cả khoa học của nước Thiên quốc. Rồi mấy ngày sau đó, bài học về nguyên lý vô song được diễn giảng đến 30 giờ từ mai cho đến chiều tối. ban đêm, ông bà H. ngủ trong chiếc xe đi cắm trại của họ, còn các bạn hữu thì ngủ ở tại khách sạn. Ai nấy đều hân hoan theo dõi buổi học cho đến cùng. Trong lúc ấy bà Mitie sửa soạn nấu món ăn trường sinh và đồ ăn tráng miệng. Buổi học tập xong rồi, họ đều về hết. Ông bà H, rất lấy làm sung sướng lại đưa hai người Thiên quốc trở về trại của họ ở Vence, đi ngang qua một cánh đồng Oải hương thảo (lavande). Chiếc xe đi cắm trại của ông H. tiếp tục du lịch, đi các tỉnh Vence, Nice, Monte Carlo, Manton, Marseille, Martigue, Artes, Sete, Perpignan, Pyrenea, Mur De, Par Res, Monte Dore, Vichy v.v.. tất cả phí tổn ăn ở tại khách sạn, mua đồ vật kỷ niệm, đều do ông H. đài thọ. - Ông H. Nói: “Tôi là tài xế của ông bà, chiếc xe này cũng thuộc về của ông bà, hai ông bà là thầy của tôi, tôi xin lái xe đưa hai ông bà đi bất cứ chỗ nào hai ông bà muốn”. Cuộc du hành bất ngờ của hai người ngoại quốc này, là một cuộc du hành vòng quanh đầu tiên trong đời của họ. Họ trông thấy và học hỏi rất nhiều chuyện, nhất là được thưởng thức nhiều món ăn địa phương của nước Pháp. Vì Y lý của nước Thiên Quốc chú trọng về tiết thực và trường sinh, nên họ lấy làm lạ kỳ trông thấy những món ăn của người ngoại quốc, nhất là các món ăn truyền thống. Ông bà H. cùng đi chung trong 40 ngày, cũng học hỏi được rất nhiều chuyện của hai người Thiên quốc. Sau cùng họ định từ bỏ nhà dưỡng bệnh của họ mới xây dựng vài năm trước đây. Hai ông bà H là người rất ngay thật họ đã nhờ sự ăn chay và trái cây cứu chữa, họ từ bỏ tất cả để mở một cái nhà dưỡng bệnh để đem lại sức khoẻ cho cả mọi người. Nhưng hạnh phúc họ cũng không được trường cửu, tật bệnh lại tái sinh. Khi đó họ nhận thấy rằng sức khoẻ sinh lý chưa phải là hoàn hảo. Khi họ gặp hai người ngoại quốc này, họ thực hành một cuộc du lịch lâu dài trong chân lý, (tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, công bằng tuyệt đối). Họ học hỏi được nhiều chuyện hoàn toàn mới mẻ. Họ thực hành những điều đã học hỏi được. Họ càng ngày càng được vui sướng và trẻ trung hơn, ít cảm thấy mệt nhọc, tóc không rụng nữa,. Ông H. không còn bụng phệ nữa, tóc bạc nay đen trở lại. Bà H. thì đẹp thêm… Chỉ trong 40 ngày mà họ trẻ lại mười tuổi. Họ tin tưởng vào cuộc sống mà là cái tinh lực từ trong nguồn sâu kín của sự cấu tạo chảy ra. Và nhất là họ phát kiến được một chân trời sáng lạng. một mục tiêu tân sinh hoạt, sự vui thú trường cửu sắp đến. Cũng vì thế họ định từ bỏ cái nhà an dưỡng khá phát đạt, sổ chi thu hàng tháng có đến một triệu quan. Họ định việc phân phối các sản phẩm “ ăn chay trái cây” và định sáng lập một cái nhà cốt dùng nuôi những trẻ con vô thừa nhận, đồng thời làm trường dạy cho chúng nó về sinh lý học, sinh vậthọc và luận lý học , là những điều mà họ đã được hai người Thiên quốc truyền giáo cho Sau này chúng nó trưởng thành thì đã sẵn có trí hiểu biết về Vô song nguyên lý. Họ định hiến tất cả cho cái nhà tân tạo này. Hai vợ chồng ông H. là người rất tốt, một khi đã tìm ra chân lý rồi, thì họ hoàn toàn chú tâm vào để thực hành hàng ngày. Đó mới là chân chính vui sống. Sống như thế mới đáng nên sống. Người ta sống ở địa cầu này, hạnh phúc không phải ở chỗ thu góp nhiều tiền lắm của, hoặc quan niệm những sự vô ích hữu hại, nhưng cốt nơi xây dựng một đời sống cho được sung sướng, tự do và vui thú. Đây hoàn toàn là sự ngẫu nhiên, mà hai người ngoại quốc từ một hòn đảo nhỏ ở khuất lấp tận bể Thái Bình Dương, lại gặp một đôi vợ chồng rất khả ái trong số 40 triệu dân Pháp. Chuyện cũng kỳ lạ. Ông Jack và bà Mitie tự hỏi: - Tại sao chúng ta không tìm được hàng ngàn người như cặp vợ chồng ông ấy? - Tuy nhiên, chúng ta có gặp nhiều người và chúng ta cũng có giải thích Vô song nguyên lý cho họ. Nhiều người đã lành bệnh và những người trí thức đều nói: “ Xin cảm ơn ông ngàn lần”. Nhưng họ không nghiên cứu triết lý ấy cho thấu đáo, đặc biệt là với nhóm Y sĩ, chúng ta có giải thích tỉ mỉ cho họ nhiều lần trong 50 tiếng đồng hồ. - Trong thời gian học tập, tất cả đều có vẻ hứng thú , nhưng lớp giảng kết thúc, thì họ biệt dạng, họ còn sống chăng? Hay là xấu hổ vì bệnh họ được lành? - Điều mà làm cho chúng ta khó chịu, không phải là họ không đài thọ phí tổn giao thông cho chúng ta. Nhưng nếu họ không cảm ơn, nếu họ không tỏ ra vui vẻ mà bày dạy phương pháp của chúng ta lại cho khách thân chủ của họ, ấy là chúng ta bị hoàn toàn lỗi lầm trong sự giải thích về Vô song nguyên lý của chúng ta. Vậy chúng ta đã có sai lầm điều gì? - Không có sai lầm gì hết. Nhưng nếu họ không định thay đổi hướng sinh sống của họ như hai vợ chồng ông H. thì chắc chắn chúng ta có sai lầm. Chúng ta nên suy nghĩ lại, nếu không sẽ thành một người chuyên nghiệp chữa bệnh cốt để lấy tiền, chúng ta là người nước Thiên quốc, con người tự do, con đẻ của đại thiên nhiên, được thừa hưởng, một kho vàng rất lớn, là nguyên lý Vô song (chìa khoá của tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, và công bằng tuyệt đối), chúng ta không nên từ bỏ cái thiên chức ấy mà làm tiền, trái lại, chúng ta nên phân phối kho vàng ấy cho những kẻ nghèo khổ. Nếu Y sĩ mà có ý làm giàu, là họ đã thi hành một nghề nghiệp quá ti tiện hơn cả nghề làm đĩ, và nghề bất lương nữa. Nếu họ làm giàu như một viên giáo sư, hoặc như một ông luật sư, thế họ là đại ký sinh trùng của người ngu dốt và người phạm tội. Những Y sĩ hành nghề của họ, mà không đủ khả năng trị lành bệnh của chính mình, hoặc gia đình mình, đều là kẻ phạm trọng tội đã có “ cầu chứng hợp pháp”. Họ còn khốn nạn hơn bọn cướp rất tàn bạo trên thế giới, trước sau gì cũng sẽ bị trừng trị. - Nhưng cũng có một Y sĩ, như Y sĩ C., chịu hy sinh mỗi tuần hai ngày, và tự móc túi mình trả phỉ tổn di chuyển, để đến khám bệnh cho những bệnh nhân “kinh tế quẫn bách”… A, Y sĩ C. như là người Thiên quốc. Phải, đã 30 năm rồi, lúc ông ta còn là một sinh viên, có gặp tôi một lần, lúc bấy giờ ông ta có mua một quyển sách của tôi bằng tiếng Pháp, mà đọc không hiểu gì cả. Lúc ấy ông ta còn trẻ lắm, bị cưỡng bức phải học “ Y khoa chính thức và cổ điển” ấy hơn 10 năm, hoàn toàn thất vọng, ông ta đọc lại quyển sách của tôi, và định đi đến Thiên quốc để hỏi ý kiến tôi. Và đó là một sự xuất hiện bất ngờ… - Nhưng để riêng phần ông Y sĩ C. Còn người nào nữa đi tìm chân lý, hiện họ ở đâu? - Cái đó rất tự nhiên, người ta dạy và người ta học: “ Wharheit wird euch machen Frei”. “ Kinh tế”, nghĩa là “ Freiheit” bạc giá ở viện đại học. - Nhưng ai truyền Cơ Đốc giáo? Người ta đã ghét Cơ Đốc giáo. Cơ Đốc giáo đã bị phản đạo rồi chăng? - Phải, người ta đã hoàn toàn phản đạo Cơ Đốc. Câu “ không nên sát sanh” đã bị trắng trợn vi phạm, người ta ngày nào cũng sát hại: người chồng giết bạn của vợ, con giết cha, anh em trai giết chị em gái v.v... Người mạnh giết kẻ yếu, tư bản giết kẻ thua sút kinh tế bằng cách bóc lột họ,người lao động đình công không chịu làm việc, luôn luôn sức mạnh làm chủ tế…! Không nên kháng cự lại những sự ngược đãi: nếu bị đánh má bên phải thì đưa luôn má bên trái cho họ. Câu nói này bị lật ngược trở lại bội phần: kẻ nào hơi va chạm mình một chút thì đánh, đánh người ta cho đến chết. Không những đánh mà giết những kẻ không đánh mình, mà còn đánh giết những người không bằng lòng mua thuốc độc của mình: thuốc phiện. ( mình nên nhớ trân giặc tàn khốc nha phiến chiến tranh). Kẻ nào từ chối Y khoa Tây phương (đã giết chết gần 70 ngàn người Y sĩ chính thức và cổ truyền của Nhật Bản), kẻ nào công kích thuyết tân chế độ xã hội Tây phương cho là một lý thuyết vô lý, và những khí cụ giết người hèn nhát nhất ,vô luân lý nhất, tỷ như cơ quan an ninh, quân đội là khí cụ mù quáng phạm tội, nô lệ, súng trường, súng lục, đại bác. Mình cũng biết rằng võ sĩ đạo chân chính chỉ chấp nhận sự bắn cung như một việc trầm tư mặc tưởng và để giải thoát một cách có triết lý, và lưỡi kiếm là để tự xử mình hay là vì trung thành với chế độ vua cũ, quân chủ cũ. Họ vui lòng từ bỏ địa vị xã hội cổ truyền, trở thành một nông dân lương thiện, để kết liễu đời sống, mà không hề kháng nghị, tức là đưa má bên kia ra vậy. Và có chuyện một vài thanh niên võ sĩ đạo đã hân hạnh mổ bụng trước mặt viên lãnh sự Pháp, ông này không thể chịu nổi đứng trông sự đau đớn cho đến cùng, nửa chừng phải bỏ mà đi chỗ khác. Ông thủ tướng võ sĩ đạo tự sát, mà không dùng đến lưỡi gươm của mình lại nhờ các võ sĩ đạo khác quá can đảm và quá trung thành với chế độ cũ để thị hành thay thế lưỡi gươm, và ông ta đã nếm thử mùi an ủi. Cuộc cải cách của vua Minh Trị Nhật Bản, chính phù hợp với câu bi đát : “đưa má kia ra” ấy, cho người “ văn minh” ngoại quốc, họ đặt tên thánh là “ tâm trạng cổ lổ” tức là tâm trạng những giống dân da màu . Cái tâm trạng ấy, do nguyên lý Vô song sinh ra, nó đã cũ kỷ, hàng ngàn năm rồi, từ khi con cháu,dòng quý tộc “ võ sĩ đạo” bước chân đến đảo Yamoto. Nỏ gốc ở Ấn độ, căn nguyên Phệ đà triết học, cái tâm trạng ấy người văn minh không đời nào hiểu được. - Cũng vì thế mà người “ văn minh Tây phương” mới hoàn toàn biến hoá cái “tâm trạng” cổ lổ vốn tánh ôn hoà ,tinh tế, tràn trề văn hoá nhân loại, hiểu biết tất cả, có thể phục tòng vô điều kiện, và tự phê phán, thành cái “ tâm trạng văn minh Tây phương”, là tâm trạng độc ác, tự kỳ trung tâm, độc đoán thái thậm, luôn luôn bất mãn tất cả, thấm đầy ý tưởng kẻ mạnh, cưỡng chế pháp luật, tham lam bạc vàng, tinh thần tự phê bệnh hoạn, tìm tòi tiện nghi, thực dụng tối đa võ khí giết người. Đó là căn nguyên tình trạng của một tân chủng tộc da màu, mô phỏng theo người “ văn minh”, hiếu chiến, phiến loạn… |
|
|
![]()
Bài viết
#7
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
- Không những người ta đánh và giết những kẻ không công kích mình, ( số 313.814 con nít, đàn bà, bệnh nhân và thường dân ôn hoà và phục tòng, bị tàn sát trong chốc lát ở Trường Kỳ và Quảng Đảo). Mà người ta còn đánh và giết những người dạy và thực hành cho câu “ hãy đưa má kia ra” nữa. “ Cơ Đốc hoá” những Phật giáo đồ, Ấn Độ giáo đồ, Kỳ Na giáo đồ, thật là một cách thực dân tinh thần. Người ta hay dùng “ dân chủ hoá” hay “ bình định” những dân tộc da màu, kỳ thực chính dân tộc này đã dân chủ hoà bình chủ nghĩa đã lâu đời rồi.Sau cùng người ta biến các Mục sư, tu sĩ Cơ Đốc giáo “ phản đạo” hoàn toàn hoá thành công cụ nô lệ cho bọn tư bản kỹ nghệ và khoa học.
Những Cơ Đốc giáo đồ “ văn minh” hiện thời thực hành không những “ lấy oán trả oán” mà còn lấy “ bom trả oán” những đệ tử rất ưu tú của văn minh Tây phương dùng bom nguyên tử hay đúng hơn là dùng “ bạo lực trả thù lại phục tòng”, “ tàn sát trả thù lại công binh” ở khắp các xứ bị lệ thuộc. “Văn minh” là một danh từ tốt đẹp của một xã hội do bọn có thế lực cai trị. Sức mạnh là luật pháp tối thượng. “ Kinh tế” là ông vua những người “ văn minh” ở thế giới này. Ở thế giới này, kẻ nào hèn yếu bắt buộc bán thân đi “ làm thuê” để đòi một số tiền gọi là “lương bổng” không có cách gì thoát khỏi được. Đó là những hạng làm đĩ lấy tiền gọi là làm công cho những hạng giàu có. Trong những người có tài sản rồi, họ cũng tranh chấp nhau kịch liệt và thường xuyên, để làm cho giàu thêm hơn nữa. Vì thế mà người Tây phương thường bị điên đảo trong cái giai cấp xã hội. Ở Tây phương không có ai biết hạnh phúc là gì, mặc dù hạnh phúc ấy không vững chắc, chỉ vui thú tạm thời, sức khoẻ bị lung lay, luật pháp luôn luôn bị vi phạm. Không chính phủ nào cai trị được. Không có luật pháp nào có thể cưỡng chế để thiết lập cho nhân dân một xã hội có thể vui hưởng tự do vô tận, và công bằng tuyệt đối. - Sự thật có phải đó là một xã hội đứng ngoài pháp luật chăng? - Phải đó, không thể tưởng tượng được? - Bây giờ tôi mới hiểu vì sao người ta không thưởng cho mình cái gì hết , mặc dù mình đã chữa lành cho một bệnh nhân nan y đau đã 30 năm, Y khoa chính thức từ chối không chữa, để mặc cho bệnh nhân chết. Cũng có một vài người hỏi tôi mặc dù số này rất ít: “ Tôi phải trả cho ông bao nhiêu?” Những người này đều đáng thương. - Sau khi nhờ mình khám bệnh thật lâu và hỏi nhiều câu ngớ ngẩn để cứu đời sống của họ, vừa là hao phí đời sống của mình… - Tuy nhiên, họ nói: “ cảm ơn”. Đôi khi họ nói: “ cảm ơn vô cùng”. Thật dễ thương đó, có phải không? - “ Cảm ơn” hay “ cảm ơn vô cùng”. Thật ra nghĩa là gì? - Đó là bản tính “ kinh tế” của họ, tương phản với “kinh tế” của nước chúng ta. - Nhưng hễ có người cho, thì cũng phải có người lấy hay chấp nhận chứ? - Phải “ kinh tế” của chúng ta là cho và cho mãi tất cả cái gì mà chúng ta có, gồm cả cái đời sống là cái rất quí và rất cần thiết nữa. Chính trị của người “ văn minh” là giữ lấy, độc chiếm, bóc lột. rồi đền bù ,cho lại những món gì rất ít và có hại, nhất là rượu là món chỉ làm vui thích thị hiếu cảm giác, và những miếng bánh vụn mà thôi. Có phải vậy không? - Gần đúng như thế. - Những tiếng “cảm ơn” của họ, không giống với tiếng “ cảm tạ” của chúng ta sao? - Không, trái lại, tiếng “merci” có nghĩa là “merces”, hay là “ chúa trời sẽ cho các bạn một vật gì tốt”. - Họ quá “ duy vật” chăng? - Không phải, họ không hiểu chân chính cảm ơn là gì. Về phương diện kinh tế cũng như về chính trị, họ bị ngược đãi quá lâu, nên họ đã quên hẳn tiếng cảm ơn. - Vậy thì tiếng “ cảm ơn” của họ có ý nghĩa khác với tiếng cảm ơn mà chúng ta tưởng tượng chăng? - Cũng có thể. - Tiếng “ cảm ơn” thường được nói quá nhiều trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta. Cho đến cả việc người ta xâm chiếm hòn đảo bé nhỏ và đánh trên má của chúng ta, chúng ta cũng nói “ cảm ơn”… Cũng như bên nước chúng ta, họ cũng có bảy giai cấp xã hội: Giai cấp thứ nhất(máy móc): đại diện cho những hạng người không hiểu gì hết. Giai cấp thứ hai(cảm giác): là những người đã biết cuộc sống khá khó khăn và đã biết đến sự lạc thú về cảm giác. -Giai cấp thứ ba (tình cảm): là những người đã trải qua nhiều năm cực khổ, và đã nhận thức được mối hạnh phúc tình cảm. Giai cấp thứ tư (lí trí): là những người đã qua bao năm tranh đấu khó khăn, nặng về lí trí hơn tình cảm, ngày nay có đời sống tinh thần thanh tịnh. Giai - cấp thứ năm (xã hội): là những người hoàn toàn vô vụ lợi và đã hiến cho xã hội tất cả mọi thứ. Giai cấp thứ sáu (lí tưởng): là những người sống theo lí tưởng với một cuộc đời thanh nhàn và sung sướng. Sau cùng, là giai cấp thứ bảy (tối cao): là những hạng người hy sinh tất cả cho đời, hy sinh đến cả đời sống của chính mình một cách siêu việt mà không một ẩn ý nào. Ở giai cấp này, cái gì cần thiết nhất, quí giá nhất trên đời này, người ta đều cho hết mọi người, Chỉ có giai cấp này mới có hạnh phúc trường cửu, tự do vô tận, công bằng tuyệt đối. “Người văn minh” thuộc vào giai cấp nào? - Họ thuộc vào hạng thứ nhất, và thiểu số của họ thuộc vào giai cấp thứ hai và thứ ba. - Làm sao cho họ có thể trèo lên được giai cấp thứ bảy? - Phải tuân theo Y thuật trường sinh, tiết thực, và luận lý học của chúng ta, nó vừa là giáo dục vừa là trị bệnh, ngoài ra không có phương pháp gì hơn được nữa. - Vậy thì chúng ta lầm lỗi rồi. Chúng ta đã chữa lành cho một số bệnh nhân, nhưng vô ích, bởi vì chẳng có ai lên đến bậc thứ bảy cả, có phải vậy không? - Ngoại trừ hai vợ chồng ông H. - Nhưng đó không phải nhờ chúng ta mà họ lên được giai cấp thứ bảy. - Phải đấy……Vậy thì chúng ta có cần tiếp tục hoạt động công việc của chúng ta nữa không? - Thật là kỳ quái. - Điều lạ lùng hơn nữa, là khi ở Vence cuộc gặp gỡ của chúng ta với vợ chồng ông H, với ông Họa sĩ người Đông-phương có bà vợ đẹp…..Với ông người Breton có người vợ Đông Dương … và sự lưu trú của chúng ta ở bờ bể Côte d’Azur luôn luôn đều nhờ ông bạn H. giúp đỡ. Chúng ta đã ở lại Vence hai tuần lễ, tại một thiên đường của ông tỷ phú đi tìm sự sống, sức khỏe, căn bản hạnh phúc bằng tất cả mọi cách, nhưng vô hiệu quá. A! bờ bể Azur!.... - Nhưng tại sao chúng ta lại rất sung sướng khi ở bờ bể Azur? - Bởi vì khí hậu ở đó giống như khí hậu hòn đảo nhỏ bé Thiên Quốc của chúng ta. - Phải, nhưng những ông tỷ phú ấy cứ đi tìm những điều đại bí mật của sự sống, vẫn mất tiền vô ích không có hiệu quả gì cả, thật là tai hại. - Và hai người Thiên Quốc này, mặc dầu có hoài vọng nồng nàn, họ cũng không thể phân phát cái đại bí mật của sự sống, của tự do, hòa bình, của công bằng tuyệt đối được, thì lại tai hại hơn nữa. - Bờ bể Azur thật là lạ lùng! Vậy thì ở đó có phải là cái chợ của những kẻ khốn nạn không? CHƯƠNG VI BA THẰNG AN CƯỚP VÀ MỘT ÔNG Y-SĨ Hai người Thiên Quốc rất ưa thích đi xem phim, nhất là ưa xem chiếu phim Hoa-kỳ. Tại sao vậy? Vì người ta có thể trông thấy bối cảnh thực tại đời sống hàng ngày của giống dân “văn minh”, nhưng cảnh tượng này thường vượt quá mức tưởng tượng. Đây là một ví dụ: Giàn cảnh: Bên trong một cái phòng của nhà hàng X rất tân thời ở một đô thị quốc tế . Nhân vật: A (đầu đảng cướp) B và C (kẻ ăn cướp) D ( Y sĩ) E (Bạn gái của đầu đảng cướp) B. bị thương ở cánh tay, mời Y sĩ D đến điều trị. Trong khi Y sĩ đương chữa cho B. thì A. đầu đảng cướp kêu vang đau đầu. Viên Y sĩ lấy trong cặp da ra ba viên thuốc đưa cho A. Sau khi băng bó cho B. xong, viên Y sĩ bỏ hết khí cụ nhà nghề vào cặp da, gài cặp lại, bỗng liếc mắt trông thấy một cái túi da to tướng để hở đựng đầy bạc giấy, trên một cái bàn gần đó. - Đầu đảng cướp nói, Y sĩ cũng đau đầu nữa sao? - Không, nhưng cái túi to lớn kia là của tôi, phải không? - Y sĩ điên rồi sao, mầy không thấy mấy cái súng lục nó nhắm vào đầu mầy đó sao? - Phải thật thế, tôi có thấy. Nhưng mầy không biết rằng mạng của mầy đã nằm trong tay tao sao? Trong hai giờ nữa mầy sẽ chết, vì mầy đã nuốt ba viên thuốc độc. Mầy phải đi bệnh viện tức thời để người ta cứu chữa cho...Đó, mầy đã bị bại liệt rồi đó….Đi mau đi, mau mau. Mau lên, ông Sếp các anh không đi được nữa, các anh phải dìu ông ta đi.Nếu các anh không muốn đi thì đây nầy khẩu súng lục của tôi đây nầy. Hai thằng cướp dìu đầu đảng chúng nó đi. Anh ta đã bị bại một nửa thân thể. Bà chủ đảng cướp nịnh hót viên Y sĩ. Rồi viên Y sĩ cũng mang cái túi bạc đi luôn. Một chiếc phi cơ lớn liên lục địa đã chờ sẵn ở đó, viên Y sĩ và mụ chủ đảng cướp lên máy bay. Phi cơ cất cánh. Đó là đoạn đầu phim. Sau một tiếng rưỡi đồng hồ, hai người Thiên Quốc ngồi trong một tiệm cà phê. Họ gọi một cốc trà và một cốc sữa. Cốc sữa thì để cho phần ông Jack. Mấy ngày gần đây ông Jack uống sữa, bà Mittie phản đối điều đó .Nhưng ông Jack khăng khăng nói rằng: “Tôi cần trở thành một bé con uống sữa, để được biết cái “tâm trạng” nhị nguyên đơn giản, cận thị của người “văn minh”. - Nhưng với khúc phim Hoa-kỳ ấy mình nghĩ như thế nào? - Thật vui. Nhưng cái xứ gì mà ăn cướp quá vậy! Ở một xứ như vậy thật là ghê gớm. Một Y sĩ ăn cướp có lẽ nào? - Phải lắm chúng ta ở tại xứ Tây phương, cái xứ sức mạnh là pháp luật ấy. Phải giàu có, chiếm đoạt, bóc lột bất kỳ cái gì, bất kể người nào. Kẻ nào là bậc đại phú kẻ đó là bậc đại ân nhân. - Đó là một câu nói đùa chứ? - Mình còn nhớ một ông Giám đốc hãng chế dược phẩm có cái nhà lầu to lớn và cái xe hơi sang trọng kia không? Tất cả tài sản của ông ta, chỉ là tiền lời sản xuất hóa phẩm đã bán được, món dược phẩm mà không chữa bệnh nào lành được, chính bệnh bại của ông ta cũng không chữa lành được. Đó là một sự lường gạt quốc tế phổ thông, một trọng tội về trí thức, khoa học, được luật pháp bảo vệ. Ở đây, ở Tây phương người ta cho phép cái đó được, trái lại ở xứ chúng ta, người nào giàu nhất được xem đáng thương hại nhất, vì sinh ra ở đời, ai cũng mình trần thân trụi và nghèo khó, cũng như các thú vật, phải tự đi làm để nuôi sống, một sự sống tự do, độc lập, sung sướng vô tận và tuyệt đối. - Nhưng tất thảy đều không phải là bất lương cả chứ? Còn có Y sĩ, Dược sĩ…. - Chắc hẳn như thế nhưng cũng không sung sướng bao nhiêu…. Theo lời Epictete thì người nào không được sung sướng đều là “ngoại pháp luật” ngoài pháp luật của chúng ta, ngoài nguyên tắc của chúng ta. - Tuy vậy, ở Âu Châu đây, cũng có nhiều người được sung sướng. Họ ở những ngôi nhà to lớn sang trọng, với phòng khách đẹp đẽ, có phòng ăn, phòng tắm, bếp nấu bằng điện, và có xe hơi đẹp bóng loáng, và những hột xoàn… - Tất cả đều bất mãn, họ sợ sệt, lo ngại. Mình hãy xem các trận chiến tranh ở Hungary, Ba Lan, Maroc, Algérie, Kenya, Suez, ở giữa hai nước Trung Hoa, ở Goa, ở Jordanie. Cuộc tranh đấu đâu đâu cũng kịch liệt, giữa kẻ có và kẻ không có. Tóm lại chiến tranh đã lan tràn khắp nơi. Ấy là thế chiến thứ ba. Chiến tranh lớn hơn cả Thế chiến thứ nhất và thứ hai, hoặc về biên giới, hoặc về quân số, hoặc về tài chính. Sắp có trận mưa bão súng đạn, sấm sét bom nguyên tử, và hỏa tiễn…, sắp có……, mưa tuyết bụi phóng… - Sắp có sao? - Đã khởi sự rồi. Tất cả đều không biết làm cách nào để ngăn chặn thế giới chiến tranh, do người “văn minh” khởi xướng từ một hai thế kỷ nay, những ai không có cố gắng dập tắt nó, hay chịu trách nhiệm hay tòng phạm về tội tàn sát nhân loại, gồm có cả người Nhật, người Tầu, người Ấn Độ, bọn ăn cướp, và những kẻ tình nguyện theo đuổi hạnh phúc tạm thời; với những ai tự phụ cho mình là nhà truyền bá các Tôn giáo ,tất cả đã tự xác nhận vô ích, để ngăn đón những tranh chấp quốc tế đã có từ bao thế kỷ. - Tất cả những bệnh nhân có phải cũng đồng lõa về thế chiến không? - Thế thì, những Y sĩ điều trị bệnh mà không biết nguyên nhân của bệnh, cũng chẳng hiểu Y khoa tối cao là cái gì (Y khoa này không những chữa lành chứng bệnh hiện tại và tương lai, mà còn biết phòng ngừa tất cả những hoạn nạn, tất cả những khó khăn nữa) và chỉ áp dụng Y khoa theo triệu chứng, mà đòi tiền công khám bệnh từ một ngàn đến một ngàn năm trăm quan, những kẻ này có phải phạm tội gấp đôi không. - Không, họ đã không có tội gì, mà còn là ân nhân nữa. - Bởi vì họ làm cho bệnh nhân thêm nghèo khổ, và bắt buộc phải bỏ Y khoa, đồng thời dạy cho bệnh nhân biết rằng con người khốn khổ biết chừng nào. Các y sĩ càng thu nhiều tiền lại càng được tiếng là kẻ ân nhân. Viên “Y sĩ ăn cướp” ấy thật là vẻ vang. Sự thật, họ chỉ cho vài viên thuốc Aspirine, mà đoạt của người ta đến một triệu mỹ kim (ba trăm sáu mươi lăm ngàn quan) bắt buộc bọn ăn cướp suy nghĩ lại một chút và đừng tiêu phí số tiền to lớn ấy, để uống rượu hay mua vui nào khác. Y sĩ này còn là ân nhân hơn những y sĩ thường bóc lột “ Kẻ yếu”. - Đó là một luân lý mà ở đây người ta không chấp nhận. - Nhưng các bệnh nhân đều có hai tội: 1/ - Họ vi phạm luật thiên nhiên 2/ - Họ đã tạo ra những y sĩ ăn cướp. - Các bệnh nhân có chịu trách nhiệm về tội lỗi của Y sĩ không? - Có chứ - Nếu họ không bệnh tật, thì làm sao Y sĩ phỉnhphờ lường gạt họ được. - Vậy thì chúng ta đã làm cho những người “văn minh” thành kẻ “thực dân bóc lột” à? - Chính đúng như thế. - Ối chà. CHƯƠNG VII ROMAIN ROLLAND VÀ ANATOLE FRANCE - Tất cả thanh niên Thiên Quốc đều yêu mến ROMAIN ROLLAND và ANATOLE FRANCE. - Và cũng yêu mến VOLTAIRE và PLERRE LOUYS nữa. - Tại sao thế ? - Bởi vì họ đều là người rất có ích. - Tại sao họ có ích ? Bởi vì họ có một tâm trạng khả ái, họ có một tri giác rõ rật về tự do vô tận, về hạnh phúc tuyệt đối và vô cùng. Đối với người Thiên Quốc mà tuổi ngoài sáu mươi, là lúc họ sinh ra chưa có văn minh Tây phương du nhập thì cái tâm trạng ấy là hoàn cảnh của họ sống vào lúc ấy, còn đối với thanh niên ngoại quốc, mà có tâm trạng như thế thì đáng cho ta yêu mến. - Bởi vậy, SIR AUROBINDO đã được giáo dục như người quý phái và đã hoàn toàn Âu hóa rồi, thế mà sau khi về nước, lại hóa thành ông thánh Ấn Độ, GANDHI cũng như thế. Lại vì sao mà ROMAIN ROLLAND nhờ VIVEKANANDA, kế nhờ RAMAKRISHNA và sau cùng nhờ GANHDI mà được cái hoán hoàn toàn. VIVEKANANDA là một « sứ giả » của « tâm trạng cổ lổ » gọi là VEDANTA, là tuổi trẻ trường cửu, là triết lý trường sinh. Ở Đông phương có nhiều thanh niên giống như VIVEKANANDA, nhưng họ bị Tây hóa ít nhiều, vì thế mà họ trở thành nạn nhân của « văn minh » tân tiến, cũng như VIVEKANANDA, sau trở thành người « văn minh » cảm giác, nên không sống được quá 39 tuổi. ROMAIN ROLLAND lấy làm tiếc, lúc tuổi trẻ không biết được VEDANTA, mãi đến khi về già gần chết mới gặp nó, vì ông ta không làm được tiểu thuyết gia, mà chỉ là một thi sĩ và một triết gia như HEGEL, SCHOPENHAUER mà thôi. Những phim của Nhật Bản như : « Rashomon », « cửa địa-ngục »…v.v… Rất được hoan nghênh ở Tây phương nhưng đó chỉ là tác phẩm hạng ba ở Nhật Bản : tiểu thuyết dành cho đám hạ lưu về trí phán đoán thấp kém, tiểu thuyết « bốn xu » hay « chuyện đáng thương ». Tác phẩm cao nhất về văn chương của Viễn Đông là « Haiku » (thơ 17 âm ) và « Tanka » (thơ 31 âm), điều này chúng tôi sẽ nói lại ở chương ngôn ngữ. Hội hoa truyền thống Nhật Bản cũng như thế (ví dụ : Sessue). Hội hoa và văn chương Nhật Bản ưa trầm tĩnh, và luôn luôn thay đổi, bất diệt. Đó là sự cấu tạo của vũ trụ, nói cách khác là sự sống tự đâu mà có ? Rồi nó đi đâu ? Mục đích nó là gì ? » Tây phương hoan nghênh và ca ngợi Nhật Bản, khi nước này biết mô phỏng dùng khí giới giết người theo phương pháp Âu tây trong trận Nga Nhật chiến tranh. Mấy anh em GONCOURT, và những người Tây phương sau đời GONCOURT, khi trông thấy những họa phẩm của Nhật Bản, lần đầu tiên họ rất lấy làm ngạc nhiên. Nhưng nói thế thôi, thực ra không có ai hâm mộ văn chương và hội họa cao thượng của Nhật Bản cả : Cơ Đốc Giáo đồ phản bội Đao, trước là dân Hy Lạp, kế đến là dân La Mã, họ chỉ ham chuộng pháp luật, sức mạnh có pháp luật bênh vực, đấu trường, hí trường, tiệc tùng, phòng tắm, họ là dân tộc lớn về trí phán đoán của giai đoạn thứ hai : cảm giác. Theo tôi tưởng, người các xứ cực Tây gọi là Âu Châu Cơ Đốc Giáo đồ còn trái đạo đến gấp ba lần. Một tôn giáo của Viễn Đông, trải qua 20 thế kỷ truyền đến Tây phương hóa thành thuật huyền bí, ảo thuật, tâm linh. Cơ Đốc Giáo ngày nay là một cái xác ướp của tôn giáo Đông phương, chôn trong một Kim tự tháp khổng lồ gọi là « Thánh đường », với nhiều lễ nghi phức tạp. Thật ra tôn giáo không có gì khác hơn là một cái la bàn, biện chứng pháp rất thực tế cho sự sinh sống hàng ngày của người Đông phương. Người ta có thể hay nói đúng hơn, người ta phải thực hành nó cả trong việc nấu ăn, bếp núc nữa. Cơ Đốc Giáo ngày nay, biểu hiện trước mắt chúng ta có tính ảo thuật, thần thánh hóa, không thể hiểu được... MATGIOI, GUENON, hay là RUDOLF STEINER đã cố gắng làm cho Đông và Tây phương thông cảm nhau, nhưng những kẻ kế nghiệp của họ lại thiếu phần phán đoán cao thượng. Trông mong có một bậc thanh niên ROMAIN ROLLAND xuất hiện ! Bí mật giáo, thần bí học, huyền bí học đều là kết tinh hay là thần thánh hóa của sự ngu dốt hết cả. Khoa học tân tiến là một bí mật giáo đương thành hình do sự ngu dốt của những kẻ chỉ có trí phán đoán thấp hèn. - Nhưng hôm nay mình quá ÂM, mình hơi loạn trí, nên nói chuyện có phần rắc rối ; có lẽ bữa qua mình có ăn nho tại nhà bà W… Có phải vậy không ? - Đúng như thế, hôm nay tôi bi quan lắm. - Chắc mình đã quên định luật thứ tư của trật tự vũ trụ. - Bởi vì « hễ bề mặt càng lớn rộng bao nhiêu thì bề trái càng lớn rộng bấy nhiêu ». - Rồi sao nữa ? - Càng thuận lợi bao nhiêu, thì càng bất lợi bấy nhiêu, người ta càng thông thái nhiều, lại càng ngu dốt lắm. Sự ngu dốt chỉ là bề trái của sự sáng suốt thôi. - Phải, chính đúng như thế. - Vậy thì, phán đoán thấp là bề trái của phán đoán cao ; hễ trí phán đoán thấp bao nhiêu, thì lại càng cao bấy nhiêu, người ta chỉ cần lật ngược nó lại. - Nhưng mình muốn nói cái gì vậy ? - Mình không nên lo ngại. Nếu ở Tây phương đây, đa số người « văn minh » trí phán đoán bị thấp kém, thì đã có một thiểu số trí phán đoán cao siêu, chúng ta sẽ vui vẻ mà chờ đợi một thiểu số trong thiểu số. Thiểu số này chắc cao quý lắm. - Thật thế, chúng ta đừng lo ngại gì hết. Một người như KANT, như JOHN LOCKE đã có hiểu được, tại sao lại không có một thanh niên như ROMAIN ROLLAND ? - Tốt lắm,chúng ta thử đi tìm một ROMAIN ROLLAND trẻ tuổi. Những điều lo ngại hôm nay đã đủ cho hôm nay rồi. - Đó là điều lo ngại ít nhất của tôi. Chúng ta chỉ ở Tây phương có 240 ngày, từ đây cho đến một tháng nữa, nghĩa là sau này chúng ta đến đây chín tháng, sẽ có một ROMAIN ROLLAND sơ sinh ra đời. - Ô ! Bé con ROMAIN ROLLAND của chúng ta ! - Sinh càng chậm, thì đứa bé càng DƯƠNG. - Phải đó, LÃO TỬ đã nằm trong bào thai trải qua một thời gian dài đến ba năm rồi mới sinh ra kia mà. CHƯƠNG VIII BỆNH UNG THƯ HUYẾT Nhân đi qua tỉnh Lorraine ông Jack hai chân mang đôi giầy da cứng rất khó chịu, một người bạn làm Y sĩ về khoa châm cứu, tên là M. mời về nhà đến khám bệnh cho vợ và bà mẹ ông ta. Người vợ ông ta là một bệnh nhân rất khốn khổ, Y khoa Tây phương, đã từ bỏ không phương cứu chữa được, xem như bị « án từ hình » : bệnh ung thư huyết. Ông Jack nói, thật cũng lạ thay, ở một nước gọi là « dân chủ », Y khoa đã có pháp luật chính thức công nhận, mà không chữa lành bệnh được, trong khi người ta đã có phương pháp khác điều trị linh nghiệm hơn, thì lại ngăn cấm. - Bà Mitie nói rằng, chuyện ấy tôi e không đúng ở một nước đã có chế độ « Dân chủ » có lẽ nào lại không có tự do sao ? Đâu có việc kỳ quái như thế. - Thế đó, dân chủ tân tiến hiện đại xây dựng trên một nền móng phán đoán thấp kém, còn thấp hơn phán đoán John Locke nữa kìa. Lý thuyết của Locke đã trở thành cơ sở rất mạnh cho nền cộng hòa ; như chế độ cộng hòa Hiệp Chủng Quốc là mượn của nước cổ Hy lạp, mà Hy lạp lại lấy sức mạnh làm pháp luật tối cao (là của kẻ mạnh), cho nên nước ấy có nô lệ đông đến 20 lần dân số. Thế là nền dân chủ của họ là chế độ áp bức của một nhóm thiểu số, còn đa số nhân dân đều là kẻ khốn khổ cả. Nền dân chủ Tây phương xây dựng trên sự tàn bạo. Và vừa mới rồi, lý thuyết của John Locke lại được biên giải và cải thiện rất tỷ mỷ, trong một tác phẩm vĩ đại của Sir Bryee, nhan đề là « Tân dân chủ » (Democratie moderne). Locke và Bryce hai đại văn hào này, là luật sư biện hộ cho bọn « văn minh » bọn thực dân hiếu sát nhất của các dân tộc « Thái cổ ». Bọn « văn minh » nầy nguyên là giống dân dã man nhất, được chọn lọc bởi một cái máy lớn gọi là « Tự nhiên tuyển trạch », sống sót trải qua hàng ngàn năm bị tối tăm, lạnh lẽo, đói khát, ở trên bán đảo gọi là « Ấu Châu » hay là « Hắc xứ » hay là « xứ Thiên Hoàng », nay trở thành những giống dân rất Dương, can đảm đơn thuần, và hung dữ. Đó là thiên nhiên tuyển trạch đã cấu thành cho họ một tâm trạng trái ngược với chúng ta. Vậy thì người « văn minh da trắng » lẽ rất tự nhiên ngược đãi các dân tộc da màu, dân tộc Á châu là những giống dân sống dưới chế độ đại gia đình, không cần phải dùng đến sức mạnh hay luật pháp để cai trị. Ở Viễn Đông không có nô lệ cũng không có luật pháp của « kẻ mạnh ». Nếu có chăng nửa, thì đó chỉ là luật sinh lý, vật lý và luận lý học, do trí phán đoán cao siêu tạo thành, theo luật cấu tạo của vũ trụ và đời sống : « Luật Menu » đã có từ ngàn xưa. Nếu hồi xưa ở Trung Hoa và ở Ấn Độ có vua chúa, là họ chỉ mô phỏng các bậc Đế vương chân chánh. Chữ Vua (Vương) của Trung Hoa đã chứng minh điều đó : Ba nét ngang với một nét dọc ở giữa. Nét ngang ở trên cũng là nét đầu tiên, tượng là Âm, vô tận, tạo hóa; nét thứ ba là ở dưới đất, tượng là DƯƠNG; nét thứ hai ở giữa, tượng là vạn vật sinh ra bởi hai năng lực tương phản; còn nét dọc ở giữa nối liền ba nét ngang tượng là sự cấu tạo Vũ trụ, trật tự của Vũ trụ, trí phán đoán cao siêu, …Đó mới là chân dung chân chính của ông vua Viễn Đông. Vua Asoka của Ấn Độ là một gương mẫu. Có rất nhiều vua gương mẫu như thế ở Tàu và Nhật Bổn. Ở Nhật Bổn trong nhiều thế kỷ không có một án tử hình nào, nó chỉ mới có những ngày gần đây, phong trào tự mổ bụng là một vinh dự, trước ngày văn minh du nhập. - Mình hôm nay nói nhiều quá. Ngày hôm qua có lẽ mình ăn một cái trứng và một miếng thịt chăng? - Không, không, mình chớ ngại, tôi chỉ muốn nói theo thuyết tân dân chủ của John Locke và Sir Bryce chỉ là chứng minh hay pháp luật hóa cái lý của kẻ mạnh mà thôi. - Đó là một cách diễn dịch cái luật “chỉ một mình kẻ nào thích ứng nhất mới sống còn” hay là: “kẻ mạnh bắt kẻ yếu nuôi dưỡng”. - Thật đúng như thế. Như vậy là đúng luận lý học lắm. - Không còn cái gì thêm vào đó nữa sao? - Có chứ. Đó là định nghĩa danh từ “kẻ mạnh nhất”. Kẻ mạnh nhất của dân “Thượng cổ” là kẻ biết tuân thủ luật cấu tạo của Vũ trụ hay là sự sống theo triết lý của Viễn Đông. Nhưng kẻ rất mạnh của người “văn minh” là những người rất mạnh ở thế giới tương đối hữu hạn, tạm thời. Đó là nguyên nhân tất cả mọi tương phản giữa “văn minh” và “dã man”! - Đó có phải là chìa khóa của tự do vô tận, hòa bình trường cửu, mà tầm mắt của bọn đại côn đồ John Locke ... không thể trông thấy được chăng? - Như vậy, chúng ta đã hiểu, ở xứ người “văn minh” vì thế mà ngành Y khoa không có tự do, và trật tự y khoa bị kiềm chế, có phải vậy không? - Đúng như thế, nhưng… Dù sao mặc lòng, đã là Y sĩ mà không chữa lành được bệnh này hay bệnh khác mà không có tội lỗi gì cả, điều đó mới thật là lố lăng buồn cười. Họ không có lương tâm, nếu có, thì nên từ bỏ cái độc quyền của họ đi, nếu không thế là kẻ tàn sát tất cả nhân loại. Họ có thể điều trị được các bệnh khác không? Không được, hoàn toàn không thể được. Cũng vì thế mà người ta cứ tiếp tục sản xuất cái tân dược phẩm và thuốc tiêm nhiều ra mãi. Cũng vì thế mà khoa châm cứu, một kỹ thuật đơn giản tầm thương này đã thịnh hành ở Âu Châu. Nhưng nếu khoa này chữa lành được bệnh chăng nữa, cũng chỉ là tạm thời mà thôi. Y khoa của người “văn minh” là đổi chứng trị liệu, thật không thể tin được. Y khoa thuộc giai đoạn hai mà cũng được công nhận chính thức sao? Còn những kẻ không làm Y sĩ mà biết chữa lành bệnh mà Y khoa chính thức từ bỏ không thể chữa nổi, lại không được chữa bệnh sao? Người ta không cho những hạng không phải Y sĩ chính thức có quyền được làm như thế phải không? Mình đành đứng nhìn những bệnh nhân khốn khổ, đáng lẽ được cứu sống, lại bỏ mặc kệ cho họ chết, đó có phải vì cái tệ độc quyền của Y khoa ngu dốt và bất lực không? Như thế có phải mình là một người sát nhân, mặc dù mình không muốn? Và chính phủ, cùng đoàn Y sĩ độc quyền lại là kẻ sát nhân gấp bội , khi họ cấm bệnh nhân đi cầu cứu với những ai có thể cứu sống được họ, cũng như họ cấm các hội viên sở cứu tế không được hoạt động việc cứu cấp. - Đó là một chế độ dân chủ xấu xa. - Nhưng mình sẽ từ chối không cứu chữa cho người đàn bà ấy sao? Chị ấy là một phụ nữ can đảm, cần mẫn. Mình hãy nhìn bàn tay của chị ta rất nở nang, mình nên điều trị cho chị ấy được lành. Nếu mình bị luật pháp kẻ mạnh quy trách, thì chúng ta lấy làm sung sướng mà được chết với cái nghĩa vụ chân chính của người Thiên Quốc. Chúng ta không nên sợ gì hết cả. - Không, dù sao người ta cũng sẽ không giết tôi chứ? - Nhưng chúng ta đang ở một xứ “văn minh”. Hôm trước mình có nói với tôi rằng, có một cái hội sát nhân được cấp lương bổng, và thình lình có một người chết vì “bệnh đau tim”, hay vì “té cửa sổ” hay là vì một “tai nạn xe hơi” gì đó… - Chuyện ấy không phải ở đây, người ta nói tại Hoa Kỳ kia… - Không hề gì, chúng ta là người Thiên Quốc, đến lượt chúng ta, để báo đáp lại “cái văn minh giết người”, chúng ta nên du nhập cái lý thuyết cấu tạo vũ trụ vào tất cả các xứ của kẻ nô lệ. Đó là một điều vui sướng độc nhất của đời sống của chúng ta. - Tốt lắm. Tôi sẽ điều trị cho chị phụ nữ ấy được lành, cũng như đã chữa trị cho những người đàn bà ở Phi Châu. Vả lại, Y khoa của chúng ta không thể xem như Y khoa ở trong một xứ chỉ trị theo triệu chứng, đẫm máu, hung tợn, hoặc lành tạm thời mà thôi. Y thuật chúng ta hoàn toàn không phải để chữa bệnh, chữa lành tạm thời cũng không phải chữa theo triệu chứng, mà có tính cách giáo dục. Y khoa, chúng ta bây giờ dạy cho bệnh nhân tự chữa lấy bệnh cho mình, bệnh được lành hay không, chỉ tùy thuộc nơi ý chí và sự hiểu biết của bệnh nhân. - Nhưng như thế, Y khoa của chúng ta họ sẽ xem như một phép ma thuật, và mình là một ông thầy phù thủy của dân “thượng cổ”, rốt cuộc mình sẽ bị kết án. - Cũng có lẽ như thế. - Mình chớ lo ngại gì, nếu mình bị ở tù, tôi sẽ nối chí theo cách của mình mà điều trị cho hàng trăm, hàng trăm bệnh nhân…. - Tốt lắm. - Thế là ông Jack bắt đầu chữa bệnh bằng cách “ma thuật”. - Thưa bà, tôi xin cam đoan bà sẽ lành bệnh. Bà muốn lành bệnh chậm chậm trong vòng một năm, hay muốn làm cho mau trong ba tháng hoặc một tháng? - Tôi muốn lành cho thật mau, bất cứ giá nào, xin cho mau mau… - Được, vậy thì bà phải tuân theo triệt để những điều gì mà tôi bày vẽ cho Bà. - Xin đồng ý. - Trước hết bà phải quyết định bà sẽ trở thành một Y sĩ cho bà. Rồi kế đó cho gia đình của bà, bởi vì tôi sẽ hiến cho bà tất cả những điều bí mật của tôi. - Ồ, phải nếu có thể được. vả lại, cha tôi bị bệnh phong thấp rất nặng còn chồng tôi thì đau tim. - Được, bà có thể cứu chữa cho cha và chồng của bà lành bệnh, và sau đó bà phải truyền dạy phương-pháp của tôi cho tất cả những kẻ xóm giềng của bà bị đau ốm mà phương pháp Y khoa Tây phương đã từ chối không thể chữa lành được. - Tôi xin giữ lời hứa. Không có gì đáng vui thích hơn nữa. Rồi ông Jack cho một bài giải thích có phương pháp, bày vẽ và chỉ dẫn cách thức ăn uống. Việc này xảy ra tại phòng khám bệnh của Y sĩ M.thân sinh vị Y sĩ này là một chuyên khoa về bệnh huyết, mà Y khoa này đối với Y khoa tiết thực, trường sinh và biện chứng pháp của Viễn Đông, như hai cái thái cực. - Sau ba tuần lễ bà A. này ở Nancy gởi cho người Thiên Quốc một cái thư. Thư ấy như sau. Boismont ngày 17-10-1956. Kính thưa Giáo sư, Tuân theo lời chỉ dẫn của ông, trong buổi hội kiến của chúng ta, tại nhà của Y sĩ M. ở Nancy, cuối tháng 9, nay tôi vội xin báo tin cho ông hay sau ba tuần kết quả về việc tiết thực của tôi. (Khởi sự vào ngày chủ nhật….tháng 9) gồm có 90% ngũ cốc, và 10% rau tươi, và từ bỏ các thứ có tánh chất có nước, (tôi chỉ súc miệng mà không nuốt). Tôi rất vui lòng tập quen với phương pháp tiết thực này, chỉ có điều làm cho tôi khó chịu là kiêng không uống nước. Tôi đã đến độ đi tiểu tiện hai hoặc ba lần trong 24 tiếng đồng hồ, và đi đại tiện vào đúng một lần vào mỗi buổi mai. Trong khi chờ đợi giáo sư bày dạy, hiện nay tôi cần phải nên làm thêm những gì nữa, thì tôi vẫn cứ tiếp tục theo phương pháp dưỡng sinh như vậy. Để cảm ơn trước giáo sư, tôi trân trọng xin giáo sư nhận nơi đây tấm lòng đặc-biệt của tôi. E.A. (ký tên) T.B. nếu cần, trong thời gian chữa bệnh, chồng tôi sẽ đem tôi lên Paris. Nhưng có điều thiếu sót là bà M. quên gởi kèm tờ phân tích thử máu, ông Jack phải gửi thư hỏi giấy ấy. Sau đây là lá thư trả lời của chồng bà ấy, và tờ phân tích thử máu của một Y sĩ nội trú của bệnh viện: Boismont ngày 23-10-1956 Thưa Giáo sư Theo thư của giáo sư ngày 19 vừa qua hỏi vợ tôi về kết quả phân tích thử máu, tôi xin gửi theo thư tờ chứng minh ấy. Hiện nay tôi không có trong tay giấy thử máu vào ngày 15/9 (nghĩa là ngày trước khi bắt đầu chữa theo phương pháp của giáo sư, nhưng tôi còn nhớ hai điều chính: - Hồng huyết cầu: 3.920.000 (bây giờ 4.480.000) - Bạch huyết cầu: 45.000 (bây giờ 41.000) - Cách điều trị của giáo sư đã có kết quả, nhất là trước 15 ngày chưa được giáo sư chữa trị, thì công thức huyết cầu của vợ tôi còn hơi nặng hơn. - Khi tiếp được thư của Giáo sư, ngày thứ bảy, tôi có gởi mua kèm mè,(vừng) của ông Haegy ở Reims, tôi tin rằng có chậm lắm ngày mai sẽ nhận được món ăn ấy. - Vợ tôi luôn luôn theo lời chỉ dẫn c ủa Giáo sư; và sẽ ghi chép những điều cần thiết xảy ra hàng ngày trong một tuần lễ. Hết thời gian ấy vợ tôi sẽ gởi trả lại tờ trả lời những câu hỏi của giáo sư. - Một lần nữa, tôi xin thành thật cám ơn giáo sư. Ký tên: C.A Sau khi đọc thư của người chồng bà ấy, ông Jack buồn rầu làm thinh. Thế là hỏng rồi. Anh ta sẽ đau nặng, đau một bệnh rất khó chữa. - Cái gì thế? - Nếu tôi không chữa được bệnh ấy, thì bà E. cũng không được sung sướng. - Tại sao? - Ông ta sẽ chết một ngày gần đây. - Nhưng kết quả phân tích như thế nào? - Bà ấy lành rồi, nhưng đó không phải là vấn đề. - Bà ấy lành rồi sao? Vui vẻ biết bao! Cám ơn, cám ơn vô cùng. Bà ta lành được, Xứng đáng lắm; Chị ấy là một phụ nữ quả cảm, lương thiện rất có tư cách phụ nữ của người Pháp, rất dễ thương. Tôi xin có lời khen tặng. Nhưng bà ta sao lành mau thế? Phải, theo chúng ta hiểu, bà ấy đã lành 100% rồi, nghĩa là: Theo Y lý tối cao của chúng ta, lành bệnh chỉ là một sự thay đổi phương châm của khuynh hướng sinh hoạt. Bệnh tật là vì hướng đi sai lầm, hoặc cầm lái không vững, nguyên nhân tối hậu tất cả thống khổ :“NHÂN QUẢ”, cái “nhân quả” ấy một khi đã dứt bỏ được, thì tật bệnh (hay đau khổ) không còn nữa, như thế là hoàn toàn lành bệnh. Người ta không cần công phạt triệu chứng , mà phải bứng ngay tận gốc rễ của triệu chứng. Cái nguyên nhân đau khổ và bệnh tật, một khi đã trừ diệt được rồi, thì không cần điều trị cái gì nữa. Cái còn lại nó chỉ tùy thuộc vào ý chí của đương sự. Nếu họ không hiểu được thì họ nên nghiên cứu sách của tôi. - Nhưng chồng bà ấy đau bệnh gì? - Một bệnh rất khó chữa nhất. Đau bệnh rất khó chữa và bệnh này dễ truyền bá nhất trong hạng người “văn minh”. - Bệnh nhị nguyên? - Phải, gần giống như thế. Ông ta không biết trí phán đoán cao siêu, hay là Thượng Đế, quan niệm thượng cổ. Và ông ta rất ngây thơ, tự cho mình là Thượng Đế mà không biết. Ông ta xem Y sĩ như một khí cụ, ông là một “người kinh tế” đặt hết tin tưởng vào « chuyên môn kinh tế ». Ông lại có tính độc hữu. - Vậy thì ông ta là một “bách nghệ gia” chăng? - Có lẽ. - Như thế thì trường hợp ông ta hơi khó. - Phải, còn khó hơn bệnh gọi là “nhị nguyên” nữa: kiêu căng. - A! Kiêu căng! Thật ghê gớm nhỉ. Nhưng đây không phải là lần thứ nhất mà mình gặp chứng bệnh như thế. - Đó là kẻ thù số một của người Thiên Quốc, và tất cả các dân tộc da màu . - Kiêu căng là một bệnh khó nhất, không phải chỉ người “văn minh” mà tất cả nhân loại nữa. - Phải, ấy cũng nhờ kẻ thù yêu quý của chúng ta, mà chúng ta được cải tiến. PARIS THIÊN ĐƯỜNG CỦA KẺ SÁT NHÂN VÀ KẺ TỰ TỬ - Mình đã đọc cuốn sách này của Y sĩ Poisson chưa? - Phải, tôi đã có đọc rồi….Thật là ghê tởm. Một trăm hai mươi tám trẻ con mới đẻ bị giết vì sữa bột có chất thạch tín, và hơn mười hai ngàn đứa, hiện đang bị đau ốm khắp nước Nhật. Sữa bột “Morinaga” mà có chất thạch tín, thật không thể tin được. “Morinaga” là một hãng chế tạo rất lớn, cũng như hãng sữa “Nestlé” vậy. - Tại sao người ta chế thạch tín vào trong sữa? - Trước khi muốn làm cho sữa đông đặc thành bột, người ta bắt buộc phải chế vài chất hóa học vào trong sữa tươi. - Tại sao vậy? - Để cho nó bền vững tính chất của sữa…. - Tại sao lại làm bền vững? - Bởi vì sữa có chất chua, không thể đông lại được. - Vậy thì cho trẻ uống sữa có chất chua sao? - Không phải như thế. Tất cả sữa dần dà có khuynh hướng trở thành chất chua. Mà khuynh hướng ấy là do vi trùng chất chua ở trong sữa tạo nên. Vì vậy, người ta phải gia thêm vào sữa một phẩm chất cố định, như chất bicarbonade de soude, phosphate de soude, citrate de soude v.v…và còn nhiều chất hóa học khác nữa. - Như thế là để bề ngoài trình bày sữa, đã có ít nhiều pha chế rồi vẫn xem như sữa tươi phải không? - Phải nó như thế đó. - Như vậy thì không những để cho chất sữa được lâu, mà còn là củng cố kỹ nghệ hay là tư bản e đúng hơn? - Cũng gần giống như thế. - Thạch tín có phải là thuốc độc không? - Y khoa Tây phương xem thạch tín là một độc chất rất mạnh. Sự thật, nó là một nguyên-tố DƯƠNG mạnh hơn muối đến một triệu lần. - Thật đáng ghê sợ…. - Nhưng người ta dùng nó khắp trong các kỹ nghệ làm sữa, chế tạo fromage, bánh sữa v.v….Morinaga lại dùng chất phosphate de soude cho kỹ nghệ không phải thực phẩm, chất này cũng bị cấm dùng để chế sữa bột, vì nó có chữa chất thạch tín và peroxide d’hydrogène. - Ô, ghê quá… - Nhưng hiện còn 529.925 hộp sữa bột “Morinaga” có thể đầu độc hay giết chết ít nhất cũng đến 1.590.000 trẻ con nữa. - Vậy thì Bộ Y tế bên ấy họ sẽ tính làm sao? - Ở nước Nhật Bản, chúng ta có một người con tinh thần tuyệt hảo, là Y sĩ Poisson…Cuốn sách “Thực phẩm giết người” bán chạy được nhiều lắm. Thiên hạ ai cũng bàn tán đến. Đó là môt kết quả chưa từng có trong lãnh vực cách mạng sinh lý, vật lý và giáo dục. - Chúng ta rất hân hạnh đã trải qua ở Nhật Bản mấy năm mà không bị nhiễm độc… - Bởi vì chúng ta ăn ở trong một “quán cơm Liêu dưỡng viên”, một trụ sở của cuộc cách mạng thực phẩm đã lập lên từ 65 năm nay, và ở quán cơm ấy ẩm thực theo phương pháp tiết thực mà chữa lành tất cả mọi bệnh tật. - Nhưng ở Ấn Độ, chúng ta đã ở tại đó hai năm, thật khủng khiếp! Ở Ấn Độ, nhất là mấy tỉnh lớn, thì tràn ngập những đồ thưc phẩm giết người… Mình còn nhớ không? - Đó là một nước đang tạo lập… - Và chúng ta cũng có ở tám tháng tại “Hắc Phi”…Tanganyika, Kenya, Uganda và Congo, mà không có nhiều thực phẩm hóa học giết người như thế. Nhưng ở “Phi Châu Xích Đạo” thuộc Pháp, thì lại cực kỳ nguy hiểm. Cô Emma có giúp việc cho Y sĩ SCHWEITZER 30năm, là một nạn nhân của một dinh dưỡng nghịch thường. Cô ấy chết, tôi vô cùng thương tiếc, cô rất ngoan, tôi mến lắm. Nhưng có điều cô ta không thể hiểu Y khoa tiết thực đã cũ mấy ngàn năm của chúng ta. Cô tin vào Y khoa Tây phương chỉ mới có hai hay ba trăm năm mà thôi. - Và bây giờ ở Âu Châu đây…. - Chúng ta hiện đang ở tại xứ “văn minh”, chúng ta sẽ không bị nhiễm độc, có phải vậy không? - Ồ có chứ! Đời sống của chúng ta vẫn còn lâm nguy từng ngày từng bước. Mình hãy nhìn các món bánh ngọt , các nhà hàng bán bánh, các thợ làm bánh…các hang bán thực-phẩm này….Tất cả đều bán thực phẩm giết người, do các Công ty thực phẩm lớn chế tạo hết thảy;hầu hết những sản phẩm đóng hộp này đều có chứa đựng chất hóa học sát trùng, hay chất giữ cho thực phẩm để được lâu, hoặc những nguyên liệu pha màu. - Hôm nay tôi có thấy bơ bán ở chợ nhuộm màu rất nhiều. - Bơ và phô mát có thể nhuộm màu với chất hóa học nguy hiểm ghê gớm gọi là auramine. Những lạp xưởng, Giồi thịt các thứ, đậu vào hộp, cà chua hộp, cũng đều có pha màu tất thảy. - Và các thứ nước giải khát trái cây, mà người ta uống khắp nơi, trong quán cà phê, trong các tiệm ăn lớn đó thì sao? |
