![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,063 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
Nhìn mặt biết bệnh
Tiên sinh Ohsawa có khả năng xem tướng đại tài, người Thực dưỡng "xịn" không ai không biết tới điều đó mà chả cần cố gắng học tập gì nhiều đâu; chỉ cần đọc sách và có một người Thực dưỡng "đàn anh" chỉ vẽ cho vài chiêu là XONG, dùng được cả đời! nếu không thì mỗi khi thấy ai đó dở quá hay hay quá thì xem tướng mạo lại mà coi. Có cô bạn "Thực dưỡng" dầu ăn gạo lứt 10 ngàn năm thì cũng không tài nào làm cho cái cặp mắt xếch chéo lên hợm hĩnh và hiếu thắng... đó trở nên ngang bằng vừa phải ... đó là một thứ nghiệp dù cô đó có ăn nói nhẹ nhàng dịu dàng đến đâu cũng không dấu được cái dáng đi, cái miệng nói như đàn ông... ấy thế mà chỉ sau 3 năm áp dụng Thực dưỡng và tu tập lông bông cái tướng miệng nói như miệng một người đàn ông của cô ta đã chuyển hoá... Sau đây là quyển sách quí về nhân tướng (trong đó có phần thanh tướng... theo âm và dương) và bệnh tật... Đây là một môn học của phương Đông. -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 411 Gia nhập vào: 13-April 07 Thành viên thứ.: 15 ![]() |
Thứ tự trong phương pháp chẩn đoán:
Khi chẩn đoán người nào, ta cố xét toàn diện về họ. Cần thấy được quá khứ, hiện tại và tương lai cũng như về kiến thức, thể chất và tình trạng tinh thần, khả năng vươn lên của họ, vận mạng họ thế nào? Xem về cá tính, sự phán đoán và mức độ tinh thần của họ. Thứ tự chẩn đoán gồm ba bước. Đầu tiên, ta cần hiểu rõ toàn bộ môi trường sống của đối tượng. Thứu nhì, ta xét đến tình trạng thể chất và tinh thần có tương quan đến toàn cục. Bước thứ ba, ta nhắm vào chi tiết các triệu chứng. So sánh cách chẩn đoán giữa Đông và Tây, ta thấy y học hiện đại Tây Phương thường bỏ qua hai bước đầu mà tập trung vào bước thứ ba. Phương pháp chẩn đoán (Đông Phương) gồm năm bước: 1. Dùng trực giác nắm bắt toàn cục 2. Lắn nghe người ta giãi bày 3. Xem chữ viết hay óc thẩm mỹ của họ 4. Xét các triệu chứng 5. Sờ nắn để định bệnh Ta cần làm theo thức tự, đừng sờ nắn trước là nhằm phát huy trực giác của ta. Như thế dù không gặp đối tượng, ta vẫn biết tình trạng của họ bằng trực giác, kế đến, khi họ đến gặp ta là ta đã có sẵn ý niệm về họ rồi. Có thể ta không biết chi tiết, nhưng đã cảm nhận đầy đủ vấn đề của họ. Hẳn là bạn đã trải qua kinh nghiệm về việc này, đó là khi gặp người lạ, bạn đã cảm nhận trước được cá tính và tinh thần của họ. Đến lúc xem xét lại bằng nghe, nhìn, sờ nắn, bấy giờ thì chi tiết bệnh sẽ cộng thêm vào sự nhận biết ban đầu. Bằng cách phát huy giác quan, bạn còn chẩn bệnh ngay cả người gọi bạn qua điện thoại hay qua nét chữu viết. Dĩ nhiên là người ta sẽ không vừa lòng theo cách trên nên hai bên sẽ cần gặp mặt. Hơn nữa, ngồi nói chuyện với họ rồi sờ nắn chỉ là cách xác định phụ nhưng có thì vẫn hơn. Trục giác nhạy bén như vừa trình bày là điều cốt tủy trong y học cổ truyền Đông Phương, buồn thay, đại đa số y sĩ Đông và Tây lại thiếu hẳn khả năng này. Bây giờ, chúng ta hãy xét thêm vào chi tiết, thứ tự của phương pháp chẩn đoán. Mới thoạt nhìn (người bệnh), hãy tự hỏi xem họ bao nhiêu tuổi - tuổi theo năm tháng không quan trọng bằng tuổi sinh học vì một người tuổi đời 18, nhưng về mặt sinh lý và tinh thần có thể lại già hơn những người cùng lứa cỡ 2 tới 3 năm (trong lứa tuổi 20). Trẻ hơn 5 tuổi (trong lứa