|
|
![]()
Bài viết
#8
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
- Lẽ tự nhiên, những thứ này cũng đều nhuộm màu với chất hóa học ung thư hóa, như chất hóa học gentiana violet, cristal violet, malcite vert, naphtol yellow, tatragine, poncocem-3R (có màu đẹp quả đào đựng hộp), và nhiều chất pha màu có aniline v.v…
- Vậy không phải nước nhựa trái cây nguyên chất - Không phải, nếu nguyên chất nhựa trái cây thật, thì khi đổ vào chai hay cái ly, nó chia ra ba lớp khác nhau rõ ràng, lớp trên là cơm trái cây có màu lợt, lớp giữa thì trong, còn lớp dưới cùng chỉ cơm trái cây có màu sậm. Nhưng nước trái cây đựng trong chai nhỏ mà chúng ta thấy bán trong các tiệm cà phê lớn ở Paris, đều có màu rất đẹp, từ dưới lên trên. Thứ nước ấy, họ pha vào nhiều lắm là 10% nhựa trái cây nguyên chất, còn lại là 90% thì toàn là nước lã, chất hóa học nhuộm màu, chất dầu thơm, đường, và “ carboxine methy cellulose : ( một thứ dầu có thêm xú tố_ chất sau này không cho thịt trái cây lắng xuống chai - A - Bánh mì, bơ, mứt, kem nước đá, chocolat, thịt muối, rượu mùi, các thứ nước giải khát có pha rượu, cũng đều pha chế như thế cả - Họ được dùng các chất hóa học ấy trong kỹ nghệ thực phẩm sao? - Lẽ tự nhiên có sắc lệnh về việc kiểm soát trong cách sử dụng ấy. Theo săc lệnh thì họ chỉ được phép dùng một số bao nhiêu chất hóa học trong một điều kiện nào đó, và một số lượng bao nhiêu đó mà thôi - Nhưng sao có thể ngày nào cũng kiểm soát tất cả các xưởng, và tất cả các nhà chế tạo được ? - Vậy thì chúng ta rất hân hạnh không dùng một món vật thực nào ở Âu Châu này cả, vì luật “ cấm kỵ” của chúng ta không cho phép chúng ta dùng. Luật cấm kỵ của chúng ta rất kỳ diệu - Mình phải coi chừng, nước máy cũng có pha chất sát trùng. -Vậy thì chúng ta không thể dùng nó để nấu ăn sao? - Không nên - Chúng ta không thể ăn tại các nhà hàng cơm - Chúng ta không nên mua các thực phẩm đã nấu sẵn - Công nước ngọn Evian thì thế nào? - Tôi chưa được biết sự phân tích của nó, và cách chế tạo của nó - Vậy thì chúng ta nên tìm một cái nhà nhỏ ở nhà quê, gần giếng nước. Chúng ta đã có gạo lứt và ở đó chúng ta có thể hái rau cỏ dại ngon lành - Hôm kia, chúng ta đã tìm thấy rất nhiều thứ rau ngon lành ở nhà quê! Các thứ rau Tapopo, Huki, Ao za, Obako, Tiki ko gúa, và nhiều rong biển và rong sông : Nori, Nanori, Hondawara, Wakame, Arame … Những thứ sau này người văn minh không biết làm thế nào mà ăn, và không biết nó ngon lành và chứa nhiều chất khoáng và sinh tố - Mình cũng khéo tìm lắm … - Phải, các thứ rau , Seri, nazuna, Qgyo, Hakobe ra, Hôt ke no za, Suzuna, Suzsuna, Surusiro … những loại rau quí này ở đâu cũng có. Nó rất dương mọc ở xứ khí hậu ẩm: Bệnh xung huyết, suyễn, phong thấp, điếc, nhất là tê bại, và ung thư… Tôi rất sung sướng khi tìm thấy cây ngải cứu (YOMOGI) thứ này người ta nấu nước uống có màu hơi xanh , nó trị được bệnh sán lãi ở ruột, và làm mạnh tim - Mình cũng có tìm được Nobuki ở - Ở Đức quốc .. Tại Fribourg, Francefort, Heidel berg .. và Belshen, ở trên núi rừng rậm. Nhưng loại thảo mộc này ở đâu cũng có, nhất là ở những nơi nhà đổ nát và những hố bom . Những nơi này mọc đầy những rau NOBUKI, rau ấy có thể chữa lành bệnh đau tim, ho lao, và bại - Thật cũng kỳ diệu, đại tạo hóa trồng những cây rất DƯƠNG ở chỗ bị tàn phá rất ẤM - Nhưng các người văn minh không ai hiểu biết điều đó - Họ cũng không biết tại sao sau khi chiến tranh kết thúc rồi, những loại cây DƯƠNG tánh mọc rất nhiều và khắp mọi nơi - Liền sau khi chiến tranh kết liễu, người ta không có rau để ăn. Bởi thế người ta phải ăn ít rau lại - Tôi không tin như vậy, Y khoa Tây phương đang còn ấu trí, con Y khoa của chúng ta đã có đến năm ngàn năm rồi - Ấy là chỗ ưu điểm của luật “ cấm kỵ “ của chúng ta - Phải, luật “ cấm kỵ” của người “ thượng cổ” một lần nữa tỏ ra cái ưu việt vô song của nó “ Tất cả cái gì có bề mặt, tất nhiên có bề lưng của nó” mà mặt và lưng luôn luôn “ tương phản” và “ tất cả những điều tương phản đều tương thành” - Phải. Đúng lắm. Nếu Paris là Thiên đường của kẻ sat nhân và tự tử, thì đồng quê và thiên đường của những người “ thượng cổ”… - Hoan hô! Ngày mai chúng ta sẽ về nhà quê … Hai người Thượng cổ hát một cách vui vẻ “ Seri, Nazuma, Oyo, Hakobera Hotoke no- za Suzuna, suzusiro Korozo, Nân kuza” Đó làm một bài thơ “ Tanka” ( thơ 31 âm); bốn hàng thứ nhất chỉ 7 thứ cây Dương, mọc về mùa Đông. Na Kusa Gusa, đoạn cuối của mỗi chữ; có nghĩa là “ cỏ thiên” và quý. Bẩy thứ cây ấy, ở Nhật Bản xem như thứ cây ăn được và dùng làm thuốc rất quý giá. Và số “7” có nghĩa là “ vô tận” trong sự tượng trưng của Viễn Đông. CHƯƠNG IX SẮC ĐẸP BA LÊ ( Paris) - Phụ nữ Ba Lê đẹp biết bao! - Paris là thành phố của vẻ đẹp - Ở Paris này lẽ tự nhiên là tất cả mọi người đều có vẻ đẹp - Nhưng mình hảy xem đàn bà Paris sang trọng biết bao nhiêu ! - Họ đẹp vì có mũ, nón đẹp, áo choàng đẹp, áo dài đẹp hoàn toàn theo kiểu tân thời - Ả, Mình không hiểu tôi muốn phô diễn cái gì ... Tôi nói họ « đẹp » họ đều đẹp. Mình hảy xem cô gái này, cô ta có một cái xách đựng đầy những món mà có ta mua ở chợ : mình có thấy những củ khoai,những cây kiệu tây lòng thòng và 3 ổ bánh mì dài kẹp dưới nách cô ta không ?Cô ấy không trang sức theo kiểu tân thời. Cô ta chỉ mặc một cái vải tầm thường, không nón, không tất gì cả, thế mà vẫn cứ đẹp. - Tất cả ai cũng đẹp, vì nhờ da trắng, « da trắng che đậy tất cả những cái gì xấu xa » - Màu trắng ?.... Phải, nhưng mình hãy xem kỹ những con mắt tươi cười, nhưng môi không phấn sáp, cái miệng rất nhỏ, trái tay lòng thòng, nó làm thành có một khóe cạnh phía bên cái mặt, lỗ mũi không rộng lắm ... Như thế là đẹp lăm, có phải không ? - Phải ! đúng lắm ... - Đó là một vẻ đẹp, mà chính bên nước ta cũng hiếm thấy lắm A !Khi chào một người bạn đi ngang qua họ cười với hàm răng khít thẳng, không lệch ra ngoài, mà cũng không xiên vào trong, đẹp biết bao nhiêu .... Thật là hạnh phúc, mà một người con, được một bà mẹ un đúc ra như thế ! - Người mẹ của người Pháp, ta nên tán dương ...., -Nhưng trái với đàn bà Pháp,đàn bà Nhật chỉ quản lý việc trong nhà mà thôi - Nếu mình chịu quản lý đời sống hàng ngày của chúng ta, thì tôi sung sướng biết bao nhiêu ... - Tôi là một gánh nặng cho mình ... Mình nên cưới một người vợ Pháp.. - Mình bằng lòng để tôi lấy một phụ nữ Pháp làm vợ chăng ? Nhưng muộn quá rồi, tôi nay dã có 64 tuổi đầu rồi. Thật là tai hại cho tôi - Ở Pháp đây, với tuổi ấy chưa phải là chậm lắm đâu. Hôm qua khi xem một tờ báo, mình có nói cho tôi biết, có một ông già 71 tuổi bị một thiếu nữ 20 tuổi cướp đoạt sạch nữ trang tiền bạc rồi trốn mất ngay sau khi cưới xong. - Phải, chuyện buồn cười nhỉ, nhưng những chuyện như thế không hiếm đâu ... Picasso, Wagner, Goethe ... nhưng sau hết có lẽ đến phiên tôi - Nhưng thật mình muốn cưới một người vợ người da trắng làm vợ thứ hai sao ( Bà Mitie nói gần chảy nước mắt ) - Mình hãy chờ xem ! - Mình thường nói rằng : “ Tôi rất lấy làm sung sướng mà được kết duyên với một người phụ nữ rất ngu dốt, rất đần độn, rất khó hiểu như tôi đây” - Rất đúng - Bởi vì, với một người vợ u mê như thế, tôi mới có thể biết những yếu tố nào đã cấu tạo ra trí phán đoán như trí phán đoán của tôi, và làm sao để khai minh cái trí phán đoán cao siêu của tôi... -Nếu mình cưới vợ người da trắng chắc mình không học được cái gì, như thế thì buồn lắm - Sắc đẹp không kèm theo trí phán đoán cao siêu sao ? - Tôi không biết gì hết, tôi là người ngu dốt mà - Sắc đẹp là cái hiển nhiên trước mắt chúng ta - Vậy nó thuộc về cảm giác chăng ? Mà giác quan của chúng ta thì thường luôn luôn hay bị đánh lừa - Như mình đó, mình là người khôn ngoan, thế mà cũng bị giác quan của mình lừa gạt : thí dụ, về việc lựa chọn tôi chẳng hạn - Vì sắc đẹp hay vì giác quan, bị cái nào lừa dối ? - Sắc đẹp là sắc đẹp. Còn giác quan là cái máy thụ động - Vậy thì tại sao giác quan chúng ta hay bị đánh lừa ? Tại sao các điều ngu dốt, độc ác, giết người, và « tất cả những việc xấu » lại được sắc đẹp che dấu một cách sâu kín như thế ? - Bởi vì sắc đẹp nó thiển cận, hay là biểu hiện còn khôn ngoan, hiền lành, hảo tâm, trí phán đoán, ý chí đều ẩn tàng hay vô hình, và chỉ nhận thấy được trong cách cư xử đương sự - Nhưng sắc đẹp vẫn làm che lấp luôn luôn các tính khôn ngoan, trí phán đoán cao siêu, hay là nhân cách nhu thuận, mà có khi sắc đẹp cũng bộc lộ các tính cách ấy ra bên ngoài. Vậy thì có sắc đẹp vật chất và sắc đẹp tinh thần hay sao ? - Những xứ «văn minh » có phải đều là những xứ sắc đẹp vật chất, đẹp bề ngoài, còn những xứ «Thượng cố » đều là xứ có sắc đẹp về tinh thần không ? - Sắc đẹp bên ngoài có thể như là một cái áo rất đẹp của kể bất lương - Sắc đẹp bên ngoài, vật chất, (hình thức và màu sắc) chỉ để cung ứng làm đồ mỹ thuật, hay là những vật chỉ để cung ứng cho cảm giác của chúng ta. Nhưng một mình sắc đẹp thì không cần thiết gì cho nhân loại - Mình có nhớ bà chủ bán cà phê, mà tôi thường mua thuốc cho mình hút đó không ? - Ừ, còn nhớ, bà ấy đẹp, sang trọng, và hoạt đông. - Nhưng bà ta có tánh khó chịu, nghiêm khắc, lãnh đạm, không khi nào tỏ tình thân ái, lẫn mẫn. bà không khi nào nói « chào ông » « chào bà » hay « cảm ơn ông, cảm ơn bà ». Bà ta hơi giống như cái máy tính làm rộn ràng khó chịu - Nhưng còn bà bán báo ở cửa … Bà này tánh tình dịu dàng, dễ thương, bà luôn luôn nói « chào ông, chào bà, hẹn gặp ngày mai »,« Hôm nay trời lạnh, có mạnh khỏe không … » - Nhưng bà ta không đẹp gì cả : bà đã già, mặc một cái áo đã phai màu, lỗi thời. Nhưng bà này rất dể thương hơn bà bán cà phê … Hằng ngày suốt đời đối diện với một người đàn bà kiêu hãnh vì sắc đẹp của mình như bà bán cà phê này, thì buồn bực đến chừng nào. Người chồng của bà bị khuất phục như thế chắc khốn khổ lắm, hay anh này là môt tên cướp ? - Mình nên biết, trước hết dân số ở Paris một nửa là người ngoại quốc, thứ đến, nước Pháp là một nước dân chủ có chế độ nam nữ bình đẳng ( nghĩa là đàn bà cũng có quyền lợi như đàn ông) sau nữa là nước khí hậu âm (lạnh), mà người ta cần phải sưởi ấm, dù là trong câu nói chuyện … - Nhưng thật chướng tai, khi nghe những người đàn bà nói tiếng quá to lớn ! - Vả lại, ở xứ « văn minh » không có tiếng nói riêng cho đàn bà. Còn ở nước chúng ta không có tiếng nói chỉ định rõ ràng số ít số nhiều, giống đực giống cái, chú từ và quan niệm thời gian, thì chúng ta có một tiếng nói cho đàn ông, và một cho đàn bà có lễ phép, một tiếng nói của tôn giáo, một tiếng nói thi vị trong đời sống hàng ngày, và hơn nữa, tiếng quán từ là đặc biệt để tỏ lòng tri ân, tính thâm trầm, và nhân cách thanh nhã. Nhưng Âu Châu đây, tiếng nói cũng dân chủ là trọng yếu hơn hết, vì thế mà ngữ số của Tây phương rất dể học - Bình đẳng về phương diện nhân quyền thì còn hiểu được, nhưng giới phụ nữ tại sao còn bảo thủ cái giọng nói quá to, quá vùng vằng, quá vô lễ, và nam tính hóa như thế ? Tiếng nói là thuộc về cá nhân, về sinh vật học, về lý trí, làm sao mà bình đẳng được Luận lý và trí phán đoán, thì nam nữ có thể bình đẳng được, nhưng cách phát biểu, ngữ pháp, tinh tế, sai biệt thanh âm, thì nam nữ lại có thể khác nhau. Bản năng của tính, không thể nào bình đẳng được. Nếu đàn bà nam tính, thì chiến tranh và tranh chấp không làm sao tiêu hủy được - Có lẽ cũng vì thế mà các báo chí luôn luôn đăng tải những tin bị thảm và đổ máu … Bình đẳng như thế là bình đẳng thái quá - Nếu bình đẳng và phổ thông, thì phụ nữ phải tổ chức quân đội ngang hàng với đàn ông - Ở Hoa Kỳ và một vài nước Âu Châu, đã có tính đàn bà rồi - Người Thiên Quốc không thể giết người được, dù chỉ biết một con cá để chữa cho bệnh nhân,tôi cũng không làm được - Hàng trăm triệu dân Ấn Độ cũng không hiểu sát, cho đến một con rắn mà nó cũng không muốn giết - Nhưng ở đây ngày nào người ta cũng ăn thịt gà, vịt, trâu, bò, dê, trứng và chó nữa … Bởi thế ở đây, theo quan điểm sinh vật học, phụ nữ đều hóa thành nam tính cả - Ở đây người ta không ăn thịt cho đâu - Điều nay tôi đang còn hồ nghị, nếu vì chiến tranh hoặc bị nạ đói kém bắt buộc, thih có lẽ họ cũng ăn thịt chó. Thịt người, thì người ta cũng không ăn, vid không thích khấu, nhưng người ta cũng chém chết, vì ganh ghét, vì dục vọng muốn làm giàu, hoặc tham vọng tài nguyên thiên nhiên, (chiến tranh chiếm thuộc địa) đã hơn hai triệu người chết ở trận Verdun - Tất cả mọi trường hợp, sắc đẹp Paris - Đó là sắc đẹp bên ngoài, hình thức, màu sắc, nếu không thì cũng là sắc đẹp nơi áp quần và nhưng sức mỹ phẩm. Nó hoàn toàn khác biệt với sắc đẹp của trí thức, văn hóa, luận lý, vật lý và sắc tinh thần - Tôi còn nhớ một chuyện rất hay, do Duyiver quay phim, về chị thợ giặt xấu nhất trong làng - A, Chị thợ giặt rất xấu ấy, đeo một cái mặt nạ đẹp, đi dự hội cuộc giả trang, gặp một chàng trai trẻ tỏ tình thương yêu, rồi cùng hẹn hò làm vợ chồng. Chị ta từ chối, biết rằng khi cái mặt nạ đẹp rơi mất thì chàng trai cũng từ bỏ chị ta. Chị ta rất ngạc nhiên, thấy mình còn đeph hơn cái mặt nạ - Phải đó, chuyện có vẻ tính cách người Pháp ấy rất hay. Nó làm nổi bật những sự kiện của tánh chất nhu mì, khiêm tốn, thận trọng, nghèo nàn sẽ dần đà trở nên sung sướng. “kẻ nghéo nàn, kẻ nào tự an phận với cái tinh thần nghèo nàn của mình, thì một ngày kia có thể lên được Thiên đường”. - Sắc đẹp nông cạn bề ngoài (vật chất, ngây thơ, chất phác), và sắc đẹp ân tàng sâu kín bề trong hạ trước tiên ai cũng bị điều trước thu hút, còn điều sau ai cũng bị khinh khi. - Nếu cần phải lựa chọn giữa hai điều sắc đẹp ấy, thì hay hơn hết là nên chọn cái sau. - Nói cho đúng sắc đẹp sau cũng hiếm người chọn lắm, phần nhiều đều bị cái đẹp trước lôi kéo. Đó là lý do mà báo chí đăng đầy những chuyện linh tinh bi thảm, và tất cả các “đầu đề lớn” quốc tế. - Theo ý kiến này, thì sắc đẹp là miếng mồi, hay lưỡi câu của người câu cá gọi là “sự đau khổ”. Sắc đẹp không những đánh lừa trí phán đoán của kẻ khác, mà lừa gạt chính người đẹp đó nữa. sắc đẹp dâng cho, thụ hưởng hay do nhân tạo, không phải là sắc đẹp nội tâm và sâu kín. Trái lại, nó là ngoại diện, giả dối. sắc đẹp này nhờ cách cư xử của luân lý, khôn ngoan và tinh thần mà có, cũng thường bị có tính cách lừa bịp. - Sắc đẹp bề ngoài, đơn giản, là sự phát biểu của cái chất phác, ngu dốt, cái nghèo về tri thức hay tinh thần. sắc đẹp mỹ thuật, trang trí mà có nhiều ít do nhân tạo là một sắc đẹp bề ngoài. Sau rốt, sắc đẹp luân lý, tinh thần, nếu có phản ảnh một tình cảm, một lý trí của sự đoàn kết xã hội, hay lý tưởng, hoặc tôn giáo chủ nghĩa, thì nó có thể là sắc đẹp bề ngoài, trang trí, và có khi bị lừa gạt mà không hay biết. tại sao thế? Bởi vì, trí phán đoán cảm tình, lý trí, xã hội, luân lý, lý tưởng hay tôn giáo, không phải là trí phán đoán cao siêu; trái lại nó còn xa hơn nữa. tất cả ai cũng khá hiểu biết rằng tình cảm cũng tự lừa dối, rằng trí phán đoán rất cao về tinh thần hay là khoa học, thì 20 năm lại bị đảo ngược một lần, rằng trí phán đoán lý tưởng thì thường bị che lấp bởi cảm tình, cảm xúc cuồng tín, mê tín. Chính những nhà đại bác học như: Alexie Carrel, Pau Carton, A Schweitzer, Van der Mersch (tác giả sách có danh tiếng “thể xác và linh hồn”) và Cronin, những người này đều có nhiều ít tư tưởng kháng nghị, can đảm, thiện chí, mà tôi rất nhiều hâm mộ, nhưng cũng chỉ đi đến chỗ quan niệm “Thượng đế”; và rút cục hoặc như một “tín đồ”, và nhà truyền giáo sự quan trọng đức tin, nghĩa là họ hướng về nhất nguyên luận của Viễn Đông. Nhưng khốn thay, họ chỉ tìm phương hướng thôi, vì tôn giáo của họ, hay sự hiểu biết tôn giáo là gián tiếp, cơ hội, hay là hiếu kỳ. họ mượn cái đó trong những tài liệu biến đổi, bằng chứng: “Lệnh hành giáo của Đức Giáo Hoàng, hành giáo của Galirea, Bruno v.v…!) rồi đến bị người văn minh câu nệ hình thức hoặc bọn truyền đạo “ máy nói” cắt xén thêm nữa. Từ đó nó chỉ là một nhị nguyên truyền thuyết đơn thuần, trái ngược với tôn giáo Đông phương nguyên thủy. Họ cố tình nói về đức tín, Thượng Đế “cái vô giá trị ấy”, về từ thiện về đời sống hiếu đạo, về quan niệm rất tình cảm gọi là “luân lý”, tất cả đều dựa trên nhi nguyên thuyết “thiện và ác” “ham muốn và không ham muốn” “luân lý và phi luân lý” “công và bất công”. - Mình lại bắt đầu truyền giáo,… - Chúng ta trở lại câu chuyện sắc đẹp. sắc đẹp Paris, có tính cách mỹ thuật, trang hoàng, lý trí, tôn giáo hay là tâm lý, không phải là sắc đẹp trường cửu, tuyệt đối vô tận; cũng không phải sắc đẹp nên thơ của tất cả những gì để hoàn thành đời sống của nó mà là cái hiện hữu tạm bợ, buồn rầu, lo âu, bi thảm và khốn nạn; sự luân hồi vĩnh viễn. Sắc đẹp nhân tạo là một biến loạn của những kẻ nào đã đi qua những giới hạn, những điều khốn nạn chống đối lại đời sống phù du. Nếu nó rối loạn, thì nó là nhị nguyên thuyết. nói tóm lại, sắc đẹp Paris là một bài thơ hay là một sự phát biểu mỹ thuật của “ảo ảnh” huyền hoặc. - Sắc đẹp là món tạm thời. Hễ “bề mặt càng đẹp, thì bề trái càng bi đát”, “hễ tiền cát thì hậu hung”, thánh hiền xưa đã có nói rồi. “Lúc đầu khốn khổ bao nhiêu, thì tối hậu lại được vẻ vang bấy nhiều”; luật thứ tư của trật tự vũ trụ đã dạy rõ. Tuy nhiên,Charles Perrault, trong một truyện viết cho thanh niên Pháp, chuyện “Cendrillon”. Tác giả có lẽ gốc tích người nước Thiên Quốc. - A, “Cendrillon” là chuyện của Pháp hả? tôi thích chuyện ấy lắm. - Và chuyện “Sans Famille” nữa… - Nhưng bây giờ có nhiều chị Cendrillon rất hung ác! - Có lẽ 99% thiếu nữ Pháp đều là thí sinh muốn được số phận như Cendrillon. - Họ có cao vọng, trong nghề nghiệp họ được bình đẳng về quyền lợi như đàn ông, và hơn đàn ông vẻ sắc đẹp mỹ thuật, trang sức, tiêu phí, và đời sống xa hoa. Nhưng kẻ nào tham vọng bình đẳng, thì kẻ đó bị hạ đẳng. - Cái gì đẹp bề ngoài, là trỗng rỗng hay tư cách xấu ở trong. - Ở đây, đã biết bao nhiêu lần chúng ta thất vọng với phái đẹp! - Thật thế sao? - Mình quên rồi sao? Phải rồi, mình đã quên tất cả những cái gì mà mình đã làm cho những chị phụ nữ khốn khổ ấy. mình đã bao lần bị các cô các bà ấy khuấy rối; đã bao lần họ nhờ tôi dạy cách nấu ăn theo phương pháp trường-sinh và biện chứng pháp… - Nhưng đó là lẽ tự nhiên, đó là sứ mạng của chúng ta. - Đồng ý. Nhưng đây tôi chỉ muốn nói họ bội ơn một cách lạ lùng. Họ rất giàu, nhưng chẳng bao giờ họ chịu trả tiền di chuyển cho mình. Ví dụ: cô con gái của giáo sư C. bệnh rất nặng của cô ta được chữa lành, trẻ thêm và rất đẹp nữa; mình chắc phải lấy làm lạ, không thể nhìn biết cô ta được nữa, vì sau một tháng, cô ấy đã hoàn toàn thay đổi tất cả rất hoạt động. nhưng cô ta chẳng có một tiếng “cảm ơn” nào cả. - Tuy vậy, anh em, bạn hữu, cho đến cha cô ta cũng đều công nhận rằng cô ta thật trẻ thêm, và đẹp nhiều lắm. nhưng sự thật không có ai nói một tiếng “cám ơn” cả. - Và còn nhiều người khác nữa…. không có người nào có tri giác biết ơn cả… - Phải, họ đều là những người bội ân. Nghĩa là họ không có trí phán đoán cảm giác; huống hồ là phán đoán cảm tình….đây là sứ mạng của chúng ta: không những chỉ chữa bệnh hiện tại, và tương lai, mà thôi, mà còn phải khai minh cái trí phán đoán cao siêu để đảm bảo sự tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, và công bằng tuyệt đối, nó là căn bản của sự hòa bình quốc tế. - Vậy thì luôn luôn vì lỗi của chúng ta? - Phải, tính vong ân là một trạng thái khác nhau của chứng bệnh rất khó chữa lành của nhân loại: bệnh kiêu căng. - Được rồi….vậy thì mình cho phép tôi bán chuỗi ngọc cuối cùng của tôi nhé? Chuỗi ngọc cuối cùng có hột lớn nhất….có lẽ người ta trả cho tôi một triệu quan, và họ sẽ bán lại cho ít nhất cũng ba triệu. …và chúng ta có thể ở lại thêm hai hay ba tháng nữa. - Mình nên tiết kiệm được chừng nào hay chừng ấy. có phải là chuỗi hột cuối cùng không? Có thật vậy không? - Tôi còn tiết kiệm cái gì nữa? tôi không hề mua một cái nón, áo choàng, áo dài nào cả. tôi ăn mặc ngoài kiểu thời trang. Tôi chỉ mua cho tôi một cái áo lót mình tại Luân Đôn. Mình không muốn cho tôi đến phòng sửa sắc đẹp; tôi là người hết sức tiết kiệm. Món tiền tôi tiêu xài rất lớn ở nước Pháp là món chi phí về việc in sách của mình: phải gần 55% và sau là món tiền trả khách sạn và tiền xe: cũng gần 35% còn lại bao nhiêu thì chi phí về việc ăn uống, mua thuốc hút cho mình, và đi xem chiếu bóng…Tôi biết làm thế nào để mua vé tàu đi Buenos Aires, Li ma, Sao paulo, Mexico, New York, Chicago, LosAngeles, Tokyo, Calcultta, Lambaréné và Berlin. - Mito sẽ gởi vé tàu từ New York qua cho chúng ta… - Ồ, không đời nào, không nên làm phiền đến con cái của chúng ta; chúng nó đương còn trẻ nhỏ , và cũng không giàu lắm. với tôi số tiền bán những nhạc khí, đồ thêu, nữ trang của tôi, cũng đủ trả một phần nào tiền lộ phí cho nó mà thôi; từ khi nó khởi hành cho đến nay chúng ta không gởi cho nó một xu nào nữa hết, nhưng Mito lại có gởi cho chúng ta hai vé máy bay Air France để đi từ Paris đến Lambaréné. Chúng ta không hiểu nó đã trả như thế nào, có ai cho nó vay mượn chăng? Và ở đây, chúng ta muốn đi đâu cũng đã có xe nó chở đi, và trả tiền phí tổn thư tín gởi máy bay, cũng như Ấn Độ và ở Đức vậy. Chúng nó đã giúp đỡ ta nhiều lắm rồi. - Chúng ta vui sướng mà được 30 đứa con như vậy. -Nhưng chúng nó không phải đều là con đẻ của chúng ta: chúng chỉ là học trò cũ của mình thôi! Bởi thế, tôi thường nói luôn rằng, chúng ta là kẻ sung sướng nhất trên đời. Chúng nó không những giúp đỡ chúng ta ở hiện tại, mà còn sẽ giúp chúng ta nhiều hơn nữa, cho đến sau ngày chúng ta chết rồi vậy: Chúng sẽ thực hành sứ mạng của chúng ta…. SẮC ĐẸP BA LÊ Kết luận Đàn bà ở Paris đẹp. Không còn gì bàn cãi được nữa, họ đẹp vô song, tôi mến họ, và tôi ưa chuộng họ. Nhưng sắc đẹp luôn luôn là mỹ thuật, bề ngoài, và cảm giác. Sắc đẹp hoàn toàn độc lập. Nó độc lập nội tâm, (nhân cách, ý chí, từ thiện, thế giới quan hay nhân sinh quan, cư xử). Đôi khi nó không quan hệ gì với sắc đẹp tinh thần. Có khi nó lại che giấu tính hung ác, sự phản bội, sự ganh ghét, ý chí giết người, điều hư vinh, lòng thích tự tử, chết chóc…một đôi khi lại mưu sát kẻ khác rất tàn bạo, hoặc làm diệt vong một đế chính. “Chính nó đã làm suy vong một đế quốc” câu này đồng nghĩa với tiếng “sắc đẹp” ở Nhật Bản và Trung Hoa. “Người đẹp ấy là bi thảm”, cách ngôn Nhật Bản nói như thế. Gần khắp mọi nơi, chỗ nào cũng có người như Marie Antoniette. Người đẹp quá tự mãn cái sắc đẹp của mình, người đẹp nào muốn nói với gương soi của nó rằng: “Mày là người đẹp nhất trên thế gian”, người đó có thể giết chết nàng Bạch Tuyết trong rừng. Chỉ một sắc đẹp không chưa đủ. Sắc đẹp lại còn có thể là cái trang sức tầm thường, một miếng mồi hoặc một lưỡi câu giết người. Vả lại sắc đẹp một khi đã hết rồi, thì chỉ còn một xác chết lạnh lẽo và dơ bẩn mà thôi. Cléopâtre bây giờ ở đâu? Marie Antoninette bây giờ ở đâu? Sắc đẹp vĩnh viễn, sắc đẹp mà mọi người không ai có thể quên được bây giờ ở đâu? Trái với văn hóa Hi Lạp, mỹ thuật Viễn Đông không tán tụng thân thể con người. người ta còn gớm ghét nó như một cái “bao” chứa đựng những đồ dơ bẩn. Vì thế mà ở Viễn Đông người ta không biểu dương thân xác lõa thể. Lõa thể Hi Lạp, và thuyết thần và người cùng giống một hình như nhau, thuyết ấy ở Đông Phương rất ghét, mà Tây phương thì cho là học phong cổ điển. Ở xứ người “Thiên Quốc” lõa thể xem như là vô lễ và đáng khinh, cho nên hai bạn “Thiên Quốc” cảm thấy hổ thẹn, khi đứng trước một cái hình thân thể trần truồng. Đối với họ, lõa thể là một cách phát biểu quá thô tục và quá vô lễ của sự thèm muốn nhục dục quá hơn thú vật. Họ còn ghét sự phô trương hoặc chứng tỏ sắc đẹp cá nhân hay là của nhân loại. Họ thu giấu sắc đẹp cá nhân, tập thể và vật chất. Ấy là “luật cấm kỵ” của họ cấm trưng bày sắc đẹp của thân thể,của lí trí, kinh tế, và đồ nữ trang đồ mỹ thuật mà họ có. Bởi vì sắc đẹp, giàu có, hay phát sinh điều ganh ghét, và làm đau khổ cho những người thiếu sắc đẹp và nghèo tiền của. Thu giấu sắc đẹp, ấy là một sắc đẹp khác: khiêm nhường. Người đàn bà Nhật Bản và đàn bà Thiên Quốc, mặc áo đẹp có mặc thêm một cái áo màu sẫm và nhu ở ngoài. - Ở Tây phương họ không biết sắc đẹp nhu mì và lễ độ chăng? - Không, ở đây người ta ưa sắc đẹp đơn thuần, chất phác và thanh khiết. - Nhưng người ta không biết sắc đẹp thâm trầm sắc đẹp vĩnh viẽn chăng? Mỹ thuật thiêng liêng của chúng ta…. - Điều đó tôi không được biết. Nhưng sắc đẹp chất phác lại được trông nhìn một cách vui thú. - Sắc đẹp nhân tạo là khó chịu hơn cả, có phải vậy không? Mình hãy nhìn cái bánh ngọt đẹp có nhuộm màu với chất hóa học ung thư hóa. Màu đỏ hóa học rất rực rỡ, không có anh thanh niên nào của xứ Thiên Quốc bạo dạn dám hôn môi cô gái nào có môi đỏ thoa bằng chất Aniline khiến phát bệnh ung thư. - Ở đảo nhỏ xứ Thiên Quốc chúng ta, người đàn bà thường dùng màu đỏ để bôi môi xem như một vị thuốc hàng ngày vì màu đỏ ấy lấy trong loài thảo mộc mà họ đã biết biến chế nó từ lâu rồi, nó giúp cho sự tuần hoàn và điều kinh được dễ dàng. Chất đỏ của Thiên Quốc gạt bỏ cái qua DƯƠNG trong màu đi, và làm cho người đàn bà thuần nữ tính hơn, thanh lịch hơn, và Âm tính hơn. - Mình có thể thương một người đàn bà mặt mày thân hình rất đẹp, nhưng hay nói láo, bất lương, có khi lại giết người nữa chăng? - Mình có yêu chuộng một người đàn bà bề ngoài xấu xí, nghèo nàn, nhưng bề trong rất nhã nhặn, rất thanh lịch, hơn là một người đàn bà bề ngoài đẹp đẽ mà bề trong thì xấu xa không? - Tôi có biết một họa sĩ Nhật Bản có tài đã lấy một người Tây phương đã già và rất xấu. - Họ đã ăn ở với nhau một đời sống rất có hạnh phúc. Người nào tìm được người vợ đẹp, rồi dễ bỏ nhau, lại tái giá thú với một người vợ đẹp khác, lần này cũng ly hôn nữa…ấy là một người chỉ đi tìm cái mặt nạ đẹp mà thôi, suốt đời không khi nào vừa lòng hết cả. - Với người “Thượng cổ” mỹ thuật có ý nghĩa là một vật trường cửu, biểu hiện cho sự cấu tạo của vũ trụ và đời sống trường tồn, công bình tuyệt đối, và tự do vô tận. - Đó là một điều thần thánh, nếu mình muốn nói như thế. - Đối với người “Thượng cổ” sắc đẹp là thiên nhiên, là tinh thần, còn cái nhân tạo là một cái chỉ đáng khinh mà thôi. Với họ, sắc đẹp là một vật “vô hình” nhưng với người “văn minh” sắc đẹp lại có thể trị giá được, rờ nó được, cảm xúc được và nếu có thể thì cũng thèm muốn được. - Đi tìm sắc đẹp, có nghĩa là mình không đẹp. - Nhưng có hai loại sắc đẹp, một thứ sắc đẹp phù ba, hữu hạn, sắc đẹp ấy sớm muộn gì rồi cũng hóa nên xấu, còn một thứ sắc đẹp trường cửu, đó là sắc đẹp bề trong. Sắc đẹp ngoại diện và hình thể là thứ người ta “cho”. Nhưng tất cả cái gì mà người ta cho là một món nợ. Sắc đẹp trường cửu là một sự sáng tạo, người ta không thể sáng tạo nó mà không tiếp xúc với trí phán đoán cao siêu. - Sắc đẹp tinh thần (hay là phẩm cách tinh thần) nó có một giới hạn cũng như cái sắc đẹp của sức mạnh hay của sự giàu có. - Cái gì tùy thuộc vào sắc đẹp có giới hạn, nhất định kết cuộc đi đến bi thảm. Khoa học là một ví dụ, sự cải cách khoa học về xã hội là một ví dụ khác. - Hàng tỷ người đàn ông, đàn bà đều mù quáng. - Họ đều hơi giống như những con heo của Ấn Độ, đời sống của họ bị bắt buộc làm những việc khổ sai nặng nề, họ không thể đoàn kết được. - Họ thiếu trí phán đoán cao siêu, họ chỉ tìm sự đẹp hữu hạn, cái giàu có hạn định. Nếu họ có thể đoàn kết được, thì lại thực hành những chuyện rối loạn hay phá hoại. - Họ muốn cho sắc đẹp hữu hạn và phù ba, được trường cửu, nhưng lại không biết làm thế nào để phát triển trí phán đoán thấp kém của họ đến giai đoạn phán đoán cao siêu. Họ đều mù quáng, đều bị xiềng xích và tù hãm bởi ông Vua rất độc ác gọi là “Kinh tế”. - Họ cố gắng bất cứ giá nào cải biến một cách khoa học cái thế giới này thành một nước Thiên quốc, nhưng họ đã sai lầm trong việc lựa chọn khí cụ, họ không biết rằng khoa học Tây phương chỉ thuộc về trí phán đoán cảm giác, gia tăng sức mạnh và dùng khí giới, chứ không có gì khác hơn. - Họ không biết họ đang sinh sống ngay ở giữa Thiên quốc, và chính họ là một Hoàng tử của Vua trường cửu rồi. Họ làm rắc rối tất cả. Họ cố gắng bất cứ giá nào, đến cả sự tàn bạo, chun qua một cái lỗ hoàn toàn tưởng tượng, và họ tin tưởng đã tìm được chỗ đó là chỗ trong cái vô tận. - Không có gì dễ hơn cho bằng sự đi vào cõi Vô tận, người ta có thể thực hiện ngay trong nháy mắt. - Nhưng kẻ nào đã quên và khăng khít với thế giới tương đối, hữu hạn rồi, thì tưởng tượng thế giới Vô tận và tuyệt đối cũng như thế giới hữu hạn và tương đối vậy. - Họ không biết không hiểu, mà cũng không muốn hiểu rằng thế giới hữu hạn và tương đối là một điểm tưởng tượng, một điểm kỉ hà của thế giới vô tận và tuyệt đối mà thôi. - Mình thử nhìn thế giới tương đối và hữu hạn này, nó chỉ chất chứa đầy những việc láo khoét, phá hoại, tàn sát, độc ác, tất cả đều đau khổ… - Không có một nhà chính trị nào thiết lập được nền hòa bình! Không có một nhà giáo dục nào dạy được sự vui vẻ sáng tạo! cũng không có nhà xã hội học nào có thể bảo đảm được sự an ninh xã hội cả! - Không có một nhà tu sĩ nào truyền bá điều công bình tuyệt đối, cũng chẳng có một tiểu thuyết gia nào trước tác được một truyện tân anh hùng mạo hiểm thuần lý. - “1984” của Orwell, “tòa lâu đài” của Kafka đã giải thích như thế. - Ngẫm nghĩ sự bi thảm Tây phương này, về điều họ mặc nhiên không biết chi đến con người, thật cũng là một điều thích thú. - Ấy là bề trái của cái sắc đẹp Paris. CHƯƠNG X BẢY CHUYỆN BÍ ẨN của ÂU CHÂU DU BOIS RAYMOND Du Bois Raymond có đề nghị 7 chuyện bí ẩn và tuyên bố rằng trong một vài bí ẩn ấy, tuyệt đối không đời nào giải quyết được. Khi người Thiên quốc đọc đến điều đó thì lấy làm buồn cười, vì tất cả những điều bí ẩn ấy đều được Nguyên lý vô song giải quyết đã lâu đời lắm rồi. Ông ta cười nhạo. Nhưng đến lượt ông ta, thì ông ta đã tìm được 7 cái đại bí ẩn của Âu Châu, còn những bí ẩn nhỏ thì có đến 70 điều. Những bí ẩn ấy người Âu Châu sẽ xem như là để giải quyết. ĐIỀU NAN GIẢI, Y KHOA KHÓ HIỂU Trước hết, Y sĩ và bệnh nhân của Y khoa là điều vô cùng khó hiểu cho hai người Thiên quốc. Theo Y thuật của họ thì bệnh lý có 7 giai đoạn: 1. Trạng thái tâm thần, không có kỷ luật, không có đức tin, phán đoán mù quáng máy móc. 2. Tánh ích kỷ về cảm giác trong đời sống, nhất là trong việc ăn uống (tham ăn). 3. Bệnh máu, bị nhiễm độc đồ ăn uống bậy bạ, do theo trí phán đoán cảm giác và tự kỷ trung tâm. 4. Bệnh tế bào, do máu có nhiễm độc nuôi dưỡng. 5. Bệnh cơ thể, do tế bào bệnh hoạn cấu thành. 6. Bệnh tâm lý,sự không hòa hợp của cơ thể đau yếu, (nhị nguyên thuyết hay là lý tưởng luận). 7. Bệnh tinh thần, bệnh khó chữa nhất: kiêu ngạo, tự tôn tự đại. Bệnh ở giai đoạn càng thấp, thì lại càng dễ chữa, vì nó còn non nớt, đơn giản, ít phát triển. Đó là hiển nhiên. Muốn điều trị một bệnh, cần phải công phạt nơi phần dễ nhất, căn bản nhất: Sự ăn uống. Tất cả bệnh tật đều có gốc rễ rất sâu ,ăn vào tâm trạng vô nguyên tắc, không đức tin, không kỷ luật, là phán đoán thấp kém. Người ta cần nên thay đổi hoàn cảnh sinh lý, vật lý, và xã hội, thực hành cách mạng nấu nướng ăn uống trước hết. Nếu không như thế. Nếu không như thế thì bệnh được hạn chế, triệu chứng được phá hoại, rồi nó lại tái phát như thường. Nếu người ta đóng kín hay cắt đứt chỗ đau ấy không cho nó lan tràn ra, thì bệnh lại tìm kiếm một hay nhiều lối thoát khác rất dễ dàng, bởi vì cái gốc rễ nuôi dưỡng bệnh đó, ta không hề động chạm tới, và nó cứ ngày càng nặng thêm. Nhưng Y khoa Tây phương không biết căn nguyên của bệnh, trái lại họ cứ công phạt triệu chứng hay chỗ hạn chế của bệnh, mà chính chỗ hạn chế này không những nó là vô tội, mà còn là ân nhân giúp cho việc bài tiết của bệnh nhân nữa. Hoặc là, Y khoa này quá chú ý về vi trùng hay độc tố tưởng tượng, nên xem chúng nó như kẻ chính phạm gây ra bệnh. Đó mới thật là buồn cười. Đó không khác gì chỉ nhắm một viên đạn rất nhỏ của địch mà công kích, thay vì muốn thắng địch phải đánh thắng ngay bản thân của quân lính địch, của các sĩ quan chỉ huy địch, tốt hơn nữa là đánh toàn bộ tham mưu, hay chính phủ của địch,hoặc nếu mình là kẻ có trí phán đoán cao siêu hơn, thì nên khai minh cái trí phán đoán thấp kém của địch là thượng sách hơn cả. Bệnh hư huyết (như Ung thư huyết) chưa bị han chế (nghĩa là các tế bào và cơ thể còn mạnh khỏe và có thể chống đối lại sự công phạt của yếu tố bệnh), là dễ điều trị nhất. Máu do đồ ăn uống hàng ngày tiêu hóa mà sinh ra: Bởi thế người ta chỉ thay đổi cách dinh dưỡng một chút, thời theo lí thuyết, người ta có thể trị lành bệnh trong một ngày, mà trong thực tế chỉ vài ngày mà thôi. Nhưng Y khoa Tây phương, đối với ung thư huyết thì không biết phải trị thế nào, nên người ta tuyên bố là “nan y”, thế là người ta xử tử bệnh nhân, và để mặc cho bệnh nhân chết. Nếu Y khoa ấy không kêu cứu lớn tiếng giữa công chúng, không tự thú là bất lực, không tự thú là phạm tội độc quyền cứu chữa bệnh, và nếu không biết tự hạ mình một cách sâu xa thì Y khoa ấy chính là một khoa giết người. Nhưng sự thật lại không thể tưởng tượng được. Như chúng ta đã nói ở chương Mê tín,kẻ giết người không biết mình đã phạm tội, không biết tự xử lấy mình, nó không có lương tâm; cho nên không biết công lý là gì. Nó là một nghề nghiệp, còn tệ hơn cả nghề làm đĩ sinh nhai, nó có can đảm và lương thiện, đem thân hiến cho thiên hạ mua vui, thay vì giết thiên hạ. Còn nghề Y khoa thì bất lương, khiếp nhược, vô luân lý, họ không ngớt làm giàu, tự phụ là mình cứu chữa bệnh tật, mặc dù họ biết có hàng triệu triệu bệnh nhân mà họ không thể làm giảm bớt được sự đau đớn phần nào. Nhưng không chỉ có bệnh Ung thư huyết mà Y khoa Tây phương không thể chữa lành được, còn các chứng bệnh khác nữa, họ cũng tỏ ra bất lực. Nếu có chỉ một cách chữa lành tạm thời, như thế thì có gì độc ác hơn những kẻ chiếm đoạt tài sản của một bệnh nhân khốn nạn, đã hoàn toàn phó thác cho họ trước khi chết? Thật là thất vọng cho bệnh nhân biết bao nhiêu! Ở nước Thiên quốc của chúng tôi, như các bạn đã biết 1 ít, khi đọc quyển sách “Epochma king” của Samael Butler, không cho phép làm Y sĩ, nếu không tự chữa lành hoàn toàn bệnh của mình, và những bệnh khó và nguy hại, bệnh nghiện rượu, bệnh ích kỷ, tính phản bội và tính trộm cướp. Người ngoài ngoại quốc hỏi, có phải trong ngành Y khoa mà thôi còn trong lĩnh vực kinh tế, huấn luyện an ninh, giáo dục, trong tất cả xã hội, chính phủ, chính trị Quốc gia, và quốc tế, đâu đâu cũng đều bị sự không hiểu ấy nó chi phối tất cả, phải không? - Than ôi! Ví dụ: Cơ quan cảnh Sát (nô lệ trung thành máy móc của pháp luật) bắt bỏ tù một người phạm tội, tước hết quyền tự do của con người, rồi pháp luật áp dụng một vài hàng trong luật, xử người bị hại, nhốt trong nhà tù trong một thời hạn nào đó. Nhưng luật này do nhóm nghị viên của một nhân dân có trí phán đoán thấp hèn lập nên; mà cử tri nhân dân này lại toàn hạng mù quáng, nô lệ dốt nát, bị mua chuộc hoặc huấn luyện chuẩn bị do một ông vua gọi là kinh tể mà có. Chính nền kinh tế đó cũng do một ông Vua gọi là “Kinh tể” đó chỉ huy. Và viên quan tòa cũng do chính phủ ấy trả lương. Sự xử đoán trong trường hợp này chỉ là một việc vô ý thức. Nếu “tội nhân” là một “kinh tể gia đại cừ” nghĩa là một trong những vua chư hầu “kinh tể’ thì mặc dù phạm tội gì, viện cớ này, cớ nọ, được tha ngay lập tức. Nhưng một khi “kẻ phạm tội” khốn nạn ấy, không bị phạm tội gì khác hơn là cái sản phẩm gọi là “kinh tể” yếu hèn vì khuôn rập theo lò giáo dục xiềng xích, hoặc xã hội chủ nghĩa hay là dân chủ chủ nghĩa, hay là cả hai thứ chủ nghĩa, thì kẻ chủ mưu giáo dục về xã hội chủ nghĩa, và dân chủ chủ nghĩa đều không bị tội lệ gì cả: Việc xử đoán mà không biết, hay không muốn tìm ra chính tội trạng là một bệnh thần kinh và bệnh xã hội rất trầm trọng, của người Tây phương. Bằng chứng: tất cả cơ cấu Cảnh sát, pháp luật, cho đến Tòa Án, từ ngàn năm nay, bất kỳ ở xã hội nào, cũng chưa hề thấy thiết lập nên hòa bình được thành công. Cả Cảnh sát, cả pháp luật, đều chưa có tính cách chữa bệnh cũng không có tính cách giáo dục, hai thứ ấy chỉ là vật nô lệ mù quáng trung thành với vua “kinh tể” hay là “văn minh” mà thôi. Vì thế mà chúng ta chưa thấy một “kinh tể gia đại cừ” nào ở trong tù cả. Sự kiện này cũng giống như môn Y khoa. Y khoa không thể điều trị được bệnh phán đoán loạn sắc hoặc mù quáng, nó là nguyên nhân sinh ra tất cả mọi đau khổ, tất cả tội lỗi gồm có cả chiến tranh và tất cả tai họa của nhân loại. - Ở nước chúng tôi, như các bạn đọc đã biết trong sách “Erewhon” của Samuel Butler, người ta chữa phạm nhân trong bệnh viện và cải huấn giáo dục bệnh nhân bằng cách bắt làm việc khó nhọc trong tù ngục. Cả tội nhân lẫn bệnh nhân không cứu chữa được, nếu trí phán đoán của họ không thể khai minh. - Nhưng ở đây, Y khoa cũng như giáo dục khoa không biết căn nguyên của căn bệnh. Y khoa thì chỉ công phạt những triệu chứng tạm thời bề ngoài, hoặc những vi trùng vô tội; trong khi đó thì khoa giáo dục lại chỉ dạy làm cách nào để đạt được tư cách làm nô lệ trung thành và máy móc cho ông vua “văn minh kinh tể”. Họ không tìm hiểu lý do tồn tại của các vi trùng ấy, hay là những tội phạm ấy. Họ không thấy biết cái gì đã phát sinh ra các sự kiện ấy, bởi đại tạo hóa hay bởi cách sinh hoạt của mình? - Tại sao bệnh thần kinh ấy, bệnh phán đoán ấy hiện hữu và chiếm chủ nhân ông trong tất cả mọi giải tầng? Tôi không thể hiểu được; thật là ô nhục và buồn tẻ. Tại sao Y sĩ và cả bệnh nhân nữa không nghĩ đến sự dốt nát hoàn toàn của khoa Y thuật? - Trong xứ rừng rú của văn minh này, đầy dẫy chiến tranh, nghèo khó, ồn ào, thú dữ, bọn ăn thịt gọi là “kinh tể gia cừ khôi”, tội phạm và bệnh tật, chúng tôi, người thượng cổ của nước Thiên quốc, đều thất vọng. Người Thiên quốc không thể hiểu nổi những người “văn minh” là giống người rất duy lý, duy vật, và khoa học như thế, mà lại chịu thừa nhận sự hiện hữu và thực hành môn Y khoa đối chứng trị liệu và kinh nghiệm mà không biết đến “sự sống là cái gì”, “nó ở đâu đến”, “rồi nó đi đâu”, “tại sao trái tim đập”, cũng không biết động cơ của trái tim như thế nào; Y khoa cũng không biết chữa lành một lần là tuyệt căn; Y khoa cũng không biết rằng những Y sĩ hành nghề đều công nhận rằng không có một thứ dược liệu nào, cũng không có cách điều trị nào thật hiệu nghiệm và đúng lý; rằng những người biết cách trị lành bệnh mà không bằng cấp chứng nhận cũng không được tự do chữa bệnh như các Y sĩ chính thức, rằng bệnh nhân cũng không được tự do lựa chọn cách trị bệnh mà mình muốn, rằng người “văn minh” duy lý đều phải tùy thuộc nơi Y khoa đổi chứng trị liệu. - Chúng ta nên hiến cho họ một cái kho tàng rất quý giá là Vô song Nguyên lý của Hòa bình và tự do. Người ta đã chếm hết cả rồi, từ cái cổ truyền cho tới tôn giáo, nhưng không sao. Đó mới chỉ khởi điểm, chung cục sẽ đến ngày mai. Chúng ta nên cho và làm cho người “văn minh” chấp nhận một điều mà họ quên chiếm đoạt là “Vô song nguyên lý”. - Chúng ta nên cầu nguyện cho người “văn minh”. - Câu chuyện độc thoại của người thượng cổ cứ tiếp tục không dứt. Chính tôi là người “văn minh” mà cũng không hiểu họ muốn nói cái gì cả. Nhưng cũng lạ, có một câu này mà tôi không thể quên được: - A! Điều nan giải của Y khoa “giết người”, của giáo dục bất lương, nó đã tạo ra một khối người nô lệ. Bͬ ẨN của DƯỢC LIỆU - Người đông quá! Trong tiệm bán dược liệu, có đông người luôn luôn! Tai sao mà có nhiều người như thế? - Họ đều là bệnh nhân, họ đến đó mua một vài thứ dược liệu cho đỡ đau. - Nhưng họ đau nhiều thế sao? Cả ngày lẫn đêm? - Thật cũng lạ, người “văn minh” mà cũng đau ốm. - Nhưng họ bán cái gì vậy? - Họ bán thuốc uống. |
|
|
![]()
Bài viết
#9
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
- Nhưng mà thuốc uống gì?
- Nhưng thuốc gì? A! Chắc mình cũng tưởng như các thứ thuốc rất kỳ diệu của xứ chúng ta, đã lượm lặt rất nhiều ở trong rừng, ngoài đồng nội, và ở dưới biển chăng? - Không, tôi nhớ đến điều mà ngày hôm nọ chúng ta đã đề cập đến một ông Giám đốc Công ty dược phẩm, chính thuốc của ông ta đã chế ra bán cho thiên hạ, mà không trị được lành bệnh của mình, cũng không làm cho mình giảm bớt được đau đớn, ông ta phải nhờ đến mình điều trị, vì biết rằng bất kỳ bệnh gì mình cũng đều chữa lành mà không cần thuốc men hay mổ xẻ gì ráo. - Tất cả dược liệu đều chỉ chữa lành tạm thời bề ngoài mà thôi, không phải là cách liễu giải. Đây cũng giống như diên trì, hay triển hoãn một món nợ, hay phá hoại, hạn chế bệnh tình, hoặc di chuyển những đường thần kinh đau đớn mà thôi, cũng là một sự phá hoại cấp cứu một cơ thể, nó cũng giống như giết một nhân viên đưa tin hoặc phá hủy đường giây điện thoại, vì sợ nó đem tin chẳng lành đến cho mình. - Nhưng tại sao nhiều người đứng trong dược điểm thế? Vậy thì người ta không biết thuốc men là cái gì sao? Người ta không hiểu chăng những thuốc ấy chỉ lành tạm thời, mà còn nguy hại là khác nữa chăng? Tại sao, tại sao thế? - Tại phương pháp giáo dục “chuyên nghiệp” và “duy vật chủ nghia” của ông vua “kinh tể” nó làm trí phán đoán những người “văn minh” mờ đi. - Nhưng không phải “kinh tể”gì cả. - Đó là vì bệnh lành tạm thời, nên người ta bắt buộc mua thuốc luôn để uống. Vì thế mà những công ty dược phẩm lớn ngày càng giàu thêm. - Vậy thì Công ty dược phẩm là một tổ chức ăn cướp sao? -Đó là tổ chức của những kẻ trí phán đoán thấp hèn, chỉ có tính cách duy vật, nó chỉ có mục đích lấy tiền, cũng như các tổ chức khác của người “văn minh”. Những tổ chức tạm thời đều là cung điện hoàng đế xây nền móng cho đế quốc tư bản chủ nghĩa. Những công ty dược phẩm đồ sộ, và nhiều hãng dược liệu đẹp đẽ khác, đều là những bàn tay bằng sắt bóp cổ các bệnh nhân khốn khổ, để chiếm đoạt tiền bạc của họ. - Thật là độc hiểm, mà tôi cũng không sao hiểu nỗi. Trạng thái thịnh vượng của kỹ nghệ dược phẩm, đó lại cũng một bí ẩn nữa. - A! Quái! Đây có lẽ là một ảo thuật chăng? Ảo thuật đen tối chăng? - Nghĩa là người ta tìm một cái gì lạ lùng, phi thường chăng? Một sự chữa bệnh thần diệu chăng? - Phải, họ tìm cách chữa bệnh với bất cứ giá nào, mà họ không biết chính họ phải chịu hết trách nhiệm, vả lại họ cứ sản xuất không ngừng những tên dược phẩm vô hiệu quả, để cung ứng cho thời thượng; một thử thách khác vô hiệu quả của chúng. Nhưng các Công ty Dược phẩm cứ giàu thêm. THẾ GIỚI CHÌA KHÓA - Ở xứ “văn minh” này đây, tất cả mọi người ai cũng đeo trong mình, một, hai hay nhiều cái chìa khóa. Chìa khóa cửa, chìa khóa phòng, chìa khóa tủ. - Và cả chìa khóa phòng rửa mặt, “chìa khóa công viên nữa”. - Đó là một thế giới của chìa khóa, không có chìa khóa, người ta không thể sống được, cho đến muốn vào nhà cũng không được. - Như thế là trái hẳn với bên ta. Ở xứ chúng ta, không ai có chìa khóa cả, vả lại, nhà chúng ta làm bằng tre và lá, người ta muốn tự do vào phía nào cũng được, người ta có thể di chuyển cả cái nhà đi đâu cũng được. - Nhưng không có ai vào nhà vắng chủ nhân. - Người ta không ăn trộm, không hề có một kẻ nào ăn trộm - Vậy thì, Tây phương là xứ kẻ trộm chăng? - Không có lẽ. Tất cả dân cư đều là người “văn minh”. - Vậy thì tại sao lại có nhiều chìa khóa khắp nơi? - Nếu có một vài thằng ăn trộm, thì đã có luật pháp, cảnh sát…. - Nhưng người ta sợ bị mất trộm chăng? - Có lẽ….nhưng….. - Những người “văn minh” đi chiếm tất cả các xứ dân tộc da màu, làm thực dân địa, và để thiết lập trật tự, họ đã xây đồn đắp lũy khắp nơi, có binh lính canh gác. Những đồn lũy ấy là thứ chìa khóa chứ sao? - Nhưng họ có rất nhiều đồ đạc, để cho người ta trộm bớt đi một ít, có phải khỏi kềnh càng không!... - Nhưng họ không muốn thế. Họ sợ…. - Ở bên ta, nếu nhà nào có dán một miếng giấy trên cửa bằng tre hay bằng mây “ĐI DU LỊCH” thì không có ai vào nữa. Ở đó không có chìa khóa . Bình đẳng vô tận cho tất cả mọi người, đó là nước Thiên quốc. Ở đó không có bệnh hoạn , phá phách, và ở đó không có kẻ trộm đào ngạch, khoét vách, còn ở xứ có chìa khóa là xứ đầy ăn trộm, hay là xứ khám tù. - Cảnh sát, chính phủ đều có chìa khóa….ngàn ngàn cái chìa khóa gọi là “luật pháp”…Quân đội, súng lục, bom nguyên tử đều là chìa khóa cả. - Mọi người đều biết họ đã nói: “Tất cả cái ấy, người tà giáo mới tìm kiếm”,…”Các bạn trước tiên nên đi tìm cõi Thiên đường và Công lý của Chúa, rồi tất cả các thứ ấy sẽ hiến cho các bạn…” Nhưng không có một ai đi tìm nước Thiên quốc của Tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, công bình tuyệt đối, cũng không có ai tìm cái luật duy nhất và phổ quát của nó, là luân lý thực dụng biện chứng pháp ÂM DƯƠ NG cả. Người Tây phương có phải đều là tà đạo, dị giáo, hay pháp sư Do Thái cả chăng? - Người. “Văn minh” ham chuộng chìa khóa. - Nếu họ chinh phục được Thiên đường, thì họ không bao giờ quên làm nhà có cửa đóng khóa, và làm đồn lũy ở biên giới. - A! Chốn Thiên đường mà cũng chìa với khóa….Sự thật họ là người gì? Kẻ cướp hay kẻ trộm? - Ngày mai chúng ta sẽ đi xem viện bảo tàng Clu ny…. - Tại sao vậy? Ở đó có cái gì? - Ở đó sẽ có một cái lạ cho mình xem. - Thật sao? - Cái chìa khóa trinh tiết….Đó là những chìa khóa tai hại nhất, xấu hổ nhất. Mình sẽ sửng sốt…. - ??, Tôi không hiểu gì cả. - Phải, hoàn toàn không thể tưởng tượng được. TRÀ và CƠ ĐỐC GIÁO - Thứ trà mà người ta bán ở tất cả các tiệm cà phê lớn tại các Đại lộ lớn ở thành phố Paris, đều có tinh cách “khiêu phát bệnh ung thư”, có phải vậy không? - Khốn nạn, mình chưa khi nào vào ăn uống ở một tiệm cà phê hay một tiệm ăn nào cả sao! - Cái ấy không hề gì, tôi vẫn trả tiền, và vẫn cho tiền thù lao, nhưng tôi không đụng gì đến tách nước. Đó là tôi muốn ngồi nghỉ chân, nhưng tôi không uống thứ trà “khiêu phát ung thư ấy” , thứ trà có nhuộm chất aniline (màu vàng naphtoi, hay màu da cam v.v…) - Thật thế, mình nói có lý, dại gì đã bị giết còn phải trả tiền…Chỉ trả 50 quan một tách nước trà mà mình không đụng đến, thế cũng đủ rồi. - Nhưng tại sao người ta lại uống nước trà lại có pha thêm đường và sữa? Như thế là người ta không biết đến hương vị của trà, phải không? Bên xứ chúng ta có hàng trăm thứ trà khác nhau: từ trà tươi tán thành bột, đến trà rang mà người ta chế từ lá trà già ít nhất cũng đã 3 năm, trà Âm, trà Dương. Ở đây người ta không biết hương vị chính của trà, và cách pha chế phiền phức có nhiều cách khác nhau của cách chế nước trà, nó có thể làm thay đổi hiệu năng về sinh lý. - Người ta không chỉ uống trà, mà uống một thứ nước pha trộn đường và sữa bò có nhuộm chất hóa học. - Người ta không biết phân biệt thứ trà nào là trà chua, trà dịu ngọt, trà mặn, và trà có chất bổ…. - Trà bên xứ chúng ta không phải là một thứ để uống nước, nó là một thứ thuốc quý, theo như y khoa của chúng ta, nó chữa trị tất cả mọi chứng bệnh. Cách pha trà, phân lượng, cách uống, tất cả đều có nghi thức. Trà là món thờ cúng, một tôn giáo, của nước Nhật Bản, như đã giải thích rõ trong sách “Livre du The” của Okakura. Uống trà là để tăng thêm năng lực của trí phán đoán, của sự suy nghĩ, chứ không phải đơn giản để thích thú giác quan. - Sáu trăm triệu dân cư của Trung hoa và Nhật Bản, đều không uống trà có pha đường pha sữa. - Nhưng, ở Tây phương người ta uống trà là để nếm hương vị của đường và sữa trộn lộn; đó không phải là nước trà; đó là một thức uống riêng của người Tây phương. Trà, một vật thiêng liêng và quý hóa, lại bị thay thế một thức uống ngọt. có nhuộm màu, có tính cách sinh bệnh ung thư, nguy hại. - Đó cũng là một trường hợp hoàn toàn giống như Cơ Đốc giáo. - Đúng như thế, người ta đã cải biến Cơ Đốc Giáo thành một môn thần bí học, người ta đã biến dần thói quen uống trà thành một sự vui thích về giác quan… - Nhưng tại sao có sự biến cải nguy hiểm cho tất cả các giai tầng? - Đó chính là vì trí phán đoán thấp kém của người “văn minh”. - Tại sao có trí phán đoán thấp kém ấy? - Đó lại là một bí ẩn khác …. NHÂN QUẢ Trong một cuộc họp của các nhà trí thức, ông Jack bị rối loạn, ngạc nhiên, và hoàn toàn ngơ ngác. Ở trong cuộc họp ấy có hơn 40 người: Bác học,Y sĩ, văn sĩ . Sau khi trở vô khách sạn, ông ta thuật lại điều kinh ngạc cho bà vợ đang buồn ngủ nghe. Khi bước vào, bà vợ tỉnh thức lại và lóng tai để nghe, hai con mắt bà tỏ ý tò mò. - Đây là một điều rất lạ lùng của tôi, từ khi chúng ta đến ở tại Tây phương nay. Tất cả những người dự cuộc họp hôm nay đều biết luật “nhân quả”. - Không thể có! - Có chứ. Họ biết và hơn nữa, họ tin tưởng một cách mãnh liệt về nhân quả như một định luật hoàn toàn bất khả xâm phạm và bất di bất dịch. Họ tin rằng “nhân quả” chi phối suốt cả đời sống. - Và họ không biết rằng “nhân quả” cũng có thể kiểm soát chứ?Và họ cũng không biết cái chuyên môn để lèo lái cái nhân quả ấy lấy tên là Phật Giáo Đại Thừa, Cơ Đốc Giáo, Ấn Độ Giáo v.v. và v.v..? - Không, họ đều không biết… - Nhưng tất cả là hạng tri thức cả, có phải không? - Phải, họ là một phần tử thượng lưu… - Như thế thì thật là thất vọng! - Cũng nên tìm hỏi cho biết tại sao những nhà thông thái và trí thức ấy đều xác tính cái ý niệm “nhân quả” là cái do các nhà chú giải chuyên nghiệp tôn giáo cấp thời bày đặt ra, để bóc lột những kẻ dốt nát khốn nạn. - Thế là còn một bí ẩn khác nữa !.... - Các ông “văn minh” ấy, sự thật có lẽ đều còn ấu trĩ trong môn huyền học của họ. Cũng như mấy anh con nhà giàu muốn vào nước Thiên quốc khó hơn con lạc đà chui qua lỗ trôn kim thế nào, thì mấy anh giàu trí thức vào xứ tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu và công bình tuyệt đối cũng khó như thế. - Thật là lạ lùng…. - Nhưng đó là sự thật. Hôm nay tôi đã thấy, họ quá đơn giản quá sơ lược.Họ đều tin tưởng vào khoa học, vào con số, vào ý tưởng đã tiêu tan, mà hiện nay đã bị sửa đổi và thay thế vào đó một tấn ý tưởng khác. …. Khoa học là một danh từ khác của “nhân quả”… Không kẻ nào từ chối “nhân quả”.Nhân quả là “luật nguyên nhân và kết quả”. Ấy là tuyệt đối duy vật và vật lý, không ai có thể chối cải nó ở trong thế giới tương đối này cả. Đó là căn bản của vật lý học hiện đại, nhưng đa số người Tây phương đều không biết và hạng thiểu số, các khoa học gia , những hạng tiến hóa nhất cũng không muốn biết hoặc không thể hiểu biết điều đó được. Hơn nữa, có một số người Tây phương hay phản Tây phương, số này không nhiều lắm, rất hiểu đạo ,rất tín ngưỡng, họ phá hủy quan niệm “NHÂN QUẢ” bằng cách thần bí hóa, thần thánh hóa. Họ tin rằng quan niệm ấy là tuyệt đối, không thể thay đổi được, không thể kiểm soát được. Nhân quả là luật “nguyên nhân và kết quả”. Nguyên nhân một khi khám phá rồi, người ta có thể thay dổi kết quả bằng cách thế nguyên nhân này cho nguyên nhân khác. Có điều hoàn toàn không hiểu ,là ở Tây phương này là xứ rất duy lí và duy vật như thế, mà còn vi phạm luật “nhân quả” bằng cách thần thánh hóa nó. SỐ TỬ VI - Những dấu hiệu gì mà kì quái thế? - A: Mình đã tìm gặp thấy được chuyện lạ lùng ấy. Nó là Lịch Hoàng Đế đó. Một lá số tử vi. - Nhưng, đó là một tờ báo rất quan trọng mà mình đọc hằng ngày. Một tờ báo mà đăng những lá số tử vi? - Phải, đó là một bí ẩn đối với tôi. - Có phải đó là một sự mê tín khác không? - Ô hay!... thế là một nghề làm báo thương mãi. - Nhưng nếu có lợi về phương diện thương mãi, thì cũng có nghĩa là đa số độc giả đều là hạng mê tín cả …..Vả lại, một ngày nọ, trong các tiệm cà phê tại các đại lộ , chúng ta có thấy một bà thầy bói, và trong một tiệm khác, cũng thấy một mụ thầy bói bài…thu hút rất đông khách xem … - Phải thật vậy. - Tây phương là một thế giới mê tín. Tâm trạng gì lạ vậy!.... - Hèn nào các Linh mục đôi khi trở thành những người chuyên bói bài của Giáo Hoàng La Mã… - Phải coi chừng! Ở Tây phương một ngày gần đây cũng sẽ có những ông những bà trong ngành “Giáo sư” hay “Y sĩ” đem bán Nguyên Lý Vô song trị chữa những bệnh nhân khốn khổ và những người thật thà, để trục lợi. - Số tử vi , bói toán, bói bài…Nhưng hãy đợi….Tin tưởng vào khoa bói toán hoặc bói bài, có lẽ còn hay hơn là tin vào y khoa của bọn tư bản…... Vả lại Y khoa này dùng chất hóa học đã vô ích, mà có khi lại nguy hiểm nữa… - Tóm lại, ở một xứ “văn minh” mà cũng có bói tử vi, đó lại là một điều bí ẩn nữa… - Phải , đây cũng là một điều rất lạ lùng của Tây phương, đối với chúng ta là người Viễn Đông đến, bởi vì, nó không chỉ khác hơn là ảo thuật trá hình, của người thượng cỗ. Bói bài, tử vi, xem tướng, thì công nhiên bạn ngày nào được dạo khắp thành thị, chỉ như thầy phù thủy của người xứ “thượng cỗ” thì càng ngày càng bị “luật” của người khoa học da trắng truy nã gắt gao. Bói bài, tử vi, xem tướng, đều là giải thoát sự ham muốn , sự từ bỏ phán đoán ích kỉ do trí phán đoán thấp kém kiểm soát, những điều ấy ai cũng thích và có ích cho tất cả mọi người. Nhưng, kẻ nào áp dụng những điều ấy mà còn có lòng tư lợi, tự kì trung tâm, thì sự kết quả của nó sẽ đem lại khốn khổ . Trái lại, nếu có một phần trăm người không vụ lợi, sống đời sống hòa hợp với trật tự Vũ trụ, thì sự thần thánh của họ, hoặc bằng bói bải, hoặc bói tử vi,hoặc coi tướng, sẽ trở nên kì diệu( tôi chỉ thấy có một người: bà Jacqueline Chantereine). THÚ VẬT ĐÔ HỘ Xà HỘI NGƯỜI “VĂN MINH” hay là: SỮA THÚ VẬT. Nước Ấn Độ có một số bò cái nhiều bằng số bò của tất cả các nước ở Âu Châu góp lại. Một điều rất lạ lùng, là họ kính trọng bò cái cũng như bà mẹ của họ vậy. Nhưng người ta không uống sữa bò nhiều như Âu Châu. Nếu người ta có uống chăng nữa, thì cũng chỉ bằng một phần trăm hay một phần ngàn số tiêu thụ của một người Âu Châu thôi. Sự thật, có hàng trăm triệu người Ấn Độ, suốt cả một đời, không có uống sữa một lần nào cả. Sữa còn không uống, huống hồ là giết bò để ăn thịt. Họ xem bò cái cũng như một bà mẹ của Quốc Gia, và biểu hiện lòng bác ái cùng lòng âu yếm của Đấng Thượng Đế. Tại vườn Maidan của thành phố Calcutta, mà người ta nói là công viên lớn nhất thế giới, thường có hàng trăm bò cái ngao du ở đó. Thật đúng là một vườn nuôi bò cái, chúng tự do qua lại ở giữa đường. Nếu cỏ một con bò nằm ở giữa đại lộ, thì tất cả xe điện , xe buýt, tất cả sự giao thông đều phải ngừng lại hết, đợi khi nào bò cái đi chỗ khác, khi đó mới được đi…Người ta không được phép đánh đập bò cái, nó là bà mẹ tôn kính, và yêu mến của dân tộc: nó được mọi sự tự do. Ở Tây phương đây, con bò cái phải có điều kiện hiến cho người, sữa, thịt, huyết, keo (geslatine) và da, thì mới được quyền sống. Nó sống để cho người ta hành hạ và giết ăn thịt, nó xem con người như một con thú vật độc ác nhất trên đời. Ở Tây phương đây người ta uống sữa bò. Ở Paris mỗi ngày người ta uống hàng triệu lít sữa bò. Tại nước Anh, số tiêu thụ sữa và bánh sữa, hằng năm ước chừng 500 tỷ quan, tại Hoa Kỳ số ấy còn nhiều gấp bội. Lấy kinh tế mà nói, thì 80% sản xuất nông sản Anh Quốc nguồn gốc từ thú vật. Ở Tây phương, người ta khai thác thú vật, hay tùy thuộc vào thú vật để mà sống. Huyết và thịt của người một phần lớn do huyết của thú vật tạo ra. Người ta uống sữa bò , người ta ăn thịt thú vật, có điều đáng bi thảm hơn nữa là người ta nuôi bé thơ và trẻ con bằng sữa bò. Người đàn bà Tây phương đã từ chối tư cách ,bổn phận làm mẹ, họ đều tự khước từ cái danh dự làm mẹ. Con sơ sinh của họ trở thành anh chị em với bò con cùng uống sữa bò mẹ. Trẻ con của người trở nên con nuôi của loài thú vật. Không có con thú vật nào nuôi con bằng sữa của con thú vật khác và cho con mình làm anh chị em với con của con thú vật ấy. Chính người La Mã cũng không cho con bú sữa bò . Ở các nước Viễn Đông, người ta xem thời kỳ bào thai, và cách cho con bú, là việc rất quan trọng cho sự cấu thành tâm lí của đứa con về sau này, rồi mới đến sự cấu thành sinh lý của thân thể,trước hết lại tùy thuộc vào sự nuôi dưỡng ở thời kỳ đầu tiên. Căn bản chính của tất cả sự sinh tồn lại dựa trên cách dinh dưỡng sáng tạo của mấy năm đầu tiên . Tại sao người ta làm con mình thành một đứa con của thú vật. Người Thiên Quốc hoàn toàn không hiểu gì cả. Đó là vì Y khoa Tây phương khuyến khích dùng sữa bò, cho rằng sữa bò là món tuyệt hảo để nuôi dưỡng trẻ con.Tại sao? Có phải sữa thú vật nó tương tự với sữa người về tổ hợp hóa học? Thô sơ làm sao! Đây cũng là một sự mê tín thịt và trái cây. Con của loài người không phải là con của giống vật, nó không thể và cũng không nên như thế. Con của người là con của người, không làm con của thú vật được. Về trí thức, luân lý, cảm tình, tinh thần, mỹ thuật, ngôn ngữ , xã hội, người ta không biết, nó có một sự khác biệt to lớn giữa con bò và con của người sao? Làm sao con bò lại đồng hóa với con người? Thô sơ quá…. Chính ở đây ta có thể, hoặc cần tìm căn nguyên tất cả sự vô tri của người Tây phương về sự cấu tạo Vũ trụ, trong đó gồm tất cả sự mê tín, tất cả bí ẩn nó tiềm tàng ở tận đáy sâu của tâm trạng những người “văn minh”. Chính ở đây, mới giải thích lời tuyên bố của Kipplin: “Đông là Đông, Tây là Tây”. Chính vì thế mà sức mạnh là pháp luật tối cao của xứ “văn minh”, cũng như thế giới của loài thú ăn thịt vậy…. MỘT BÍ ẨN KHÁC Hiện nay ở Châu Âu, rất có nhiều người muốn học Nguyên Lý Vô Song của tất cả triết lý, gồm có Phật Giáo , Cơ Đốc Giáo, Ấn Độ Giáo v.v.. và các khóa chuyên môn của nó(Y học, tiết thực, kỹ nghề nấu ăn về trường sinh, và trẻ lại, nhu đạo, châm cứu, phép Yoga, Aiki, đấm bóp v.v…) để được có tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, công bình tuyệt đối,và cây đèn Aladin chân chính. Cũng vì đối với họ mà tôi đến đây, tôi tốn phí hằng triệu quan , vượt bao nỗi khó khăn, và gặp nhiều nguy hiểm. Họ đã gặp tôi , họ đều tuyên bố rất lấy làm sung sướng. Nhưng cũng lạ thay, không có ai sốt sắng đến tìm tôi cả. Tại sao vậy? Lý do, xin lỗi, và giải thích như sau: 1. Tôi rất bận công việc. 2. Tôi ăn lương của người ta, tôi không thể bỏ việc của người ta, tôi không thể sống, nếu tôi không đi làm thuê. 3. Muốn để tôi làm giáo sư môn tiết thực của ông, trước hết tôi phải làm cho có tiền đã. 4. Tôi muốn lắm, nhưng tôi không thể làm nghề triết lý và chuyên nghiệp tiết thực của ông được…. Họ đều giống như người muốn học bơi, nhưng lại thác từ không thể xuống nước được, nói rằng: “Nước lạnh quá, áo quần tôi không thể ướt, vì tôi sợ đau cảm.” Họ đều bị bó chặt, dính cứng và bị xiềng xích, tất cả mọi sự đau khổ và hoạn nạn. Họ đều mù quáng bởi cái lợi vật chất. Vậy họ bàn công việc gì? Họ chăm lo một cái nghề, mỗi tháng họ có thể lãnh được nhiều tờ bạc giấy in. Họ không thể cởi mở sợi dây quấn xung quanh cổ của họ, để trở thành người tự do, để vui sống không dây trói buộc. Họ bị mù quáng bởi một chút lợi cỏn con, và họ không thể trông thấy một hòn núi vĩ đại, mà ở trên đỉnh có một Thiên đường tươi đẹp như hoa nở. Tại sao thế? Bởi vì họ đều bị sự giáo dục cảm tình, cảm giác, chuyên nghiệp hoặc tư bản huấn luyện như thế. Nghĩa là họ bị lỗ tai không thấy, con mắt lồi tròng, lỗ mũi phồng thiệt to, hoặc môi dưới lớn hơn môi trên. Sau hết, người nào bị khốn khổ, bất mãn , hoặc bị đau đớn, vi phạm hoặc đã vi phạm luật cấu tạo của Vũ trụ, những người vì sẵn bị nguyên nhân ấy, là người sẽ được dự định thành một người được tự do vô hạn, trong tương lai. CHƯƠNG XI CUỘC NÓI CHUYỆN CÓ BA ĐOẠN (Cuộc nói chuyện của ông Jack trong một buổi họp những người “văn minh” ham thích Phật giáo) Thưa Quý Bà, Quý Ông. Tôi rất lấy làm hân hạnh được gặp quý Ngài hôm nay. Tôi vô cùng cảm ơn ông Chủ Tịch và bà F. là những người đã dành cho tôi cơ hội này, nhưng tôi lấy làm tiếc về trí thức ngôn ngữ nghèo nàn của tôi, làm cho Quý Ngài hiểu câu chuyện tôi nói một cách rất khó khăn. Xin Quý vị tha lỗi, tôi là một người ngoại quốc, với cách suy nghĩ và phát biểu tiếng nói của quý Ngài, tôi đương còn bỡ ngỡ. Ngôn ngữ ở nước chúng tôi, những quan niệm như quán ngữ , thời gian, số ít, số nhiều, giống đực , giống cái, ngôi vị v.v… đều không có. Trong tiếng nói quen thuộc hằng ngày,người ta hầu như bỏ tiếng nhân xứng chủ quan và khách quan. Hơn nữa người ta thường dùng tiếng “Ừ” thay cho tiếng “không”. Những người Tây phương đã sinh sống nhiều năm ở Thiên quốc, một đôi khi họ cũng dùng tiếng “phải” của Thiên quốc có nghĩa như tiếng “không” của Tây phương. Tôi cố gắng hết sức phát biểu tiếng Pháp, theo lối Tây phương. Nhưng thường thường cũng bị hiểu lầm đáng tiếc.Ví dụ: Quý Ngài hiểu lời tôi nói lắm, không có lỗi lầm điều gì cả, nhưng sự thật lại trái hẳn. Đó là một điều đáng buồn, nhưng tôi cũng cố gắng hết sức của tôi. Năm 1914 là lần đầu tiên tôi viếng Âu Châu, những điều tôi trông thấy hồi đó, nó làm tôi rất mến phục, ngạc nhiên, vui mừng và kính trọng. Nhưng có điều lạ là có một vài việc “không hiểu” được cái “không hiểu” ấy là sự khiếm khuyết triết lý, thiếu trí phán đoán cao siêu, mà người Tây phương ứng dụng. Nhưng đổi lại, tôi cũng nhờ đó mà học hỏi được nhiều điều! Đến năm 1920 tôi trở lại Âu Châu, để đền bù, tôi đem hiến cho quý Ngài, môn triết lý đã thâm niên, rất thực tế, rất dễ hiểu của chúng tôi, và nó rất cần thiết cho sự thiết lập Hòa Bình, Tự Do vô tận của xã Hội. Đó là một món quà rất quý, rất lớn, độc nhất. Nhưng không ai hiểu cho tôi cả, không ai để ý đến một vài sự vô hình này cả. Vậy tôi nên bắt đầu hiến cho quý Ngài những món văn hóa của Nhật Bản, như nghệ thuật cắm hoa, nghi thức uống trà, nhu đạo, châm chích, cứu ngải của ngươi Trung Hoa, thay vì cho triết lý Thiên quốc, hoặc Phật lý Ấn Độ . Tôi cố sức hoạt động cho đến năm 1935 nhưng cũng ít có người theo tôi để nghiên cứu cái triết lý Viễn Đông. Tôi từ giã Âu Châu năm 1935 với ý định rồi sẽ trở lại đây để tiếp tục sứ mạng của tôi. Đến ngày tôi trở lại đây, vào khoảng tháng ba này, là đã có đến 21 năm trôi qua. Tôi rất ngạc nhiên, trông thấy có nhiều Y sĩ châm cứu, và hàng ngàn người theo võ nhu đạo, tại Pháp, Thụy sĩ, và Đức. Rất phấn khởi và tràn trề vui thích, tôi bắt đầu truyền bá thuyết Vô song nguyên lý cái chìa khóa của tất cả triết học, tinh hoa của tất cả nền khoa học Viễn Đông, nếu không có nó, thì người ta không thể hiểu, cũng không thấm nhiễm được triết lý, tôn giáo, văn hóa của nó, gồm cả khoa châm chích, giáo lý Cơ Đốc và giáo lý Phật giáo nữa. Lần này có nhiều Y sĩ, nhiều hạng trí thức để ý nghe tôi nói nhưng lạ quá, cũng không hơn gì số người 25 năm về trước, cũng không có người nào hiểu cái Vô song nguyên lý là cái luận lý học rất xưa, rất thực tế và rất dễ. Phải chăng những Y sĩ mà tôi gặp đó, họ thuộc về một giống người đặc biệt? Nếu quý Ngài cho tôi biết điều này, thì tôi cám ơn lắm. Trạng thái tư tưởng tôi hiện nay, , nó như thế này: Tôi cảm thấy hoàn toàn thất vọng, ngạc nhiên, rối loạn, sửng sốt, chán nản. Sự ngạc nhiên của tôi , nó cũng tương đồng như cái ngạc nhiên của Y sĩ Livingstone, khi ông này mới lần đầu tiên bước chân vào xứ rừng rú ở Hắc Phi châu, tuy nhiên, giữa ông Livingstone với tôi có một điểm khác nhau. Livingstone thì được dân chúng tiếp đón nồng hậu và hoan nghênh khi ông ta đi ngang qua, còn tôi, tôi rất đau đớn về điều không hiểu biết, và thái độ lãnh đạm của các Y sĩ mà tôi đã gặp, họ chỉ chú trọng nhiều về cách thực hành, mà không quan tâm đến lý thuyết, dường như họ là những người điếc trăm phần trăm. Và lần này, tôi thấy sự bất công, hiềm thù, cùng chế độ nô lệ khắp trong các nước Tây phương, một xứ kia rất thịnh hành về chế độ công bằng, bác ái và tự do, mà hiện ngày nay thì chỉ có đình công, biểu tình, chống biểu tình đẫm máu, hàng trăm vụ bắt bớ, nhiều người bị thương , nhiều kẻ bị ám sát ở trong nước, còn ở ngoài nước thì đâu đâu cũng có chiến tranh,những vụ nổi loạn…. Có phải đây là xứ Tây phương không? Hay là tôi đi lầm đường? Sự tàn bạo chi phối tất cả, nó còn tệ lậu hơn cả các nước ở xứ rừng rú Hắc Phi châu nữa. Livingstone ở Hắc Phi châu, chưa khi nào thấy chế độ độc tài của quyền lực gọi là “pháp luật” hay là “kinh tế” như ở đây. Điều ngạc nhiên của Livingstone thì vui vẻ, mà điều ngạc nhiên của tôi lại là buồn rầu. Livingstone vui vẻ, vì thực hiện được điều không hề gặp người bất lương hoặc thú dữ ở trong xứ mọi rợ, nhưng tôi, tôi buồn và tự hỏi, những người “văn minh” này có lẽ là giống người bất hảo, hung dữ, tàn ác từ khi mới lọt lòng mẹ. Tôi cảm biết điêu “vô tri thức” của người “văn minh” đối với chân lý, với sự cấu tạo Vũ trụ, vì ở Tây phương đây trí phán đoán cao siêu hoàn toàn bị che lấp, chỉ có quyền lực là vị vua tối cao mà thôi. Cách đây vài ngày, tôi có đọc một bài đăng trên một tờ báo xuất bản ở Paris, tường thuật tóm tắt về bài diễn thuyết của một nhà Đại tư tưởng Pháp, mà tôi rất cảm phục đã lâu năm: Andre Siegfried. Ông này nói: “Người ta có thể nói rằng văn minh trong thế giới là một vật đánh cuộc của sự khủng hoảng hiện tại. Nhưng…tất cả các nước, bất kỳ nước nào, đều thừa nhận phương pháp cơ khí và kỹ nghệ của chúng ta, cách thức sinh sống bề ngoài của chúng ta….Tuy nhiên, chỉ bấy nhiêu thôi, ngoài ra họ không thừa nhận cái quan niệm bất vụ lợi, quan niệm cá nhân của chúng ta, cũng không thừa nhận cả sự tôn sùng tự do, phê bình độc lập, cho đến điều bác ái của Cơ Đốc giáo, cũng không thừa nhận nốt”. Sau khi kể những điều tốt lành của văn minh Tây phương. Andre Siegfried kết thúc bài diễn thuyết hùng hỗn ấy bằng một câu hỏi “có phải Tây phương đang đi vào con đường đánh thức Nàng Tiên ngái ngủ ở trong cái rừng âm thẩm của Đông phương chăng? Lời nói đẹp đẽ biết bao nhiêu!Andre Siegfried đối với tôi cũng còn là một bí ẩn nữa . Bây giờ tôi cũng xin đi vào vấn đề. Phật giáo là một khoa học. Đành rằng khoa học Tây phương khác hẳn với khoa học Đông phương. Khoa học Tây phương là tìm tòi, lần mò để tìm chân lý (chân lý sẽ giải thoát các bạn). Nhưng như Henri Poincare đã nói rất đúng: “Khoa học Tây phương là sự nghiên cứu vĩnh viễn”, sự nghiên cứu ấy không thể kết thúc được. Du Bois Reymond cũng xác nhận như thế và nói rằng : “Ignoramus, Ignoratemus”. Nhưng Phật giáo cũng như khoa học có nghĩa là cách giáo huấn thi hành về chân lý, sự cấu tạo của Vũ trụ, nghĩa là khoa học hoàn thiện , còn khoa học Tây phương chỉ là khởi điểm của một tôn giáo mới, xã hội học thuyết, cộng sản chủ nghĩa, vô chính phủ chủ nghĩa, cũng vậy, cũng đều căn cứ trên khoa học Tây phương. Phật giáo cũng như khoa học Tây phương đều có mục đích làm cho nhân loại được có hạnh phúc. Nhưng trong sự thật, mục tiêu của Phật giáo là hạnh phúc trường cửu, là tinh than, còn khoa học Tây phương nhắm vào hạnh phúc hữu hạn, duy vật. Khởi điểm của Phật giáo là “Tứ đại khổ về sinh lý” và “Tứ đại khổ về tâm lý”. Chung điểm của Phật giáo là tiêu diệt tám điều đại khổ ấy. Như thế là rất thực dụng. Bốn điều đại khổ về sinh lý là: Đau khổ về sự sống, (bắt đầu từ khi mới sinh), đau khổ về bệnh tật, buồn về sự già yếu, lo sợ về cái chết. Bốn điều khổ về tâm lý là: Đau khổ về tình ái, đau khổ về hờn giận, đau khổ về ly cách, đau khổ về dục vọng không mãn ý. Phật giáo là một phương pháp để chữa trị bốn điều đại khổ của nhân loại, Phật giáo là Y khoa của tất cả loài người. Nhưng đừng có lẫn lộn Y khoa Phật giáo với Y khoa Tây phương. Y khoa Tây phương chỉ đơn giản là đối chứng trị liệu, còn Y khoa Phật giáo là cao siêu không những chữa lành bệnh hiện tại và tương lai, mà còn xây dựng hạnh phúc trường cửu, tự do vô tận, và công bằng tuyệt đối nữa. Theo như Phật giáo, bệnh tật sinh ra có “7” giai đoạn như sau: - Giai đoạn thứ nhất là “cội rễ của tất cả mọi sự đau khổ”. - Giai đoạn thứ hai là “thân cây”. - Giai đoạn thứ ba và thứ tư là “nhánh cây”. - Giai đoạn thứ năm là “các nhánh nhỏ”. - Giai đoạn thứ sáu là “hoa”. - Giai đoạn thứ bảy là”trái”. Như vậy, dĩ nhiên là muốn chữa trị bệnh ở giai đoạn cao ở trên, không thể nào không chữa bệnh từ giai đoạn thấp ở dưới. Bệnh càng tiến lên, các giai đoạn ấy, lại càng khó chữa. Tất cả mọi sự đau khổ, ví như một hình phạt tương đương với tội lỗi của đương sự. Kẻ nào không giải thích được cơ cấu cách trừng phạt tội lỗi ấy và tức nhiên vì thế mà không cứu vớt được bệnh nhân đau khổ, rồi dùng một tiếng an ủi để lừa phỉnh: “quả báo”. Những bệnh nhân, trong cách cư xử, hoặc trí phán đoán, không thể tìm ra nguyên nhân tối hậu bệnh tật của họ, đều bất lực, dù bệnh rất đơn sơ, cũng không thể tự chữa bệnh của mình được. Ví dụ như làm cho tiêu một mụt cóc. Công phạt hay hủy hoại một triệu chứng, thay vì cải hoán cách cư xử hàng ngày, nghĩa là trí phán đoán, thế là càng ngày càng đi xa thêm sự chữa lành bệnh, người ta làm rắc rối, và không sớm thì chầy, sẽ đi đến chỗ tai họa, không sai. Cũng nên ghi nhớ có một căn bệnh: ngu dốt không biết cách cấu tạo Vũ trụ, trí phán đoán cao siêu che lấp sinh ra bởi thai giáo, sinh lý, gia đình, học đường và xã hội. 7. Bệnh tinh thần: (kiêu ngạo, độc chiếm, tự kỷ trung tâm, kỷ ức kém, tiền Copernicien v.v…) 6. Bệnh tâm lý : (Nhị nguyên thuyết, tâm linh thuyết, duy vật chủ nghĩa v.v…) 5. Bệnh cơ thể : Đau tim, ung thư, ung ruột, kinh nguyệt không đều, suyễn, nước đái đường, phong thấp, mắt có vảy cá v.v) 4. Mê tẩu thần kinh hoặc giao cảm thần kinh cường : (sưng khớp, xương, rụng tóc, bệnh gan, vọp bẻ, ung thư huyết v.v….). 3. Âm thịnh hoặc dương thịnh : (Mửa, ỉa chảy, vị thống, sưng ruột v.v….) 2. Phán đoán thấp : (Ngu si, phung, trúng phong, cuống mật v.v…) 1. Sống vô kỉ luật : (Sống vô kỷ luật, “không đức tin không luật lệ”). Hoạn nạn, bệnh tật chỉ là một. tất cả hoạn nạn do trí phán đoán cao siêu bị mờ ảm mà sinh ra. Bệnh tật đến trước hoạn nạn. Đó là tinh thần ưu việt của Nhất Nguyên thuyết của Phật giáo Đại thừa. Nếu các bạn không tin là có trách nhiệm về bệnh tật của mình, bất kỳ bệnh gì, các bạn là Nhị nguyên thuyết. Các bạn không khi nào giải quyết, hoặc trị lành bệnh được. Nếu triệu chứng bệnh của các bạn được tiêu biến, hoặc được phá hủy nhờ phương pháp trị bằng đối chứng trị liệu, đó chỉ là sự biến đổi, hay là dời đổi của bệnh, cũng như được gia thêm hạn ngày trả nợ, hoặc nữa, cũng như người bị tội sát nhân chạy trốn ra ngoại quốc. Phương pháp trị bệnh theo triệu chứng càng phiền phức bao nhiêu, thì hình phạt càng nặng bấy nhiêu. NHỮNG NGƯỜI CẦN NÊN NGHIÊN CỨU PHẬT GIÁO Kẻ nào không bị một trong bốn điều đại khổ về sinh lý, và một trong bốn đại khổ về tâm lý, thì không cần phải nghiên cứu Phật giáo, Thiên Chúa giáo, cũng không cần nghiên cứu tôn giáo nào cả. Những kẻ nào bị một trong những đại khổ về sinh lý hay tâm lý, thì cần phải nghiên cứu Phật giáo cho đến tận nguồn gốc, càng sớm càng tốt. Những kẻ muốn đề phòng sự đau khổ ấy, cũng cần phải như thế. Những kẻ nào đau khổ, có lẽ các bạn nữa, có khi bị một mụt cóc hay thỉnh thoảng bị chứng cảm làm rầy rà, ít nhất sau khi đọc một vài quyển sách về Phật học, như thế các bạn không cần sau khi chết rồi mới xuống địa ngục. Bởi vì các bạn hiện đang ở địa ngục đó rồi. Những kẻ nào không hề biết một điều đau khổ nào, sau khi tranh đấu chống lại bao nhiêu khó khăn, và gặp nhiều điều ở trong đó, cũng cần xuống địa ngục. Kẻ nào cần xuống địa ngục , thì tốt hơn hết là đốt tất cả những sách cổ điển về Phật học, và các tượng Phật, như thế được tiết kiệm khỏi mua than củi. Than củi hiện nay rất hiếm. Nếu các bạn là kẻ nhiệt tâm sưu tập sách vở, đó lại là một chuyện khác. Xem Phật giáo như Y sư cao siêu. Theo Phật giáo Đại thừa, có hai hạng người tương phản, những người sau đây thuộc về hạng thứ nhất: Kẻ vô tư tưởng, là kẻ không khi nào nghĩ đến những việc trường cửu. Những kẻ chỉ tìm sự dễ dàng ( tiện nghi, sống sung túc, lợi ích, tham vọng). Những kẻ sợ pháp luật ( nhân tạo hoặc thiện tạo) những kẻ đi tìm tiền bạc, giao thiệp, thể lực, danh vọng, những đồ mỹ nghệ) Những kẻ đóng kịch (đóng vai vai nào cũng được mặc dù không muốn) Những kẻ nô lệ ( những người làm việc để sống, mặt dù ít chí của mình không phải như thế Những kể hay tin (những người đặt lòng tin tưởng của mình vào một việc mà căn nguyên và tính chất của nó ra sao, mình không thể biết đến) Những kẻ mê tín (không tin những việc tương đối, ví dụ khoa học chẳng hạn) Những người tùy thời Những bệnh nhân ( tất cả những ai đau đớn hoặc nhiều hoặc ít, không những về sinh lý, mà cả tâm lý, và kinh tế nữa v.v…) Những kẻ ích kỷ ( độc chiếm, hạ tiện, giàu có …) Những người lãnh đạm ( những người không có lòng phân phối những vật mà họ có, đặc biệt là những đồ lúc nào cũng cần thiết và cần dùng suốt đời nghĩa là không những là tiền bạc, gạo, bánh, mà còn một nụ cười, một cấu hát, một lời nói ân cần, cho đến một lời chào hỏi, hay là một nhánh hoa hoang dại) Những kẻ bất mãn ( những ai luôn luôn có điều không vừa ý) Sau này là thuộc hạng thứ hai: Người có tư tưởng ( người luôn luôn nghĩ đến việc trường cửu) Người tìm điều khó khăn ( những kẻ luôn luôn có chuyện khó khăn phải vượt qua đi săn đuổi những điều không thể được) Người không có lo sợ gì hết Người vị tha ( đêm những đồ rất quý giá cho những ai rất cần dùng) Người trước tác, người sáng tạo, sản xuất , tổ chức, bắt kẻ hành động cũng như ý muốn của mình) Người tự do ( sống để vui thú, sống vui vẻ) Người không tin ai cả ( chỉ tin vào chính mình, nhưng chấp nhận tất cả mọi cái thí nghiệm để phê bình về sau) Không mê tín ( cố gắng hết sức mình để khai mình cho trí phán đoán cao siêu) Không theo chủ nghĩa tùy thời Mạnh khỏe ( theo sáu điều kiện lớn của sức khỏe về sinh lý, và tâm lý, luôn luôn mãn nguyện bất cứ điều kiện nào) Hạng thứ nhất gồm những người không thể thực hiện được những điều mà họ muốn, tôi gọi là “ Non zin” ( người thường nói tiếng “ không” nhiều hơn tiếng “ có”) Hạng thứ hai, là tất cả những người hưởng được cuộc sống vui thú, bằng cách thực hiện tất cả những điều mà họ muốn trong suốt đời sống của họ: Tôi gọi hạng người này là “ Oui Zin” “ người luôn luôn dùng tiếng “ có” và không khi nào dùng tiếng “ không” Hạng thứ nhất là “thú nhân tính” còn hạng thứ nhì là “ Phật nhân tính” Y khoa tối cao ( hay là Phật giáo) là phương pháp biến cải “ Non zin” thành “ Oui Zin” thú nhân tính thành Phật nhân tính Phật có nghĩa là người tự do, sung sướng, chất phác, muốn làm gì tùy ý, với hạng người này, không có gì thiện, không có gì bất thiện MỘT PHƯƠNG PHÁP ĐỂ HỌC PHẬT LÝ Tất cả đều khổ nảo của chúng ta đều tùy thuộc nơi trí phán đoán sâu xa của chúng ta Kẻ nào nói rằng cái đó vì hoàn cảnh, thì kẻ đó đã thú nhận là trí phán đoán của mình thấp hèn rồi. Trí phán đoán cao siêu, chỉ bảo cho chúng ta cách hay nhất và duy nhất, để chúng ta hành động hằng ngày Mặc dầu đã nghiên cứu Phật giáo , hay một tôn giáo lớn nào của Viễn đông, mà cũng không đạt tới hạnh phúc và tự do, nghĩa là trí phán đoán tối cao và trí phán đoán cao siêu đều hoàn toàn bị mờ ám, về sinh lý và vật lý từ hồi còn nhỏ hoặc khi bào thai, thì ta cần phải tự sửa chữa sinh lí và vật lí mà thôi , chứ không phải sửa chữa về khái niệm về xã hội, hay là lý tưởng gì cả. Ta phải khôi phục cho thật hoàn bị. Nói cách khác, nếu không thì chỉ là trị lành tạm thời mà thôi. Đó là Phật giáo đại thừa hiến cho ta một phương pháp siêu việt. Ấy là Y khoa tối cao Với mục đích này, các bạn nên nghiên cứu “triết lý của nền Y khoa Viễn Đông” Các bạn nên bình tĩnh mà đọc nó. Các bạn sẽ học hỏi được hai căn nguyên của chứng bệnh: Âm ( phát sinh vi quá Âm, hay thiếu dương) và dương ( vì quá dương, hoặc thiếu âm) Các bạn sẽ thấy rằng chỉ giai đoạn thứ năm của bệnh là Y khoa đối chứng trị liệu mới chữa trị được một phần, các bạn sẽ học dược chính nguyên nhân của bệnh là như thế đó, các bạn sẽ hiểu rằng mục đích của Y khoa Viễn Đông hoàn toàn khác hẳn với Y khoa Tây phương, cho đến thủ đoạn cũng khác nhau. Các bạn sẽ biết rằng Y khoa Tây phương chỉ là một sự phá hoại điều tuyền trạch tự nhiên nó sẽ đi đến chỗ tận diệt văn minh không thể tránh được KẾT LUẬN Để kết thúc, tôi xin trình bày phân loại các dược liệu và các Y sĩ của Viễn Đông: Ba loại dược liệu: Loại tốt nhất: Loại thuốc có thể tiếp tục dùng năm này qua năm nọ, không có gì trở ngại, không có chất độc, không nguy hiểm. Loại trung bình: Loại thuốc có thể dùng thỉnh thoảng, hoặc tạm thời, vì có chất độc. Lọai hạ đẳng: Loại thuốc không thể dùng, trừ trường hợp khẩn cấp.Đó là thuốc độc. Ba hạng Y sĩ: Hạng nhất: Những Y sĩ không những chữa lành bệnh hiện thời và tương lai, mà còn bày dạy cho người ta biết cách làm thế nào để được tự do vô tận, và công bình tuyệt đối nữa. Hạng trung bình:Y sĩ chỉ chữa lành bệnh hiện tại. Hạng dưới: Y sĩ không chữa khỏi bệnh, lại còn công phá triệu chứng . Một phương pháp tàn bạo và nguy hiểm. Bây giờ tôi xin để các bạn tự lựa chọn. Nếu tôi có thể gặp người nào định nghiên cứu hoàn toàn Phât giáo, theo phương pháp sinh lý, tâm lý và luận lý học của tôi thì tôi vô cùng sung sướng. Tôi sẵn sàng hiến tôi cho họ sử dụng. Tôi không chắc vào điều ấy lắm, vì tôi đã bị lừa phỉnh nhiều lần rồi. Nhưng tôi vẫn tiếp tục như thế, cho đến ngày tận thế và cho hết đời của tôi,để tìm cho được con người ấy trong số hai tỷ rưỡi người, vì tôi tin rằng trí phán đoán cao siêu nó sẽ hướng dẫn tôi. NHỮNG KẺ ƯA THÍCH XẤU XA NHỮNG AI ƯA THÍCH XẤU XA. Tôi ưa thích cái xấu xí, điều bất thiện, sự bất công, cũng như cái đẹp, điều thiện, sự công bằng. Tôi chuộng cái yếu đuối, ngu dốt, nghèo nàn hơn thông minh, sức mạnh và giàu có. Tôi rất yêu kẻ bất lương, lừa dối, nói láo, hơn người làm ơn, mà không gây điều thất vọng. Tôi cảm phục người phi nghĩa cũng như kẻ có nghĩa. Tôi quý trọng sự phản bội hơn điều trung thành. Tôi ưa người phản động, kẻ chống đối, hơn người không phản kháng, kẻ thụ động. Những điều bất bình đẳng, cừu địch, nô lệ, tôi yêu chuộng hơn là những sự bình đẳng, bác ái, tự do. Chính sự hỗn độn mà tôi quý trọng hơn là trật tự. Lòng ham muốn của tôi, là thích tính kiêu căng, bội ân, phi lý, hơn là tính khiêm tốn, biết ơn lương tri. (Các bạn có đồng ý tất cả không? Không trừ một ai? Không có một sự phản đối sao?) (Tốt lắm tôi rất sung sướng). Nhưng tôi ưa thích điều hoạn nạn hơn hạnh phúc, sự khó khăn, điều chịu khó và cái không thể được, hơn cái dễ dàng, cái có thể được và sự thích ý. Tôi yêu mến nó, quý chuộng nó, ưa thích nó rất nhiều hơn là cái trái ngược của nó,phải, nhiều, rất nhiều, phải vô tận và một ngàn lần. “Tại sao?”. A!Đó là người ngu dốt mà tôi rất yêu mến nhiều! Nhưng tại sao mà không yêu mến? Nếu tôi không ưa thích nó nhiều hơn cái trái ngược của nó, thì tôi sẽ không có lý do gì để đến viếng và lưu trú ở tại Tây phương đây. Nếu những điều xấu không có thì cũng không thể có những điều tốt. Nó chỉ là hai mặt của một vật. Nó là bề mặt hay là bề trái của nhau. |
|
|
![]()
Bài viết
#10
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
Nó là bề trong hay là bề ngoài của nhau.
Nếu không có bề trái hay không có bề trong, thì làm sao có bề mặt hay bề ngoài của nó? Nó đều bổ túc cho nhau. Nếu không có phía dưới, thì làm sao có phía trên. Nếu không có chân, làm sao có thể có đầu Cái mà tôi ưa thích là cái lưng hay là bề trái của cái mặt, hay bề mặt mà người khác ham chuộng nhất Các bạn có thường hay yêu người vợ có cái mặt đẹp mà cái lưng xấu không “ Có” như thế là bạn thường yêu cái mặt nạ Các bà có thường thương người chồng vì anh ta dễ thương không?. Như thế chồng bạn được nhiều người đàn bà khác thương, như bạn đã thương người chông của bạn vậy Thế là sự đua tranh về ái tình không sao tránh khỏi Người chồng ấy cũng thương các chị phụ nữ, như các bạn thương những người dễ thương Các bạn không hiểu điều ấy sao? Khốn nạn thay có nhiều cuộc thi sắc đẹp! Hoa hậu Mỹ, hoa hậu Pháp, hoa hậu Phi Châu, hoa hậu Hoàn Cầu …. Các bạn còn nghi hoặc! Nhưng đó chính là sự phát biểu, hay là sự tự động thực hiện cái dục vọng rất mãnh liệt của tiềm thức về con người, nó là con thú có tính tham lam điên cuồng, đơn giản và tàn khốc, sự thèm muốn sắc đẹp bề ngoài Các bạn có nghi ngờ! Biết bao nhiêu phòng sửa sắc đẹp ở Paris và những bệnh viện, ở đó có những tay pháp sư, họ sửa lỗ mũi các bạn không được mỹ miểu, phồng ra quá to, thành cái mũi đẹp hơn, hoặc xóa bỏ những mí mắt bị thâm tím Tất cả nữ giới càng ngày trở nên đẹp hơn Thế giới trở thành một cánh đồng hoa nở rộng mênh mông. Và chồng của các bạn chỉ thật sự là thác sinh làm thân con bướm bất thường, rồi đi đó đi đây, để thăm viếng trăm ngàn cánh hoa, hết hoa này đến hoa khác, và trao dồi những lời dịu ngọt với mỗi cánh hóa Rồi chồng các bạn không trở về với các bạn nữa, cũng không nghĩ gì tới các bạn nữa, vì sự thu hút và quá bận bịu với vô số những hoa biết nói ấy Tôi cũng thế, tôi cũng yêu sắc đẹp Hồi trước, tôi ưa mến sắc đẹp một cách say sưa Phải , tôi đã ưa sắc đẹp bất kể giá nào Tôi cũng tranh đấu cho sắc đẹp Nhưng tôi biết sắc đẹp của con người ( huống hồ sắc đẹp nhân tạo) Không có ngoại lệ, chỉ là một cái khởi điểm của cái xấu, hoặc cái mặt nạ bi kịch tương lai mà thôi Sắc đẹp bề ngoài là một món mồi câu mà ngư ông hiểm độc nhất hoặc khôn ngoan nhất móc vào lưỡi câu để nhử bắt những kẻ ngu dại, kẻ hạ tiện, kẻ độc ác, kẻ bất nghĩa, kẻ kiêu ngạo, nếu không thì thế giới yên tịnh này sẽ chứa đầy những tiếng ồn ào hoặc cái hồ cá chép này sẽ thành ngư mãn ( quá nhiều). Cũng vì vậy mà các bạn phải chịu đựng biết bao chua cay, và buồn bực từ ngày bạn chiếm được một sắc đẹp, và một địa vị đẹp , hay là một danh vọng đẹp, và cái đó không ngoại trừ cái gì cả Tôi khuyên các bạn ưu thích cái xấu, điều ngu dại, bất lực, nghèo nàn, bất thiện, bất túc, phản bội, phi lý, bất nghĩa và sự buồn rầu như thế, là để các bạn không thể bị lừa dối, các bạn có thể đạt đến cái đẹp, sự thông minh, sự tự do, thể lực tối cao, ân nghĩa vô tận, và công bằng tuyệt đối Tại sao tôi thường tới lui các xứ Âu Châu ? Tại sao tôi yêu mến Tây phương nhiều? Các bạn chắc cũng hiểu lắm Ở trong thế giới này chỉ có bất bình đẳng, cừu địch, nô lệ Chỉ có chiến tranh, biểu tình, bãi công, chống biểu tình đẫm máu, và tàn bạo Tôi rất yêu chuộng những người đàn bà khốn nạn , đã tranh đấu cho sắc đẹp bi thảm Tôi cảm phục những nam nữ sinh viên cho rằng họ đã thực hiện “chân lý” ,chân lý giả tạo, nó bảo đảm cho chế độ nô lệ, việc động viên, sự tử vong hàng khối người như ở Verdun Các bạn không thể tưởng tượng, những kinh doanh gia, kỹ nghệ gia, thương mãi gia, chính trị gia, vô số kỹ sư, mà tôi tôn sùng biết bao nhiêu, thì cũng là đem thân làm miếng mồi để câu những con cá thật to: sắc đẹp, danh vọng, thế lực hay trí thức đó mà thôi. Thật là thú vị! Thật vô cùng thú vị! Thế mới là đáng sống! Sự giả tưởng vượt quá sự thật, tuồng chiếu bóng . Không phải mất tiền, các bạn có thể vui xem cả ngày lẫn đêm. Hơn nữa các bạn có thể tự đóng vai tuồng mà các bạn ưa thích. Phải, các bạn là một đào kép bậc nhất, hoặc đóng vai nam anh hùng hoặc vai nữ anh hùng hoặc những nhà kinh doanh chỉ biết lợi nhuận , những Y sĩ, Dược sĩ bóc lột đến cạn kiệt các bệnh nhân, những người lao động trí thức hoặc tay chân lãnh lương tháng… Tôi yêu mến các bạn, người đẹp cũng như người hung dữ. Tôi khâm phục các bạn, người thông minh cũng như người ngu dốt . Tôi quý mến các bạn, người bạn cũng như người thù. Nhất là kẻ thù, hơn cả người bạn. Bởi vì tôi không thể đóng thật khéo vai trò như những kẻ thù ấy được, tuy nhiên, sự thật tôi rất hung dữ, rất ngu dốt, rất kiêu ngạo, rất xấu, rất bất lương hơn họ. Thế là tôi rất xấu, rất bất lương, rất nghèo khó, rất dốt nát, rất tàn nhẫn, rất đấn độn ở trong đời. Tôi thích cái đẹp cảm giác. Nhưng tôi ưa cái xấu xí nhiều hơn cái đẹp cảm giác, ưa cái yếu đuối, bệnh hoạn, ngu si, nhiều hơn sức mạnh, mạnh khỏe, thông minh. Tôi ưa kẻ bất lương, bất nghĩa, ăn trộm, sát nhân. Bởi thế cho nên tôi rất sung sướng. Không có gì đáng ghét, đáng công kích, đáng phá hoại. Tôi ưa thích tất cả. Thế giới này, nhất là Tây phương là đầy dẫy những điều, tôi ưa . Có phải tôi là hoàng tử rất đáng thương chăng ? Có phải tôi là kẻ bất lương đáng ghét nhất không ? Tôi không biết điều đó. Nhưng sự kiện mà tôi được sung sướng , nó vượt quá sự thật. Tôi cảm thấy sung sướng hơn nữa, nếu tôi bị ghét bỏ, bị oán hận, khinh khỉ, công kích …nhạo báng … Tôi sung sướng, bởi vì tôi không thấy có cái gì đáng ghét, không có gì khó chịu, không có gì đáng phàn nàn, bởi vì trong thế giới chứa đầy những vật cần dùng, không vật gì thiếu cho tôi cả. Tôi nghĩ rằng, đối với bất cứ nhà tỷ phú nào ở Tây phương, họ cũng có một hay nhiều việc mà họ không thể ưa muốn, bất câu cái gì, như: chứng áp huyết cao, một mụt cóc, hay là một đứa con bị biến thể, hay một con mẹ nào hay nói láo trong nhà… Còn tôi, tôi muốn có những điều ấy, tôi còn muốn mua những cái ấy với giá rất cao, vì tôi rất vui thú mà chữa lành các cái ấy. Tôi biết, và tôi có thể cải tạo được họ. Sự vui vẻ kết cụôc sẽ đến bi thảm, cái đẹp rồi cũng đến xấu … Hạnh phúc đi đến vô phúc đó là luật thứ nhất của “Trật tự Vũ trụ” . Mọi cái khởi thủy đều có chung kết, và cái thủy, cái chung nó luôn luôn tương phản, tương thành cho nhau. Chứng cớ là lịch sử. Khi tôi đọc quyển “Le Portrait de Dorian Gray” của d’Oscar Wide có một hàng làm tôi kinh ngạc . “Tôi rất sung sướng”. Đó là một lời nói của một người con gái. Trong câu nói ấy, tôi cảm thấy có một cái gì động chạm đến tôi. Dorian Gray thương cô ta, và cô ta nói: “Tôi sung sướng”. Tôi tự hỏi, cái hạnh phúc ấy, có phải chính hạnh phúc để cho một mình cô ta được hưởng không ? Một hạnh phúc do một người gây nên, không phải là chân hạnh phúc, cái đó nó xúi giục kẻ khác ganh ghét, và sớm muộn sẽ biến thành một điều bi thảm. Như thế, hạnh phúc của người Tây phương , là vô phúc cho kẻ khác. Đó không phải là hạnh phúc của người Thiên quốc . Bây giờ tôi mới hiểu, sau 40 năm đọc quyển sách “Portrait de Gray” rằng cái hạnh phúc của người Tây phương là điều bất hạnh của người Thiên quốc. Cũng vì thế, mà ở Tây phương lắm hoạn nạn, lắm tội phạm cùng chiến tranh, thuế khóa, động viên ,ăn cướp. Ấy cũng vì thế, mà tôi yêu mến Tây phương, tôi ưa những việc khó khăn, những điều khó chịu, cũng như một anh học sinh thích làm những bài toán khó nhất. Tôi yêu mến các bạn, các bạn “văn minh” thân mến của tôi. Các bạn rất nhiều độc ác, nhiều khôn ngoan, nhiều ngu dốt, nhiều bất nghĩa, và nhiều vô lễ hơn người “Thượng cố”. Tôi điên lên vì người “văn minh” Những kẻ cực đoan đương chú tâm: Những người “văn minh” và những người “Thượng cổ”. Ở trong thế giới tương đối này, tất cả đều tương phản và tương thành cho nhau. Những người “văn minh” cũng yêu mến người “Thượng cô”. Họ trao đổi tặng phẩm cho nhau… Kẻ nầy hiến những con ốc, những hòn đá, trà, cà phê, thuốc lá, trái cây, da xác chết của một con thú vật, và ngọc; họ không có gì khác nữa. Kẻ kia thì hiến rượu mùi,chiếu bóng, mỹ phẩm, bom, súng lục, những khí cụ giết người. Những dân da đen và da màu đều sung sướng với mỹ phẩm, với sáp đỏ nhuộm móng tay . Những dân da trắng thì hài lòng, với tấm da của một xác chết, một chuỗi ốc, và một cách hút thuốc kỳ khôi, những trái cây miền nhiệt đới, thứ này đã nuôi dưỡng và tăng tráng kiện cái “tâm trạng Thượng cổ” và sự biếng nhác không hoạt động nông vụ, (bởi vì họ đều là con thừa kế di sản đại phú của thiên nhiên). Đó là tự do trao đổi giữa con công và con quạ. Trông thấy cũng vui vui. Sự thật vượt quá sự tưởng tượng. Các bạn hãy nhìn sân khấu. Màn kịch đã hiện lên. Đó là một sân khấu rất vui thú, rất cảm động, rất cảm kích của bi hài kịch, mà chúng ta sẽ trông thấy: sự sụp đổ của nền văn minh vĩ đại. Xin yên lặng Các bạn hãy dở nón. NGÔN NGỮ NƯỚC THIÊN QUỐC Theo Du Bois Raymond, thì nguồn gốc tiếng nói “Thiên quốc” , trong một buổi nói chuyện có nhiều nhà ngôn ngữ học tham dự, người Thượng Cổ đã có cho chúng ta biết đại cương về nguồn gốc và văn phạm của tiếng Thiên quốc, bằng một thuật ngữ như sau: Thật vô cùng khó khăn cho tôi,để trình bày sự hiểu biết của tôi, bằng một thứ tiếng của người “văn minh” . Tại sao thế ? 1. Tiếng Thiên quốc là một thứ tiếng ở bên kia, nó không giống thứ tiếng của thế giới tương đối, hữu hạn nầy. 2. Bởi vậy, tất cả các sự diễn dịch những chữ tương đồng ,không được xác đáng, có khi phản nghĩa nữa, có lúc hoàn toàn khác nghĩa. Trước hết, như chúng tôi đã nói trong “lời nói đầu” tiếng nói của chúng tôi không có quán từ, không có cách nhân xưng, không có thời gian, không có giống đực, giống cái, không có số nhiều, số ít, không có chủ từ, không có hình dung từ, Hơn nữa, nó cũng không phân biệt tiếng “có” và “không”. Như vậy tiếng nói chuyện thường của Thiên quốc rất dễ học . Có lẽ nếu các bạn là một nhà ngôn ngữ học có thiên tư, thì các bạn có thể học trong một giờ, nó dễ như tiếng nói của trẻ con. Trong tiếng nói của Thiên quốc, chỉ có một điều khó, là cách phát biểu về lễ phép (tế nhị, thanh nhã, cảm tình hay cảm giác về trí thức , xã hội , lý tưởng, tinh thần) . Đó là vì một “giác quan” hoàn toàn Thiên quốc: giác quan hay tri giác điều hổ thẹn, và giác quan biết tội lỗi không có ở trong tiếng nói của Tây phương. Càng lọc lõi, trí thức, thanh nhã bao nhiêu, người ta lại cần những đức tính ấy để bộc lộ ý mình bấy nhiêu. Cách nói ấy là thanh cao, dịu dàng, trầm tĩnh. Tất cả nữ giới đều tuân thủ điều ấy cho đến một thiểu số nam giới cũng vậy . Tôi không hề gặp một người da trắng nào mà không lầm lỗi về cách phát biểu ấy, dù họ đã có học trên hai mươi năm, và dù họ đã lấy vợ người Thiên quốc. Một người Pháp tên là Combarieu, nhà phê bình âm nhạc, đã nói: “Chúng ta có một nền âm nhạc tuyệt hảo ở trên hành tinh này, âm nhạc Ấn Độ là âm nhạc của Trời” . Một nhà chuyên môn ngôn ngữ học Tây phương, một ngày nọ, sau khi nghiên cứu tận gốc tiếng nói Thiên quốc, đã nói: “Tiếng nói Thiên quốc là một thứ tiếng ở bên kia thế giới, có lẽ là tiếng nói của nước Trời”. Chúng tôi không có quan niệm thời gian, bởi vì chúng tôi sinh sống trong trường cửu. Chúng tôi không có “anh” không có “tôi”, không “nó” , không “chúng nó” . v.v… cho đến những tiếng “các anh”, “chúng tôi” , “của mày” , “của tao” cũng không có… Bởi vì chúng tôi hoàn toàn bình đẳng, bác ái tuyệt đối. Anh là tôi , mà tôi là anh. Của tôi cũng là của anh. Tất cả chúng ta là nhân loại. Chúng ta là MỘT. Vô cùng xấu hổ khi nói “tôi” “chúng tôi” .Quan niệm sở hữu xem như một việc đáng khinh. Tiếng “các anh” hay “nó” có nghĩa là một điều khinh bỉ . Một từ ngữ, như “Hoàng đế của anh” “Vua của chúng tôi” v.v… thật chướng tai, lạ lùng, kỳ dị, đối với chúng tôi. Cho đến “nón của anh” , “xe của tôi” v.v… cũng vậy. Tiếng “vợ của anh” bày tỏ một sự khinh khi trăm phần trăm. Người đàn bà không thể xem như một đồ vật tư hữu, như điều mục xác định sở hữu chủ. Tôi thường nói bằng Pháp ngữ: “Bà A. có mạnh không” mà không khi nào nói :“Vợ của anh có mạnh không?” .Nói như thế cũng đã khó, bởi vì tiếng “tôi” trong tiếng “vợ tôi “ làm tôi khó chịu . Nếu có một trường hợp, người ta nói bằng Pháp ngữ: “Ông có quên cất cái nón mà ông đội trên đầu của ông không?” nói như thế kỳ dị, vô lễ, bêu xấu. Tại Thiên quốc thì tôi nói: “Nón đội trên đầu, quên cất phải không?” . Nếu tôi nói “nón của anh”, có nghĩa là “anh có cái nón của anh , chứ không phải nón của nó, hay nón của tôi, như thế là hiện thời anh không phải là thằng ăn trộm. Vậy nó có thể là kẻ trộm, hoặc trước kia nó đã ăn trộm cái nón của anh.” Người ta cũng không nói “anh đã ở đây”. Nhưng nói “đã ở đây”, hoặc nói “anh ở đây” Tiếng “các anh đã” cùng những tiếng “tôi là” , “chúng tôi là”, “nó là ”, “chúng nó là” đều hoàn toàn vô ích. Bản thể là bản thể, phân biệt nó là một cách phát biểu tính độc chiếm. Tính độc chiếm là ích kỷ; mà ích kỷ là nguyên nhân tất cả mọi sự đau khổ. Tiếng Nhật bản, tiếng Trung hoa, tiếng Thiên quốc đều giống như nhau.(Kể cả tiếng Việt Nam - NVT) Nó không có quan niệm nào về tư hữu, cũng không có quan niệm độc quyền, do đó mà không có sự tranh chấp. Sự phân biệt (hay sự xác định) là đầu mối tất cả những vụ tranh luận. Hằng ngày, vợ tôi lấy làm ,khó chịu mỗi khi nghe có tiếng người nói . Nó thường hỏi tôi: “Họ gây lộn nhau chăng?” Cái gì vậy? có ai bị giết chăng?.Họ muốn tôi làm cái gì? Tôi đã phạm tội gì? Tôi lo sợ”… Bởi vì vợ tôi đã quen cách nói nhỏ nhẹ, thanh nhã, trầm mặc, nhă nhặn, ngọt ngào, của người Thiên quốc rồi. Ở Tây phương đây, thiên hạ đều nói rất to tiếng. Nói to lớn, tôi và vợ tôi tự hỏi, có phải người ở đây đều bị điếc cả chăng ?. Người ta nói ở Hoa kỳ có hơn 15.000.000 người bị nặng tai. Ở đây cũng sẽ có hơn 4.000.000 người đồng cảnh ngộ như thế? Đó là lẽ tự nhiên, vì sự dinh dưỡng trái thường. Bên chúng tôi, lỗ tai người ta nghe rất thính, rõ hơn tai con chó một chút. Người ta nghe gió thổi bên kia đồi núi, và nghe tiếng chim kêu ở tận rừng xa. Trí phán đoán càng cao, thì sự tranh luận càng ít. Trí phán đoán cao siêu, không cần phải cất vấn ai hết. Văn chương của một tác giả có tư chất phán đoán cao siêu, là đơn giản, vắn tắt, minh bạch; hội họa cũng thế. Thi phẩm là trang sức của văn chương. Chúng tôi đã có nói ở trên, chương “Romain Rolland” rằng: thơ rất có giá trị và rất bình dân cuả Nhật bản là thơ “Tanka”, chỉ có 5 câu.31 âm, và “ Haiku” cũng chỉ có 17 âm trọng 3 câu mà thôi. Đó là hình thức đặc thù nhất của tiếng nói Nhật Bản. Sau đây là một ví dụ: Asagao ni Turube torarete Morai Midu Phiên dịch từng chữ một: “(Sự huy hoàng ban mai chiếu đến cái gàu nhỏ, (tôi cần đi) xin nước bên nhà lân cận”). Đó là một bài thơ do một phụ nữ Nhật sáng tác , Tiyo Kago, đã gần trăm năm nay; Chị ấy ở trong một cái nhà tại một làng nhỏ. Mỗi nhà lớn hay nhỏ đều có một cái giếng sau vườn có rất nhiều hoa.Trong cảnh rực rỡ buổi mai hiện ra một giống cây leo rất ưa thích nở hoa về mùa hạ. Một buổi mai mát mẻ và thanh tịnh, ngày nào cũng vậy, thiếu nữ Tiyo, thức dậy trước tiên (trái với phụ nữ Pháp) một hay hai giờ trước khi mặt trời mọc Chi ta đi ra vườn, và trước hết là đi ngay đến giếng múc nước rửa mặt, giặt áo quần, quét dọn và nấu ăn. Buổi mai ấy, chị ta bắt gặp một cái hoa đẹp của cây leo, trắng tinh, màu nó nổi bật trong ánh sáng mờ, ở bên một cái gàu nhỏ mà chị ta để gần giếng ngày hôm qua. Chị ta thán phục cái hoa. Nói thầm “Ô đẹp biết bao nhiêu!” và ngắm nhìn rất lâu. Rồi, để cho cái hoa khỏi tách rời cái gàu, chị ta đi đến ngay cái nhà nhỏ láng giềng để xin nước. chị ta dùng ánh sang ngọn lửa nấu cơm gạo lứt để đọc sách, vì không có ánh sáng nào khác trong cái nhà nhỏ của chị ta. Ngày hôm ấy, trong tập vở do tay chị ta đóng, chị ta đã lấy cục than trong lò để viết bài thơ mà chị ta sáng tác ra đó. Bài thơ bất hủ. Cuộc nói chuyện của ông Jack kéo dài đến ba tiếng đồng hồ, thình lình ông ngừng không nói nữa .Có lẽ ông ta nhận thấy cái hoàn toàn vô tri của người “văn minh” , hoặc câu chuyện nói đã quá dài, hoặc có tánh chất quá đặc biệt trong cách dùng ngữ nguyên. Xin các độc giả tha lỗi cho tôi về việc này không thể sao chép nhiều hơn. CHƯƠNG XII SAU CUỘC NÓI CHUYỆN. MỘT Y SĨ THANH NIÊN Một y sĩ tuổi trẻ lái một cái xe hơi đẹp đến gần bên ông Jack, và nói với ông: một cuộc nói chuyện ở trong một nhóm người như thế này thật không đáng. - Thật à ? - Đa số người này đều toàn ông già, bà lão cả, họ không hiểu gì đâu, họ có rảnh thì giờ, thời họ đến những câu lạc bộ vì hiếu kỳ, họ không có mục đích, họ đến đây để giết thì giờ, thế thôi, không có gì khác hơn. - Vậy thì nói cho họ nghe là mất thì giờ chăng? - Đúng như thế, Ông nên nói cho những hạng thanh niên trí thức, và bác học nghiêm trang nghe … - Ở đây có nhóm thanh niên nghiêm chỉnh và bác học không ? - Có, có chứ. - Tôi rất ham muốn gặp một nhóm người như thế …Tôi đang tìm kiếm một số thanh niên, hay tốt hơn nữa một số thanh niên bác học, có ý ham thích triết lý Viễn Đông. - Dù sao, tôi cũng đến Paris, và tôi sẽ giúp ông… - Thanh niên Y sĩ ấy, tên là M…, chiều ấy, từ xa đến, lần đầu tiên thăm ông Jack, rồi anh ta dẫn ông Jack đến hội Thân Hữu Phật học, và anh ta chăm chú nghe cuộc nói chuyện của người Thiên quốc. - Ông ta tự giới thiệu với diễn giả những lời như sau: - Tôi có biết ông từ chín năm nay, lúc ấy tôi đang là một sinh viên ở trường Sorbonne. Một ngày nọ, tôi bắt gặp cuốn sách đầu tiên của ông:”Vô song Nguyên Lý”, tôi đọc nó, nhưng không hiểu. Năm năm trôi qua, trước khi tôi đọc lại sách ấy. Rồi từ bốn năm nay, tôi kiếm ông khắp nơi…Và, mới hôm kia đây, nhờ bà W… tôi mới biết địa chỉ của ông . - A, bà W ? và ông là một nhà chuyên môn? - Tôi chuyên môn giải phẫu, và các bệnh thông thường, tôi ở tại một thành phố nhỏ, cách Paris độ 150 cây số, về phía nam, nhưng tôi đã từ bỏ tất cả, tôi kiếm một người nào để bán lại nhà cửa đồ đạc. Tôi đã kiếm được một số tiền có thể đủ sống vài năm để chú tâm độc nhất vào sự nghiên cứu cho triết khoa Y học chân chính. Tôi sẽ bắt đầu cuộc du hành của tôi…. Tôi sẽ đi theo ông , bất cứ chỗ nào… - Có thật không ? Nhưng… - Như thế có bất tiện cho ông không? - Được lắm. Việc ấy rất có ích lợi. Nhưng tôi nhận thấy có nhiều thanh niên như ông, họ hứa với tôi, họ sẽ nghiên cứu Y khoa và triết lý Viễn Đông cho tận gốc. Nhưng lạ quá, họ đều bán đồ nhi phế… làm tôi hết tin tưởng vào ông, cũng như các thanh niên bất cứ nước nào, nhưng việc, không cần phải nói, ông hoàn toàn tự do đi theo tôi. Tôi sẵn sang phục vụ ông. Tôi hy vọng ông sẽ chiếm được tất cả những điều đại bí mật của tôi, tôi không có lời gì để chúc tụng ông nữa… - Tôi hăng hái đi theo ông, vả lại tôi có đọc tất cả những sách của Giáo sư Suzuki... - Họ tiếp tục nói chuyện trong chiếc xe hơi chạy về Pari. - Tốt, ông còn trẻ hơn đứa con trai đầu lòng của tôi nhiều, ông còn hoạt đông được 50 năm nữa, ông có phước lắm. Nhưng ông sinh về tháng nào ? - Ngày 2 tháng 8 năm 1924. - A, ông sinh nhằm tháng 8…và ông là con trưởng, phải không ? - Không, tôi là con một… - Thế là ông là con trưởng và đồng thời con út… - Điều ấy không tốt sao ? - Việc ấy rất xấu, trong đời sống của ông, rất ít có việc thành công… Theo diện mạo của ông, ông sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Ông J. nói tiếng rất nhỏ, tôi không biết vì cớ gì, thanh niên Y sĩ không nói được. Sự hoạt đông xe cộ buôn bán dọc đường rất nhiều . Trong một chiếc xe hơi trở về, có một đứa con trai 6 tuổi của viên Y sĩ . Trước nhà bà T… Người Thiên quốc xem xét đứa nhỏ ấy rất kỹ, trước khi từ giả xuống xe. - Có rất nhiều Đường hóa nhiếu tố (Enzymes) gọi là sinh tố “Aneurinase” nó phá hủy tất cả sinh tố B1 trong ruột… Đó là sự bắt đầu khó khăn của ông….Đứa bé ấy sắp bị chứng tê bại… Ông ta nói thầm như vậy. Rồi ông ta từ giã chiếc xe rất đẹp của Y sĩ M. để về nhà. Tức thì xe hơi biến mất trong đêm tối. Đứng trước cửa, ÔNg Jack còn quay lưng trở lại, nhìn hướng chiếc xe chạy rồi lẩm bẩm… Đã biết bao lần, tôi bị lừa gạt… Khuyến khích, phấn khởi, và sau cùng thất vọng … vì một cuộc gặp gỡ với một thanh niên như thế … Hằng trăm lần … Suốt đời của tôi, cứ tiếp tục như thế này vô cùng tận… … Trải qua vô số khó khăn, và mạo hiểm …. Bao giờ cái người tôi đi tìm họ sẽ đến … Đời tôi là một cuộc truy cứu thường xuyên…. Có phải vô ích không? Phải,nó hoàn toàn vô ích. Cái con người đã cố tận lực tự sát,thì còn cứu họ làm gì? Nhưng không có gì say mê bằng. Chắc chắn. Nếu bắt gặp một vài người trong số hai tỷ rưỡi người đau đớn và khổ sở, thì có lợi ích một cách chắc chắn. Nhưng cũng vô ích. Nếu trong đời tôi chỉ cứu được một triệu người thì còn hai tỷ bốn trăm chin mươi triệu người nữa đang đau khổ. Hà tiện, ích kỷ, tham lam và ham muốn làm tiền, dục vọng tiện nghi, say mê cảm giác, độc chiếm vô cùng tận … Gây mầm chia rẻ, tranh giành nhau, rồi chiến tranh càng ngày càng ác liệt … Từ Verdun đến Okinawa … đến Hirosima, và Trừơng kỳ … Tàn sát, tự tử quá ghê tởm. Những người “văn minh” ấy có phải đều điên khùng, đều “bị bệnh nan y” cả chăng? Có phải họ đều là kẻ bất lương nhất,mà từ hồi nào đến giờ chưa từng thấy chăng? Không ai có thể, và đã có thể cứu những người “văn minh” ấy được. Trái lại, nếu có ai muốn cứu họ thì lại bị đóng đinh trên cây thập tự, đầu độc, bị thiếu hay bị đày. Tất cả, những kẻ nào, được khen thưởng trong thế giới này, đều là những kẻ đã đem lại một việc đóng góp quan trọng nhiều ít sự phát triển sự hạ tiện, tiện nghi thích thú … và tàn sát… Edison, kẻ phát minh hàng ngàn khí dụng , đã hối hận thâm trầm khi đến tuổi tám mươi. Eastman, đến già, đã tự tử tại Lâu đài tân thức của ông ta ở Kodak City (Kodakville) là thành phố đã hãnh diện với vườn hoa Eastman, Rạp hát Eastman, bảo tàng viện Eastman, Học viện Eastman … thành phố có 600.000 dân cư, đều là nô lệ, hoặc người phục vụ của vua Eastman, là bực gương mẫu, là ông chủ của họ. Nobel, nhà phát minh một cái máy hóa học( chất nổ) giết người rất lớn, ông ta không thể đem hết gia tài sự nghiệp theo qua bên kia thế giới. Ông ta đành bỏ lại cái gia tài ấy cho những kẻ ưa thích những điều phát minh của ông ta. Vì một công trạng gì đó, tự phụ là có ích cho việc tiến hóa khoa học hoặc cho “Hòa Bình nhân loại” phát minh của ông được giải thưởng “Nobel đại sát nhân” , nhưng sự thật có “ích cho sự đại tàn sát” hoặc có “ích cho việc sụp đổ nhân loại” (tiện nghi, thú vui vẻ cảm giác) … Thật là xấu hổ, thất vọng, khốn nạn biết bao nhiêu! Y sĩ Carrel, ghét điều tiện nghi và những thú vui của thế giới, từ hồi còn nhỏ, đã bắt đầu một cuộc cách mạng về trí thức chân chính, nhưng rồi cũng đến chỗ luân lý thần bí lỗi thời mà thôi. Cronin, bị kích thích lúc ban đầu, có viết quyển”La Citadelle” rồi cũng chỉ một tiểu thuyết gia tầm thường hơi thiên về tôn giáo “Les Clef du Roytaume des Cieux”). Lindgbergh và người vợ can đảm của ông ta lúc ban đầu trải qua nhiều nguy nan, nay cũng chỉ người tìm thú tiêu khiển. Pearl Buck, Jaspers, Heidegger, Jacques Maritain, Upton Sinclair … thì người ta bán tư tưởng của họ, lần xuất bản thứ nhất. Từ hồi đầu cho đến ngày nay, tôi đã phân phối một cái la bàn vạn năng, nó bảo đảm một phương hướng đúng đắn cho những ai đã có sẵn. Nó rất hữu ích, và cần thiết cho mọi người, dù lương thiện hay bất lương. Nó chỉ cho người ta hướng về tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, và công bằng tuyệt đối, nó sẽ khai minh cái bản chất của những người đại bất lương thành người đại lương thiện và những người đại lương thiện bày tỏ cho thế giới biết cái thực chất của họ: là đại bất lương, và đã tự hỏi, lần đầu tiên, bởi vì những người “tự tin mình lương thiện” hay là “đẹp nhất” lại là vô lương nhất, và xấu xí nhất, và tất cả hai hạng người này sẽ dắt tay nhau đi vào cõi tự do vô tận. Khi ấy mọi người mọi người trong thiên hạ đón nhận nó một cách vô cùng hớn hở. Tôi cần hiến cái Vô song Nguyên lý, cái la bàn vạn năng ấy, cách kiên tạo rất đơn giản, rất dễ đọc rất thực tế, cho người lương thiện cũng như cho người bất lương, nó rất cũ kỷ, đồng thời nó cũng rất tần tiện … Suốt đời, không thay đổi tên của nó. Tốt lắm! Chúng ta cứ tiếp tục. Tất cả những sự suy nghĩ ấy, nó đi qua trong đầu óc của ông Jack như một cái chớp. “Mỗi ngày có đầy đủ sự khó nhọc của nó” , ông Jack nói thầm như thế. “Mọi người đều được sung sướng, nếu không, đó là vì trí phán đoán cao siêu của nó bị che lấp” … “Và để khai quang cho trí phán đoán cao siêu ấy, người ta chỉ liếc mắt nhìn cái la bàn vạn năng ấy, Vô song Nguyên lý nói như thế”. Ông Jack mở cửa, rồi đi về nhà. CHƯƠNG XIII NHỮNG CHUYỆN MẠO HIỂM CHƯA TỪNG CÓ Ông Jack đi vào trong cái thế giới “văn minh” một cách bạo dạn và can đảm, tất cả những điều nguy hiểm có thể xảy ra, nhất định cũng như Lawrence ở Arabie, Y sĩ Livingstone ở Hắc Phi Châu, hoặc như Lindbergh ở trên chiếc “St Louis” để vượt qua Đại Tây Dương. Trót mười tháng, trải qua hai mươi ngàn cây số, đều dược êm thấm, sự liều mạng nguy hiểm của Li vingstone, Lawrence, và Lindbergh là sự tưởng tượng trăm phần trăm. Nhưng sự nguy hiểm của ông Jack lại là sự thật, bởi vì ông ta công kích thái độ ông vua rất có quyền thế và rất độc ác gọi là “kinh tế”. Ở Hắc Phi Châu, Livingstone chỉ gặp những dân bổn xứ hiền lành và hiếu khách, họ tiếp đón và săn sóc ông ta như một bậc thiên thần da trắng cho đến ngày ông ta chết. Không có một con thú vật nào tấn công ông ta. Livingstone có thể tiếp tục công trình thám hiểm địa dư cho đến ngày cuối cùng, sử dụng nhân công người da đen suốt năm này qua năm nọ, truyền bá Thiên chúa giáo đã biến thái “Đạo Thiên Chúa từ thiện” , để thay thế cho “điều cấm kỵ” của dân da đen, lấy Y khoa đối chứng trị liệu, tà thuật đen tối thay cho Y thuật cao siêu của dân “Thượng cổ”. Và bản đồ địa dư đã khiến cho ông ta chiếm Hắc Phi Châu làm thực dân địa được dễ dàng. Thực ra, những người da trắng goi là “văn minh” đều là nô lệ xiềng xích của vị vua “Phán đoán đen tối” gọi là “kinh tế” , còn những người da đen gọi là “dã man” đều là con của Thượng Đế, họ tiếp những “du khách ngoại quốc khốn nạn” và hiến cho bọn bất lương này cái huyết mạch đời sống của họ: Thổ địa. Nhưng ở Tây phương lại trái hẳn. Những người “văn minh” không hề bố thí một cái gì, cũng không hề tặng một vòng hoa cho những du khách khốn khổ, hay lương thiện. Họ như bọn trộm cướp, bóc lột du khách được nhiều chừng nào hay chừng ấy. Chủ khách sạn tăng quá giá chính thức, nhân viên quan thuế đòi tiền gấp ba để ký một chiếu khán nhập cảnh v.v….. Lại lạ lùng hơn nữa, cái khuynh hướng ăn cướp ấy càng nêu rõ trong bọn trí thức và kỹ nghệ gia giàu có. Ông Jack mở một lớp học tư để dạy Y khoa Viễn Đông cho độ sáu mươi Y sĩ rất giàu, và có điều trị cho một vài ông Y sĩ ấy cùng những gia nhân của họ nữa…. Ông Jack đã tổn tiền di chuyển, tiền trả taxi, và tiền đi xe điện ngầm, và mất rất nhiều thì giờ với họ. Nhưng ông ta, trừ có một lần, còn thì không hề nhận được một món quà gì đền bù lại sự tổn phí tiền bạc và thì giờ của ông ta cả. Những Y sĩ này là bọn ăn cướp quá tồi bại. Họ đối đãi với người Thiện quốc này có lẽ cũng xem như thân chủ phi nghĩa của họ chăng. Y khoa Tây phương chỉ là một cái nghề, có nhiều Y sĩ rất kỳ dị. Họ nặc danh tố cáo người ngoại quốc với cơ quan cảnh sát , rằng làm nghề thầy thuốc bất hợp pháp. Y sĩ gì kỳ quái vậy! Nhưng họ không phải là chính phạm đâu, thật không phải! trách nhiệm trước tiên là nền giáo dục đại học, thứ mới đến tất cả những ai tùy thuộc vào Y khoa đó. Những Y sĩ (ăn cướp) do Chính phủ cấp bằng, và đẳng trật do viện Đại học chỉ định (giáo dục trăm phần trăm trái với chân lý) đều có quyền giết người và bóc lột bệnh nhân khốn nạn. Những kẻ chân chính cứu người ,trị lành bệnh, đều do thiên tư tự đời sống họ phát xuất ra. Sau hết tuyên truyền một Y khoa ngoại quốc, hoặc phán đoán cao siêu cho Tây phương, và những xứ thực dân địa của người “văn minh” là một chuyện đại mạo hiểm cho một người ngoại quốc. Nếu không bị đầu độc mà chết, thì cũng chết vì đói. Hơn nữa, người ngoại quốc ấy lại hay công kích, và chế nhạo công việc chế tạo, và phân phối đường, tất thảy những vật phẩm có chất ngọt, và tất cả cái gì nhuộm màu hóa học, tất cả dược phẩm, tất cả thực phẩm trái mùa, ngoại lai, đồ hộp, hay là mới đầu mùa. Nếu thiên hạ mọi người đều hiểu biết công kích của ông ta, thì các xưởng chế tạo thực phẩm, các nhà hàng, quán ăn ,các công ty chế dược phẩm, dược phòng, những nhà chế tạo bánh ngọt,… tất cả đều bị khánh tận. Biết bao nhiêu thư không ký tên, gởi đến quận Cảnh sát, tố cáo tội phạm của người Thiên quốc này ? Người Thiên quốc này phải vượt qua nhiều nỗi mạo hiểm vô tình. CHƯƠNG XIV NHƯNG “ BỆNH NAN Y ” và “Y THUẬT CAO SIÊU”. ( Cuộc nói chuyện về giáo dục của người Thiên quốc ). Những kẻ khốn nạn bị khoa Y học đối chứng trị liệu xử án gọi là “nạn y” , thì khoa Y thuật cao siêu đều “chữa lành” tất cả. Nói cho đúng, tất cả bệnh tật đối với Y khoa đối chứng trị liệu đều là nan y cả, bởi vì họ không chữa bệnh nào một lần mà lành hẳn. Tất cả Y sĩ hành nghề thầy thuốc, đối chứng trị liệu đều đau ốm không bệnh này thì bệnh khác, không ai tránh khỏi. Mục đích Y khoa cao siêu, là cứu chữa không những các bệnh Y khoa đối chứng trị liệu, và chính những Y sĩ ấy cũng không chữa trị lành được bệnh của mình, đã tuyên bố là “nan y” mà còn chữa trị “những người không cần xuống địa ngục sau khi họ chết” nữa, (bởi vì họ hiện ở địa ngục đó rồi). Nghĩa là những kẻ đau ốm, lo âu, sợ sệt, phiền muộn thường xuyên hoặc từng hồi, và những kẻ đi mượn bắt chước trí phán đoán kẻ khác, hoặc đi tìm phương thuốc tà thuật, thay vì đáng lý mình tự điều trị, và tự làm ông thày thuốc cho mình, như tất cả các loại thú trên quả hành tinh này. Bệnh chứng mà Y khoa đối chứng trị liệu lấy làm rất khó chữa, thì Y khoa Viễn đông lại cho là rất dễ. Tuy nhiên, cũng có một bệnh mà Y khoa cao siêu cũng lấy làm khó trị: Bệnh vô tri hay bệnh hiểu biết Kiêu ngạo, ích kỷ, độc chiếm, nhị nguyên, trong đó gồm có duy linh, duy vật, vô thần, tín điều của vài tôn giáo cũ (hay là một tôn giáo mới thiết lập, gọi là “khoa học”). Nổi loạn chống lại thuyết thành kiến, thần bí, thánh giáo, trá ngụy, tước đoạt, hoài nghi v.v… tất cả cái đó đều là triệu chứng của bệnh hiểu biết. Những kẻ nào đi tìm hạnh phúc, tự do hữu hạn, công bằng tương đối hay là thế lực tương đối, và đều mãn nguyện cái đó, đều là mắc chứng bệnh ấy cả. Tất cả những ai hay gây lộn cãi cọ nhau, đều bị bệnh hiểu biết của họ. Họ đều mù quáng, trí phán đoán ít nhiều bị mờ ám. Căn nguyên tối hậu của sự lý giải ấy là gì? Đó là vấn đề rất quan trọng đối với Y học Viễn Đông. Trong thời kỳ lưu trú ngắn ngủi của tôi, tôi có điều trị cho gần 60 Y sĩ Tây phương, họ đều có bằng cấp, họ có quyền chữa bệnh và lấy tiền, họ đều rất giàu có. Nhưng họ lại không có quyền điều trị cho bệnh của chính mình họ, họ cũng không có quyền điều trị cho vợ con của họ. Đó là luật hiểu biết cẩm đoán một cách minh bạch. Nếu tôi chú tâm vào những Y sĩ bệnh tật ấy, và nếu tôi chữa cho họ được thành công, thì tôi sẽ bị vô cùng xấu hổ, bởi vì tôi không thể chữa lành nổi bệnh hiểu biết của họ. Bệnh hiểu biết do đâu mà có? Bệnh này do sự giáo dục của gia đình, học đường và xã hội mà gây nên. Những loài thú vật, cùng những người “thượng cổ” không có học đừơng giáo dục, trí phán đoán của họ đều được hoàn toàn khai minh : bản năng. Những ai phát minh ra giáo dục ? Nền giáo dục phát minh ra do những kẻ trí phán đoán thấp hèn, sự hiểu biết bệnh hoạn. Vậy thì trí phán đoán thấp hèn, đã có từ lúc ban đầu ? Phải, mối khởi thủy của đời sống sinh lý, vật lý của chúng ta trong thế giới tương đối hữu hạn và tạm bợ này , là trí phán đoán thấp kém, máy móc, hoặc mù quáng, cũng như đứa bé sơ sinh vậy. Trí phán đoán toàn hảo, nó phát triển hay khai minh từ thấp đến cao suốt trong đời sống của chúng ta. Nhưng đa số, trí phán đoán chỉ ở vào giai đoạn hai hoặc giai đoạn ba, và chỉ một thiểu số ở giai đoạn bốn, hoặc giai đoạn 5 mà thôi. Rất ít kẻ đạt tới giai đoạn 6, còn giai đoạn 7 thì lại quá hiếm hoi. Cái đó tùy nơi sự giáo dục. Một nền tân giáo dục? Phải, một tân học đường, trước hết, nó cần phải là học đường dạy về sinh lý, vật lý và luận lý học, đó là ít nhất trước hai mươi năm khi bắt đầu thụ thai lần thứ nhất, nghĩa là để giáo huấn cho một thiếu phụ muốn sinh đứa con, ngày sau sẽ trở thành một lương y, tự chữa trị lấy bệnh của sự hiểu biết. Từ khi mới sơ sinh, đứa con nhỏ này cần được tân giáo dục đào luyện, để biết sự cấu tạo vũ trụ tương phản, với phương pháp nền giáo dục cũ. Tân giáo dục không nên giảng dạy một bài học nào tương tự như bài học của giáo dục hiện tại, bởi vì bài học hiện tại làm ngăn trở sự phát triển tự nhiên của trí phán đoán cao siêu. Tân giáo dục giao phó học sinh trẻ nhỏ cho ông thầy thiên nhiên được nhiều chừng nào càng quý chừng nấy. Cứ bỏ liều mặc kệ đứa nhỏ trong cảnh nóng đói, rét, tùy theo sức chịu đựng của nó, càng nhiều càng hay. Người cha và người mẹ, cần phải làm gương mẫu tốt, như là những người tự do, sung sướng, bạo dạn, lương thiện, lao động, sản xuất, sáng tạo, và hoàn toàn độc lập. Người làm cha mẹ phải sống một đời sống hoàn toàn phù hợp với sự cấu tạo vũ trụ. Tân giáo dục là một nền giáo dục thực hành và lý thuyết về sự cấu tạo vũ trụ. Bài, vở, giải nghĩa, ký ức tác động, thi cử trong lớp đều không cần thiết. Bắt đầu từ 15 hoặc 16tuổi, đứa trẻ phải được độc lập, tự trị. Nó không còn nhận lãnh những sự bảo hộ của cha mẹ, cho đến cả đặc ân trong gia đình hay xã hội nữa. Một cách giáo dục như thế sẽ không được đón tiếp trong xã hội ngày nay, mặc kệ , càng hiếm càng khao khát. Giáo dục tân tiến hiện đại càng phát triển, thì sự đau khổ chiến tranh càng nhiều phát sinh. Nó là một xưởng kỹ nghệ chế tạo ra những khối người nô lệ. Nếu tân giáo dục không thể thực hiện, thì luôn luôn có một trong ngàn đứa trẻ không thể tiếp nhận giáo dục hiện tại. Ở trong thế giới ít nhất cũng có một triệu đứa trẻ như thế, và trong số đó có rất nhiều đứa biết chịu đói rét, theo phương pháp giáo dục thiên nhiên. Người ta chỉ đợi một trong số trẻ khốn khổ ấy trở nên một Chúa Du Dê, một Lão Tử, hay là một Phật Thích Ca . Người ta không nên giúp đỡ, bảo hộ, chúng nó về tinh thần và nhất là về vật chất. Cái đại nhân cách xây dựng trên sự đại gian nan nhất. Tất cả loài chim, loài thú vật, côn trùng, đều tập luyện ở học đường thiên nhiên, gặp đầy nguy hiểm, gian nan, và thù địch. Phẩm cách siêu việt con người, lần đầu tiên, nhờ cách tân giáo dục như loại ấy mà được sáng tỏ ra. Thế giới này, nhất là thế giới xã hội loài người chúng ta, tràn trề những sự đau khổ, tội lỗi, bệnh tật, lừa gạt, hung ác, ăn cướp gọi là “Tốt”, “Đẹp” , “Y khoa” (tất cả bệnh tật đều Iatrogenique), “truyền giáo” hoặc “giáo sư”, “dễ thương” hay “ân nhân” v.v… Những mục sư tự phụ là kẻ hướng dẫn, các bạn lên cõi Thiên đường, mà bị đau ốm không thể tự cứu chữa được: những Y sĩ phá hoại triệu chứng của bệnh, và không khi nào bảo đảm được sức khỏe hoàn toàn của các bạn, các chính trị gia luôn luôn thúc đẩy các bạn đến “chiến tranh tối hậu”, và bóc lột các bạn bằng cách thu thuế, các gia sư, mượn danh nghĩa chân lý để dạy cho các bạn những ý tưởng sai lầm và nhiều kỹ thuật lỗi thời, tất cả đều là kẻ thù của các bạn, họ tận lực khuyến khích trí phán đoán thấp hèn của các bạn, và cản trở việc khêu cho sáng tỏ trí phán đoán cao siêu. Họ đều là kẻ thù của các bạn. Nhưng chớ quên rằng , chỉ có kẻ thù của các bạn mới gia tăng sự cường tráng cho các bạn Hỡi các bạn thân mến của tôi, các bạn sắp vượt qua tất cả mọi khó khăn, các bạn của tôi, các bạn là nạn nhân của sự gian nan ấy, và các bạn đã bị xiềng xích của Tổng Hội những bọn bất lương và tàn ác, đừng có lo ngại gì hết, các bạn cứ đường thẳng mà đi, ta cầm chiếc la bàn Vô song nguyên lý, chắc thế nào các bạn cũng đắc thẳng không sai Nếu các bạn đã bị xử án “ nan y”, tôi xin mừng cho các bạn, các bạn được dịp may sẽ trở nên một lương y tự chữa bệnh cho mình Nếu Tổng Hội của những bọn bất lương và ăn cướp đã dùng bạn làm nhân công của nó, thế lại càng hay, các bạn cứ nỗ lực làm việc như nhân công của chúng nó, rồi công kích khai thác, giết chết những kẻ chỉ có trí phán đoán thấp hèn. Đó là quyền của các bạn. Trí phán đoán thấp hèn bắt buộc như vậy. Tuy nhiên, đừng nên quên rằng, sự thật, kẻ thù địch của các bạn nó rất mạnh: chỉ có trí phán đoán cao siêu và kẻ thù địch rất mạnh mới tăng gia mãnh lực của các bạn đến cực điểm Hỡi các bạn thân mến của tôi, các bạn được tự do, vô cùng tự do, công lý của các bạn là tuyệt đối công bằng, tình ái của các bạn là to lớn trong từng giai đoạn phán đoán của các bạn. Các bạn chỉ hành động theo giai đoạn này hay giai đoạn khác của trí phán đoán của bạn. Các bạn có thể từ giai đoạn phán đoán này vượt lên giai đoạn khác cao siêu hơn, nhưng chỉ khi nào các bạn đã mãn ý giai đoạn phán đoán hiện tại, và xét ra nó không đủ dùng và vô ích cho bạn nữa Như thế, các bạn cũng như đã vượt qua hàng triệu năm rồi Nhưng có kẻ nào nghĩ rằng cứ tái diễn luôn một sợi dây nhân quả và luân hồi là vô ích thì từ nay có thể thay đổi phương hướng kẻ ấy có thể làm, như thế được lắm. Vũ trụ là vô tận và vô hạn, tất cả đều biến đổi La bàn, gọi là “Vô song Nguyên lý” hay là sự “Cấu tạo vũ trụ” các bạn cầm trong tay, bây giờ các bạn chỉ kiểm soát lại tốc lực và lái cái xe của các bạn chạy trong một phương hướng mới Các bạn chớ mộng tưởng thiết lập lên một xứ không tưởng, ảo vọng là ảo vọng. Thực hiện đế quốc của các bạn, chỉ để cho các bạn mà thôi. Nếu các bạn thỏa mãn từng giai đoạn của trí phán đoán các bạn từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao, lên cho đến giai đoạn phản đoản thứ bảy, thì cái đế quốc mà các bạn xây dựng đó sẽ là Đế Quốc Bảy Thiên giai. Nhưng các bạn nên nhớ rằng , sáu giai đoạn đầu đã thỏa mãn luôn từng giây từng phút rồi. Nếu không thì cái nền móng tòa lâu đài Đế quốc của các bạn tiêu tan như mây khói, và sự sụp đổ của nó không sao tránh khỏi. Sự thật đã chứng minh điều đó: là sự sụp đổ và tiêu diệt của tất cả nền móng tôn giáo hay xã hội, tất cả tư tưởng hư ảo, hoang đường, lãn mạn, tình cảm Với những bạn có ý định thiết lập nên một đế quốc trường cửu cho phần riêng của các bạn mà thôi, tôi xin bảo đảm việc ấy sẽ thành công. Trước và sau hết các bạn phải nghiên cứu sự cấu tạo của vũ trụ với bất cứ giá nào Sự hiểu biết hoàn toàn về sự cấu tạo trật tự vũ trụ, nó mới đem đến cho các bạn một ý chí sắt đá. Một khi đã vào được nước bảy Thiên cấp rồi các bạn không còn thấy cái gì đáng sợ, đáng tiếc nữa. Những |
|
|
![]()
Bài viết
#11
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
điều đau khổ, tội lỗi, bệnh tật, chiến tranh, bất lương, đều là những kép hát, hy sinh tất cả sức lực và đời sống, hăng hái thay phiên nhau để đóng vai tuồng của chúng nó. Chúng nó cũng cần thiết để tạo nên nguồn sống vui cho thiên hạ trên quả địa cầu này.
Kẻ yếu cung dưỡng người mạnh, đó là quy luật của thế giới hữu hạn, tương đối và không bền vững này. Và kẻ mạnh nhất nó sẽ bị tiêu diệt trong nháy mắt, như lịch sử đã thuật lại cho các bạn nghe. Tất cả những cái gì có hình thể này hay hình thể khác, có thể dùng C.G.S ( phân, lượng, giây) mà trắc lượng được, đều bị tiêu diệt, hủy hoại, không có trừ cái gì Tuy nhiên, chỉ có sức mạnh cao siêu là bất tuyệt, nó là cội nguồn tất cả. Sức mạnh cao siêu, không đời nào bị tiêu biến, cũng không bị hủy hoại. Nó cũng không thể trắc lượng bằng C.G.S được. Bởi vị sức mạnh cao siêu là vô tận, vô định và vô hạn Nó có hai bàn tay, gọi là Âm và Dương Với hai bàn tay ấy, nó sinh sản tất cả, phấn khởi tất cả, tiêu diệt tất cả, tái sính tất cả đời này qua kiếp nọ Trí nhớ, hiểu biết, ý chí, tự do, công bằng, phán đoán cao siêu v.v… đều là tên của nó Các bạn là kẻ có trí nhớ, hiểu biết, ý chí bị nhiều ít mờ ám. Các bạn là kẻ luôn luôn đi tìm cái trí phán đoán cao siêu và công bằng tuyệt đối. Đã từ lâu, các bạn là trường cửu, tự do, công bằng tuyệt đối, chính nó cũng bị che lấp ít nhiều. Các bạn là sự sống, là sức mạnh cao siêu Y khoa của Viễn Đông dạy cho các bạn như thế, là Y khoa của nhân loại và của bệnh “ nan y”. Những kẻ khốn nạn mắc bệnh gọi là “ nan y”, những kẻ bất lương, những người ngu dốt nhất,…những kẻ có trí phán đóan thấp kém… là lý do tồn tại của Y khoa Viễn Đông. CHƯƠNG XV BẦU CỬ SỨC MẠNH SỰ NGU DỐT Ở Tây Phương, việc gì cũng do phiếu bầu sử quyết định, tổng thống, bộ trưởng, nghị sĩ, pháp luật, chiến tranh, giảm giá tiền tệ, cho đến sự giáo dục Các cử tri, đều là kẻ yếu, ngu dốt, trí phán đoán thấp kém, ứng cử viên là kẻ mạnh trong số những kẻ ngu dốt Bầu cử là một cái máy để cho những người yếu và kẻ ngu dốt bầu những kẻ rất mạnh lên. Cuộc bầu cử là một sự đấu giá. Trong một xã hội lấy sức mạnh thống trị, kẻ trả giá cao nhất sau cùng và mạnh nhất, dẫn dắt những kẻ nô lệ đi. Những kẻ đắc cử do đa số phiếu của kẻ ngu dốt bầu lên, là kẻ ngu dốt nhất, không có gì khác Những kẻ mạnh dùng sự đầu phiếu để tiết kiệm việc hao phí tranh đấu và để tránh cái chết nguy hiểm, đó là một thủ đoạn kỳ diệu Những kẻ mạnh làm cho những kẻ yếu tin rằng họ đã bầu trúng kẻ có năng lực nhất. Đó là một ảo tưởng hay là một nổi thất vọng . Kẻ mạnh được bầu lên lấy sức mạnh của đa số áp chế, doạ nạt thiểu số. Đó cũng là một thuật rất khéo léo Nhưng trong khối đông người đều gồm toàn những hạng có trí phán đoán thấp kém, và người đắc cử lại là kẻ mạnh nhất, khôn khéo nhất trong hạng phán đoán thấp kém ấy. Bởi thế, sớm muộn gì rồi người đắc cử làm cho quần chúng tỉnh ngộ mà trí phán đoán quần chúng lại thấp kém, tức là có tính bất thường và không nhẫn nại. Bởi thế, cho nên sớm chầy rồi quần chúng chán ghét người đắc cử Bầu cử và bán đấu giá là một dụng cụ của sức mạnh. Đó là một trò lừa gạt thật sự Đầu phiếu là thủ đoạn độc ác hoặc cho người đắc cử hoặc cho những người cử tri Thật là quá vui thú, khi thấy người “ văn minh” còn bảo tồn cái dụng cụ đã cũ mấy ngàn năm của dân dốt nát và dã man ngày xưa Nhưng bầu cử sẽ là một lợi khí kỳ diệu, nếu tất cả cử tri đều có trang bị sẵn trí phán đoán cao siêu. Sự kiện này lại tùy thuộc nơi phương pháp giáo dục Không có phương pháp gì để cải thiện việc bầu cử chăng? Có cách bầu cử vật lý và luận lý: 1. Số ứng cử viên cần phải chia làm hai bên, phái nam một nửa, phái nữ một nửa 2. Ứng cử viên mỗi phái. Lại phải chia ra thành số đều nhau, phái thứ nhất gồm những ứng cử viên có thể làm thứ tuyên truyền cổ động, còn phái thứ hai hoặc đương sự, hoặc người nào khác, đều không được quảng cáo, hay công bố gì hết 3. Tất cả những ứng cử viên phải tuyên bố, bằng văn kiện, ý kiến của mình trong một số chữ bao nhiêu đó. Bản ý kiến này chính phủ phải in và đồng thời phân phát cho đân chúng 4. Tất cả cử tri, phải bỏ phiếu cho ai có thể trả lời “ CÓ” năm câu hỏi sau đây: a) Ông có thể duy trì một ý tưởng mới không ? b) Ông có thể cấp dưỡng bất cứ người nào cũng được không ? c) Ông có thể tự cung dưỡng cho ông được không d) Ông có thể thực hiện suốt đời sống của ông những điều mộng tưởng, hết điều này đến điều khác, cũng không phải nhờ quyền thế của ai chăng? e) Ông có thực hiện càng sớm càng hay và thường xuyên tất cả những cái gì mà ông phán đoán là đúng không? CHƯƠNG XVI NHỮNG ĐỨA CON CỦA NGƯỜI “ VĂN MINH” ( Trích trong một tờ báo) Một cái đẹp trong những cái đẹp của xã hội “ văn minh”, ấy là cái đẹp của đứa trẻ con. Những đứa trẻ con người “ văn minh” đều tốt đẹp cả Chúng nó đều tươi tốt, chất phác, đáng thương, đáng mến. Chúng nó có tính thích nghi rất tốt Chúng nó đều là trẻ con giống như các trẻ con bất cứ xứ nào Những đứa trẻ con đáng mến phục Tại sao những đứa trẻ con ấy trở thành, những “ ÔNG” cứng rắn, kiêu ngạo, độc chiếm, ích kỷ, nói láo, sát nhân, duy vật, bất lương, nô lệ, cảm tình, thực dân và bóc lột, độc ác không thể hiểu được, hạ tiện, xấu xí, mặc dầu chúng nó mặc áo tốt đẹp? Đó là nguyên nhân giáo dục của Tây phương “Cha thế nào con thế ấy” câu này áp dụng ở đây rất ít. Đứa trẻ ngay khi mới sinh, đã xa lạ với cha chúng nó rồi Người ta có thể kết luận như sau: “ Tất cả những đứa trẻ con ở phương Tây đều đáng mến phục, cũng như trẻ con ở Đông phương, trái hẳn với người lớn. Đây là một khả năng rất lớn , luôn luôn và ở đâu cũng như thế, để sửa chữa lại con người. Vì thế mà có sự sinh sản đời nọ tiếp tục đời kia. Nếu nhân loại có thể sống trên một, hai hay ba trăm tuổi, thì thế giới sẽ khốn khổ biết ngần nào? Sự chết là một điều chí phúc. Những sự đau khổ, khốn đốn, tội lỗi, bi thảm, đó đều là vì sự giáo dục Chúng ta thán phục cách cấu tạo của vũ trụ, luôn luôn trong thời hạn 60 năm lại sửa chữa con người lại một lần .Đó là phương pháp thay đổi con người về mặt sinh lý, vật lý và luận lý. Chúng ta cũng có thể tái tạo lại con người của chúng ta Những đứa con khủng khiếp, đều do người cha ghê gớm sinh hạ Biến cải những đứa con tốt đẹp ấy thành người “ văn minh” rất xấu xa, rất độc ác, rất vô lương, thật tai hại biết chừng nào! Nhưng chúng ta cũng lo ngại “ ÂM sinh ra DƯƠNG, DƯƠNG sinh ra ÂM” Khởi thủy đi đến chung cực, Thủy và chung tương phản Người cha trải qua bao nhiêu mạo hiểm, khó nhọc để tạo lập nên giàu có, con , cháu …cho đến cháu chắt bảy đời, được nuôi dưỡng trong cảnh giàu sang sung túc, lần lần trở thành nhút nhát, bạc nhược và càng ngày càng ốm yếu , ngu si dốt nát Nhân quả Cần phải cứu vớt trẻ con Tây phương. CHƯƠNG XVII CĂN CHUYỂN SỰ GIÀU CÓ CỦA TÂY PHƯƠNG Ở Tây phương tất cả mọi nước , mọi người thành phố đều tốt đẹp , huy hoàng, và hấp dẫn. Tất cả nhà cửa đều có vẻ giàu sang và tân thời. Tất cả đàn ông đều ăn mặc được hoàn toàn không có gì khuyết điểm. Nhờ có phòng sửa sắc đẹp và các mỹ phẩm hóa học, mà các phụ nữ đều đẹp và có duyên, và cũng ăn mặc toàn quần áo tốt đẹp cả Sắc đẹp và sự giàu có ấy từ đâu mà có? Sự phú quý của người phương Tây đều nhờ lấy huyết mạch thiên nhiên và bóc lột các xứ thuộc địa. Nhưng tại sao các xứ bị thực dân vẫn cứ nghèo khổ. Tại sao? Bởi vì các dân tộc “ Thượng cổ” bị làm thực dân địa có một triết lý khác với dân tộc “ văn minh”. Triết lý của họ cấm họ sống một đời sống xa hoa, còn dân “ văn minh” lại khuyến khích sống trong cảnh đài các. Nước Ấn Độ là một thí dụ dễ hiểu nhất. Ấy là một nước rất nghèo khó, rất bệnh hoạn, rất dơ bẩn ở trên thế giới. Tất cả tài nguyên phong phú thiên nhiên của xứ này còn nằm y nguyên chưa được khai thác. Dân Ấn độ là dân hạ tiện nhất, nhiều ăn mày nhất, và là nạn nhân triết lý của họ, đã bị biến cải, và bỏ quên Duy vật chủ nghĩa, và tính hà tiện của Tây phương, phát minh một khí cụ rất có ích gọi là “ khoa học” và họ lợi dụng cái khoa học ấy để khai thác thuộc địa. Khoa học phát minh rất nhiều vũ khí giết người để tàn sát quảng đại nhân dân gọi là “ bình định”. Đó là căn nguyên giàu có vật chất, của dân tộc “ văn minh” và tại sao dân tộc “ thượng cổ” luôn luôn nghèo khổ Vậy thì bây giờ người Phương tây hãy nên can đảm, mạo hiểm hơn nữa, bóc lột hơn nữa, độc ác, giết người hơn nữa, hơn cha ông của họ đi, cho đến ngày nào họ khám phá được cái kho vàng quý giá của tất thảy dân : “thượng cố” da màu, mà ngày nay học đã bỏ quên: cái la bàn ấy gọi là “ Vô Song Nguyên lý” Cứ để cho đân Đông phương chìm đắm xuống, cực sâu nghèo đói, cứ để họ bị tước đoạt hết tất cả tài nguyên thiên nhiên, đến cả quê hương của họ nữa. Cứ để cho người ta bóc lột sức lực của họ, đời sống của họ, cho đến khi nào họ tỉnh ngộ, lần thứ nhất, họ biết cái La bàn vạn năng gọi là “Vô Song nguyên lý” là quan trọng và cao quý. Nhờ lý thuyết Vô Song nguyên lý ấy, ông cha của họ cũng mạo hiểm, can đảm như người Tây phương, đã xây dựng thế chế vô chính phủ và Cộng sản nước của họ, một cách hòa bình và lương hảo, không khi nào có chiến tranh hay cách mạng gì hết Chừng nào người Tây phương cũng như người “ Thượng cổ”, tay cầm la bàn Vạn năng, ai đi theo đường ấy, thì khi đó, người “ văn minh” với người da màu đều cùng gặp nhau ở trước cửa nước TRỜI có 7 Thiên giai, là nơi hưởng được hòa bình trường cửu, công bằng tuyệt đối, và tự do vô tận. “ La bàn vạn ứng” là trí phán đoán cao siêu” nó hiện nay bị mờ tối. Một nhà “ Thông thái văn minh” phản đối tôi nói rằng ở trong các xứ “Thượng cổ” cũng có nhiều chiến tranh tàn sát, và cách mạng, đại loại như nước Trung Hoa là một thí dụ. Phải theo lịch sử, những việc ấy vẫn có nhiều thật. Những nhà thông thái ấy , không biết tiếng nói, tâm trạng, cũng không biết cách phát biểu của người Trung Hoa, không biết đọc, lịch sử Trung Hoa như thế nào, không biết lịch sử Trung Hoa thực ra là một truyện tưởng tượng, Một ví dụ cũng đủ để cho các bạn hiểu điều nói của nhà thông thái Pháp kia là sai lầm “Ô, buồn bực quá đi. Râu tôi đã bạc và dài. Râu tôi đã bạc hết cả và dài đến một ngàn mét” Sắc trắng là ngụ ý nỗi cảm xúc buồn rầu quá mạnh, và râu dài là nổi buồn rầu quá sâu xa. Đó là một kiểu mẫu về cách phát biểu của người Tàu Nếu trong lịch sử nói một vụ sát hại đến 10 ngàn người, thì sự thật chỉ có một người chết. Muốn nghiên cứu lịch sử một dân tộc ngoại quốc, trước tiên cần phải học hỏi tâm trạng, kể đến tiếng nói và số học tình cảm của người nước ấy đã “ Một đại tướng với 10 ngàn quân lính của ông ta rất dũng cảm trong thế giới có nghĩa: “ Một đầu đảng ăn trộm với một vài người dân quê làm thuê” Lịch sử của dân “ Thượng cổ” trước hết là tưởng tượng rồi sau là để mua vui. Người viết lịch sử của người “Thượng cổ” họ phóng đại tầm quan trọng biến cố đến 1 ngàn hay 10 ngàn lần, để cho thính giả hay độc giả khỏi buồn ngủ Tất cả người Tây phương đều lầm lạc, khi họ đọc lịch sử chiến tranh hay chuyện vui của người “Thượng cổ” “ Một ngày nọ Đức Phật Thích Ca mời hằng tỷ Phật ở chốn Thiên Đường ở cách xa đó những bốn tỷ cây số về hướng Tây” Tất cả lịch sử của người “ Thượng cổ” đều tưởng tượng, vui vẻ và ngây thơ. Người “ Thượng cổ” ưa thích chuyện tưởng tượng, cũng như người “ văn minh” ưa tích ông già Noel vậy. CHƯƠNG XVIII THƠ GỞI CHO MỘT NGƯỜI BẠN Bạn Chappuis thân mến, Cảm ơn rất nhiều về bức thư của bạn ngày 29/11. Sau nhiều lần tranh luận, ở Lousanne cũng như ở Geneve, về tuần diễn thuyết mà bạn muốn tổ chức cho tôi ở Thụy sĩ. Bạn đã thất bại hoàn toàn. Cái đó càng hay Bạn có nói rằng, bạn chưa được tự do vô tận, chưa được sự mềm dẻo của Nhu đạo và Aikido. Nếu nhu đạo hay Aiki có ích lợi cho đời sống hàng ngày, đó chẳng qua là một môn thể thao đơn thuần, hay khí cụ giết người mà thôi. Bạn đã nghiên cứu nhu đạo chỉ nhằm về mặt thực hành hay chuyên môn của nó, mà không nghiên cứu về triết lý của nó. Một ngày kia, bạn sẽ gặp một đệ tử của tôi: Ben Nakazono ( 6e Dan) ,anh này không biết tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức, cũng không biết gì về khoa học Tây Phương, nhưng anh ta có thể đắc thắng chế phục được một khoa học gia Tây Phương và làm cho ông này chấp nhận đề nghị của anh ta một cách rất dễ dàng. Lần này thì chắc bạn đã hiểu rằng, Nhu đạo hay Aiki mà không có Vô Song Nguyên lý là vô ích chứ? Trái lại. tôi, một người ngoại quốc già, tôi thấy càng ngày người ta càng cần đến tôi, chỗ nào mà có tôi đi đến, người ta cũng đều chấp nhận điều đề nghị của tôi cả. Lần lần, và ngày này đến ngày khác, tôi đã nhận biết bao thư tử và điện thoại khẩn khoản tôi, hoặc mở cuộc diễn thuyết hoặc mở cuộc hội đàm Theo thư bạn, tôi biết rất nhiều chuyện, nhất là sự hiểu biết, và sự phán đoán của các nhà thông thái Thụy sĩ. Nếu Y sĩ B công kích tôi nhiều điểm về lý thuyết, tôi rất muốn biết những điều công kích ấy. Những điều mà ông ta công kích tôi nếu bạn không ghi chép lại, thì bạn không phải và sẽ không phải một tay Nhu đạo thiện nghệ. Nếu đó “nhất là về vấn đề trái cây” mà bạn đã thất bại với ông Y sĩ B ấy là lẽ tự nhiên … Rõ ràng bạn không hiểu biết cái mục đích Y khoa của chúng tôi, càng không hiểu gì điều chỉ dẫn của tôi về vấn đề trái cây, đó chỉ là hạn chế trong thời gian và không gian nào đó, nhất là cũng không hiểu vì sao được phép ăn trái cây, và vì sao lại cấm trong một thời gian nào đó. Tôi hoàn toàn ngạc nhiên về sự hiểu biết của bạn quá nông nổi, quá bất túc. Vậy thì bạn ở bên cạnh tôi vài ngày có gì đâu? Bạn không thể hiểu, sao tôi cấm bạn ăn trái cây trong một vài tháng, mà bạn vẫn cứ tuân theo. Thật là tâm trạng người nô lệ và trí thức mù quáng biết bao! Với tâm trạng và trí thức ấy, bạn không cần qua đến nước Nhật Bản để học nhu đạo, huống hồ học Aiki. Bạn sẽ không đời nào hiểu thấu được Vô Song nguyên lý của tất cả triết học và tất cả khoa học Viễn Đông. Mất cả thì giờ lẫn tiền bạc, quả thật vô ích. Nếu ông, H…. phản đối những lời nói của tôi, ấy là vì tôi quả quyết rằng “Tây phương là nguyên nhân đau khổ của Á Đông”, như thế, là bạn đọc sách của tôi không được kỹ, bạn không đọc câu tôi nói: “ Sở dĩ Viễn Đông bị làm thực dân địa nguyên nhân là họ đã hờ hững với Vô Song Nguyên lý. Cái nguyên lý mà các bậc hiền triết xưa đã nhờ nó mà xây dựng cho xứ sở của mình. Đó là một sự trừng phạt tự nhiên! Nếu bạn không khắc phục được ông H … về việc ông ta nhắc lại, “ những cuộc chiến tranh dây dưa ở Đông phương … và những trận chiến đấu giữa hai đảng cướp Minamoto và Hoike v.v .. và v.v .., thế nghĩa là bạn hoàn toàn không biết gì lịch sử, hay nói hơn không biết gì về tâm trạng của người Viễn Đông hết ráo. Cả đến cách nói cường điệu bạn cũng không biết nốt. Điều mà tôi muốn nói là đem so với dân tộc Tây phương, thì dân tộc Viễn Đông là một dân tộc hiểu hòa , không có gì khác hơn nữa .Ở đây, tôi không có thì giờ để viết lịch sử Nhật Bản hay Trung Hoa, mà bạn chắc cũng không có thì giờ để đọc nó … Nhưng tại sao bạn không thể trình bày tinh thần người Nhu đạo, bạn không có một hiểu biết nào về điều ấy cả sao? Như thế lịch sử chân chính của dân tộc Viễn Đông bạn không biết gì hết, cũng như những nhà bác học Thụy sĩ kia mà thôi. Do tinh thần mình là người chuyên môn Nhu đạo, tại sao bạn không nhân cơ hội ấy, để học hỏi thêm, tự hỏi tại sao, người Viễn Đông đã phát minh ra tất cả các tôn giáo, tất cả các nghệ thuật thiêng liêng, tất cả văn hóa uyên thâm ,tất cả triết lý rất hòa bình, và tất cả khoa học thực dụng và rất kỳ diệu đại loại như môn châm cứu vậy? Chúng ta hãy học lại báo “ L’Art Sacre” ( tháng 7- 8 /1954): “ Một bài học của Nhật Bản. Hôm nay nhân một bài học như thế, cũng hơi cảm động, một bài học hầu như cũng chứa đựng một điều tiết lộ của một xứ, đối với điều tiết lộ ấy, họ không mang ơn gì văn minh Cơ Đốc giáo Tây phương cả” Ấy là một sự ngu dốt, kiêu căng của tác giả mấy hàng này (tác giả không biết rằng, văn minh Cơ Đốc giáo Tây phương được rực rỡ vinh quang về văn hóa cơ sở, toàn nhờ ảnh hưởng của nền văn minh Viễn Đông, mà Cơ Đốc giáo chỉ như một miếng bánh mì vụn ở bàn ăn rơi xuống mà thôi), ngoài ra, sự ngạc nhiên ấy không phải là không có lý do. Những nghệ thuật thiêng liêng, những văn hóa triết lý của Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản, mà tác giả bài báo ấy khâm phục, cũng như các tác giả khác, chỉ là những hình ảnh phai màu, và biến đổi đã lâu đời. Tất cả những cái đó như một cái xác ướp đã khô. Vẽ đẹp chân chính của nó chỉ còn lưu lại ở nơi cuộc sống hằng ngày của người Đông phương mà thôi. Tây phương có tính phô trương hình thức, say mê những điều cảm giác, như Utamoro, Hirosige, harakiri, Geisha, Mro, Netanke, Foujiyama, trà tươi, mà không hiểu thấu những điều có giá trị vô tận, trường cửu, và tuyệt đối. Đối với những điều này,con mắt họ bị bệnh loạn sắc. Nhưng chỉ một nghệ thuật thiêng liêng cũng đã đủ rồi. Nếu Tây phương suy nghĩ cho sâu xa về nghệ thuật thiêng liêng của Nhật Bản, thì họ hiểu rằng, với tâm trạng hay khơi mối chiến tranh như kiểu người phương Tây thì không thể nào sáng tạo nên một nghệ thuật như thế được. Phải nên hiểu rằng, tiếng “ chiến tranh” của Nhật Bản, có nghĩa là một sự luyện tập giải thoát, một sự hy sinh cho sự cấu tạo vũ trụ .Cũng phải hiểu tiếng “ võ sĩ đạo” có nghĩa là có cái gì khác xa với tiếng “ quân linh” ,“ quân nhân” hay là “ suisse” ( lính hậu vệ) . Chữ này có nghĩa là người ăn lương của.. còn chữ kia có nghĩa là người hy sinh cho trật tự vũ trụ, hay cho công lý tuyệt đối hay nói đơn giản hơn là cho “ tuyệt đối”. Người Tây phương không biết rằng, chỗ chiến trường của Nhật Bản là một canh kỹ trường , một chiến cuộc về thi ca, và nghệ thuật thiêng liêng. Bày tỏ ra đây thì quá dài, bạn chỉ nên đọc đi đọc lại sách: “ Le tir à l’arc du Japon” ( tập bắn cung Nhật bản), “ Le livre du the” ( sách nói về cách uống trà) “ Le livre des fleurs” ( sách dạy cắm hoa) hoặc “ Le livre des Judo” ( Võ sĩ đạo). Còn vấn đề tranh luận sinh tố của bạn thật cũng đáng thương hại! Ban không biết chất sinh tố là cái gì, như những nhà thông thái Thụy Sĩ đã khinh khí bạn. Trước hết phải học hỏi tâm trạng và kỹ thuật của người thù địch ấy, chỉ có sự hiểu biết sâu xa như thế, bạn mới có thể thắng hay khuất phục kẻ “ thù địch” đó là một bài học của người Viễn Đông. Trước hết bạn hãy năm lấy Vô Song nguyên lý, rồi sau bạn mới có thể vượt qua tất cả mọi khó khăn. Nhờ bạn tôi mới được hân hạnh dò biết tâm lý mấy nhà thông thái Thụy sĩ. Tôi còn nhớ tính ích kỷ, và trí phán đoán trá hình vô cùng lạ lùng, của người Thụy Sĩ, như Hiluy “ Bậc thánh của thế kỷ 20”. Chủ nghĩa bài ngoại của các nhà thông thái Thụy sĩ và những kẻ cho nước Thụy Sĩ là một thiên đường ở trần gian và tâm trạng hẹp hòi, ích kỹ của dân tộc Thụy Sĩ nó biểu hiện cho ta thấy nước Thụy Sĩ không hề đóng góp mảy may nào trong nền văn hóa, tôn giáo, triết học, khoa học, tinh thần, hay lý tưởng của lịch sử nhân loại cả, mặc dầu nước họ giàu có, kiến trúc đẹp đẽ, và kỹ nghệ phồn thịnh. Với những điều này ta đủ thấy một nước trong các nước lạ lùng nhất ở thế giới của các nước “ văn minh”. Nhưng sự thật vượt quá tưởng tượng. Hơn nữa, nước Thụy Sĩ không hề có một nhà lý luận, nhà mạo hiểm, nhà hữu nhân hay bất nhân lịch sử nào cả. Y sĩ B ….và M….H…. tranh luận các chi tiết mà không thấy điều gì quan trọng và nghĩa lý của vấn đề cả. Họ ham thích bảo thủ quan điểm của họ, nên lơ đễnh sự tìm tòi chân lý . Họ không muốn học hỏi lý do tồn tại một lý thuyết đối nghịch . Họ thiếu cả tính chất lễ độ nữa. Họ xem người ngoại quốc như một kẻ thù địch, trái lại người Đông phương tiếp đón người ngoại quốc như sứ giả của Thương đế. Người Đông phương vui lòng nhận tất cả những cái gì người Tây phương đem đến cho họ, còn mới đây, người Tây phương chỉ thâu nhận khoa châm cứu và nhu đạo mà thôi. Tính cô độc, kiêu căng là bản tính của người Tây phương. Bạn độc nhất của họ là tiền bạc. Nghệ thuật thiêng liêng của họ thấy trưng bày trong các nhà thờ Nghệ thuật thiêng liêng của họ là đồ xa hoa lộng lẫy, nặng nề, u ám, buồn ràu, áp bức, hung dữ, vô nhân đạo. Ở đó không có gì là có vẻ nhã nhặn, thanh tịnh, đơn giản vô tận hết cả. Nghệ thuật thiêng liêng “ Cái nghèo nàn thánh thần” hay là vẽ đẹp đơn giản, không có ở tại nước Thụy Sĩ. Thụy sĩ là một xứ lý tưởng của người“ văn minh”. Đó là một xứ ảo tưởng của người Tây phương. Cái lộng lẫy của sự giàu có vật chất, với sự nghèo nàn về tinh thần, trong hai điều chọn điều nào hơn? Hay là sự nghèo nàn về vật chất, với sự giàu có về tinh thần. Tôi có lòng thương hại cho dân Viễn Đông mất gốc cổ truyền của mình, và khâm phục dân Tây phương, đã có can đảm đi trên con đường phá hoại, và tự sát. Bởi vì trí phán đoán của con người chỉ được khai minh sau khí đã uống chén thuốc độc: sự buồn rầu, đau đớn, và hối hận. Tôi hy vọng rằng, người ta sẽ nhận thức và yêu mến cái nghèo khó, cùng cái đơn giản của đời sống không có gì âu lo, với lại cái thâm trầm vô tận của tinh thần. Chỉ có những tư tưởng này mới có thể hưởng được tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, và công bằng tuyệt đối. Và chỉ có mấy điều này mới có thể tìm gặp cái lý do tồn tại của nhu đạo ,của Phật giáo, của Kỳ Na giáo v.v… CHƯƠNG XIX ĐỨC TIN HAY LÀ PHÁP LUẬT Khi nào ý thức về sự cấu tạo vũ trụ mất hẳn, thì người ta lấy đức tin thay thế vào. Khi nào đức tin mất, thì luân lý sẽ múa trên sân khấu. Sau đó luật pháp lại thay thế cho luân lý hay đạo đức . Đến lượt pháp luật , cũng bị đánh đuổi, bởi quyền thế, hay bởi bạo lực thể chất, chính trị , kinh tế, hoặc lý trí. Pháp luật thì tàn bạo là lẽ tự nhiên. Sự nhận thức về cấu tạo của vũ trụ vô tận, trường cửu và tuyệt đối, là một minh trí ( lương năng toàn hảo, hay trí phán đoán cao siêu). Các Linh Mục và Mục Sư chuyên nghiệp đã lấy “ Đức tin” thay thế cho cái tri thức ấy mà đức tin là một tờ thông hành giả mạo để đi đến chốn Thiên Đường tưởng tượng. Đức tín ấy bị chế ngự bởi một điều phát minh của các nhà thông thái ( những nhà trí thức mạnh nhất) gọi là “ luân lý” . Luật pháp những kẻ mạnh nhất ( nó về vật chất, kinh tế, hay là chính trị) làm vỡ tan luân lý, nhà độc quyền kinh tế, chỉ là một cái hỗn độn mà ở trên địa cầu này đâu đâu bạn cũng thấy! Đó là một dấu hiệu văn minh sụp đổ, hay là nhân loại diệt vong. Một lần nữa, chúng ta nên lặp lại, bằng cả thể xác lẫn tâm hồn, sự hiểu biết về cấu tạo vũ trụ, sự biết ơn nguồn gốc của nhân loại. Chúng ta thâu góp và hội họp những trai, gái thừa kế của nước Thiên Quốc có bảy Thiên giai, để dựng nên một nền hòa bình vĩnh cữu và tự do vô tận. Đây mới thực là chiếc tàu Noe … của thế kỷ 20. CHƯƠNG XX TẠI SAO NƯỚC BIỂN MẶN ( Thơ) Biển vừa to vừa rộng. Nó thu nhận tất cả cặn bã của sông ngòi chảy đến không ngừng. Nó lọc cho trong sạch tất cả. Biển luôn luôn trong sạch, vui tươi và đẹp đẽ. Nó chấp nhận tất cả trứng ký sinh trùng, vi trùng, độc tố gọi là “ giống độc hại” những mùi rất hôi thối, máu dơ bẩn, những chất hóa học của các xưởng kỹ nghệ thải ra, và tất cả các loại cức đái. Nhưng nước biển vẫn trong ngần như thủy tinh hay ngọc thạch. Nó tiêu độc tất cả, phục hồi nguyên khí tất cả, và cấu tạo tất cả động vật, thực vật. Biển là bà mẹ của tất thảy thảo mộc và thú vật ở trên quả đất. Đời người ta do biển mà sống. Năng lực tẩy uế và cấu tạo của biển gồm có những gì? Đó là muối, muối ở trên mặt đất. Không có muối, nước biển sẽ trở thành một cái suối chứa đựng tất cả các giống vi trùng” độc hại” : Nó sẽ là một cái hồ lớn chứa đầy chất dơ bẩn. Muối biển chuyển hóa tất cả vi trùng độc hại thành thảo mộc hay thú vật vô cùng đẹp đẻ. Thế giới yên tỉnh. Muối là tà thuật. Muối là DƯƠNG. Người do biển sinh ra, mang tên kỷ niệm: Muối ở trong máu. Máu không có muối ấy là chết. Muối ở trong huyết, tiêu trừ tất cả nguyên tố độc hại xâm nhập vào huyết, và biến những chất độc này thành yếu tố bổ dưỡng và tốt lành: nguyên tố này nuôi dưỡng các tế bào và cung cấp dưỡng khí cho chúng ta. Huyết trong cơ thể chúng ta, là cái biển thu nhỏ hẹp lại. Huyết, ấy là biển tạo hóa cho thân thể chúng ta. Nhưng nếu huyết thiếu muối, nó sẽ sinh ra đủ mọi thứ tật bệnh. Chúa Dê Du nói: “ các anh nhờ muối trên trái đất. Nếu thiếu con người muối, xã hội chúng ta sẽ thối nát và mang đầy sự đau khổ. Nếu xã hội chúng ta đầy tràn sự đau khổ, tội lỗi, bất lương, ấy là do các đồ đệ của Jesus và đồng bọn chúng đã ăn đường thay cho muối ở trên quả đất này ( cà phê, chocolat, kẹo, trái cây, bánh ngọt, mứt v.v… và tất cả loại đồ ngọt.) Bia, rượu, săm banh, Whisky, rôm, cô nhắc, rượu mùi, rượu tiêu vị v.v… tất cả đều có chất ngọt, có nhiều chất Potassium, chất này làm vô hiệu hóa chất muối trong cơ thể chúng ta. Tất thảy đều chế tạo bằng khoa học. Và Thiên Chúa giáo bị khoa học khuất phục. Ô , biển, bà mẹ của chúng ta, vì sao nước biển mặn. CHƯƠNG XXI SAYO MATSURA VỊ HÔN THÊ BẤT DIỆT ( chuyện cổ tích) Tây phương là một xã hội rất đa tình. Người ta hôn nhau ở giữa đường, trên đại lộ, trong tiệm cà phê, trong rạp hát, trong xe điện …khắp mọi nơi. Paris, có những nhà hàng lớn nhất bán đồ tình cảm tân thời … Danielle, Darrieux và Gabin … Pierre và Lucie, ở khắp các góc thành phố Paris. Paris là thành phố thanh niên trường cửu. Paris là thị trường chứng khoán quốc tế của ái tình … Paris là thế giới thị trường của tình cảm… Tất cả mọi người đều trở thành tình nhân cho nhau. Hội chợ Paris mỗi năm mở cửa một lần . Như hội chợ tình cảm quốc tế Paris, thì ngày nào, đêm nào cũng mở cửa. Nhưng hình như còn thiếu một vài cái gì nữa. Ái tình chân chính có phải không? Về phương diện ái tình của nước Thiên Quốc, nó có một quang cảnh khác hẳn. Tình ái người Thiên Quốc vô cùng sâu đậm hơn của người Pháp. Ở Paris, tiếng tình ái kêu to lên và trắng trợn, còn ở Thiên Quốc, người ta chỉ rầm rì dịu dàng như gió mùa xuân. Nó không khi nào quá bộc lộ, nó luôn luôn tươi cười và kín đáo. Tình ái của người Thiên Quốc, nó mềm mỏng, êm ái như rờ vào tờ lụa rất mịn màng và mát mẻ. Vì thế mà bà Mitie đã xúc động và rùng mình, khi trông thấy một hình tượng xác chết bị đâm thủng và đóng đinh tay chân trên một thập tự giá, treo trong một nhà thờ Cơ Đốc giáo; và đỏ mặt khi ngồi bên một cặp trai gái hôn nhau trong xe điện ngầm, hoặc đi ngang qua tấm bảng có dán hình một phụ nữ trần truồng bán thân. Có một chuyện cổ tích của Thiên quốc như sau: Có một cô gái người Thiên Quốc, đên ở nước Nhật Bản đã gần một ngàn hai trăm năm, cô này là vị hôn thê của một người Nhật Bản. Một ngày nọ, anh này qua Trung Hoa để nghiên cứu triết học. Từ hơn ngàn năm nay, việc giao tiếp quốc tế giữa Trung Hóa, Ấn Độ và Nhật Bản có tính cách về văn hóa Nó hoàn toàn không phải sự trao đổi đẫm máu như ở Tây Phương. Lộ trình của nhiêu sinh viên và các nhà thông thái phải vượt đường biển rất nguy hiểm, họ đều là những kẻ mạo hiểm, còn mạo hiểm hơn cả bọn nhà buôn … Khoảng thế kỷ thứ 7 hay thứ 9, mười một phái đoàn của Nhật Bản, chỉ có một đoàn được đến bờ biển Trung Hoa bình yên vô sự. Tất cả phái đoàn gồm có hai hay bốn chiếc tàu thủy nhỏ. Mười trong mười một sứ giả, đi trên hai ba chiếc tàu, nửa đường bị chìm mất tích. Có lúc tất cả sứ giả đều mất tích hết cả. Ngày nay người ta có thể trong ba mươi tiếng đồng hồ, vượt qua quảng đường ấy bằng tàu thủy. Nhưng sứ giả lúc ấy phải vật lộn với thời tiết xấu mất mười ngày hoặc 2 tháng mới đi đến nơi. Tuy nhiên, những người đi tìm chân lý vẫn tiến hành nối tiếp người nọ đến người kia. Chàng thanh niên vị hôn phu đi rồi, cô vị hôn thê đưa mắt nhìn về chóp một đồi núi đá gần bờ bể rất lâu. Từ đó, hàng ngày cô nàng cứ đến chỗ ấy, để đưa mắt nhìn về chân trời xa xăm, là chỗ vị hôn phu của nàng mất dạng. Nàng leo lên ngọn núi để hâm lại kỷ niệm tình ái, và để nói chuyện trong tưởng tượng với vị hôn phu về vấn đề xum họp tương lai. Trong nhiều năm nàng vẫn tiếp tục làm như thế, mặc trời mưa gió mặc sương sa tuyết phủ… Hai năm trôi qua… Ba năm … năm năm… Một ngày nọ không thấy nàng về nữa … Cha mẹ. xóm giềng của nàng đến ngọn núi ở bờ bể, để tìm xem nàng như thế nào. Họ hoàn toàn ngạc nhiên, khi họ không thấy nàng ở chỗ đó nữa. Chỗ mà buổi mai nàng đứng trông về chân trời ấy, mọc lên một cây thông. A! Người ta nói, có lẽ nàng đã hóa thành cây thông … Chuyện này là một sự tưởng tượng. Cây thông đã lớn, hiện nay nó đã thành một cây thông đại thọ. Nó còn sống ở chỗ đồi núi cũ, 1.200 năm, để đợi ngày về của vị hôn phu trường cửu. bạn có thể trông thấy các nhánh cây thông ấy hướng về phía Trung Hoa, giống như bàn tay của vị hôn thê Sayo Matsura khốn khổ… và có nhiều khách du lịch đứng xung quanh. CHƯƠNG XXII MỘT CẶP NGƯỜI Ý ĐẠI LỢI Đã gần ba mươi năm nay, có một cặp vợ chồng người ý Đại Lợi đến Paris. Người chồng làm nghề thợ may, anh ta làm việc rất hăng hái và kiếm được nhiều tiền. Anh ta mua được một căn nhà, gần các đại lộ, ở trung tâm thành phố Paris, mặc dầu nhỏ bé, cũng đủ hạnh phúc tạm bợ, và bắt đầu gặp nhiều việc khó khăn … Anh chồng ngã xuống đau, chị vợ phải đi làm việc. Trong ba mươii năm trường, mặc dầu họ bị hết đau bệnh này đến bệnh khác, hai vợ chồng cố sức làm việc. Nay họ đã 60 tuổi. Họ không có con, không có của. Họ đã tốn rất nhiều tiền cho Y sĩ. Và từ một vài tháng nay, trạng thái họ càng năng thêm: người chồng bị bệnh tê thấp, người vợ bị bệnh tinh thần phát cuồng.. Đó là đời sống. Phải, đó là đời sống của những kẻ không biết cách cấu tạo vũ trụ, nghĩa là nước của Trời, và cái luật ÂM DƯƠNG của nó. Đó là giai doạn chót của những người không có “ đức tin”, nghĩa là sự sáng suốt. Biết bao trăm ngàn người như thế, sống trong cái mồ chôn sống gọi là Paris. Tôi đã gặp hàng trăm người như thế. Trong mọi lãnh vực của sự sống. Buồn lắm thay, đại nghĩa địa Paris. CHƯƠNG XXIII HÙNG BIỆN LÀ BẠC IM LẶNG LÀ VÀNG Cách nói chuyện của người Pháp tầm thường rất to tiếng và náo động .Đối với người Thiên Quốc, họ rất lấy làm khó chịu, với cách nói chuyện như thế. Lại còn nhiều người mắc chứng loạn sắc. Người Thiên quốc tất nhiên tưởng thính giác của người Pháp trung bình là rất xấu. Ở Thiên Quốc, người ta có một thính giác và thị giác rất tinh như của con chó và con mèo. Bởi thế người ta không cần phải nói to, nếu nói to tiếng tức là có vụ gây nhau, hay nói xấu nhau. Người ta rất ghét điều đó. Người nào có trí phán đoán thuộc vào giai đoạn thứ nhất, thì phát xuất những tiếng ồn ào, hỗn độn ; người thuộc giai đoạn hai, thì la to ; người thuộc giai đoạn ba, thì buồn rầu, khó chịu, và vô nghĩa ; hùng biện và trí thức, thì thuộc về giai đoạn bốn ; giai đoạn năm, thì im lặng ; tinh thần trầm tịnh, ngọc kim cương là giai đoạn sáu ; người nào thuộc giai đoạn bảy, thì phát ra tiếng nói như một điệu nhạc trầm bổng ở đàng xa, mà người ta chỉ nghe được trong chốn thâm u của sự trầm tư mặc tưởng. Ở Ầu Châu, người ta không nghe được tiếng nói của hạng thuộc giai đoạn thứ bảy. Tiếng nói Thiên Quốc hầu như luôn luôn bị người Tây phương giết chết, vì thế mà xứ Đông phương bị làm thực dân địa, mặc dù có tiếng nói ấy. Hai người Thiên Quốc đều khiếp đảm từng bước bởi nghe giọng nói của người Tây phương. CHƯƠNG XXIV MỘT HỘT SINH RA MƯỜI NGÀN HỘT. Một hôm, tôi đã khám cho khoảng 30 bệnh nhân, kẻ trước người sau, trong một cái nhà của…. Mỗi bệnh nhân đến lượt mình vào phòng khám, đều có một tờ giấy, trên tờ giấy ấy người phụ tá của tôi đã ghi sẵn tên họ, địa chỉ, hiện trạng, tuổi tác, đau ốm, v.v… Sau một ngày quá bận rộn, tôi gặp thấy để trên bàn năm tờ giấy bạc một ngàn quan của các bệnh nhân nào đó để lại. Năm người trong số 30 bệnh nhân để số bạc ấy lại đây để tỏ lòng cám ơn, còn các người khác thì họ biến mất dạng, chẳng để lại cái gì. Tôi đưa cho chủ nhà 2.000 quan, cho người phụ tá 2.000 quan, còn 1.000 quan thì tôi trả cho người bạn Y sĩ đã cho phép tôi sử dụng cái nhà ấy. Những bệnh nhân bỏ đi không có gì để lại, có lẽ họ nghèo quá, mặc dù họ đã nhận được một vài điều chỉ dẫn. Đó là tâm trạng của những kẻ không cần xuống địa ngục sau khi chết, bởi vì họ đang sống ở trong địa ngục rồi. Địa ngục là một khám tù của sự đau ốm liên miên, một thế giới đen tối bất nghĩa, và buồn rầu, bất mãn. Ở Thiên quốc, có một câu tục ngữ: “Cho một hột, trả lại trăm ngàn hột”. Như thế có nghĩa mình cho ai một hột gì đó, sẽ trả lại hàng trăm ngàn hột. Đó là luật vật lý. Tại sao loài người lại không có luật như thế? Nếu bạn nhận vật của người ta cho có giá trị nào đó, bạn phải nên trả lại những món với mười ngàn lần có giá trị nhiều hơn, để tỏ lòng cảm ơn. Bọn hà tiện, chỉ xin và nhận đồ cho kẻ khác mà chẳng có gì trả lại cả. Đó là tâm trạng những kẻ bị kết tội “khốn nạn khổ sở”, quá gắn bó vào vật chất: Đó là nguyên nhân của tất cả mọi đau khổ và khốn nạn. Thoát ly mọi dục vọng là con đường hạnh phúc duy nhất. Bó buộc là mất tự do. Bó buộc bất cứ điều gì là khởi điểm điều khốn khổ, cho đến bó buộc vào nguyên tắc giải thoát cũng cần phải tiêu trừ. Ở Paris có những nhà giải thoát (nhà nhuộm áo). Ở Thiên Quốc cũng có những nhà như thế, nhưng đó đều là đền thờ ở trên núi xa. Ai đã vào đó, đều đã từ bỏ danh lợi, vì ở đó “là chỗ, nếu muốn cái gì, thì người ta sẽ cho mình cái nấy”. Nhưng, nếu bạn không thoát ly được những điều dục vọng của bạn, thì bạn không thể đến đó được. CHƯƠNG XXV CHIÊM BAO Theo Y học Viễn đông, có hai thứ chiêm bao: 1. Chiêm bao đứt nối, vô nghĩa lý, không hợp lý, huyền hoặc, ác mộng khó chịu, hư tưởng, hoặc dữ tợn. 2. Chiêm bao có thể thực hiện vài điều thực sự hoặc tương lai, hoặc trong một thời kỳ xa hơn. Điềm mộng thứ nhất là “điềm mộng giả dối” còn điềm thứ hai là “chiêm bao thật”. Ở trong, đời có hai hạng người: 1. Những kẻ thường, hay luôn luôn có “chiêm bao giả” khi thức, hoặc khi ngủ. 2. Những người “chiêm bao thật” hoặc hiếm có, hoặc có lúc đang ngủ cũng như lúc đang thức. “Chiêm bao thật” là một hình thức minh mẫn, nó báo tin cho ta biết những điều cần thiết về sự sung sướng và tự do. Nếu bạn có những giấc chiêm bao vô nghĩa lý, hay dữ tợn, hoặc một đôi khi, hoặc thường xuyên, trong khi ngủ, hay giữa ban ngày. (Như chiêm bao những chuyện chiến tranh, giết người cướp của ở eo bể Suez, tàn sát ở Algerie, sự lo âu hàng ngày, hay sự đẫm máu, phản bội khó tin v,v……). Thế là về sinh lý và tâm lý các bạn không được khỏe mạnh. Các bạn đã hơi mắc bệnh thần kinh. Các bạn đã thiếu một trong sáu điều kiện về sức khỏe. Những kẻ ước mong hàng ngày, hoặc suốt đời và từ buổi còn thơ ấu, và đi từng bước một, lần từng ly một để đến gần sự tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, công bằng tuyệt đối là chốn “Thiên đường” v.v..Những hạng người ấy, sẽ được sung sướng. Nếu bạn ngủ yên giấc, không có mộng mị vô nghĩa lý, rời rạc khó chịu, bạn hãy ít nhất cũng một lần, tuân thủ theo lời chỉ dẫn về tiết thực của tôi, trong một tháng, các bạn sẽ được hưởng vạn sự bình an. Nếu các bạn muốn trải qua một đời sung sướng, không gặp, dù chỉ một lần thôi, những cơn ác mộng, trong khi tỉnh cũng như trong giấc ngủ, các bạn chỉ nên tuân theo phương pháp tiết thực đã cũ mấy ngàn năm rồi. Các bạn lần lần có thể làm những món ăn rất ngon lành, khi các bạn đã có tiến bộ trong sự nghiên cứu nghệ thuật nấu ăn và triết lý của nó. Trong giấc ngủ chiêm bao, Goodyear đã tìm được những bí mật về cách chế tạo cao su: Trong một giấc mơ tỉnh thức, Jacques Mendes Dagerre đã tìm được bí mật cách chụp bóng vào bản bạc. Siddarta đã thấy thực hiện được giấc mộng của Ngài: Phật giáo đã kéo dài đến 2.500 năm (khác với giấc mộng giữa ông ta với Henri Miller biết bao nhiêu): “Giấc mộng thật” là sự tưởng tượng của trí phán đoán cao siêu, còn “giấc mộng giả” là trí phán đoán thấp kém. Hạnh phúc trường cửu, tự do vô tận, công bằng tuyệt đối, chỉ là “Xứ” sinh sống suốt đời, thuộc về những người có trí phán đoán cao siêu. Thế là thực tiễn. Chiến tranh, bất lương, đau khổ, hoạn nạn, nghèo khó v.v… đều là những mơ mộng tưởng tượng từng hồi, cũng đồng ở một chỗ, một thực tiễn, nhưng trí phán đoán cao siêu bị mù quáng. Các bạn hãy ngủ ngon lành, như một giấc ngủ của bé sơ sinh không có chiêm bao gì hết. Nếu đứa bé có ác mộng, đó là trách nhiệm của người mẹ, vì bà mẹ tham ăn những thực phẩm hoàn toàn không có bổ ích gì cho sự sống hết thảy. Ban đêm ngủ không có chiêm bao ,yên tĩnh, êm thấm, nó không phải chỉ đơn thuần một sự nghỉ ngơi, nhưng đó là sự tạm ngừng ngắn, trong thời gian ấy ta được tiếp tế năng lực bởi một cái gọi là “vô tận, trường cửu, tuyệt đối”. Một giấc ngủ ngon sâu, không có mộng mị, là một cuộc định lưu trong lòng bà mẹ “Vĩnh cữu”. Lúc thức |
|
|
![]()
Bài viết
#12
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
dậy, cảm thấy sinh lực vô cùng, với sinh lực này người ta có thể vượt qua bất cứ mọi khó khăn trở ngại gì.
Tôi xin chúc bạn một đêm ngủ ngon lành. CHƯƠNG XXVI NHỮNG KẺ SUNG SƯỚNG “Epictete có nói: “Con người phải được sung sướng, nếu không được như thế, đó là lỗi tại mình”. “ Con người phải được tự do, “Con người phải được sung sướng, “Con người phải được công bằng, “Con người phải có tình yêu, “Người Thiên Quốc nói, nếu không thì người đó đã vi phạm, hoặc biết hay là không biết, sự cấu tạo của vũ trụ. Sau khi điều trị rất nhiều bệnh nhân bị kết án là “nan trị” trong các xứ Tây phương cũng như ở Đông phương cho đến cả các xứ quê hương của Cơ Đốc giáo, và Phật giáo nữa, tôi có kết luận như sau: Tất cả những kẻ nghèo khó, và đau ốm đều bị cầm tù, trong cái lao tù “bệnh tật” không có phương gì vượt ra khỏi được. Họ đã phạm tội suốt năm này qua năm khác, vi phạm cả ngày lẫn đêm điều luật thiên nhiên:SỰ SỐNG. Họ cũng không biết tỏ bày lòng cảm ơn, khi có người dạy cho họ phương pháp cứu chữa. Họ sở dĩ bội ơn, nguyên nhân vì giáo dục. Ấy là điều kết luận của tôi, sau nhiều năm điều trị hằng trăm ,hằng ngàn bệnh nhân ở Tây phương. Ở Tây phương cũng như ở Đông phương, tất cả bệnh nhân đều như nhau cả. họ bị đày đọa đau khổ suốt đời, cho đến khi nào họ tỉnh ngộ biết nguyên nhân chính của sự đau khổ mới thôi. Những ông Y sĩ và nền Y khoa, không chữa trị lành bệnh được, nhưng họ có tài bóc lột bệnh nhân, ta nên gắn cho họ một cái huy chương bằng vàng thật lớn. CHƯƠNG XXVII HAI NGƯỜI THƯỢNG CỔ BỊ XE HƠI TUNG NHẰM. Trời đã khuya, sau khi diễn thuyết tại Hội ăn chay, người Thượng cổ cùng với vợ ra về, ngồi trong một chiếc xe hơi nhỏ 4 mã lực, do người con tinh thần “GAVIN” có tính rất cẩn thận làm tài xế. chiếc xe băng qua đường Republique để đi về đường Turbigo. Đến ngã tư đầu tiên, một chiếc xe rất lớn thình lình lao đến phía trái suýt đâm vào xe của họ. Người con tinh thần, cố hết sức phanh chiếc xe lại để tránh tai nạn, nhưng đã trễ, chiếc xe nhỏ của họ đã đâm vào phía tay phải của chiếc xe lớn. Hai người Thượng cổ bị nhào lộn, dồn ra sau xe, và nằm bất tỉnh. Máy Radio bị sức nặng của ông Jack đè làm bể tan. Chiếc xe lớn, chạy quá mau khi tai nạn xảy ra, dừng lại xa cách đó năm thước. Trong chiếc xe ấy có hai chàng thanh niên. Mặc dầu đêm đã khuya, nhiều người ở trong các tiệm cà phê gần đó chạy ra để cứu cấp ba người Thiên quốc, nhưng tất cả ba người đều bị quá đau, nên nằm bất tỉnh nhân sự, không có ai nói năng, hay động đậy gì cả. Sau cùng cảnh sát đến. Một lát sau, người con tinh thần mới thoát khỏi chiếc xe bước ra một cách rất khó nhọc. Trong một giờ rưỡi đồng hồ, ông Jack và bà Mitie, vẫn ngồi yên lặng bất tỉnh trong xe cũng như những người Thiên quốc khi gặp trường hợp như thế này, mặc dầu họ đau đớn. Đằng trước xe hoàn toàn bị bể nát, động cơ bị hư không vận động được. Hai chàng thanh niên tàn nhẫn cũng không đến xin lỗi. Sau cùng, độ hai giờ rưỡi, một chiếc Taxi đến chở ba người bị tai nạn khốn khổ ấy. Tuy bề ngoài không có thương tích gì, nhưng trên đầu bị sưng u, đau đớn hai bên hông và tứ chi. Quá nửa đêm, các con đường lớn ở Paris ít xe cộ qua lại, nên xe chạy hết tốc lực. Theo thống kê, thì tai nạn xe hơi xảy ra lúc này, nhiều hơn, nặng hơn, và máu chảy nhiều hơn lúc ban ngày. Sau tai nạn vừa kể, ông Jack và bà Mitie, hoàn toàn bật tỉnh. Cánh tay trái của bà Mitie đau đớn vô cùng. Nhưng họ không nằm liệt giường, mặc dù rất mệt nhọc, họ vẫn theo đuổi công tác hàng ngày. Ông Jack không bỏ dở những cuộc diễn thuyết đã định trước, mặc dầu sự đi đứng rất khó khăn, nhất là khi lên xuống xe điện ngầm. Những người Thiên Quốc thường đi ra ngoài không bị một tai nạn thiệt hại lớn, họ như con mèo bị té trên bốn chân của nó. Đó là công hiệu của Y khoa Viễn Đông, nó luôn luôn tăng thêm sức lực cho bản năng. CHƯƠNG XXVIII “ BẠN VĂN MINH THÂN MẾN, XIN CHÀO CÁC BẠN” Ngày ly biệt đã đến: Hai người “Thượng cổ” đã từ giã chúng ta để về nước. Trước ngày chia tay, người Thiên Quốc có gởi lại cho tôi bản báo cáo như sau : “Tôi còn mắc nợ ông bao nhiêu?” Bạn thân mến “văn minh” tôi ơi, Tôi rất hân hạnh được gặp các bạn trong thời gian lưu trú ngắn ngủi của tôi ở Âu Châu. Ngày mai tôi sẽ từ giã các bạn, nhưng tôi vẫn còn giữ một kỷ niệm tốt đẹp khi cũng ở với các bạn, và tôi xin hứa cứ hai năm tôi sẽ đến với các bạn một hạn là sáu tháng nhứ thế, cho đến hết đời của tôi. Nhờ tất cả các bạn mà tôi học được nhiều chuyện. Tôi kỳ vọng sự hiểu biết của tôi về Âu châu, không đến nỗi không xác thực. trong những nét đại cương, sự hiểu biết ấy như sau: Nếu có một vài lầm lỗi lớn tôi xin các bạn chỉ giáo cho. Trong thời gian lưu trú, tôi đã điều trị hằng trăm bệnh nhân mà Y khoa đối chứng trị liệu tuyên bố “nan y” và đã từ bỏ. Những bệnh nhân này uống thuốc đã lâu năm, và tốn tiền rất nhiều. Tôi đã tốn hàng ngàn giờ để làm việc, và chịu một trách nhiệm vô tận. Tôi làm việc ấy với niềm vui và với lòng biết ơn. Đó là một điều đại vinh hành cho một người ngoại quốc được người ta cầu xin chẩn đoán về vấn đề sự sống đang đau đớn và nguy nan. Sau khi được tôi chẩn đoán rồi, nhiều bệnh nhân chỉ nói một cách đơn giản “cám ơn”. Tôi cũng muốn nói “cám ơn nhiều” Điều lạ lùng, có vài người hỏi: Tôi phải trả cho ông bao nhiêu? Điều lễ phép ấy của Tây phương, làm cho tôi một vố buồn bực, khó chịu vì tôi cảm thấy như một phép lịch sự ngoại giao, máy móc qua loa, và hình thức bề ngoài. Như các bạn đã biết, sự khám bệnh của tôi hoàn toàn đặc biệt. Đó là một sự ngắm xem về sinh lý, mà tôi chỉ làm trong nháy mắt. Đối với kẻ đã quen thói xem mạch rất phiền toái của Tây phương, thì cách khám bệnh của tôi rất đơn giản. Để làm ra bộ nghiêm trang tôi xem xét tay họ như thầy bói. Cách khám bệnh của tôi, chỉ đưa mắt nhìn qua diện mạo, và dò biết tất cả trong con mắt: nguyên nhân mất quân bình hiện tại, về tất cả đời sống quá khứ, cùng tương lai, và sự nguy hiểm của bệnh tật gây ra cho bệnh nhân. Điều làm tôi mất thì giờ nhiều nhất, là nghe kể lại chuyện đau ốm, chuyện bất mãn, ích kỷ, vô ích, buồn rầu khó chịu và nói rất lâu. Rồi sau tôi cần phải giải thích nên chọn món ăn gì là cần thiết, phải nấu nướng làm sao, và phải ăn uống như thế nào… Như thế phải mất ít nhất một tiếng đồng hồ. Vậy là cách khám bệnh của tôi là một bài học đặc biệt về nghệ thuật nấu nướng, và về triết lý biện chứng pháp thực hành, đối với một người đang còn xa lạ với Y khoa, với lý thuyết dinh dưỡng, sinh hóa học và triết học Viễn Đông. Khó khăn và nguy hiểm biết bao! Trước hết, bệnh nhân toàn là người ích kỷ, sự hiểu biết của họ lại thấp hèn, quan điểm của họ lại chấp nhất, phản động. Họ rất đơn sơ, chất phát, tình cảm và hà tiện. Họ rất khiếp nhược và hoài nghi (hay là rất dễ tin và mau quên). Hơn nữa phần nhiều không có ký ức, và không thể tập trung tư tưởng được. Họ không biết đức tin cương quyết, và định luật thiên nhiên. Tất cả điều ấy do sự hiểu biết nông cạn, và sơ lược, nguyên nhân chính đau khổ của họ. Tôi phải làm cho họ biết nguyên nhân khởi thủy ấy, vì sự giáo dục chuyên nghiệp, tân thời, tư bản chủ nghĩa, nên làm cho họ khiếm khuyết về nhận thức sự cấu tạo vũ trụ. Thật vô cùng khó khăn và tế nhị, nhất là khi dùng hoàn toàn một thứ tiếng ngoại quốc để phát biểu, đôi khi làm cho ý mình sai lạc. Lời giải thích phải rõ ràng vì đó sẽ là một vấn đề sinh tử. Tôi tận tâm làm việc để cứu vớt một bệnh nhân gọi là “nan y” người ta bỏ mặc kệ cho chết đuối dưới đáy sâu vực thẳm đau ốm. Và người ta hỏi phải trả bao nhiêu? Họ xem tôi như một anh tài xế taxi. Vô lẽ biết bao tâm trạng quái lạ! Vô tri thức làm sao! Tôi muốn hỏi lại: “ Các người đánh giá đời sống của các người là bao nhiêu?” Các anh có thể trả bao nhiêu, để được phóng thích ra khỏi cái ngục gọi là “bệnh tật” và “án tử hình” bởi bọn độc tài vô hình gọi là “văn minh” kết tội? Tôi chỉ nói đơn giản thế này: “Không có gì cả”, bởi vì tôi rất hân hạnh được người ta nghe một vấn đề rất quan trọng và chân thật. Tôi cũng không đòi hỏi một gia biểu mà ở nơi khác người ta vui vẻ trả cho tôi: 10.000 quan, cho đến một xứ mức sống năm lần rẻ hơn ở nước Pháp. Một đôi khi tôi nói: “Sự chẩn mạch của tôi rất đắt, nhưng các ông đừng ngại. Sau khi hoàn toàn lành bệnh, ông muốn cho tôi bao nhiêu cũng được”. Thế rồi không ai đoái hoài đến nữa. Cũng không gửi một tấm thiệp để cám ơn. Một lần khác tôi nói: “Sự khám bệnh của tôi rất đắt, đến 1.000.000 quan, đắt lắm phải không? Được tôi biếu không cho anh tờ chỉ dẫn này. Nhưng anh phải viết thư cho tôi, ít nhất một lần mỗi tuần, nếu không tôi không thể theo dõi bệnh tình anh được…. Tất cả đều “biến mất” Một hôm, lần thứ nhất tôi có nói: “ Mười ngàn” Và tôi rất sửng sốt về câu trả lời bất thình lình của một bà chưng diện toàn hột xoàn. Đắt quá. Giá đắt hơn một vị đại giáo sư trường Đại học (A, Đại Học!). Nhưng bà ta không nghe, giận dữ đột nhiên bà ta bỏ đi. Tính tao nhã và lễ độ đối với tôi khi mới đến đều tiêu biến. Với lần thứ hai và lần chót: - A! 10.000 quan? … Tôi không thể trả được, nhưng tôi xin đưa năm ngàn, đó là tất cả số bạc tôi có hôm nay, còn lại bao nhiêu tôi xin hẹn trả lần sau không sai. Xin giáo xứ tha lỗi, mong ông tha lỗi… Tôi trả bạc lại tiền cho anh ta.. Đó là một người đàn ông trẻ, anh ta bị đau bại đã bốn mươi năm rưỡi, bị người vợ bỏ phế. Chỉ một mình ở một căn nhà gần Porte d’Auteill. Mấy lúc sau, anh ta làm phiền tôi luôn, cứ hai ngày kêu điện thoại một lần. Để cứu cho tôi khỏi nạn rầy rà này, tôi phải cho vợ tôi hoặc một môn đệ trung thành của tôi đến thay thế. Anh ta trả 1.000 hay 1.500 quan vừa đúng với số tiền tôi thuê xe taxi. “ Tôi phải trả cho ông bao nhiêu” Câu hỏi quá buồn. Tôi thôi không hỏi việc trả tiền nữa, vì đó là một bài học rất khó, vì nó làm mất thì giờ. “Không gì hết” đó là cách trả lời của người Âu Tây, và nó làm cho tôi lợi thì giờ hơn. Bên tôi, những kẻ giàu có cho tôi 10.000 hay 100.000 quan (phải biết bên chúng tôi, người ta có thể sống mỗi tháng 100 quan). Hay là người ta nói: “Cám ơn ông vô cùng” ông đã cho tôi một đời sống mới, suốt đời tôi sẽ làm cho ông việc gì mà ông muốn ,tôi sẵn sàng vâng theo lệnh của ông. Người ta thực hiện điều hứa ấy, bằng cách này hay bằng cách khác, tùy theo sức lực của mình. Thỉnh thoảng người ta đem cho tôi những hoa đúng mùa, hoa này không phải mua, những hoa hoang dại, hoặc tự mình trồng, hoặc là những rau trái trồng ở vườn, và họ từ xa đến. Tất cả mọi người nhận lãnh tùy theo sự cần thiết của mình, và đem cho tùy theo khả năng của mình. Có nhiên ở Châu Âu cũng có một vài người, tuy số ít, cũng giúp đỡ cho tôi một cách quý hóa lắm. Nhưng suất bách nhân số người quá ít, trái với người “Thượng cổ” “ Tôi phải trả cho ông bao nhiêu?”. Nói đúng ra câu “tôi phải trả cho ông bao nhiêu?” tuy vậy còn đáng thương, nếu đem so sánh với sự hoàn toàn lãnh đạm và sự biệt tăm dạng của đa số người cũng nói câu “cám ơn, cám ơn ông thật dễ thương như lòng ước vọng của ông, tôi sẽ nói lại cho các bạn hữu, người xóm giềng của tôi biết cái phương pháp ấy, nhưng trước tiên tôi phải lành bệnh đã. Ô! Ông dễ thương quá”. Thật là khó chịu, khi nghe nói luôn câu: Ô! Ông dễ thương! Ông rất dễ thương! Ở bên chúng tôi, đó là một câu nói đáng ghét nhất. Người ta đã nói: “Vàng thử ở lò luyện sắt, bạc thử ở lò luyện kim thuộc nhưng con người thì thử bằng lời xu nịnh, tâng bốc, tôn sùng”. Ở nước của người “Thượng cổ” kẻ nào ưa dua nịnh, tâng bốc, tôn sùng là hạng người đáng ghét. Dua nịnh, tâng bốc hay làm cho người ta tôn trọng mình, là tính cách của hạng ăn mày, nô lệ, cảm tình, và một biểu lộ trí phán đoán đệ hạ nhất. Biểu lộ cảm giác, hay cảm tình trước mặt người khác còn không nên thay, huống gì đối với ân nhân mình, bởi vì biểu lộ một trí phán đoán thấp kém là một việc rất xấu hổ. Cả đến tiếng “cám ơn” (merci) ở trong tiếng Viễn Đông cũng không có chữ nào tương đồng cả, nếu các bạn dịch tiếng ấy theo tự vị của Nhật, Tàu hay Ấn độ…..Như: “hao, hao”, “sha,sha”, “Ái gato gozaimas”, “Danneward” v.v… thì đó thật là một sự ngu dốt hoàn toàn về tiếng nói và tâm trạng của người “Thượng cổ”. Những tiếng Viễn đông ấy có nghĩa là một xứ hoàn toàn lạ, vô cùng uyên thâm, về huyền học và vũ trụ luận. Nói theo từ nguyên tiếng “merci” (cám ơn) là phản đối với những tiếng ấy (kính trọng, quí hóa v.v… cũng vậy). Nhưng đa số thì lãnh đạm, phần đông sau khi lành bệnh rồi, họ đều biến mất tăm tích, không còn ma nào trở lại nữa, mặc cho lời hứa danh dự của họ. Thật là hoàn toàn không thể nào hiểu được. Nếu có 1 bệnh nhân nào không trở lại, làm tôi khó chịu lo ngại. không biết họ đã lành chưa? Hay còn đau? Họ còn tê bại chăng? Họ có còn theo lời chỉ dẫn tôi nữa chăng? Trong khi áp dụng theo lời tôi, họ có bị trở ngại gì chăng?.....Nhưng sự lo ngại của tôi thật là hoàn toàn vô ích. Một khi đã lành rồi, hoặc bệnh đã bớt họ không thèm trở lại nữa. Đó là luật thống kê….Ở đây, một xứ của người “văn minh”. Đó là lỗi của tôi, tôi đã lầm. Mục đích Y khoa của chúng ta không những trị lành bệnh hiện tại và tương lai, nghĩa là làm miễn dịch hoàn toàn và mãi mãi, mà còn khai minh cho trí phán đoán được cao siêu của đương sự. Trí phán đoán được che lắp hoàn toàn hay một phần là nguyên nhân độc nhất của sự đau ốm và sự khốn khổ của con người. Trí phán đoán cao siêu là một trong ngàn hình thức hoạt động của sự hiểu biết, sự tri ân của chúng ta về cấu tạo vũ trụ. Nó là chìa khóa của tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, công bằng tuyệt đối. Theo Y học chúng tôi, không có bệnh nào là “nan y”. Giá hoặc có chăng nữa, đó là lỗi chúng ta, vì thiếu kỹ thuật, thiếu bác ái của chúng ta. Nghĩa là chúng ta chưa được tự do hoàn toàn. Ấy là một cơ hội tốt để chúng ta học hỏi thêm. Chúng ta còn bận tâm đến những kẻ bội nghĩa ấy. Theo Y học của chúng tôi, nếu chữa lành một bệnh ở giai đoạn nhất, bệnh nhân phải đi vào giai đoạn hai của sự hiểu biết hay trí phán đoán, ở chỗ đó mọi người đều chào bằng một ám hiệu “tôi cảm thấy đỡ”, “tôi cảm thấy khỏe lắm”, “rất dễ chịu”,…Nếu chúng ta chữa lành một bệnh ở giai đoạn hai của sự hiểu biết hay trí phán đoán, người ta sẽ chào chúng ta luôn với ám hiệu: “tôi thật ung sướng” hay là: “tôi lần đầu tiên trong đời tôi, tôi cảm thấy cuộc sống vui vẻ”. Bệnh nhân ở giai đoạn ba lành bệnh rồi, sẽ chào: “tôi muốn làm công việc, tôi cần phải nghiên cứu phương pháp ấy cho tận cùng”, hay là: “ tôi phải cứu bạn hữu tôi bị đau, cũng như tôi bị đau ngày trước”. Kẻ nào đã chữa khỏi bệnh ở giai đoạn bốn sẽ chào: “ Tôi đã được giải thoát, bây giờ tôi hết cả đau ốm. tôi muốn, tôi cần phải cứu vớt, bất cứ giá nào, những bạn hữu và láng giềng của tôi đang bị ốm đau như tội đã ốm ngày trước. Tôi cần hy sinh đời sống của tôi”. Người nào được lành bệnh ở giai đoạn năm: “tôi phải hăng hái, và bất cứ giá nào để cải thiện trí phán đoán về giai đoạn sáu của tôi”. Những kẻ nào được thoát khỏi bệnh ở giai đoạn sáu sẽ nói: “Tôi không biết gì hết, tôi là kẻ ngu dốt nhất đời, tôi đã và đang là một tên đại bất lương trong đời”. “Tôi không hề biết điều đó!Xấu hổ làm sao!” “Tôi cần phải tẩy uế……..”. Kẻ nào khỏi bệnh rất khó chữa: “Kiêu ngạo” cần phải biến cải thành một người rất khiêm tốn, rất dễ thương, rất dễ chịu, và rất khỏe mạnh trong thiên hạ, tức là một người bạn tốt nhất. Ám hiệu của nó là: “Tôi không khi nào thấy một kẻ bất lương ở trên đời này. Thế là tôi ở trên Thiên đàng rồi. Tôi không thể gặp một người nào làm tôi không thương. Tôi yêu mến tất cả. Mọi người đều đáng thương, đáng phục, và đẹp đẽ. Tôi thương bạn hữu của tôi, cũng như những người tôi không quen biết. Nhưng tôi còn yêu mến những kẻ công kích tôi hơn nữa, những kẻ tranh luận tôi hơn nữa. Họ càng ghét tôi, càng công kích tôi không chút từ tâm, tôi lại càng thương họ thêm. Tôi yêu sự chết như sự sống”. Đó là tâm trạng những người tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, công bằng tuyệt đối. Có một Y sĩ châm cứu , đấm bóp nhờ Y khoa giết người mà được giàu có. Trí phán đoán anh ta thuộc về giai đoạn thứ tư, lý trí. Khốn nạn thay, anh ta bị mang bệnh “nan y”, khoa đối chứng trị liệu của anh ta đều không thể chữa lành được cho đến triệu chứng ngoại diện cũng không làm sao tiêu trừ được. Anh ta đã thành công về nghề thầy thuốc, nhưng sự sống của anh ta bị chung thân khổ sai, như một người tù vậy. Anh ta có ba đứa con. Anh ta đau bệnh trĩ, đau tim, thận suy, và chứng phong lở đặc biệt…….. Khổ sai: Ngày nào cũng đấm bóp mệt nhọc lâu hàng giờ. Biết bao là cực nhọc và khó chịu, đem hết khả năng để đấm bóp và săn sóc rất nhiều bệnh nhân, mà anh ta không chút thương tâm, và đem thân thể, một nửa bên ngoài đã bị thối nát (bệnh trĩ, phong lở), một nửa bên trong thì bị hoại liệt (đau tim, thận suy nhược) để phụng sự cho mục đích duy nhất là kiếm được nhiều tiền. May sao trí thức anh ta rất phát triển, và về phương diện vật lý, anh ta làm việc rất can đảm, hàng ngày làm việc tranh đấu với những bệnh nhân ích kỷ, bội nghĩa, ngu dốt, nhưng được pháp luật giúp đỡ, cho phép anh bóc lột bệnh nhân. Sung sướng thay, nhất là kẻ làm việc bằng tay chân!. Tôi đã đến khám bệnh cho anh ta hơn mười hai lần, và mỗi lần mất ba bốn giờ để giải thích cho anh ta hiểu cái đại bí mật của tôi (luôn luôn người Thiên quốc nghèo nàn ấy phải trả tiền xe taxi). Sau hai tháng anh trở thành một chàng trai đẹp, hoàn toàn trẻ người lại, tất cả bệnh hoạn được tiêu tan (phong lở đặc biệt, bệnh lở tróc da đầu, ở Âu châu bệnh này người ta không cho là nặng lắm, mặc dầu đó là một bệnh rất ghê gớm, vì nó không kém gì bệnh sưng đầu). Đó là tiếng kêu cứu của óc não, người ta bắt buộc phải gãi, càng gãi thì vãy da đầu càng tróc ra, và bệnh sưng da đầu càng tăng thêm. Hơn 10 tỷ tế bào trong óc bị cháy thiêu đau đớn như thế..người ta không thể làm việc bằng tinh thần với một cái đầu như thế. Thế là mắc bệnh thần kinh. Anh ta hoàn toàn lành hẳn, trở nên đẹp đẽ rất dễ thương. Nhưng anh ta đã biến mất , không có lấy một cái danh thiếp gửi lại, không có gọi điện thoại ...để cảm ơn... Hoàn toàn lãnh đạm. Tôi trông đợi anh ta, theo phương pháp của tôi, để điều trị các bệnh nhân (anh ta có một số thân chủ rất nhiều). Tôi vui vẻ trông tin báo cáo kết quả anh ta đã chữa lành gọi là “kỳ diệu” các bệnh nhân anh ta ,đã trả lời những câu hỏi rất khó để giúp đỡ anh ta, và cho anh ta những điều chỉ bảo xác thực, cần thiết để điều trị những bệnh chứng rất nguy hiểm. Cũng hoàn toàn lãnh đạm. Chữa cho anh ta một lần lành khỏi bệnh, và không còn tái phát, thế là mục đích của tôi đã sai lầm. Anh ta sẽ trở nên khốn khổ, và sau đó ba đứa con anh ta cũng vậy. Ấy là lỗi của tôi, ấy là tôi đã phạm một tội rất lớn ở Âu Châu. Tôi đã thành công chữa cho anh ta lành khỏi bệnh ở giai đoạn thứ hai, giai đoạn ba, giai đoạn bốn, giai đoạn năm và sáu, nhưng tôi không đạt được mục đích chữa lành được bệnh ở giai đoạn bảy, tính kiêu ngạo, ích kỷ. Nhờ anh ta, tôi đã đọc thêm được rằng, kỹ thuật trị bệnh của tôi chưa được hoàn hảo. Các bạn không nên đi theo dấu cũ của tôi. A! “ Tôi phải trả cho ông bao nhiêu?”. Nhưng các bạn “văn minh” tôi ơi, tôi mắc nợ các bạn bao nhiêu? Người ta thiếu nợ nhiều lắm, nhiều vô số người ta không thể trả nỗi, nhưng người ta không cần nói cám ơn, nhưng không cần trả. Nếu người ta hiểu rằng trí phán đoán tối cao là của chúng ta, thì không có gì khác hết. Các bạn thiếu rất nhiều nợ, nào xác thịt và linh hồn của các bạn, cha mẹ các bạn, nào không khí, (biết bao nhiêu thước khối không khí các bạn đã xài phí, hoặc để nuôi tế bào, hoặc để nấu đồ ăn, hoặc dùng vào chiến tranh, mà không trả xu nào hết), các bạn mắc nợ ánh sáng, nó cung cấp, cho các bạn cả ngày lẫn đêm, mà các bạn không trả một phần ngàn trong số tiêu thu đã trả cho nhà đèn, các bạn thiếu nợ nước sông, mưa, tuyết, núi, đất, trời, mặt trời và hàng ngàn ngôi sao…. Tất cả những cái vô giá ấy đều cho không các bạn. Các bạn không trả gì hết, các bạn mắc nợ vô cùng tận. Nhưng nếu các bạn hiểu rằng, trí phán đoán cao siêu, ký ức, sự hiểu biết, và ý chí, thì chính là người cho và người sáng tạo lớn nhất. Đó là tâm trạng của người tự do. Ấy đó, vì sao người có tâm trạng ăn mày là đơn độc. Bởi thế vì sao Dê Du đã nói: “Khốn khổ thay kẻ giàu có”. Kẻ giàu có mà không muốn phân phát cái gì đã làm ra được, và tất cả cái gì mình có, thì không đời nào biết điều vui thú của sự cho và sự sáng tạo, không biết tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, cũng không biết công bằng tuyệt đối. Nếu một tiểu thuyết gia, một họa sĩ, cứ cất giấu tác phẩm của mình không đem ra phân phối, không trưng bày, thì họ chịu biết bao cực khổ và khốn nạn? Các bạn có thể tưởng tượng sự khốn nạn của một người nông dân cứ dấu kỹ tất cả vật sản xuất, mà không đem ra để tiêu thụ. Các bạn hãy phân phát tất cả cái gì các bạn có, tất cả sản phẩm, bất cứ món gì. Hoặc tốt hoặc xấu. Nếu các bạn không có món gì hết, thì các bạn phân phát nụ cười, lời nói, công việc làm, hát xướng, trí tuệ, cho đến sự ngu độn nữa. Không nên do dự hỏi: “Tôi nợ ông bao nhiêu?” Các bạn không mắc nợ gì cả, tất cả là của các bạn, là do các bạn”. Nếu các bạn hỏi như thế, ấy là các bạn thuộc về Nhị nguyên luận, thật đáng buồn ! Các bạn nên làm khác người ta. Đây “bình đẳng” không cần thiết lắm. Quan niệm bình đẳng tùy thuộc nơi ẩn ý cá nhân chấp nhất. Thoát ra ngoài vòng thế giới ích kỷ, độc hữu nơi đó người ta chào với một ám hiệu: “Bình đẳng, Bác ái, Tự do”.Và nên đi vào thế giới hiện hữu, vĩnh cửu, tuyệt đối, và vô tận, chỗ này người ta không cần nói câu ám hiệu ấy, bởi vì đây là thế giới tất cả đều bình đẳng, bác ái và tự do rồi. Các bạn “văn minh” thân mến của tôi ơi. Hỡi các bạn Y sĩ yêu mến của tôi, những Y sĩ không khi nào chữa ai lành bệnh Hỡi Linh mục, Mục sư thân mến của tôi, chẳng hướng dẫn thế giới, hay một cá nhân nào đến được chốn nước Trời có bảy thiên giai Hỡi các nhà sản xuất bánh kẹo thân mến của tôi, đã giết chết trẻ con, cho đến người lớn có tính trẻ con với các thứ bánh ngọt nhuộm màu có tính chất khiêu phát bệnh ung thư . Hỡi các bạn Giáo sư thân mến của tôi, đã mượn danh nghĩa chân lý, mà đem dạy những sự thật giả danh tạm thời. Hỡi các nhà chính trị thân mến của tôi, các ngài đã chế tạo địa ngục gọi là “chiến tranh” . Hỡi những nhà sản xuất giết người, đã chế ra thực phẩm có chất độc Hỡi những ông tư pháp, luật sư thân mến của tôi, các bạn đã sản xuất những tội nhân . Hỡi những nhà giáo dục, đã làm cho trí phán đoán cao siêu của thanh niên bị mờ ám. Hỡi các bạn thân mến “hiếu thuận” hoặc “mộ đạo” hoặc “thần bí” của tôi, thực sự chỉ là những kẻ kiêu ngạo, tình cảm nhất, độc chiếm nhất, tất cả những kẻ mơ tưởng tất cả những cái gì không đời nào thực hiện được hoặc không thể thực hiện được, và sau cùng những kẻ quá cảm, lương thiện, khốn nạn, là những kẻ bị dán nhãn hiệu “ăn trộm”, “bất lương”, “phạm tội”, “giết người” v.v… và v.v… Hỡi các bạn thân yêu của tôi, các bạn hãy đi cho đến cùng đường. Số mạng của các bạn tất nhiên thế nào cũng là lỗi lầm và dại dột, nhưng các bạn sẽ có trí phán đoán cao siêu. Các bạn cứ tiếp tục đi theo con đường của các bạn. Các bạn thân mến, các bạn hãy tiến lên, ai theo đường nấy. Nếu các bạn không chịu biến hóa thành những người mâu thuẫn lại con người của các bạn, thì thế giới sẽ trở nên mất hết lạc thú, như những thứ sách luân lý cổ điển. Nếu đời sống không tai nạn, không tội lỗi, không xấu xa, ấy là một điều rất khó chịu. Đời sống như vậy thì khó chịu biết mấy. Nếu các bạn lo ngại những điều ấy, là vì các bạn quá ích kỷ, quá giả dối, quá kiêu ngạo, các bạn quá đặt tin tưởng vào điều nhỏ mọn, tạm bợ, không bền vững…của thế giới vật chất này. Các bạn phải đóng vai trò bị người ta phó thác trách nhiệm bài trí cho mình. Nếu các bạn đóng khéo thì các bạn có quyền lựa chọn, cho lần sắp tới, một vai trò dễ chịu hơn, thích thú hơn. Các bạn đừng sợ, cũng đừng do dự, nếu các bạn đã mãn nguyện về vị trí phán đoán hiện tại của các bạn rồi, các bạn có thể vượt lên một giai đoạn cao hơn. Hoan hô!.... Tôi xin hoàn toàn đồng ý với các bạn, tôi xin giúp đỡ các bạn nếu các bạn muốn. Tôi luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn. Tôi cũng tình nguyện sẽ giúp đỡ các bạn về tội phạm giết người hay là tội bất lương. Các bạn cứ tiếp tục làm cái nghề ăn trộm, giết người gọi là “thầy thuốc”. Tôi giúp các bạn một cách vui vẻ… Nhưng trước hết các bạn phải cải thiện tình trạng sức khỏe của bạn đã. Tôi chúc các bạn một sức khỏe trọn lành và chân chính, nhưng không phải là một chuyện thánh thần gì cả. Các bạn cứ tiếp tục làm cái nghề rất ích lợi ăn trộm giết người . Bị giết chết hay bị mất trộm, đó là phẩm chất của bọn ngu dốt. Ăn trộm và giết người lại là tư cách của bọn can đảm. Nhưng các bạn không nên để bị giết chết bởi vi trùng hay độc tố, những giống hạ đẳng, hay bởi một tai nạn gì khác. Hỡi các bạn “văn minh” thân mến của tôi, các bạn cứ làm cái gì mà các bạn ưa thích. Nhưng trước hết các bạn phải hồi phục sức khỏe và phát triển trí phán đoán cao siêu của các bạn đã. Người ta sẽ trách móc tôi, người ta sẽ quy tội và mệnh danh cho tôi là “bất lương trong số người bất lương”. Nhưng không hề gì. Tôi đặt tin tưởng tất cả vào trí phán đoán cao siêu của các bạn mặc dầu nó có che lắp một ít. NHỮNG NGƯỚI NGOẠI QUỐC Ở ÂU CHÂU Các bạn ‘văn minh” thân mến của tôi. Tôi biết các bạn hay là một vài người trong các bạn, sau khi đọc cái thơ cuối cùng này sẽ có điều phản đối tôi. Các bạn nói rằng, đa số những người ở xung quanh tôi, và họ nói “ Cám ơn, ông thiệt dễ thương” và bỏ đi mất đất, mặc dầu họ có lời hứa hẹn, đều là người ngoại quốc đến ở trong xứ các bạn, và họ thuộc vào chủng tộc rất đáng ghét, rất ích kỷ trên đời này. Phải, có lẽ đúng. “Và một thiểu số đã cho ông 10.000 quan, không hỏi câu tôi phải trả bao nhiêu”? Hay là những kẻ mời ông đi du lịch ở Miền Nam trong bốn mươi lăm ngày bằng xe hơi, đài thọ tất cả phí tốn ở khách sạn, mua đồ đạc trong lúc đi đường, (số tiền này trị giá ít nhất cũng đến 500.000 quan) để tỏ lòng biết ơn đối với sự chỉ dẫn về phương pháp tiết thực hay là những kẻ đã giúp đỡ về việc xuất bản sách của ông, đó mới chính thực người đồng bào của tôi. Còn số người kia, bất nghĩa, ích kỷ, duy vật, đều là người ngoại quốc”. Phải, tôi hiểu, không nên lầm lẫn những hạn người kia với các bạn. Nhưng điều quan trọng, không phải là vấn đề chủng tộc, cũng không phải là vấn đề quốc tịch mà là vấn đề tư chất trí thức. Tôi không thừa nhận lỗi phân biệt chủng tộc của con người. Sự phân loại chủng tộc cổ điển ấy hay phân loại giai cấp xã hội của Ấn Độ, thuộc về giai đoạn thứ hai “cảm giác” của trí phán đoán, hay là giai đoạn thứ ba “cảm tình” của trí phán đoán. Điều mà tôi đề nghị cùng các bạn, nó không phải cảm giác mà cũng không phải cảm tình. Tôi đề nghị với các bạn về một sự phân loại về con người có một tính cách sâu xa hơn. Bảy loại (hay là những loại theo bảy giai đoạn của trí phán đoán: mù quáng, cảm giác, cảm tình, lý trí, xã hội, lý tưởng, và cao siêu) giai đoạn phán đoán càng thấp thì số người càng đông, việc ấy cố nhiên. Đa số thuộc về bốn hạng đầu còn thiểu số thì thuộc về ba hạng cao hơn. Và sứ mệnh của chúng ta là chỉ dẫn và mở cánh cửa phán đoán tối cao cho đa số. Không nên quên rằng thiểu số là con của đa số. Mà đa số là cội rễ, của thiểu số, của nhánh, hoa và quả. Những hoa và quả nếu không được thân cây và rễ cây nuôi dưỡng, thì không thể tồn tại được ở trên đời. Hoa sen đẹp, hoa của đức Phật, rất trong sạch, rất cao quý, nó là con của bùn lầy, rất dơ bẩn. Bề mặt càng lớn, càng rộng, càng tốt đẹp bao nhiêu, thì bề trái càng xấu, càng bất lương, càng ích kỷ bấy nhiêu. Năng lực biến đổi xấu xa thành tốt đẹp, là một điều đáng kỳ vọng, đáng khâm phục. Cái đẹp nó không bao gồm được tất cả cái xấu mà không bị ô uế, là cái đẹp của thứ nước hơi, nó không nuôi sống được vi trùng hay cá lia thia đỏ. Đó là thứ nước chết: Đó là một cách giết người trá hình, rất đáng ghét nhất, độc đoán nhất. Cái đẹp của nước biển, nó biến hoá tất cả cái ô uế thành con cá đẹp. San hô đẹp. Đó mới là cái đẹp sáng tạo chân chính. Thế ấy mới là Phật giáo đại thừa. NHỮNG KẺ GIẾT CƠ ĐỐC GIÁO LINH MỤC, MỤC SƯ, VÀ GIÁO ĐỒ Các bạn thân mến, Trong thế giới gọi là “ Cơ Đốc giáo”, người Thiên Quốc lấy làm ngạc nhiên nhất, buồn rầu thâm trầm nhất, khi tiếp xúc với những kẻ giết chết Cơ Đốc giáo: linh mục, mục sư và tín đồ. Họ đã tuyên bố với André Siegfried: “ Tất cả các xứ, mặc dù thế nào, họ đều áp dụng những phương pháp cơ khí, kỹ nghệ và cách sinh sống bề ngoài của chúng ta”. “ Những người Đông phương và Phi Châu, không áp dụng như thế về quan niệm khoa học vô vụ lợi, quan niệm cá nhân của chúng ta, đối với sự tự do của chúng ta, phê bình độc lập, và lòng từ thiện Cơ Đốc giáo của chúng ta, họ cũng không áp dụng”. Khôi hài biết bao! Tôi không phải dân Ấn Độ, Phi châu, Trung Hoa hay Nhật Bản gì cả, nhưng tôi chỉ là một người Thiên Quốc tầm thường, biết khá nhiều về xứ Đông Phương ấy, nên tôi chỉ muốn nói sự thật của các xứ ấy cho người Tây phương không biết tâm trạng gọi là “ cổ lổ”, cũng chưa biết tiếng nói, cách nói chuyện của người thượng cổ, để người Tây phương hiểu biết mà thôi. Người Đông phương, thật sự, sở dĩ mô phỏng theo cơ khí và kỹ nghệ của các ông, cách sinh hoạt của các ông, bởi vì sau khi bị chinh phục, bị tước đoạt hết cả quyền tự do dân sự, chính trị, và chỉ trích tất cả quyền lợi về sự tôn trọng phẩm giá con người, và mất sạch tài nguyên thiên nhiên, về phương diện kinh tế hoặc chính trị, thì họ không thể sống cách gì khác hơn nữa. Văn minh của người “thượng cổ” hoàn toàn bị văn minh của người “ văn minh” làm lu mờ xoá bỏ. Tất cả truyền thống đã cũ mấy ngàn năm đều bị mất gốc, theo định luật của GRESHAM. Đó là luật của người “văn minh”. Tuy nhiên họ không muốn, và cũng không thể làm mất cái kho vàng độc nhất của họ còn lại: là Đức tin về công Lý tuyệt đối. Họ đã du nhập cái quan niệm cá nhân của các “ông”, điều tôn trọng tự do của “các ông” và sự phê bình độc lập của “các ông”, cũng vì thế mà họ đã bắt đầu với sự nổi dậy chống lại điều áp bức kinh tế, chính trị, và văn hoá của các ông. Còn về lòng bác ái Cơ Đốc giáo của các “ông” lại là một chuyện khác. Cơ Đốc giáo là một sự phát minh lớn của Viễn Đông, họ cũng biết như thế lắm. Hàng triệu người “thượng cổ” đã cải tôn theo Cơ Đốc giáo (có vài ngàn người đã hy sinh tính mạng). Còn hàng triệu người “ văn minh” hoàn toàn lãnh đạm với những tôn giáo sinh ra trước Cơ Đốc giáo. Nhưng người Đông Phương, nhờ truyền thống quá uyên thâm, biết rằng tinh thần Cơ Đốc giáo, lòng từ thiện của nó chỉ là một biểu lộ ấu trĩ tình cảm, thiển cận, và lừa bịp, cho nên họ đã tách rời khỏi Cơ Đốc giáo, bởi vì họ đoán biết, trong Cơ Đốc giáo có một vài kẻ theo tà giáo hung ác, nặc mùi xú uế Nhị nguyên luận của bọn nguỵ giáo, và nguỵ thiện, Cơ Đốc giáo đã lọc lõi qua bởi tâm trạng rất Tây phương của Đông phương, rồi lại do người La Mã là đại thực dân độc ác làm biến tính, sau cùng bị một trong những người “ văn minh” dời chỗ, mà lịch sử của người văn minh ghi toàn việc đẫm máu, không thể làm thoả mãn được tâm trạng của người “ thượng cổ”, vì lịch sử của người thượng cổ không có chiến tranh và tàn sát. Cơ Đốc giáo là một cô gái hư hỏng của tâm trạng cổ lổ. Đối với người thượng cổ,Cơ Đốc giáo được tái nhập khẩu là một xác chết của người con gái yêu của họ, xác chết đã bị lột trần, cắt da xẻo thịt, sau khi bị hãm hiếp. André Siegfried, một du hành gia và nhà xã hội học được tất cả các bạn trí thức Đông phương mến phục, sau khi liệt kê những điều từ thiện của người “ văn minh”, tự hỏi: “ Có phải Tây phương đang đánh thức nàng tiên thiu ngủ trong khu rừng yên lặng không?” Cách phát biểu ý kiến theo kiểu của pháp hay biết chừng nào! Oedipe, kẻ giết cha, lấy mẹ, tự xử mình bằng cách móc mắt, và tự đem mình làm mồi cho chim kên kên… đã sống lại. Oedipe là tên cũ của tây phương, cha nó vua Laius là người Đông phương. Hoàng hậu đẹp ,vợ vua Lai us, là mẹ nó, là Cơ Đốc giáo đã treo cổ tự tử. Oedipe sống lại, là người Tây phương, đi tìm công chúa đẹp, ngủ ở rừng thanh tịnh ở Đông phương, đó là hoà bình. Đáng lẽ nó đánh thức nàng công chúa dậy, nhưng nó lại hãm hiếp công chúa mà nó không biết nàng tiên Antigone thác sinh này, chính là con gái của nó.Vì thế, hiện nay Oedipe mệnh danh cho “khoa học”, gọi là nhân quả Oedipe. Kẻ nào đang giết và đã giết chết Cơ Đốc giáo đều là hậu thân của Oedipe. Có những hạng Oedipe gọi là Linh mục, Mục sư và Tín đồ. Chúng đều không thể có đức tin thập giới. Nhưng họ có tính tự phụ, làm trái ngược hẳn lại. Họ có con mắt xem khắp nơi, cho ai cũng là “thù địch” cho đến cả người bạn hữu của họ nữa. Họ là những kẻ đã nói: “ Dĩ ân báo ân, dĩ oán báo oán”. Điều họ tự phụ là “ bình định” không chỉ khác hơn là “tàn sát”. Họ là những kẻ tự cho mình là cực khổ, và họ tin tưởng rằng, họ có thể dùng quyền lực tàn khốc kinh tế, trí thức hay xã hội, để xây dựng một đời sống sung sướng. Họ là những người tin tưởng rằng, chỉ một vài viên thuốc uống tà thuật, hay một vài mũi thuốc chích “kỳ diệu” là có thể chữa lành được bệnh tật. Họ tuyệt nhiên không biết căn nguyên của tất cả bệnh tật, đồng thời cũng là căn nguyên của tất cả sự khốn khổ: Ấy là trí phán đoán cao siêu bị che lập. Họ là những kẻ thần chết tìm đến, mặc dầu họ muốn sống. Vận mạng họ, hoặc chết vì bị vi trùng hay độc tố công phá, hoặc bị chết đói, hoặc chết trong lâu đài tối tân, hoặc bị khủng hoảng bệnh tim mà chết bất thình lình, hoặc chết vì tai nạn… Họ không biết, hay phủ nhận, hay hờ hững với Y khoa Dê du, Phật thích ca, Mahavira, Nagarjuna, các Y khoa này không những chữa lành bệnh hiện thời và vị lai, mà còn dạy cho chúng ta biết cách cầu nguyện và nhịn đói thế nào, để xây dựng nên hạnh phúc trường cửu ,tự do vô tận, và công bằng tuyệt đối nữa. Việc cầu nguyện của họ chỉ là một việc ắn mày, rất ích kỷ, rất khốn nạn, và họ không muốn nhịn đói, nhưng họ lại ít ra hai lần một ngày “ ăn lót lòng”. Họ không biết rằng không phải xin kiếm gì cả, những cái gì cần thiết cho sự sống, đều đã cho họ đầy đủ rồi. Nước, không khí, ánh sáng, những món này không những cho mà thôi, lại còn hàng ngày thay đổi cho mới. Những vật cho này không những hiện nay, mà đã có từ hằng triệu triệu năm rồi, và nếu thiếu ba món trọng yếu này, thì chúng ta không thể sống trong một phút được. Chúng ta có cầu xin nhiều ánh sáng, nước, không khí cho hằng ngày nữa không? Nếu chúng ta sở hữu những món vô cùng quý giá này, nó là món nuôi cho ta sống, phát sinh ra tất cả mọi hoạt động ở trên quả đất .Thế là chúng ta là hoàng tử kế nghiệp , thừa hưởng di sản giàu có đó rồi. Chúng ta là nghiệp chủ của nguồn giàu có vô tận. Chúng ta đã có nguồn vô tận, thì còn xin thêm cái gì nữa? Sự “cầu nguyện” chân chính là trầm tư mặc tưởng, để biết đích xác nguồn phong phú vô tận, mà chúng ta được hưởng từ khởi thuỷ vô khởi thuỷ. Sự trầm tư mặc tưởng là để biết ơn tất cả cái gì đã cho chúng ta, nó có hai loại: Âm và Dương. Nét dọc thập tự giá là biểu tượng Âm (li tâm lực) và nét ngang là biểu tượng Dương (hướng tâm lực). Sự trầm tư mặc tưởng không gì khác hơn là cái quan năng thị giác của thập tự giá, trong tất cả mọi sự việc, tất cả mọi từng lớp, mọi từng bước đi. “ Sự nhịn ăn” là huấn luyện căn bản của sự giải thoát, nó là cánh cửa mở độc nhất để đi vào trong tâm trạng quang minh, lý tưởng của tất cả nền giáo dục của Viễn Đông. Nhưng nhịn ăn như các tôn giáo bắt buộc, không phải là sự nhịn ăn không có cách phân biệt, không có cách giới hạn. Đây là sự kiêng cử những món mà người ta ưa thích nhất, nhưng không có cần thiết cho sự sống: đại loại như đường, bánh ngọt, trái cây, rượu, đổ có màu, sản phẩm có chất độc hay trái mùa, thịt, v.v…và v.v… Thuyết duy vật, Mác xít, khoa học, công kích linh mục, mục sư và thầy tu là đúng lý lắm. Những người giết chết Cơ Đốc giáo, và tất cả tôn giáo khác, đều là những bọn truyền giáo không biết đến ý nghĩa sự “ cầu nguyện và nhịn ăn”. Những kẻ giết chết Cơ Đốc giáo, linh mục, mục sư, tín giáo đồ, toàn là kẻ phản trắc Judas Iscariote tái sanh. Những kẻ bị Cơ Đốc giáo biến hình giết chết, đều là diễn viên trong vô số các vai diễn vô danh trong cuốn phim nhan đề: “ Sự diệt vong của văn minh Tây phương” NẾU CÁC BẠN CẦN THẢO LUẬN ( Bức thư cuối cùng của người thiên quốc) Ngày tháng qua mau: Tôi đã ở Âu Châu trải qua mười tháng. Một ngày gần đây, tôi cần đi Buenos Aires, Sao Paulo, Mônte video, Lima, tại đó tôi sẽ ở lại vài tháng, rồi qua New York, Chicago, Los Angeles, tại đó tôi cũng ở lại vài tháng. Sau cùng tôi cần phải đi Ấn Độ, nước Ấn Độ rất rộng, lớn hơn cả Âu Châu. Để đi khắp các thành phố nước ấy, tôi phải mất vài tháng nữa. Chót hết, tôi đi Phi châu… Đi cho khắp tất cả, ít nhất cũng mất hai năm, và tốn mất vài triệu quan mới trở lại Âu châu. Nhưng hiện thời người ta hỏi tôi bao giờ sẽ trở lại Âu châu? Muốn vậy tôi phải biến hoá thân tôi ra thành ngàn người tôi mới đi được. Tôi đã hiến cho các bạn tất cả đại bí quyết của Y khoa “ kỳ diệu” nó chữa lành tất cả chứng bệnh hiện thời và vị lai, và dạy cho các bạn biết cách xây dựng tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu và công bằng tuyệt đối trong đời sống hằng ngày với một kỹ thuật vô cùng dễ dàng, kiệm ước và ích lợi, là cầu nguyện và nhịn ăn. Và các bạn cũng đã trông thấy sự lành bệnh “ kỳ diệu” chính mình các bạn, hoặc trong số bạn hữu của các hạn. Các bạn chắc đã hiểu nhiều cái nguyên lý Vô Song, biện chứng pháp ÂM và DƯƠNG rồi .Bây giờ các bạn chỉ cần tập luyện nữa thôi. Các bạn chỉ cứ thực hành Y khoa cao siêu ấy. Các bạn sẽ thành công hay thất bại, điều đó không quan trọng lắm.Người ta không thể không bị thương. Khi tập gieo mình té xuống đất, trước khi học nhu đạo. Có lẽ các bạn cũng giết chết một vài bệnh nhân, nhưng chớ ngại. Các Y sĩ còn giết người ta chết hàng ngàn người. Các chủ tiệm ăn, tiệm làm bánh kẹo, hàng bán rượu, và những chủ làm nước ép trái cây, còn giết người hàng triệu. Các chính trị gia còn giết người nhiều hơn nữa, họ đưa thanh niên ra chiến trường. Bạn có giết người ta chết, ấy là những bệnh nhân “nan y” mà Y khoa đã từ bỏ không chữa trị. Và thật ra, với vật thực thường dùng, cũng khó hay là nói cho đúng không thế nào giết chết ai được. Nếu bệnh nhân chết đó là lỗi của họ. Sau hết, các bạn sẽ thành một “ người tự do”, sung sướng vô cùng và được yêu mến vĩnh viễn của tất cả mọi người, và muốn được như thế, không có phương pháp nào hơn cho bằng học hỏi cách thức tân tiết thực của tôi, cùng áp dụng Vô Song Nguyên lý để khai quang cái trí phán đoán cao siêu. Tôi dám nói như thế, vì sau khi xác nhận là không có lối thoát nguy nào do tôn giáo ,do cách mạng, do cải cách chính trị, hoặc xã hội, do tiền bạc, do hội nghị quốc tế, do bất cứ phong trào vận động nào, do khoa học,… được cả, huống hồ do triết lý suông. Các bạn cũng tự hiểu rõ như thế lắm. Tất cả lịch sử loài người đã chứng minh cho điều đó. Căn cứ vào những mộng ảo, để hy vọng có một lối giải thoát , ấy là chuyện hoàn toàn vô ích. Tất cả ảo tưởng tốt đẹp hay ác độc. Tất cả ảo tưởng ấy sẽ tan biến mất như mây khói. Các bạn hãy từ bỏ tất cả điều ảo tưởng ấy đi. Vậy chúng ta nên tiến vào con đường mới. mà tôi mới khám phá được, là sinh lý học, sinh vật học,và luận lý và con đường này từ bốn mươi năm nay tôi đã gửi hàng ngàn người đến đó. Đây không phải là một “ tôn giáo”, một phương pháp “khoa học”, một “ chủ nghĩa”, gì cả. Nó có tính cách cá nhân, duy vật, rất ích kỷ. Nó không phải là chủ nghĩa vị tha, hay mộng ảo, trước hết nó là thực tiễn, cấp thời và xác định. Người ta có thể thực hành khắp nơi và bất cứ lúc nào. Các bạn hãy thực hành trong vài tháng, sau rồi các bạn giải thích những điều gì mà các bạn đã làm cho những ai có ý muốn tìm hiểu. Nhưng đó cũng không phải vì người ta mà chính là vì các bạn. Nhân giải thích cho người ta các bạn được dịp cải thiện thêm. Nếu người ta không theo, đó là vì các bạn chưa hiểu rõ phương pháp này lắm. Nhưng phải cẩn thận. Đừng có làm “ thầy dạy đời”, phải làm thế nào để cho đương sự tự học và tự hiểu cái phương pháp thực hành ấy, do trí phán đoán riêng của họ. Cũng không nên đồng hoá vào đó với phương pháp và tinh thần giáo dục Tây phương, vì phương pháp này biến người ta thành cái “ máy nói”. “Đói và rét” ở khí hậu lạnh, hoặc “ nóng và khát” ở vào xứ nóng, đều là những vấn đề nan giải. Đó là tất cả những điều cần thiết cho trường học sinh lý ,vật lý và luận lý của chúng ta. Ngoài ra không có gì khác nữa. Tôi đã |
|
|
![]()
Bài viết
#13
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
gặp rất nhiều chuyện lạ lùng ở Tây phương, cũng như Y sĩ Livingstone đã gặp những việc vô cùng lạ lùng ở Hắc Phi Châu: lòng hiếu khách của dân bản xứ. Cái mà tôi tìm gặp ở Tây phương đây chính thực là không thể tưởng tượng được, không thể tin được . Ở bên tôi không ai có thể hiểu, có thể tin, có thể tưởng tượng những điều tôi đã thấy ở Tây phương. Đó là điều hoàn toàn vô tri về sự cấu tạo vũ trụ, trật tự vũ trụ, cái tuyệt đối, cái vô tận, cái trường cửu .Thế là trí phán đoán cao siêu hoàn toàn và vĩnh viễn bị che lấp, Người ta đã đánh lừa trí phán đoán cao siêu, và nhân cách hoá cái vô tận. Họ nói rằng “ Chúa tạo con người theo hình ảnh của Chúa”. Nhưng người Tây phương lại tạo Chúa thành ra hình của họ vậy. Như thế là Chúa đã bị biến thành một con thú vật, và Chúa đã mất hết danh giá của Chúa rồi. Họ không thể biết một là tuyệt đối vô tận, và trường cửu. Họ cũng không thể biết thế giới tương đối là một điểm hình học tưởng tượng của thế giới tuyệt đối Họ không biết không thể lấy khí cụ đo lường duy vật mà đo cái vô tận được. Khí cụ này chỉ có giá trị ở trong điểm kỹ hà học gọi là thế giới tương đối mà thôi. Người ta không biết trí nhớ, ý chí, phán đoán, sự sống, chân lý, tự do, hạnh phúc, trường cửu, công bằng, tuyệt đối… là cái gì ? Nói tóm lại, tất cả cái gì làm căn bản cho tất cả cái hiện hữu, chính là cái vô tri thức, nhưng nó là một sự kiện có thực.
Bằng chứng: nhờ cái tri thức hoàn toàn che lấp của Tây phương ấy, nên ở Tây phương không có tự do, công bằng,và bác ái. Nhưng luôn luôn có sự tranh chấp, gây lộn, phạm tội, giết người, chiến tranh, bệnh tật, khốn khổ, bất nghĩa, ghen ghét, sợ hãi, hoài nghi, giận hờn, cô độc, và tính ích kỷ rất xấu xa khắp nơi, luôn luôn mâu thuẫn trong khắp tất cả mọi giai tầng trong xã hội. Tự do, hạnh phúc, sinh hoạt, công lý, ở Tây phương đây, do quyền lực gọi là “ luật pháp” đảm bảo.Đối với chúng ta, đây là một điều rất khó tin: Chúa trời được bạo lực bảo hộ . Thật là một xứ quá buồn! Không có ai hiểu rằng “ càng quá công bình, thì lại càng quá bất công”. Ở Tây phương, pháp luật càng nghiêm khắc, thì lại càng mất công lý. Các bạn thân mến, nếu các bạn muốn cứu vớt cái xã hội khó chịu này, các bạn hãy thử áp dụng, một hay vài tuần lễ, phương pháp sinh lý, vật lý và luận lý của tôi, nó rất hoà bình, và không có trở ngại gì cho kẻ khác cả. Nhưng một khi đã tập theo đời sống hoà bình, yên lặng, và tràn trề vui thú của người Thiên Quốc, thì các bạn không nên công kích ai cả. “ con người không tranh chấp”, “ con người không đề kháng”. Đó là tư cách của người Thiên Quốc. Nếu các bạn còn tranh luận, ấy là trí phán đoán của các bạn còn bị che lấp. Nếu các bạn còn giết người đồng loại, ấy là các bạn là nô lệ của quỷ satan. Các bạn nên cải tiến. Nếu trí phán đoán cao siêu các bạn hoàn toàn khai minh, thế là các bạn được mạnh nhất. Các bạn không cần tranh luận tranh đấu với ai cả. Nếu các bạn muốn có trí phán đoán cao siêu hoàn toàn minh mẫn, các ban chỉ nên suy ngẫm sự cấu tạo vũ trụ ở mọi cấp bực và từng bước một. Nó là Vô Song nguyên lý ÂM DƯƠNG, tượng trưng của nó là cây thập tự giá, nhịn ăn, hay là xa lánh, hoặc thoát ly tất cả cái gì làm ưa thích… cho cảm giác các bạn, nhưng tuyệt đối không cần thiết cho sự tiếp tục đời sống, theo lời chỉ dẫn của tôi. Các bạn không nên bận tâm vào việc khác, trước hết, các bạn nên tiến thủ bất cứ giá nào, lìa bỏ tất cả những gì tuyệt đối không cần thiết cho sự sống, và gắn bó vào những cái gì có quan hệ cho sinh mệnh: không khí, nước, ánh sáng .Biểu tượng không khí là tự do vô tận, nước là thâu nhận vô hạn( vì thế mà biển không khi nào bị ô uế), ánh sáng là trí phán đoán cao siêu, và sự kết hợp biến hoá thiên nhiên của nó tạo ra “ NGŨ CỐC” và rau cải để hoà chung với sự cấu tạo vũ trụ. Nếu không có trí phán đoán cao siêu, thì không sao có tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, công bằng tuyệt đối được, nhưng lại có tất cả đau ốm, sự cực khổ, tội lỗi, và chiến tranh. Sự vô tri thức của các bạn về vũ trụ quan, với sự sáng tạo kỳ diệu của các bạn kết hợp khoa học duy vật, tạo ra “văn minh Tây phương” ngày nay. Trước hết đều bởi bản thể của bạn quá DƯƠNG, bông hoa do ăn thịt từ đời 0edipe mà sinh ra. “Văn minh Tây phương” đã văn minh hoá hoặc thực dân hoá cả hoàn cầu với quân đội “ văn minh” của nó, có sẵn tất cả những phuơng pháp kỹ nghệ và cơ khí, dùng bạo lực giết người một cách tối tân . Văn minh ấy là Frankenstein sống lại, nấp dưới lá cờ gọi là tâm trạng tự do, chế độ trao đổi và khai hoá thế giới mà văn minh đã sáng lập ra, đó là phê bình độc lập của nó, và từ thiện Cơ Đốc giáo của nó. Văn minh Tây phương thật là lộng lẫy, nó đã tiêu diệt tất cả truyền thống đã cũ mấy ngàn năm của các dân tộc khác màu da có tâm trạng “cổ lổ”, và lấy cách sinh hoạt bề ngoài của văn minh mà thay cho cách sinh hoạt cổ truyền của các dân tộc ấy. Đó là một việc chưa hề có trong lịch sử. Tuy nhiên văn minh không thể thành tựu trong việc đem du nhập cái quan niệm thế giới tương đối của nó, quan niệm cá nhân của nó, bởi vì các dân có sắc da khác màu đã có cái quan niệm riêng biệt của nó về sự cấu tạo vũ trụ vô tận, tuyệt đối và trường cửu đã cũ kỷ mấy ngàn năm rồi. Thế kỷ 20 là thế kỷ mà dân tộc khác màu sắc hoặc dân tộc có tâm trạng “ cổ lổ” nổi dậy để làm cách mạng chống lại với thứ văn minh ấy. Thế giới quan của Tây phương là thế giới tương đối, hữu hạn, duy vật, không thể nào dung nạp được cái vũ trụ quan vô tận, trường cửu, tuyệt đối của Đông phương được. Nhưng trái lại, vũ trụ quan của Đông phương có thể bao gồm cái quan niệm về thế giới Tây phương nữa. Nếu Tây phương thực hiện được cái vũ trụ quan của Đông phương, thì về mặt quốc tế không có gì trở ngại cả, và cái “ văn minh Tây phương trên thế giới” có thể tránh khỏi “ cái khủng hoảng tranh giành nhau hiện tại” (André Siegfried), bởi vì các dân tộc có màu da khác sắc đều áp dụng theo cách sinh sống bề ngoài của “ văn minh”. Đem du nhập quan niệm về vũ trụ vô tận, trường cửu và tuyệt đối của người “ cổ lổ”cho toàn thể Tây phương, thì có phần khó khăn, nhưng với cá nhân người Tây phương thì không có gì là không làm được, nếu nó chịu thực hiện cái công hiệu, cái quan trọng, cái cao thượng và cái nghĩa lý của triết lý Đông phương, là cái phương pháp đã chữa lành cho tất cả những bệnh “ nan y” mà Y khoa Tây phương đã tuyên bố từ chối không thể điều trị được. Đó là một nghĩa lý mà có lẽ các bạn chưa chịu nghĩ đến, khi các bạn cố gắng tránh cho khỏi tất cả những sự đau đớn, tất cả những sự khổ cực hàng ngày: các bạn sắp đưa ra một gương mẫu sống động của sự tự do vô tận, hạnh phúc trường cửu, và công bằng tuyệt đối cho những ông “ chế tạo hoà bình” của toàn thế giới” CÁC BẠN HÃY ĐẾN VỚI TÔI. Những con chim bay cao trên trời một cách vui vẻ! Những thú vật vui đâu trong chốn rừng xanh! Những con cá bơi lội rất tự do, và rất mềm dẻo lạ lùng ở dưới biển rộng mênh mông! Những côn trùng ca hát suốt đời với một khúc nhạc quá dịu dàng! Những vi trùng tham ăn, nhai nuốt những núi thịt! Đời người quá ngắn ngủi để trở thành nhỏ nhoi! Vì sao con người lại không như thế? Con người vui đùa trong vòng nô lệ của sự chết và sự sống? Con người đi trên máy bay, cầm sẵn một khí giới giết người, ở trên trời hữu hạn? Loài người tranh nhau và giết nhau cả ngày cả đêm ở trong rừng duy vật hay siêu hình? Con người ca hát vừa ăn vừa uống trong một chiếc tàu lớn gọi là “ khoa học”, nó từ xa đang chìm dưới đáy bể sâu? Con người tự mãn đang trôi nổi bình bồng trong bể kinh tế, đang bị vùi dập khốn khổ bởi các cơn bão tố gầm thét gọi là “ chiến tranh”? Chúng ta hãy mặc kệ, hãy làm cho họ sung sướng! Nhưng những kẻ nào thích bay lên trời của tự do vô tận, lội dưới bề của hạnh phúc, trường cửu và vui thú ở xứ Wanderland d’Alice, hoặc ở hòn đảo của giống người Lilliputs, mà đến với tôi, tôi sẽ chỉ cho họ cái cửa mở rộng lớn để đi lên chốn thiên đường tuyệt đối: sự nhận thức về việc cấu tạo vũ trụ. Các bạn “văn minh” thân mến, tôi xin chào tạm biệt… Hỡi các bạn “văn minh” thân mến, tôi xin tạm biệt. Tôi rất yêu mến các bạn, tôi muốn lưu lại với các bạn lâu hơn, hằng năm… suốt đời vô cùng tận. Bây giờ tôi rất hân hạnh nghe tiếng nói các bạn, trông thấy gương mặt rất dễ thương của các bạn. Lúc ban đầu, các bạn rất buồn rầu, rất khó chịu, nhưng bây giờ các bạn đã vui vẻ hơn. Các bạn đã tuân theo lời chỉ dẫn của tôi về phương pháp tiết thực Viễn Đông, và các bạn đã tự canh cải lại con người của các bạn. Các bạn sẽ bắt đầu một cuộc đời mới. Không có điều gì vui sướng cho tôi hơn nữa. Tôi muốn nói mười hai lần dài hơn nữa, nhưng ngày giờ, trôi qua quá mau, và biết bao nhiêu thiên hạ chờ đợi tôi ở Hoa kỳ, ở Hiệp chủng quốc, ở Uc đại lợi, ở Madagascar… Tôi sắp đi, tôi cần phải đi chưa? Phải, tôi sẽ trở lại một ngày gần đây. Trông cho mau gặp lại các bạn… Sự phân ly là khởi điểm của sự tái ngộ, cũng như sự tương ngộ hôm trước là bắt đầu cho sự xa cách hôm nay… Xin chào các bạn, tôi sẽ trở lại không sai, phải, bất cứ giá nào, vượt qua tất cả mọi khó khăn… T.B. Những bạn hữu của các bạn không hiểu và không thực hành những lời chỉ dẫn về phương pháp tiết thực của tôi, họ sẽ nói rằng, tôi công kích, chế nhạo những người “văn minh”, nhưng họ không biết tại sao tôi không công kích và chế nhạo những dân “ cổ lổ”. Sở dĩ tôi không công kích người “cổ lổ” vì họ không có gì đáng công kích .Họ toàn là người Âu hoả, hay Mỹ hoá. Tất cả họ đều như con quạ, đi lượm lông rụng của con công, rồi đem trang điểm cho mình… Nếu họ còn giận hờn,xin các bạn hãy khuyên can họ, nói sự thật cho họ biết rằng: tôi là hậu thân của Voltaire hay Samuel Butler. HẾT Nguyễn Văn Trung chỉnh sửa lần 1 17/2/2010 Xin các bạn đóng góp ý kiến—Các bạn nào có bản gốc ( tiếng Anh, tiếng Pháp) ,làm ơn gửi cho chúng tôi-Đa tạ. MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I. Ăn cướp ở Ba Lê (Paris) 6 II. Nguyên do tính hung bạo ở Tây phương 10 III. Điều mê tín trong rừng rú gọi là “văn minh” 27 Trái cây34 Nhà thờ Y dược Y khoa63 IV. Thành phố Verdun 71 Chiến tranh 79 V. Bờ bể Azur (Côte d’Azur) 81 VI. Ba thằng ăn cướp và một ông Y sĩ 96 VII. Romain Rolland và Anatole France 101 VIII. Bệnh ung thư huyết 106 Paris Thiên đường của kẻ Sát nhân và kẻ tự tử 117 IX. Sắc đẹp Ba Lê (Paris) 125 X. Bảy chuyện bí ẩn của Âu Châu 144 Du Bois Raymond - Bí ẩn của Dược liệu 150 - Thế giới chìa khóa 153 - Trà và Cơ Đốc giáo 155 - Nhân quả 157 - Số tử vi 159 -Thú vật đô hộ xã hội người “văn minh” hay là sữa thú vật. 161 -Một bí ẩn khác. 164 XI. Cuộc nói chuyện có 3 đoạn. 166 -Những người cần nghiên cứu Phật giáo 173 -Một phương pháp học Phật lý 177 -Những kẻ ưa thích xấu xa 179 -Ngôn ngữ nước Thiên Quốc. 188 XII.Sau cuộc nói chuyện-Một Y sĩ thanh niên.194 XIII.Những cuộc mạo hiểm chưa từng có. 200 XIV.Những bệnh nan y và Y thuật cao siêu 204 XV.Bầu cử- Sức mạnh- Sự ngu dốt 212 XVI. Những đứa con của người văn minh 215 XVII. Căn nguyên sự giàu có của người Tây phương 217 XVIII. Thư gửi cho một người bạn 220 XIX. Đức tin hay là pháp luật 227 XX. Tại sao nước biển mặn (thơ) 228 XXI. Sayo Matsura vị hôn thê bất diệt 230 (chuyện cổ tích) XXII.Một cặp người Ý 234 XXIII. Hùng biện là bạc, im lặng là vàng 235 XXIV. Một hột sinh ra 10000 hột 236 XXV. Chiêm bao 238 XXVI. Những kẻ sung sướng 241 XXVII. Hai người Thượng cổ bị xe hơi tông nhầm 242 XXVIII. Bạn văn minh thân mến245 -Xin chào các bạn 245 -Những người ngoại quốc ở Âu Châu 260 -Những kẻ giết Cơ Đốc giáo: Linh Mục, Mục Sư và Tín Đồ 262 -Nếu các bạn cần thảo luận 268 -Các bạn hãy đến với tôi 275 NHỮNG SÁCH CỦA PHƯƠNG PHÁP OHSAWA CÁC BẠN CẦN THAM KHẢO - Ăn cơm gạo lứt - Phương pháp tân dưỡng sinh - Vô song nguyên lý - Thời đại nguyên tử - Triết học y lý đông phương - Dưỡng sinh trong đời sống hàng ngày - 50 năm giáo dục ý chí - Bệnh ung thư và nền triết lý cực đông - Giải pháp duy nhất tạo hoà bình cho nhân loại - Bản nghi án nền văn minh tây phương - Tuyệt thực đi về đâu - Zen và dưỡng sinh - Zen và Ý thức nói về ăn chay - Dưỡng sinh liệu pháp - Đặc san Sống Vui - 4.000 năm lịch sử Trung Quốc - Hai người thượng cổ du lịch sang Âu Tây - Diệu thuật dưỡng sinh - Cẩm nang phương pháp OHSAWA. - PP Ohsawa hỏi và đáp tập 1+2. - Triết lý y học Viễn Đông. - Những nội dung quan trọng của PP thực dưỡng. - PP trường sinh và đạo thiền. - Thời đại nguyên tử và nền triết học viển đông. - Trật tự vũ trụ và “Nhân sinh quan xoắn ốc” của Herman Aihara. - Hướng dẫn thực hành về nền y học trường sinh viễn đông. - Châm cứu và nền triết học viễn đông. - Đối thoại giữa Ohsawa và môn đệ. - PP Ohsawa cứu mạng tập 1,2, 3, 4, 5. - Làm thế nào để sống vui. - Chơi giữa vô thường. CÁC ĐỊA ĐIỂM BÁN TPDS ( Xếp theo tỉnh- TP) *AN GIANG 1)Cty Lam Đạt (cô Thanh Hương).Cửa hàng thực phẩm gia đình (Family Shop) d/đ: 0913877229 (Thanh Hương).Gạo lứt sạch 100%, sắn dây nguyên chất 100%... TPHCM: 31 đường số 10, KDC Trung Sơn, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh 08. 54317454 – 08. 54317511.(qua cầu N T Phương, cầu Chánh Hưng đi đường Phạm Hùng, rẽ trái N V Linh, gần tới cầu Ông Lớn,không qua cầu, đi theo đường nhỏ bên phải,rẽ trái đi theo đường 9A, rẽ phải đường số 10 Cty Lam Đạt ở bên phải) Long Xuyên: Hiệu thuốc bắc Hùng Dũng số 15 đường Nguyễn Văn Cưng (cạnh COOP MART) 076. 3846238 NR: 076. 3845238 - D/Đ :0918621471 Email: thanhhuongld@gmail.com *BÀ RỊA- VŨNG TÀU 1) Địa chỉ tư vấn PP Ohsawa: 259/4 Huỳnh Tấn Phát, ấp Quảng Phú, Thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Đ/T: 064.3876327-0903670902 ( thầy Thuận, cô Diệp) 2) 5/23 Thủ Khoa Huân P.1, TP. Vũng Tàu, tỉnh BR-VT (anh Thiện Tâm) phía sau sân đua chó Lam Sơn, gần bệnh viện Lê Lợi và trường tiểu học Lam Sơn. Đ/T: 064. 3850469- 0909360900. 3)Nước tương cốt chùa Bảo Hải ,P. Long Tâm,TX. Bà Rịa, T. BRVT 064.3829367 4)CSTD Tâm Phúc 82 Bến Nôm, P. Rạch Dừa, TP Vũng Tàu 064. 6281923– 0915814333 5)Tương đặc nguyên chất chùa Liễu Quán 2 , ấp Phước Tấn, xã Tân Hòa, huyện Tân Thành, tỉnh BRVT 064. 3893621( qua Đại Tùng Lâm 8km về hướng VT tới khu căn cứ núi Dinh quẹo trái 1km) *BẮC NINH 1) CSTD 999 phố Chùa Dận, phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. 0241 3840559, 097537699 (anh Nguyện) 2) CSTD 25 phố Tiền An, xóm Đền Hàng Mã, chợ lớn Bắc Ninh, TP Bắc Ninh. 0241 3811400 (cô Liên) *BÌNH DƯƠNG 1) 15 Ấp 10 xã Thanh Tuyền, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương ( Cô Sáu Đàn ) (0650) 3578201 2) CSTD ấp Rạch Kiến( ấp 9) , xã Thanh Tuyền, huyện Dầu Tiếng , tỉnh Bình Dương (gần trường tiểu học Thanh Tuyền ấp 9) -Bán TPDS : 0937901982( cô Hoài Nhung), 0937909060( anh Thuần) -Bán tương miso, tương cổ truyền:0933567089( bà Tư Quán), 01684197930( bà Hai To), 01684891699( anh Phong- vào hẻm đối diện nhà thờ Rạch Kiến xã Thanh Tuyền rồi quẹo trái 30 m) 3)CSTD Cô Thơm 841 đại lộ Bình Dương,X. Chánh Mỹ, TX. TDM, T. Bình Dương( gần trạm thu phí Suối Giữa) 0650. 3825114 – 01687797795 4)CSTD cô Nga ,ấp Bà Phái, xã Long Nguyên, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Cách UB xã Long Nguyên 100m về phía Dầu Tiếng và cách điểm bán VLXD An Khang 20m về phía Mỹ Phước . 0907564658 *CÂN THƠ 1)Công ty Lam Đạt, CSTD Hồng Sơn 39/4A đường 3/2 , P Xuân Khánh, Q Ninh Kiều , TP Cần Thơ. Đ/T :0710. 3830468 - 0908332299 *ĐÀ NẴNG 1) 142/1 Thanh Long ,TP Đà Nẵng 0511. 3830766 (bà Sương) 2) Tư vấn về PP Ohsawa: -182 Triệu Nữ Vương Đà Nẵng (quán chay Đông Tây)0511.3582455, 0905980524 (ông Huỳnh Hữu Trân) 3)Quán “Thở và Cười”,TPDS. 57B đường Hải Sơn, Q. Hải Châu, TP Đà Nẵng. (cô Chi, cô Hương) 0511. 3607776 *ĐỒNG NAI 1) Nước tương cốt tịnh xá Ngọc Uyển ở cầu Hang, Biên Hòa, Đồng Nai. Đ/T: (061) 3954337. 2) K3/87A KP3, ấp Tân Bản, P. Bửu Hòa, TP Biên Hòa tỉnh Đồng Nai (gần cầu Tân Bản). Đ/T: (061)3956059- 0913813095 (anh Huỳnh Tấn Tài) 3)CSTD (cô Hạnh) Áo cưới Mỹ Duyên, chợ Suối Cát, ấp Suối Cát, xã Suối Cát, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. 0934705581. 4) Nước tương cốt chùa Thường Chiếu, huyện Long Thành. tỉnh Đồng Nai (061) 3841333. 5) CSTD Thanh Nhã, 280 ấp Long Hiệu, xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, ra khỏi chùa Long Hương rẽ phải 120m CSTD bên phải. 01225039879( cô Hiếu Hạnh), 0937709756 (anh Tuyền), 0616. 271662 . *HÀ NỘI 1) 103 ngách 2, ngõ Thái Thịnh 1, Đống Đa, Hà Nội (cô Ngọc Trâm). Đ/T: (04)38534225 – 0904006319 2)CSTD 11, ngách 612/0 , ngõ 612, Lạc Long Quân, quận Tây Hồ, Hà Nội 04. 37184424 (cô Hà) 3)CSTD Tuệ Linh, phòng 105P , nhà tạm cư phụ B4-B14 Kim Liên( khu 2 tầng sau nhà B7- đường Phạm Ngọc Thạch ), Q. Đống Đa , Hà Nội 04. 62947845 – 0987891886. 4)CSTD, quán ăn dưỡng sinh và ăn chay- cô Hằng - 1 ngõ 39 Linh Lăng, Ba Đình, Hà Nội 04. 37629506 -0983196589 ( gạo lứt đỏ ngon sạch 100% giá 19000 đ/ 1kg -tặng 2kg gạo lứt sạch /1 BN ung thư) 5)CSTD và quán ăn dưỡng sinh - bác Đông- 58 Nguyễn Khánh Toàn, P. Quan Hoa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội (cạnh chùa Duệ Tú) -04. 37676545- 0904083131 6)Thiên Nhiên Quán , 308 phố Lạc Trung, quận Hai Bà Trưng ,Hà Nội( gần tới BV Thanh Nhàn đi thẳng lên…hoặc đi đường Minh Khai rẽ vào). Khai trương 23/12/2009, bán cháo, mì, cơm lứt,…thức ăn khô… 0915309533, 04. 62910915 (cô Thủy) 7)CSTD 114 ngõ 176 Trương Định, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội. 04. 36626012(cô Dung) *HẢI DƯƠNG 1)CSTD Quán Phe, xã Hồng Hưng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.Đ/T:0320. 3715459- 01667802017( Nguyễn Đức Duyến SN: 1953) 2)CSTD Quán Trắm ,thôn Phong Lâm, xã Hoàng Diệu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Thị Gái (Chữ): 01262466595, anh Sửu: 0902145368 *HẢI PHÒNG 1)CSTD113, gác 3, Quang Trung, Hải Phòng (cô Dung pháp danh An Thanh). 031. 3838041- 01236957178. KHÁNH HÒA 1)CSTD 56 đường 2 tháng 4, P Vĩnh Phương, TP Nha Trang, T Khánh Hòa. Vợ Lê Thị Minh Truyền ,chồng Trần Ngọc Sơn. 058. 3836519- 0905297178.Có cơm lứt, cháo ,mì, bánh bèo, bánh ướt, thực phẩm khô… *LONG AN 1)CSTD , đ/c tư vấn PP Ohsawa :ấp Tây Bắc, x Tân Hòa, h Tân Thạnh, T.Long An 0986140019 ( anh Thanh Loa).Bán sỉ: gạo lứt Campuchia,trà củ sen. *NAM ĐỊNH 1) CSTD 446 Trần Hưng Đạo, phường Quang Trung, Nam Định. 035.03835346 (Phạm Thị Liên) *QUẢNG NAM 1) Hà Đông, Điện Hòa, Điện Bàn, Quảng Nam. Đ/T: (0511)3684202. D/Đ: 0906449775. (anh Nguyễn Minh Thái). *SÓC TRĂNG 1) Đại lý gạo huyết rồng SócTrăng số 27 tỉnh lộ 8 huyện Mỹ Xuyên tỉnh Sóc Trăng 079. 3851384 *TÂY NINH 1)CSTD , tổ 19, KP 2, thị trấn Tân Biên, Tây Ninh 01685132429 Sư cô Thích Nữ Huệ Hải (Nguyễn Thị Thu Nga) 2)Đại lí bột kokkoh,cốm gạo rang, tư vấn PP Ohsawa, 377 xóm 2, QL 22B , ấp Long Trung, xã Long Thành Trung, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.Chồng Huỳnh Tấn Phát, vợ Tạ Thị Hồng Vân. Đ/T: 066.2475298- 01669322890 *THANH HÓA 1)Bán sách, đĩa TD,gạo lứt sạch, rau củ sạch…và tư vấn thuốc nam, PP Ohsawa.Trần Trung Kiên( SN: 1973-thày thuốc Đông Y) đội 1, đường Thôn,xã Triệu Giang, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa 0372217494 *TIỀN GIANG 1)CSDS Tiền Giang( cô Đặng Thị Ngọc Phượng) 14 NKKN( cầu Bắc cũ), P 1, TP Mỹ Tho, T Tiền Giang ( cuối đường NKKN) 073. 3585317 – 0906965953 *TP HCM 1) 390 Điện Biên Phủ Q. Bình Thạnh ( Ngô Ánh Tuyết ) (08) 3¬¬¬¬8983809. 2) CSTD Chân Nguyên 96H Võ Thị Sáu P. Tân Định Q.1 ( Cô Nhi ) (08) 38251659.(cốm gạo lứt rang ngon nhất TPHCM) Nhà hàng TD ở lầu 1 và lầu 2( khai trương 18/10/2009) 3) 198/58 Đoàn Văn Bơ ,P. 9 , Q.4 ( Cô Lan ) (08) 38267619. 4) CSTD Thuận Nguyên 412 Kha Vạn Cân Q. Thủ Đức ( Anh Nhơn ) 0937123734. (08)37260756 ( hủ tiếu lứt, miso 3 năm rất rẻ, dầu mè nguyên chất 100%) 5)CSTD,bán sách Ohsawa, PP Ohsawa cứu mạng T1,2,3,4…Có bánh mì đen ổ tròn sạch, không dùng men thị trường ,số 458/1 Nguyễn Đình Chiểu P.4 Q.3 ( Anh Huỳnh Văn Ba ) (08) 38341815. 6) 221 Ngô Gia Tự, P.3, Q.10 ( Cô Hiền ) (08) 38305044 (tương 3 năm,dầu mè, sắn dây Quảng Trị chất lượng, nguyên chất) 7) 316 A Bùi Hữu Nghĩa , P.2 ,Q. Bình Thạnh ( Cô Diệu Thủy ) (08) 35100071- (08) 38417851 -0902000316 (Bên hông chợ Bà Chiểu) 8) 292/27/14 ( số cũ: 292/103B) Bà Hạt P.9 Q.10 ( Cô Huệ nhỏ) (08) 54052116 -0907580117 9) 357 Kinh Dương Vương P. An Lạc Q. Bình Tân ( Cô Phượng ) 0937540615-(08) 62750907. 10) 227/9 Nguyễn Đình Chính P.11 Q. Phú Nhuận ( Cô Châu ) 0982281232. 11) Chợ Gạo Trần Chánh Chiếu Q.5 gần bến xe Chợ Lớn. 12) Nước tương hạt lỏng ( tương bắc ) ở Thánh Thất Từ Vân số 100 đường Thích Quảng Đức P.5 Q. PN. Đ/T: (08) 38421779 13) 67/5C ấp Thống Nhất 2, xã Tân Thới Nhì, huyện Hốc Môn, Tp HCM. Đ/T:(08)37132460 14) Dưỡng sinh quán Chân Nguyên 82 Nguyễn Du, Q1 (6h-21h) (08) 62720096 15) 183 Nguyễn Tiểu La P.8 ,Q.10 TPHCM .Đ/T: (08) 35071762 D/Đ: 0987114367 – 0902807817 (cô Huệ). 16) 4/6c ấp Tân Thới 3, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn (gần chùa Hoằng Pháp) Đ/T: 0918839664 (cô Phim). 17) 188/2E , ấp Tân Thới 3, xã Tân Hiệp , huyện Hóc Môn (cách chùa HOĂNG PHÁP 40m) 0918198357 - (08)37132460 (A. DUY) 18) 162 Lê Sao ,P. Phú Thạnh, Q.Tân Phú,TPHCM, gần chợ p. 18( cô Sáu) 08-39787496, 0908609774 19) CSTD Xuân Dung. Cô Ly 36/13 Điện Biên Phủ-P25-QBình Thạnh, TP HCM, ĐT: (08)38035043- 01222600234. (hẻm Đống Đa, KP 3 đối diện cây xăng ở giữa bùng binh Hàng Xanh và chợ Văn Thánh ( tương 3 năm, dầu mè, sắn dây Quảng Trị chất lượng, nguyên chất) 20) Nước tương cốt tịnh xá Ngọc Phương 498/1 Lê Quang Định, P.1, Q. Gò Vấp (giáp với Q. Bình Thạnh) Đ/T: (08) 39859411 21) Đ/C tư vấn PP DS OHSAWA 351/106 Lê Đại Hành , P13, Q11 , TPHCM 08. 39622137 -0932732322 ( anh Trung và chị Khuê) Email: trung.ohsawa@gmail.com 22) CSTD 380/81/5A Lê Văn Lương P Tân Hưng Q7 TPHCM 08. 35234046- 01684110112 ( cô Lạng) 23) CSTD Tâm Phước (cô Phượng) 41/35 Sư Vạn Hạnh P 3 Q10 TPHCM 08. 22147870- 0938572715 (đối diện cao ốc A Ngô Gia Tự) 24) CSTD Minh Tâm(cô Minh Tâm) 64 Nguyễn Phúc Chu P 15 Q Tân Bình TPHCM 08. 22149232- 0938514466 25)Gạo lứt đỏ Sóc Trăng 25 Ngô Thời Nhiệm Q3 TPHCM 08. 39306199 26) Tư vấn về PP Ohsawa: -25 Võ Văn Tần Q3 TPHCM (gần Trần Quốc Thảo) 08. 39304696 (cô Yến Vỹ) 27) Lại Đình Lý TPHCM 0978340125 -bán sỉ TPDS 28) CS bán bột DD (gạo lứt, bột gạo lứt, sắn dây, bơ mè, mè rang)-369A(số cũ 5B) Lê Đại Hành P11 Q11 TPHCM- 08. 38586695 -08. 38847723- 01228901740 (cô Hoa) 29) CSTD Tâm Minh( đại lý sách dĩa Phật giáo, Ohsawa) 65 Lý Chính Thắng P8 Q3 TPHCM 08. 38483075 (cô Mỹ Hồng , Quế Thanh) 30) Photocopy KT số Hùng Dũng 485 Tô Hiến Thành P14 Q10 TPHCM (08. 38686468) – Bán sách :PP Ohsawa cứu mạng tập 1,2,3,4 ,5 và Cẩm nang trị bệnh bằng PP Ohsawa không dùng thuốc. 30 a) ĐC tư vấn PP Ohsawa TPHCM: - Anh Vũ: 08. 22451958- 0949146299 - 08. 62777990 - Anh Thạnh: 08. 38268230(NR)- 08. 38385755 (chợ) 31) CSTD Thiện Phúc 107/15A Lê Văn Thọ P9 Q Gò Vấp TPHCM 08. 54365264 - 0975392057 (cô 7) 32) CSTD Hoa Đạo 1 :số 14 Lô D c/c Lý Thường Kiệt, đường Vĩnh Viễn P7, Q11 ,TPHCM 08. 62757205 -0907720996 (cô Nhung) CSTD Hoa Đạo 2:số 13Z Lạc Long Quân P5 Q11 TPHCM( cô Trân) 08. 62772866 – 0916472226 33)CSTD Minh Quyên 242/78 Nguyễn Thiện Thuật P. 3 Q.3 TPHCM (đi đường Bàn Cờ từ ĐB Phủ tới nhà số 79 rẽ trái thì thấy CSDS Minh Quyên đầu hẻm). Cô Bình : 08. 38394962- 0908655209 .Anh Minh( tài xế Taxi): 0908337923 34)CSTD Nhân Tâm ( cô Ba Sương) 14 C Phạm Văn Bạch P.12 Q. GV TPHCM (đi 2km theo P V Bạch từ Trường Chinh) 08. 39876770- 0937769939. 35)CSTD cô Huệ Lạc( cô Nga) 266 đường Đội Cung, P. 9, Q.11 TPHCM 08. 39634231 – 0909583346 36) Nhà sách Quang Minh 416 NTMK, P.5, Q.3, TPHCM đ/t:08. 38322386 bán sỉ và lẻ sách về PP Ohsawa (do Huỳnh Văn Ba và Ngô Ánh Tuyết dịch) 37)CSTD Trí Cường( anh Hùng) 46 Lê Quang Định,P 14, Q Bình Thạnh TPHCM 08. 62791770- 0937867989 38)CSTD Liên Phụng -Tư vấn PP Ohsawa, tặng đĩa DS Ohsawa: 83/2 ấp Trung Mỹ Tây,X. Trung Chánh, H. Hóc Môn,TPHCM . 08. 37182922 , 0909944511 , 0902928245( chú Trí). . 39)Cty Lam Đạt (cô Thanh Hương).Cửa hàng thực phẩm gia đình (Family Shop) d/đ: 0913877229 (Thanh Hương).Gạo lứt sạch 100%, sắn dây nguyên chất 100%... TPHCM: 31 đường số 10, KDC Trung Sơn, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh 08. 54317454 – 08. 54317511.(qua cầu N T Phương, cầu Chánh Hưng đi đường Phạm Hùng, rẽ trái N V Linh, gần tới cầu Ông Lớn,không qua cầu, đi theo đường nhỏ bên phải,rẽ trái đi theo đường 9A, rẽ phải đường số 10 Cty Lam Đạt ở bên phải . Cách 2: cầu Nguyễn Văn Cừ- Dương Bá Trạc –cầu Kênh Xáng- đường 9A – đường 10- nhà 31 (T). Cách 3: Phú Mỹ Hưng – trạm thu phí - đại học RMIT – cầu Ông Lớn – đường 9A – đường 10 –nhà 31 (P) Email: thanhhuongld@gmail.com 40)Cơm lứt miễn phí: tiệm tạp hóa Đại Nam 71/5 đường Huỳnh Tấn Phát, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè TPHCM Đ/T: 08.37829472 (Sáng từ 9.30 10.00) (cách phà Bình Khánh 500m) 41)CSTD Huệ Tâm , đại lý sách TD ,bán sách “PP Ohsawa cứu mạng” T1,2,3,4,5 ---Số 160/6 Ông Ích Khiêm P5 Q11 TPHCM. Anh Thạch ( 08. 38616831 -0902744060), chị Vân (01212685329) có gạo lứt sạch, ngọt, dẻo, thơm… 42)Dịch giả Phạm Cao Hoàn bán sách DS và tư vấn PP Ohsawa. Đ/C: 84 B Nguyễn Văn Thạnh, P Long Thạnh Mỹ, Q 9 TPHCM Đ/T: 08. 38931832- 01284402477 43) CSTD , Quán cơm chay và DS ,bán sách “PP Ohsawa cứu mạng” T1,2,3,4 . Đ/C:D 6/49A ấp 4, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, QL1A (đối diện TT dạy nghề huyện Bình Chánh ,cách cầu Bình Điền 4km ,cách chợ Bình Chánh 300m) Đ/T:0937400018 (cô Thanh Đoan) _ 0902880900 ( tư vấn: anh Hoàng) 44)Nước tương cốt , gần đình Trường Thọ, chùa Thiên Phước, P Trường Thọ, Q Thủ Đức TPHCM- 08. 37310187 (sư Châu) 45)Bán sỉ băng đĩa DS, dầu mè ,tương lâu năm. 231/2 đường Đất Mới, P. Bình Trị Đông A, Q. Bình Tân TPHCM. Đ/T:08. 37624034 (anh Tân) *VĨNH LONG 1) Các CSTD của cô Diệu Phụng tại TXVL tỉnh V Long: -19/19 khóm 1 ,P.3 , TXVL, T. VL ( đến cầu Mậu Thân gần cây xăng, tới phòng mạch BS Lý, qua cầu Đúc rẽ trái vô 50 m) 070. 3842403- 0944412847. -Phòng khám YHCTRUYEN thuộc hội bảo trợ BN nghèo tỉnh VL 139 Lê Thái Tổ P.2 TXVL tỉnh VL 070. 2221446. -152 đường 14/9 P.5 TXVL tỉnh VL 070. 3821835 PHÒNG MẠCH Y SĨ ĐỨC (Kết hợp Đông Tây y và PP Ohsawa) 520, tổ 10, ấp Phú Thu, xã Phú Xuân, H. Phú Tân, T. An Giang. Đ/T: (076)3828136- 0903137018 PHÒNG THUỐC ĐÔNG Y NAGIA Của CHA TÁM (Kết hợp nhịn ăn và PP Ohsawa) 209 Khiết Tâm, xa lộ Xuyên Á KP 4, P. Bình Chiểu, Q. Thủ Đức. TP HCM. Đ/T: (08)37294317- 0913726515 Đại Đức Thích Tuệ Hải, Chùa Long Hương, xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, đt: (061) 3521404- 0913 819 175, website: www.chualonghuongtthai.com.vn. Hỏi đ/t: 19h21h Nhà Tình Thương chùa Diệu Hạnh ( Kết hợp nhịn ăn và PP Ohsawa –Miễn phí hoàn toàn) ở thôn Thượng 1, xã Thụy Xuân , Thừa Thiên Huế ( gần chùa Hồng Đức ở đường Minh Mạng, Huế) . Đ/T: 054. 3820350 - 0985846371 hỏi BS Quế. Tịnh am Viên Giác ở Quảng Ninh (kết hợp nhịn ăn và PP Ohsawa –miễn phí hoàn tòan).Đ/C: Cơ sở 1: tổ 9,khu 5, phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ,cách bến xe Bãi Cháy 3 km, gần tới Nhà Nghỉ Dưỡng 368 ( 50 m tới nhà Nghỉ Dưỡng) Đ/T: 0912680611 – 033. 3501149 hỏi Sư cô Viên Giác. Cơ sở 2: tổ 8, khu 10 , Cái Lân, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh Đ/T: 033. 3511312 . Nhà bà Lý (còn gọi bà Tí) nhịn ăn thôn Đại Định ( kết hợp nhịn ăn và PP Ohsawa- miễn phí hoàn toàn). Đ/C: thôn Đại Định ,xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Tây, Hà Nội.( đi xe buýt từ bến xe Hà Đông hay bến xe Giáp Bát tới ngã ba 71 Bình Đà, rồi đi xe ôm 2,5 km tới đình Đại Định hỏi bà Lý ( bà Tí ) Đ/T: 0955028289 |
|
|
![]()
Bài viết
#14
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
Trận Verdun (Trong quyển "Hai người Thượng Cổ du lịch Âu Tây", TS Ohsawa có nói tới cuộc chiến Verdun giết chết 260000 binh lính Pháp và Đức do trí phán đoán thấp kém của con người gây ra) (Theo Internet) Trận Verdun Một phần của Mặt trận phía Tây (Thế chiến thứ nhất) . Thời gian 21 tháng 2 – 18 tháng 12 năm 1916 Địa điểm Verdun-sur-Meuse, Pháp Kết quả Chiến thắng của Pháp Tình hình quay lại thế bế tắc cho quân Đức Tham chiến Pháp Đế quốc Đức Chỉ huy Philippe Pétain Robert Nivelle Erich von Falkenhayn Lực lượng Khoảng 30.000 vào 21 tháng 2 năm1916 Khoảng 150.000 vào 21 tháng 2 năm1916 Tổn thất 378.000; trong số đó 120.000 chết 350000 thương vong[1] 337.000; trong số đó 100.000 chết . Mặt trận phía Tây Frontiers – Liège – Antwerp – Cuộc đại rút lui – Chạy đua về biển – Neuve Chapelle – Ypres lần 2 – Artois lần 2 – Đồi 70 –Artois lần 3 – Loos – Verdun – Hulluch – Somme – Arras –Vimy Ridge – Aisne lần 2 – Messines – Passchendaele –Cambrai – Michael – Lys – Trận Aisne lần thứ 3 – Belleau Wood – Marne lần 2 – Château-Thierry – Hamel – Đợt phản công một trăm ngày Trận Verdun là một trận đánh chính của mặt trận phía Tây trong Thế chiến thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19 tháng 12 năm 1916 xung quanh Verdun-sur-Meuse ở đông bắc Pháp. Kết quả hơn 1/4 triệu người chết và hơn 1/2 triệu người bị thương. Trận đánh được lập kế hoạch dựa trên ý tưởng ban đầu "rút sạch máu" quân Pháp của tổng tư lệnh quân Đức là tướng Erich von Falkenhayn. Đây là trận chiến kéo dài nhất trong Thế chiến thứ nhất, và là trận đẫm máu lớn thứ hai sau Trận Somme (1916). Khẩu hiệu nổi tiếng của quân Pháp phòng thủ trong trận này là "Chúng sẽ không vượt qua" (Ils ne passeront pas) của Robert Nivelle. Giá trị của Verdun Verdun có một giá trị biểu tượng to lớn đối với nước Pháp. Trong lịch sử, nó đóng một vai trong quan trọng trong việc bảo vệ khu vực nội địa nhờ vào vị trí chiến lược trên sôngMeuse. Atilla người Hun chưa bao giờ thành công trong việc vây hãm thị trấn. Khi chia tách Đế chế Charlemagne, Hiệp ước of Verdun năm 843 đã quy định thị trấn là một phần của Thánh chế La Mã. Sau Hiệp ước Munster năm 1648 cho phép sát nhập Verdun vào Pháp. Verdun đã đóng một vai trò quan trong trong phòng tuyến được xây dựng sauChiến tranh Pháp-Phổ năm 1870. Để bảo vệ trước mối đe dọa của Đức từ phía Đông, các phòng tuyến giữa Verdun và Toul và giữa Epinal và Belfort đã được xây dựng. Verdun bảo vệ hướng xâm nhập phía Bắc vào đồng bằng Champagne và hướng tiếp cận với thủ đô Pháp là Paris. Trong năm 1914, Verdun đã đứng vững trước các cuộc tấn công của Đức, và phòng tuyến đã chịu được ngay cả các cuộc pháo kích của đại pháo Big Bertha. Các đơn vị đã được đồn trú trong các thành cổ doVauban xây dựng từ thế kỷ 17. Cuối thế kỷ 19, một hệ thống ngầm dưới mặt đất đã được xây dựng để làm công binh xưởng, bệnh viện, và cả doanh trại cho quân Pháp. [sửa]Bối cảnh trước trận đánh Bản đồ trận đánh Verdun là một mũi nhọn trong hệ thống phòng phủ của Pháp. Do sự uốn khúc quanh nhiều phía của sông Meuse, quân Pháp gặp phức tạp khi phòng thủ khu vực này. Ở đây, người Pháp cho xây dựng nhiều đồn lũy, trong đó có pháo đài Douaumont và pháo đài Vaux. Tuy nhiên, sau khi các đồn lũy ở Liège, Namur vàMaubeuge bị đạn pháo Đức phá hủy, các tướng lĩnh Pháp không còn tin tưởng vào các cứ điểm ở Verdun. Pháo binh ở Verdun bị rút đi theo mệnh lệnh vào ngày 12 tháng 8 năm 1915, làm suy yếu đi đáng kể khả năng phòng thủ của các cứ điểm. Khi đó, thống chế Joseph Joffre cần pháo binh cho một đợt phản công đang lên kế hoạch. Hệ thống phòng ngự đôi chỗ bị cắt giảm chỉ còn một dãy chiến hào, thay vì ba dãy như yêu cầu. Hệ thống hàng rào dây thép gai ở trong tình trạng tồi tệ. Quân số càng ngày càng bị suy giảm và không có tổ chức. Lực lượng phòng thủ đồn trú tại các pháo đài bị cắt đến mức chỉ còn khoảng vài chục binh sĩ mỗi nơi. Mặt khác, tình hình yên tĩnh trong ở đây một vài tháng đó làm sự sao lãng chú ý của tướng lĩnh Pháp vào khu vực này. Không ai nghĩ đến một đợt tấn công của người Đức nhằm chiếm đất. Bên cạnh đó, có hai hệ thống đường tiếp tế hậu cần cho Verdun, một từ Nancy và một từ Bar-le-Duc. Nhưng tuyến đường từ Nancy đến đây đã bị quân Đức cắt đứt khi chiếm Saint-Mihiel năm 1914. Do vậy, nguồn tiếp liệu duy nhất của Verdun là tuyến đường sắt nối từ Bar-le-Duc đến đây. Tuy nhiên, tuyến đường sắt này lại không đủ điều kiện cho việc vận chuyển các vũ khí hạng nặng. Bên cạnh tuyến đường sắt này là một con đường hàng tỉnh. Thêm vào đó là khả năng thông tin liên lạc yếu kém của quân Pháp với tuyến sau, tất cả càng làm cho cụm cứ điểm Verdun trở nên yếu ớt. Sau khi Đức thất bại trong việc giành chiến thắng trong năm 1914, cuộc chiến nhanh chóng sa lầy vào bế tắc. Chiến tranh chiến hào đã được phát triển và không một bên nào có thể vượt qua. Trong năm 1915 mọi nỗ lực nhằm phá vỡ bế tắc của quân Đức tại Ypres, của quân Anh tại Neuve Chapelle và của quân Pháp tạiChampagne đã thất bại với con số thương vong khủng khiếp. Tổng tham mưu trưởng quân Đức, tướng Erich von Falkenhayn tin rằng mặc dù một bước ngoặt lớn có thể sẽ không bao giờ xảy ra, tuy nhiên người Pháp vẫn có thể bị đánh bại nếu phải chịu đựng quá nhiều tổn thất. Ông do vậy đã chuẩn bị kế hoạch tấn công vào một vị trí mà người Pháp không thể rút lui, vừa do lí do chiến lược, vừa vì thể diện quốc gia. Do vậy, người Đức hy vọng dồn một gánh nặng của cuộc chiến tiêu hao sinh lực đối phương lên vai người Pháp. Thị trấn Verdun sur Meuse được chọn làm vị trí "chích máu" vì tính chiến lược của nó: Verdun này được bao vây bằng một vòng các pháo đài phòng thủ nhưng bị cô lập ba phía. Thông tin liên lạc của quân Pháp ở đây rất nghèo nàn. Nó là một cứ điểm quan trọng của người Pháp lấn sâu vào trong phòng tuyến quân Đức. Mặt khác, thị trấn này bảo vệ con đường tiến trực tiếp đến Paris. Chiếm được Verdun sẽ uy hiếp trực tiếp đến các nhà máy sản xuất pháo binh ở Briey-Thionville và khu công nghiệp sắt ở Metz, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền công nghiệp quốc phòng Pháp. Verdun là một biểu tượng quốc gia của Pháp, người Pháp thà chết chứ không thể rút lui. Quân Đức không phải di chuyển nhiều quân trong khu vực, nếu không vị trí được chọn sẽ là Somme. Quân Đức có đường xe lửa phục vụ hậu cầu chỉ cách đó 20 dặm, trong khi quân Pháp chỉ có một con đường tiếp liệu duy nhất từ Bar-le-Duc đến Verdun. Do vậy, Verdun được xem như một phương tiện nhằm phá hủy tiềm lực quân đội Pháp hơn là một chiến dịch quân sự thông thường. Trong thư gửi cho hoàng đế Đức Wilhelm II, von Falkenhayn viết: "Chuỗi phòng thủ ở Pháp đã xuất hiện điểm yếu của nó. Một bước ngoặt lớn, cái mà trong bất kì trường hợp nào đều vượt khỏi khả năng của chúng ta, là thực sự không cần thiết. Bên trong tầm với của chúng ta, đó là mục đích ép bộ tổng tham mưu quân Pháp phải ném đến người lính cuối cuối cùng mà họ có. Nếu họ thực sự làm như vậy, quân đội Pháp sẽ bị trích máu cho đến chết" Tướng Erich von Falkenhayn tập trung khoảng 72 sư đoàn với 10 sư đoàn trực tiếp tham gia trận đánh 10 sư đoàn dự trữ tuyến 2. Kế hoạch tấn công Verdun mang tên Chiến dịch Tòa án (Operation Gericht). Việc tập trung quân này không thoát khỏi sự chú ý của quân Pháp, trung tá Émile Driant chỉ huy tiểu đoàn bộ binh 56 và 59 đã thông báo cho tổng chỉ huy quân Pháp về khu vực này. Thống chế chỉ huy quân đội Pháp lúc đó là Joseph Joffre liền gửi một lực lượng công binh đến để chuẩn bị. Tuy nhiên, tướng Herr chỉ huy ở Verdun phàn nàn "Mỗi khi tôi yêu cầu tăng cường lực lượng pháo binh, tổng hành dinh lại rút đi của tôi 2 khẩu pháo". Đến giữa tháng 1 năm 1916, sự chuẩn bị của quân Đức về cơ bản đã hoàn thành. Thông tin tình báo này đã được Phòng nhì Tình báo Quân đội Pháp (2è bureau) thuộc bộ tổng tham mưu quân đội Pháp xác nhận, bằng không ảnh và qua khai thác quân đảo ngũ người Alsace và người Lorraine, tuy nhiên tướng Joseph Joffre vẫn làm ngơ. Mặc dù Verdun được phòng thủ sơ sài do pháo binh hạng nặng đã được di chuyển khỏi các pháo đài, nhưng do thông tin tình báo tốt cộng với sự chậm trễ tấn công của quân Đức vì lí do thời tiết xấu đã cho phép quân Pháp tăng cường hai sư đoàn 72 và 51 của Tập đoàn quân 30 vào vị trí. [sửa]Trận chiến [sửa]Giai đoạn 1 Pháo đài Douaumont Vào 7h sáng ngày thứ năm, 21 tháng 2 năm 1916, tự tin vào sự vượt trội của pháo hạng nặng của mình, quân Đức mở màn trận đánh bằng một pháo kích dữ dội kéo dài 9 giờ rưỡi với hơn 1.000.000 lượt pháo kích trên toàn chiến tuyến dài 40 km của 1.200 khẩu pháo các loại, bao gồm 542 pháo hạng nặng, với hy vọng nhanh chóng đập tan quân Pháp và san bằng toàn bộ phòng tuyến. Tổng cộng quân Đức đã bắn khoảng hơn 2.000.000 viên đạn pháo trong vòng 2 ngày đầu tiên của cuộc chiến. Vào khoảng 16h cùng ngày, 2 sư đoàn quân Đức tấn công trên một trận tuyến dài 6 km ở Bois des Caures. Pháo binh Đức tiến hành cơ động theo ngay, nhằm tăng tầm hoạt động. Sau khi triển khai tiếp ngay trên địa hình đã cắt đứt liên lạc giữa hai tuyến của quân Pháp. Quân Pháp ở Bois des Caures hoàn toàn bị nghiền nát dưới trận mưa đạn pháo. Chỉ sau vài tiếng đòng hồ pháo kích, toàn bộ khu rừng cây biến mất dưới trận mưa đạn. Quân Pháp với hai trung đoàn kị binh nhẹ 56 và 59 gồm 1300 quân với súng trường, lựu đạn và lưỡi lêdưới sự chỉ huy của Émile Driant, đã tuyệt vọng chống trả 60.000 quân Đức với pháo binh hạng nặng trong vòng hai ngày. Lần đầu tiên, quân Đức sử dụng súng phun lửa để làm sạch các chiến hào. Ngày 23 tháng 2, Bois des Caurers thất thủ, Driant tử trận cùng với khoảng 1200 binh lính, quân Pháp chỉ còn khoảng 100 người sống sót. Tuy nhiên, khoảng thời gian quý báu hai ngày đã cho phép quân Pháp tăng cường phòng thủ Verdun. Tuy nhiên, quân Đức tiến quân rất chậm. Thực tế là việc sử dụng pháo binh của quân Đức có lợi trong giai đoạn đầu nay lại gây ra những phiền phức cho lực lượng tấn công. Địa hình bị cày nát trở nên không ổn định và nguy hiểm. Quân Đức liên tục phải tiến quân theo hàng dọc nhằm tránh những chướng ngại vật. Trái ngược hẳn lại tất cả những dự tính, quân Đức gặp phải những ổ đề kháng của quân Pháp trên đường tiến quân. Tại những vị trí tưởng chừng đã thất thủ của quân Pháp, những người sống sót tập đã trung lại và tấn công. Có lúc chỉ một khẩu súng máy đủ chặn bước một trung đoàn. Quân Pháp trong tình trạng thảm hại của mình đã kiên trì chống trả và làm chậm đáng kể bước tiến của quân Đức. Ngày 24 tháng 2, hàng phòng ngự thứ 2 của quân Pháp bị chọc thủng. Một phòng tuyến mới của quân Pháp được hình thành với 270 khẩu pháo cố gắng đáp trả. Hai sư đoàn Pháp nhanh chóng được gửi tới tăng viện cho lực lượng ngoài phòng tuyến. Cùng với những người sống sót sau trận pháo kích, họ đã chặn bước tiến của quân Đức. Ngày 25 tháng 2, trung đoàn 24 Brandenburg quân Đức chiếm pháo đài Douaumont, với 60 quân phòng thủ. Đây được xem làm một diễn biến bất ngờ cho quân Đức, khi một lính Đức bị sức ép của pháo hất xuống hào của pháo đài. Anh ta quyết định bò vào bên trong pháo đài và phát hiện ra bên trong duy nhất chỉ còn một người lính Pháp phòng thủ. Pháo đài này được xem như trung tâm của hệ thống phòng thủ Pháp. Đây là như một chiến thắng quan trọng cho quân Đức và là một thảm họa của quân Pháp. Từ đây, pháo của quân Đức ở Douaumont chĩa trực tiếp đe dọa Verdun. Sự thất thủ của thị trấn tưởng chừng là một điều hiển nhiên. Vì vậy, quân Pháp phản kích quyết liệt nhằm tái chiếm lại pháo đài này. Trong suốt thời gian của cuộc chiến, hai bên đã giao chiến với nhau 13 lần ở khu vực pháo đài này. Giai đoạn 1 của trận Verdun kết thúc. Tuy nhiên những mục tiêu ban đầu của tướng von Falkenhayn đã không đạt được. Đó là một mặt trận bị giới hạn, địa hình tiến quân quá phức tạp. Mặt khác, sự tan rã của quân Pháp đã chứng minh cho kế hoạch ban đầu của quân Đức. [sửa]Giai đoạn 2 Quân Pháp dưới chiến hào ở cao điểm 304 Tối ngày 24 tháng 2, tổng tham mưu trưởng quân Pháp, tướng Noël Édouard de Castelnau khuyên tướng Joseph Joffre gửi ngay tập đoàn quân số 2 dưới sự chỉ huy của đại tá Phillipe Pétain ra mặt trận. Đây là tập đoàn quân dự trữ chiến lược, đặt dưới sự chỉ huy của Pétain từ năm 1915. Joffre quyết định cử Pétain làm tổng chỉ huy mặt trận Verdun. Pétain là một con người thực dụng, ông quyết định tăng cường hỏa lực pháo binh cho chiến tuyến. Hàng phòng thủ của quân Pháp được tổ chức lại, tạo thành một tuyến nối hai bờ sông Meuse. Các pháo đài cũng được tăng cường hỏa lực. Bên cạnh đó, ông cũng tăng cường hỗ trợ hậu cần. Ngày 27 tháng 2, quân Đức bắt đầu tấn công vào làng Douaumont nhưng bị liên tục bị đẩy lùi. Thời tiết xấu với mưa tuyết nặng hạt và sự phòng ngự bền bỉ của trung đoàn 33 bộ binh Pháp đã cầm chân quân Đức tại đây. Sau một tuần giao chiến quân Đức chỉ chiếm được phần phía trái của làng. Điều này đã giúp cho quân Pháp kịp chuyển 90.000 quân và 23.000 tấn vũ khí ra đến Verdun qua tuyến đường giữa Bar-le-Duc đến Verdun. Đây là tuyến đường huyết mạch duy nhất nuôi sống phòng tuyến Verdun, được mệnh danh là Con đường thần thánh (La Voie Sacrée). Mặt khác, trái với đề nghị của các chỉ huy khu vực, Pétain ra lệnh cấm tổ chức bất kỳ cuộc phản công nào để tránh tổn thất lực lượng. Tương tự như nhiều cuộc phản công khác ở mặt trận phía tây, lực lượng Đức bị dần mất uy lực yểm trợ của pháo binh. Do bị pháo kích liên tục, địa hình mặt trận bị biến thành một biển bùn dẫn tạo nên khó khăn lớn cho sự di chuyển của pháo binh. Mặt khác, các mũi tiến công của quân Đức rơi vào tầm bắn của pháo binh Pháp ở bờ tây của sông Meuse. Tập đoàn quân số 5 của Đức tấn công theo số lượng lớn ở hướng nam của bờ đông sông Meuse, càng ngày càng gặp phải tổn thất nặng hơn. Lực lượng này liên tục bị tấn công tạt sườn bởi pháo binh của Pétain ở bờ tây. Ngày 2 tháng 3, khi chiếm được làng Douaumont, toàn bộ 4 trung đoàn của quân Đức đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Không có khả năng tiến quân xa hơn, ngày 6 tháng 3, quân Đức quyết định chuyển hướng tấn công. Bên bờ tây (bờ trái) sông là các cứ điểm Le Mort Homme, Bois des Bourrus, Bois de Cumière và Bois des Corbeaux. Các đơn bị đặc biệt tinh nhuệ của quân Đức vượt sông Meuse ở Brabant và Champneuville. Mục tiêu chính là các cứ điểm đồi 304 và đồi Le Mort Homme là nơi tập trung các trọng pháo Pháp. Không chiếm được hai cứ điểm này, quân Đức không thể uy hiếp được Verdun từ cánh phải. Kết thúc ngày 6 tháng 3, lực lượng tấn công Đức đã hội quân được với lực lượng vượt sông. Trong ngày này cứ điểm Bois des Corbeaux thất thủ, quân Đức tiến sâu thêm và bắt rất nhiều tù binh Pháp và đặt hàng loạt đơn vị Pháp trong vòng vây. Đây được xem như bước tiến quan trọng của người Đức từ đầu chiến dịch. Nhưng cũng từ thời điểm này, quân Pháp sau khi bị đánh tan đã xốc lại đội hình và hai bên giành giật nhau từng thước đất. Sáng sớm ngày 8 tháng 3, quân Pháp tổ chức phản công chiếm lại Bois des Corbeaux khiến quân Đức phải hủy bỏ kế hoạch sử dụng đây như bàn đạp tấn công đồi Le Mort Homme. Đến ngày 9 tháng 3 quân Đức tiến công cứ điểm Le Mort Homme. Nhưng ở đây họ lại phơi mình trực tiếp ra trước tầm đạn pháo của người Pháp và tiếp tục chịu một tổn thất khủng khiếp. Sang đến ngày 10 tháng 3, người Đức lại chiếm lại Bois de Corbeaux với cái giá là 70% lực lượng tấn công. Sau 5 ngày tấn công liên tục, quân Đức hoàn toàn kiệt quệ và không còn khả năng tấn công. Sang đến ngày 14 tháng 3, quân Đức với lực lượng tăng viện tiếp tục tổ chức tấn công vào đồi Le Mort Homme. Trận đánh được bắt đầu bằng một cơn mưa pháo kích xuống đầu quân phòng thủ và và tiếp đó vũ khí hóa học. Quân phòng thủ Pháp chiến đấu dũng cảm đến người cuối cùng nhưng không thể ngăn cản được bước tiến của quân Đức. Họ bị đẩy khỏi đỉnh Le Mort Homme, tuy nhiên vẫn trụ lại ở sườn phía nam của quả đồi. Trong khi đó, quân Pháp sử dụng cao điểm 304 làm nơi yểm trợ hỏa lực cho đồi Le Mort Homme. Pháo binh ở đây bắn với sự chính xác cao độ, gây nên những thiệt hại không nhỏ cho quân Đức. Do vậy, người Đức hiểu rằng muốn chiếm được Le Mort Homme, phải tiêu diệt được 304. Đến ngày 20 tháng 3, cao điểm 304 hoàn toàn bị sư đoàn 11 Bavaria của Đức bao vây. Kế đó quân Pháp tiếp tục bị sư đoàn 11 quét sạch khỏi Bois d'Avocourt và các làng Malancourt và Bethincourt. Mặt khác, ở bờ đông (bờ phải) của sông Meuse, quân Đức cũng tổ chức tấn công vào pháo đài Vaux. Tuy nhiên do chậm chễ về hậu cần đã làm chậm kế hoạch tấn công của người Đức. Ngày 7 tháng 3, quân Đức với 5 sư đoàn từ pháo đài Douaumont tổ chức tấn công vào các cứ điểm bờ phải sông là pháo đài Vaux, Côte du Poivre và Avocourt. Tuy nhiên trước sự chuẩn bị chắc chắn của người Pháp, quân Đức đã không tiến sâu được nhiều. Họ chỉ chiếm được những làng ở ngoại vi Vaux và bị chặn đưng ở Côte du Poivre. Đây được xem như mốc son cho sự phòng thủ của người Pháp. Sang đến ngày 9 tháng 3, quân Đức chỉ tiến đến sát được hào của pháo đài Vaux. Người Pháp đã rút kinh nghiệm từ pháo đài Douaumont, Pétain đã vũ trang đầy đủ lại tất cả những pháo đài còn lại của mình. Kết thúc giai đoạn 2 của cuộc chiến, mặc dù có những thành công nhưng quân Đức không tạo được một bước ngoặt nào thực sự quan trọng. Họ bị chặn trên toàn bộ trận tuyến. Đây là những trận đánh cực kì đẫm máu, với tổn thất khủng khiếp về người cho cả hai bên với. Phía quân Đức là 54.000 người và phía quân Pháp 65.000 người chỉ trong tháng 3. Trung bình mỗi ngày có khoảng 4000 người thiệt mạng. Những trận đánh này được mệnh danh là "chiến tranh của những chiến tranh". Hàng loạt đơn vị Pháp bị xóa sổ gần hoặc phải xây dựng lại gần như hoàn toàn. Pétain yêu cầu sự chi viện của Joffre nhưng ông này đang chuẩn bị tập trung quân trận đánh ở Somme sau này. Điều này làm Pétain tuyên bố "Bộ tổng chỉ huy gây cho tôi nhiều phiền phức hơn là kẻ thù" (Le GQG me donne plus de mal que les Boches). [sửa]Giai đoạn 3 Ngày 9 tháng 4, người Đức thay đổi chiến thuật tấn công, họ tổ chức tấn công đồng loạt trên tất cả các cứ điểm. Bên bờ tây người Đức tổ chức tấn công cùng lúc vào cao điểm 304 và đồi Le Mort Homme. Cùng với quân số và khí tài tăng viện, tướng Đức Max von Gallwitz nhận được lệnh phải quét sạch quân Pháp ở đây. Trong khi đó, quân Pháp hoàn toàn kiệt quệ và không còn lực lượng dự trữ. Tuy nhiên hỏa lực mạnh của pháo binh quân Pháp đã đẩy lùi quân Đức tại đồi Le Mort Homme. Quân Đức chỉ chiếm được phần chân đồi và cao điểm thấp nhất với một tổn thất lớn về nhân mạng, các cao điểm quan trọng vẫn nằm trong tay người Pháp. Đây được xem như trận đánh khốc liệt nhất ở bờ tây sông. Lực lượng tham chiến cả hai bên chỉ còn 1/10. Tại cao điểm 304, người Pháp vẫn tiếp tục đứng vững. Bên kia sông, quân Đức nỗ lực chiếm pháo đài Vaux, sang đến ngày 10 tháng 4, người Đức chiếm được đống đổ nát của khu làng Vaux. Pétain nổi tiếng với mệnh lệnh ngày hôm đó "Những đợt tấn công điên cuồng của quân đội đế chế Đức đã bị đập tan khắp nơi. Dũng cảm lên, chúng ta sẽ có chúng" (Les assauts furieux des armées du Kronprinz ont partout été brisés. Courage... on les aura). Từ cao điểm 304, người Pháp sử dụng hỏa lực từ các khí cầu và máy bay khiến cho quân Đức không thể thiết lập các vị trí phòng thủ cũng như bố trí pháo binh tấn công. Trong 12 ngày kế tiếp, trời mưa liên tục đã biến bãi chiến trường thành một biển nước ngập đến đầu gối. Sau đó các trận phản kích của quân Pháp đã đẩy quân Đức ra khỏi các cao điểm 304 và Le Mort Homme. Cho đến hết tháng 4, trên toàn mặt trận không có một trận đánh nào đáng kể. Tập tin:Mitailleurgroep-verdun.jpg Lính Đức với mặt nạ chống hơi độc Cũng trong thời gian này, tướng von Gallwitz đã thuyết phục thành công chỉ huy của mình là tướng Schmidt von Knobelsdorf với quan điểm sẽ là vô nghĩa nếu tấn công đồi Le Mort Homme khi chưa hạ được cao điểm 304. Người Đức âm thầm chuẩn bị cho một trận đánh mới. Tướng von Gallwitz, nguyên là một sĩ quan pháo binh, quyết định tập trung hỏa lực pháo cho trận đánh này. Hơn 500 khẩu pháo được tập kết trong một khu vực có chiều ngang chưa đầy 2 km. [sửa]Giai đoạn 4 Pháo đài Vaux Bia tưởng niệm những người trấn thủ pháo đài Vaux Đến thời điểm này, bộ tham mưu quân Đức bắt đầu cảm thấy lo ngại về sự suy giảm chất lượng chiến đầu của quân sĩ ngoài tiền tuyến. Người Đức đưa một binh đoàn ra tiền tuyến trong vòng nhiều tháng liền. Các thiệt hại được bổ sung bằng các tân binh trẻ 18 tuổi, hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến đấu. Vì vậy, khả năng sống sót của họ là không cao. Người Pháp thì ngược lại. Pétain sử dụng chiến thuật quay vòng. Mỗi một sư đoàn quân Pháp chiến đấu ở mặt trận trong một thời gian ngắn, rút về tuyến sau và được thay thế bằng một sư đoàn khác. Do vậy, quân Pháp luôn có lực lượng mới để chiến đấu, khoảng 70 trên tổng số 95 các sư đoàn của Pháp đều đã chiến đấu ở Verdun, trong khi chỉ có 25% quân Đức tham dự ở trận này. Một câu phổ biến trong quân đội Pháp thời kì này là "Verdun, tôi đã ở đó" (Verdun, j'y étais). Tuy nhiên, đến đây lại xảy ra lục đục ở bộ tổng tham mưu quân Pháp. Tướng Pétain bất hòa với tướng Joffre về quan điểm phòng ngự. Joffre cho rằng Pétain quá thụ động, quan trọng hơn khi Pétain yêu cầu kéo dài thời gian nghỉ ngơi cho binh sĩ, Joffre đã cho rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch phản công ở Somme. Cuối cùng, Pétain bị điều lên làm tổng chỉ huy tập đoàn quân trung tâm, vị trí của ông ở Verdun được thay thế bằng Robert Nivelle, một viên tướng thiên về quan điểm tấn công. Cánh tay phải Nivelle là tướng Charles Mangin, được mệnh danh là "gã đồ tể", với lí do luôn yêu cầu thực hiện những cuộc tấn công không ngừng nghỉ nhằm chiếm lại pháo đài Douaumont. Sáng ngày 3 tháng 5, người Pháp chịu tổn thất kinh hoàng nhất từ đầu trận đánh khi 500 khẩu pháo cùng tấn công trong vòng 36h liên tục xuống đỉnh 304. Trận pháo kích khủng khiếp này thậm chí làm cao điểm 304 thấp đi 7 m. Phòng tuyến quân Pháp trở nên hỗn loạn trong cơn mưa đạn. Vào đêm thứ hai của cuộc pháo kích, quân Đức dễ dàng chiếm được cao điểm 304 khi quân Pháp đã bị bẻ gãy. Tuy nhiên, họ lại mất tiếp ba ngày với những trận đánh giáp lá cà đẫm máu trước khi hoàn toàn nắm giữ được cao điểm này. Tổng cộng đã có khoảng 10.000 lính Pháp chết tại cao điểm này. Sau khi cao điểm 304 thất thủ, số phận của Le Mort Homme nhanh chóng được định đoạt. Tất cả các họng pháo của quân Đức chuyển mục tiêu mới. Một cơn bão lửa tương tự dội xuống đồi Le Mort Homme, quân Pháp ở đây hoàn toàn sụp đổ. Sự hỗn loạn xảy ra cả ở phía quân Đức, 13 trung đoàn quân Đức trên tuyến phòng ngự mất hoàn toàn liên lạc. Máy bay trinh sát xác định cột khói bụi ở Le Mort Homme có độ cao đến 800 mét. Trong khi đó, bên bờ đông của sông Meuse, một tai nạn kinh hoàng khác xảy ra cho quân Đức tại pháo đài Douaumont. Sáng ngày 8 tháng 5, do bất cẩn khi chuẩn bị bữa sáng, kho xăng của súng phun lửa phát nổ, tạo ra một tiếng nổ khủng khiếp. Vụ nổ này phủ một lớp bồ hóng lên rất nhiều binh lính Đức sống sót. Bị trấn động bởi tiếng nổ, quân Đức nhầm lẫn những người lính Đức với khuôn mặt đen bóng vì bồ hóng với binh lính thuộc địa da đen của quân Pháp. Người Đức liền nổ súng vào chính những đồng ngũ của mình. Kết thúc ngày hôm đó, cùng với hậu quả của vụ nổ kho lựu đạn và súng phun lửa, người ta đếm được hơn 700 xác chết. Những người chết được cho vào một căn phòng trong pháo đài và xây tường bít kín lại. Ngày nay bức tường và di thể của những người lính Đức vẫn còn trong căn phòng đó. Sự cố này ảnh hưởng nghiêm trọng đến kế hoạch tấn pháo đài Vaux, Bois de la Caillette và cụm phòng thủ Thiaumont của người Đức. Đến thời điểm này, người Đức nhận thấy, không chỉ quân Pháp, chính họ cũng đang bị "trích máu cho đến chết" trong cuộc chiến khủng khiếp này. Ngày 13 tháng 5, sau cuộc họp của bộ tổng tham mưu, quân Đức đã quyết định thay đổi hướng tấn công. Dựa trên tình hình, người Đức quyết định để cánh quân ở bờ tây nghỉ ngơi, và triển khai tấn công ở bờ đông với hai sư đoàn của tập đoàn quân số 3. Từ đó, mục tiêu kế tiếp của người Đức là pháo đài Vaux. Tuy nhiên, quân Pháp lại tổ chức phản công trong sự kinh ngạc của người Đức. Từ ngày 16 đến ngày 22 tháng 5, pháo đài Douaumont bị pháo kích nặng nề. Lực lượng cả hai bên sử dụng súng cỡ lớn và lựu đạn hóa học, rạng sáng ngày 22 tháng 5, hai trung đoàn dưới sự chỉ huy của tướng Charles Mangin chiếm được nóc của pháo đài Douamont, và thậm chí là được một phần của pháo đài. Pháo binh của hai bên hoạt động hiệu quả đến mức lực lượng cả hai bên bị đều bị cắt khỏi hậu quân. Trong số 200 quân tấn công, chỉ có 40 quân Pháp có khả năng đến được mái pháo đài. Sau hai ngày quyết đấu đẫm máu với những trận giáp lá cà mặt đối mặt, quân Đức phòng thủ được tăng viện, trong khi quân Pháp bị đẩy bật khỏi pháo đài do kiệt quệ về vũ khí và bị tràn ngập về số lượng. Hơn 1000 quân Pháp bị bắt làm tù binh. Kết cục toàn bộ lực lượng tấn công chỉ còn vài người sống sót quay về tới Verdun. Trận đánh này đã gây ra một hậu quả tâm lí khủng khiếp cho người Pháp, tướng Mangin ngay lập tức bị cách chức. Ngày 1 tháng 6, bằng việc sử dụng tập trung súng phun lửa và pháo binh, quân Đức chiếm được Bois de la Caillette, Bois Fumin thẳng đường tiến đến pháo đài Vaux. Mất cứ điểm này, pháo đài Vaux bị nguy hiểm do không còn hỏa lực hỗ trợ. Quân Pháp ở đây có 600 quân, dưới sự chỉ huy của thiếu tá Sylvain Raynal. Rạng sáng ngày 2 tháng 6, pháo đài Vaux hứng chịu một trận bão lửa của quân Đức với khoảng 1500 đên 2000 quả/giờ. Quân Đức hoàn toàn bao vây pháo đài và chiếm một số cửa. Cuộc chiến ác liệt diễn ra, giành giật nhau từng đường hầm một. Sự phòng thủ từ pháo đài và phòng tuyến cộng với sự yểm trợ chính xác của pháo binh, tạo thành một hàng rào chặn bước tiến quân Đức. Sylvain Raynal tổ chức phòng thủ kiên cường trong điều kiệu không còn vũ khí và đặc biệt cạn kiệt nước uống. Đến ngày 7 tháng 6, khi tình hình không còn có thể kiểm soát nổi, Raynal quyết định đầu hàng với điều kiện bảo toàn danh dự của toàn bộ lực lượng đồn trú. Người Đức chấp nhận, đích thân hoàng tử Đức, Friedrich Wilhelm Victor August Ernst ra đón chào Raynal, tặng ông một thanh kiếm để bày tỏ lòng ngưỡng mộ. Sau này, ba người Driant, Pétain và Raynal được coi là những người hùng của nước Pháp trong trận Verdun. Liền sau vài ngày sau đó, quân Pháp tổ chức phản công chiếm lại pháo đài nhưng không được và phải chịu một tổn thất nặng nề. Kết quả là Nivelle bị Pétain nghiêm cấm tổ chức bất kì cuộc phản kích nào. Sau đó, pháo đài Vaux trở thành một cứ điểm vững chắc của quân Đức. [sửa]Giai đoạn 5 Ngày 22 tháng 6, ba tập đoàn quân Đức tổ chức tấn công dọc phòng tuyến Fleury và pháo đài Souville. Sau khi pháo kích với khí gas mới, và sự im lặng của quân Pháp, quân Đức tiến quân. Trái với sự mong đợi, đợt pháo kích mở màn gây ra rất ít tổn thất cho người Pháp. Cuộc chiến diễn ra ác liệt nhất tại làng Fleury, binh lính hai bên giành nhau từng thước đất. Sau hai ngày giao chiến quân Đức chiếm cứ điểm Thiaumont. Pháo đài Souville vẫn đứng vững. Vào thời điểm này, quân Pháp tại thị trấn Verdun đã rơi vào tình trạng hoảng loạn. Pétain và Nivelle thậm chí đã tính đến việc rút lui toàn bộ bờ tây sông Meuse. Tuy nhiên, Pétain e ngại việc rút quân sẽ gây ra một tâm lý hoảng loạn cho người Pháp. Bộ tổng chỉ huy Pháp lúc này chấp nhận bảo vệ Verdun bằng mọi giá, thất bại của Verdun bị coi là thất bại của nước Pháp. Để trấn an tinh thần binh sĩ, Joffre và de Castelnau tuyên bố gửi 4 sư đoàn tăng viện, nhưng thực tế là các sư đoàn này được gửi đến mặt trận Somme. Mangin được gọi trở lại chiến trường. Vào lúc này, người Đức cũng trong tình trạng không khá hơn gì nhiều. Tập đoàn quân số 5 Đức bị yêu cầu phải tiết kiệm sinh lực và vũ khí. Tướng von Knobelsdorf cân nhắc đến việc tấn công những trận cuối cùng, nhưng những vùng đất mà quân Đức chiếm được lại không thể giữ lâu do mà cũng không thể bỏ. Sự chú ý lúc này của người Đức chuyển sang mặt trận Somme và mặt trận phía đông. Ngày 1 tháng 7, trận Somme mở màn khiến binh lực cả hai bên phải dồn sang để chia sẻ nhưng không vì thế mà cuộc chiến ở đây bớt quyết liệt. Hai bên vẫn liên tục tấn công và phản kích lẫn nhau trong tình trạng kiệt quệ về vũ khí và sức lực. Người Đức lại thay đổi chiến thuật, thay vì tấn công đồng loạt, họ tập trung hỏa lực vào một mũi nhằm tăng hiệu quả. Lần này họ tập trung vào giữa Bois de Chapitre và Fleury, một cánh khác tấn công pháo đài Tavannes. Sau khi bắn 63.000 quả đạn hóa học vào phòng tuyến quân Pháp, 40.000 quân Đức tấn công. Tại đây họ kinh ngạc phát hiện ra người Pháp đã có mặt nạ phòng độc thế hệ mới, và chúng hoạt động vô cùng hiệu quả. Hỏa lực của quân Pháp mãnh liệt đến mức, người Đức không thể tiến lên tạo ra một sự hỗn loạn kinh khủng cho quân Đức. Thậm chí, chỉ huy trung đoàn 3 từ chối tiến quân vì không muốn hy sinh vô ích tân binh. Cuối cùng người Đức cũng chọc thủng được hàng phòng thủ, cứ điểm Fleury cũng thất thủ, quân Đức còn cách pháo đài Souville khoảng 500 mét. Tuy nhiên, thay vì tận dụng được lỗ thủng của phòng tuyến đối phương để tấn công Verdun, tạo bước ngoặt cho trận đánh, các chỉ huy Đức lại quyết định tấn công pháo đài Souville. Tình cờ, lực lượng ở đây lại được tăng viện thêm một đại đội quân Pháp rút chạy từ các nơi về. Sáng ngày 12 tháng 7, quân Đức tấn công Souville, tuy nhiên chỉ có hai đại đội của trung đoàn bộ binh 147 là có khả năng tấn công. Cuối cùng một bộ phận nhỏ cũng chiếm được nóc pháo đài, tuy nhiên do không có lực lượng tăng viện cũng như mất hỏa lực yểm trợ từ pháo binh, họ nhanh chóng bị người Pháp quét sạch. Cũng trong ngày này, khi ca ngợi sự anh dũng và kiên trì của quân Pháp, tướng Nivelle kết thúc bằng câu nói nổi tiếng "Chúng sẽ không vượt qua" (Ils ne passeront pas). Kể từ thời điểm này trở đi, tướng Falkenhayn yêu cầu ngừng tiến công để chuyển một phần pháo, đạn dược và quân lính sang mặt trận phía đông và mặt trận Somme. Các cuộc đụng độ chỉ diễn ra ở quy mô rất nhỏ. Ngày 15 tháng 7, tướng Mangin liều lĩnh tổ chức một cuộc phản kích vào Fleury, tuy nhiên, do không có được sự hỗ trợ của pháo binh, quân Pháp chịu một tổn thất lớn. Sang đến tháng 8, quân Đức quyết định tổ chức một cuộc tấn công nữa vào Fleury. Hai bên giành giật nhau cứ điểm Fleury đến ngày 17 tháng 8. Lúc này, tại tổng hành dinh của quân Đức, người ta không còn bất kì hy vọng gì về một chiến thắng, tất cả lượng dữ trữ của quân Đức đều cạn kiệt. Tuy nhiên cuộc chiến giữa hai bên vẫn tiếp tục. Chiến tuyến trở thành một bể bùn khổng lồ do sự cày phá của đạn pháo cả hai bên. Quân sĩ cả hai bên đều trong tình trạng tuyệt vọng, không có vũ khí, đạn dược, nước uống. Mặt trận tương đối tĩnh lặng trong thời gian này. Tuy nhiên, ngày 4 tháng 9, một thảm họa xảy ra cho quân Pháp tại đường ngầm Tavannes, vốn là nơi tập trung dự trữ đạn dược và trú quân của người Pháp từ đâu cuộc chiến. Đoạn đường này dài 1.300 mét, nối liền Verdun và Metz, được xem như điểm phòng thủ chiến lược cho người Pháp. Sáng ngày 4 tháng 9, do một tai nạn khiến lửa bắt nổ vào kho đạn, và phát hỏa toàn bộ hệ thống chiếu sáng bên trong. Toàn bộ đường ngầm biến thành một hỏa ngục. Quân Pháp hoảng loạn, không để lỡ thời cơ, quân Đức tập trung hỏa lực bắn vào đường hầm làm tình cảnh tồi tệ hơn. Khoảng hơn 500 quân Pháp thiệt mạng ở đây. [sửa]Giai đoạn 6 Cuộc chiến dai dẳng giữa hai bên tiếp tục, đến cuối tháng 8, bộ chỉ huy quân Đức trở nên mệt mỏi. Tướng von Knobelsdorf bị cách chức, tướng von Falkenhayn bị thuyên chuyển đến Romania. Hoàng đế Đức Wilhelm II chỉ định Erich Ludendorff và Paul von Hindenburg làm tổng chỉ huy quân Đức ở Verdun. Dưới áp lực của hoàng tử Đức, Ludendorff buộc phải ngừng mọi cuộc tấn công trên toàn mặt trận. Tuy nhiên, không may cho người Đức, quân Pháp lúc này không muốn kết thúc trận đánh. Họ tiếp tục tấn công vào các vị trí của quân Đức, vốn đã chịu quá nhiều tổn thất từ đầu cuộc chiến, trở nên rất khó phòng thủ. Do vậy, quân Đức tiếp tục chịu những tổn thất lớn hơn. Quân Pháp tổ chức một kế hoạch phản công tỉ mỉ với lực lượng tăng viện mới. Cùng lúc đó, Nivelle đưa ra một chiến thuật tấn công mới, lực lượng bộ binh sẽ tiến quân cùng lúc theo tầm bắn của pháo binh. Như vậy, khi pháo binh vừa bắn dứt, thì bộ binh đồng thời tiến sát tới phòng tuyến đối phương. Để phục vụ cho chiến thuật tấn công này, ông cho thiết lập một hệ thống điện thoại đặc biệt nhằm phối hợp chính xác tọa độ giữa bộ binh và pháo binh. Ông cho sử dụng pháo hạng nặng Creusot-Schneider 400 mm và cho xây dựng hẳn một hệ thống đường sắt để vận chuyển pháo từ Verdun ra chiến trường. Sáng ngày 21 tháng 8, quân Pháp tổ chức phản công, sau một ngày bắn cấp tập, gây nên sự hoảng loạn lớn cho quân Đức. Tuy nhiên, vào ngày hôm sau, pháo binh Pháp đột nhiên im lặng. Quân Đức đang trong tình thế chờ đó một cuộc tiến công bộ binh, bèn nổ pháo bắn và bị lộ vị trí. Ngay lập tức, quân Pháp phản pháo, tiêu diệt 70% lực lượng pháo binh Đức. Sang đến ngày 23 tháng 8, pháo hạng nặng Creusot-Schneider trực tiếp đe dọa Douamont. Hai phát đạn bắn trúng vào tâm của pháo đài làm hư hỏng toàn bộ hệ thống chiếu sáng và một phát đạn bắn trúng vào quân y viện bên trong pháo đài, giết sạch tất cả những người có mặt. Quân Đức chịu tổn thất nặng nề buộc phải cho rút lui khỏi Douaumont. Tuy nhiên, đại úy Prollius và vài người lính vẫn quyết định ở lại pháo đài. Sáng hôm sau, quân Pháp tiến quân, chiến thuật mới của Nivelle tỏ ra rất hoàn hảo, quân Đức bị bị đẩy lùi trên phần lớn chiến tuyến. Pháo đài Douaumont nhanh chóng bị thất thủ. Tại chiến tuyến giữa pháo đài Vaux và Bois de Fumin, quân Pháp chịu rất nhiều tổn thất. Tuy nhiên, đến tối ngày hôm đó, lực lượng phòng ngự Đức đầu hàng. Sáng ngày 24, quân Pháp tổ chức tấn công vào pháo đài Vaux mặc dù không có sự yểm trợ của pháo binh. Tại đây súng máy của quân Đức gây thiệt hai khủng khiếp cho quân Pháp với khoảng 1000 người thiệt mạng. Một ngoại lệ đã diễn ra, cả hai bên cùng ngưng bắn để thu dọn xác chết. Trước áp lực mới của quân Pháp, lực lượng ở pháo đài Vaux bị cắt rời khỏi cánh quân chính. Do vậy lần đầu tiên, quân Đức đề cấp khái niệm rút lui chiến thuật. Được sự đồng ý của tướng Ludendorff, quân Đức rút khỏi pháo đài. Người Pháp chỉ biết được điều này khi nghe radio vào sáng hôm sau. Trước thắng lợi này, Nivelle được cử làm tổng chỉ huy quân đội Pháp, thay thế vị trí của Joseph Joffre, Mangin làm tổng chỉ huy mặt trận Verdun. Mangin quyết định tổ chức tiếp một đợt phản kích vào các vị trí của quân Đức. Ngày 11 tháng 12, quân Pháp tấn công quân Đức theo chiến thuật mới, tuy nhiên họ vấp phải sự kháng cự mãnh liệt của quân Đức và chịu một tổn thất lớn. Cuối cùng, người Pháp cũng giành lại được các cứ điểm Bezonvaux, Bois de Hassoule, Bois de Chauffour và Louvemont, đẩy lui người Đức về các vị trí trước ngày 21 tháng 2. Đến ngày 19 tháng 12, bộ tổng tham mưu Đức thừa nhận chiến dịch Verdun đã hoàn toàn thất bại, với hơn 11.000 binh sĩ và sĩ quan đầu hàng quân Pháp. Số còn lại không chịu tiếp tục tham chiến, do vậy toàn bộ quân Đức buộc phải rút lui về vị trí ban đầu. Trận Verdun chính thức kết thúc vào ngày này. [sửa]Kết quả Ngôi nhà có ốp gạch hình thập ngoặc tại 75-81 Đường Troy ở Verdun. Sau 10 tháng giao tranh khốc liệt, hai bên gánh chịu những thiệt hại kinh khủng. Theo con số chính thức mà Pháp công bố năm 1916, thiệt hại phía Pháp là 337.231 người, trong số đó có 162.308 người bị chết. Theo thống kê năm 1918, thiệt hai của quân Đức ước chừng khoảng 337.000 người, trong số đó 100.000 người chết. Tổng số thiệt hại của hai bên lên đến 714.231 người. Trong khi đó, kết quả của trận đánh là không bên này thu được thêm một phần đất nào của đối phương hay bất kì một chiến thắng chiến lược nào. Cục diện chiến tranh lại trở lại bế tắc như ban đầu cho người Đức. [sửa]Ý nghĩa Verdun trở thành biểu tượng cho sự khủng khiếp của Thế chiến thứ nhất, cho sự hủy diệt tận cùng của con người. Mặt khác, sự thành công của hệ thống pháo đài phòng thủ đã được người Pháp lựa chọn cho hệ thống phòng ngự Maginot của mình sau này. [sửa]Một số cựu binh của trận Verdun [sửa]Người Đức Chỉ huy của tập đoàn quân số 6 Đức tại trận Stalingrad, vốn được mệnh danh là trận Verdun của sôngVolga trong Thế chiến thứ hai, thống chế Friedrich Paulus nguyên là trung úy thuộc trung đoàn kị binh nhẹ số 2 Phổ. Ông đã tham dự trận đánh vào cứ điểm Fleury. Tổng trấn Paris năm 1942, tướng Karl-Heinrich von Stülpnagel nguyên là chỉ huy một trung đoàn tại Verdun trong trận đánh tại Le Mort Homme. Năm 1944, ông tham dự vào kế hoạch ám sát Adolf Hitler, bị phát hiện, ông đã định tự sát nhưng chỉ bị một mù. Ông mất vài tuần sau đó Một trong số những viên tướng giỏi nhất của Hitler sau này, chỉ huy tập đoàn quân số 4 của Đức trong Thế chiến thứ hai, tướng Hans Günther von Kluge, nguyên là pháo thủ trong trận Verdun. Ông cũng tham gia vào kế hoạch ám sát Hilter và cũng tự sát trước khi bị lực lượng SS bắt. Tham mưu trưởng của Hitler, trung tướng Wilhelm Keitel nguyên là sĩ quan tham mưu của tập đoàn quân số 10 dự phòng, đóng quân trên bờ sông Meuse. Hai chiến lược gia của chiến tranh chớp nhoáng Blitzkrieg của người Đức sau này là đại tướng Heinz Guderian và thống chế Erich von Manstein đều tham dự trận Verdun. Guderian là sĩ quan tham mưu trinh sát của tập đoàn quân số 5, von Manstein là sĩ quan tham mưu của tướng von Gallwitz. Hai chỉ huy của lực lượng SS sau này, Ernst Röhm và Rudolf Hess đều tham dự trận Verdun. [sửa]Người Pháp Thống chế Philippe Pétain, người hùng của trận Verdun, lại trở thành người đứng đầu chính phủ Vichy, cộng tác với quân Đức chiếm đóng Pháp, trong Thế chiến thứ hai. Chỉ huy của hải quân Pháp, phó thủ tướng của chính phủ Vichy, đô đốc François Darlan nguyên là trung úy pháo binh hải quân, tham chiến trong trận Verdun. Chỉ huy lực lượng kháng chiến Pháp trong Thế chiến thứ hai, người lập nên nền cộng hòa thứ 4, tướngCharles de Gaulle là sĩ quan trong trận Verdun. Ông bị thương và bị bắt làm tù binh trong một trận đánh gần pháo đài Douaumont. Chỉ huy tập đoàn quân số 1 của quân kháng chiến Pháp, chỉ huy của lực lượng viễn chinh Pháp tại Đông Dương, thống chế Jean de Lattre de Tassigny đã tham chiến trong trận Verdun cùng trung đoàn bộ binh 93. Sau này, chính ông là người bắt sống hoàng tử Đức Friedrich Wilhelm Victor August Ernst năm 1944. Chỉ huy quân Pháp tại Đông Dương trong thời điểm diễn ra trận Điện Biên Phủ, chỉ huy quân Pháp tại Algérie, tướng Raoul Salan cũng tham chiến tại Verdun. Theo Internet. |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 6th July 2025 - 06:13 PM |