tuổi 40) và cứ thế tiến tới. Kế đến, hãy đánh giá mức phát huy trí tuệ xem họ có nghiêng về mặt tinh thần hay không? Trí phán đoán của họ đến đâu? Rồi phân định xem mức phát triển của họ có đều đặn hay trồi sụt. Người đó có ngăn nắp hay bừa bãi? Muốn biết điều đó, cần xem hai bên má, nếu thấy có nhiều vết lồi lõm như hình răng cưa hướng lên trên là người thiên về cực đoan. Chúng ta xét về môi truờng địa lý nơi họ lớn lên như: thành phố nhỏ, lớn hay miền quê? Cách sống của họ thoài mái hay khó nhọc? Họ giàu hay nghèo? Về mấy điểm này, ta cần xét về xương cốt của họ. Người thành phố thường yếu sức hơn người nông thôn. Xương cốt yếu là trải qua thời gian dài ít hoạt động. Ta còn dùng yếu tố trên để mường tượng quá khứ và tương lai của họ ra sao nếu còn giữ lối sống như ngày nay. Khi con người trở nên mạnh khỏe, họ ưa hoạt động xã hội hơn. Người có năng lực lãnh đạo, khả năng thiên phú sẽ lộ ra ở tầm vóc vững chắc, có bàn tay lớn, đôi tai to, dày ép sát vào hộp sọ. Sau khi bạn đã có ấn tượng tổng quát, là lúc bạn xem thêm vào chi tiết. Như người này thích loại thứuc ăn nào, thứuc ăn đa tác động thế nào đối với sức khỏe của họ? Hãy xem bộ phận nào bị yếu – tim, lá lách, đại tràng – và xem các bộ phận liên đới với nó. Ví dụ tim yếu thì xem qua tiểu trường. Lấy ví dụ khi xem lá lách, ta hãy xem bờ xương trên hốc mắt và vành tai; thấy đỏ hồng, muốn biết về lá lách thì ta xem hai bên gốc mũi (chỗ ngang hai mắt) nó thường có màu xanh lợt. Thời nay phần nhiều người ta thường vướng bệnh về lá lách vì họ cắt Amiđan. Một khi đã cắt Amiđan thì lá lách phải làm việc nhiều hơn, họ hay bị căng thẳng và sức khỏe có vấn đề. Đặc biệt, nếu người này hay ăn đường, uống thuốc men, tiêu thụ hóa chất. Cắt Amiđan khiến người ta kém tính đề khangs vì hay ăn uống những thứ kể trên. Lá lách là cơ quan lọc máu và hệ bạch huyết – mà Amiđan cũng có chức năng như vậy – Amiđan bị sưng là dấu hiệu chỉ các chất độc bị dồn về đó. Cho nên khi cắt Amiđan là chứuc năng thanh lọc độc tố của nó bị hủy hoại, từ đó trở đi, chất độc lan ra các bộ phận káhc trong nội tạng. Phương pháp chẩn đoán trình bày trong sách này liên kết với y học phòng ngừa, nó coi các triệu chứng chỉ là dấu hiệu – có thể xoay từ bệnh sang vô bệnh để về với sức khỏe ban đầu. PHÔI THAI Chúng ta cần phân biệt giữa hai khái niệm: tình trạng và thể trạng của con người. Thể trạng được quyết định trước khi con người sinh ra, nó mang những đặc trưng của cha mẹ, tổ tiên và cả những thức ăn người mẹ dùng suốt thời kì phôi thai phát triển. Từ cấu trúc xương, khuôn mặt, bề sâu rộng của hộp sọ, hình dạng chân tay đến một vài chừng mục về chiều cao và ngang của thân thể, chiều dài cảu đôi chân. Chính những điều này hợp thành thể trạng con người, các đặc điểm xuất hiện màu sắc và kết cấu da… biểu lộ tình trạng của con người đó. Thay đổi tình trạng của mỗi người tương đối dễ thông qua chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt hay những thay đổi khác trong cách sống… Nhưng để thay đổi thể trạng thì hầu như không thể. Những gì xảy ra cho phôi thai là điều mấu chốt, nó quyết định sức khỏe và hạnh phúc của đứa trẻ sau này. Cơ thể ta có ba hệ chính: hệ tiêu hóa, thần kinh và tuần hoàn. Hệ tiêu hóa của phôi thai nằm bên trong (dương) và hệ thần kinh lại ở bên ngoài (âm). Khi cả hai hệ này phát triển, tự chúng tập trung thành những yếu tố đối nghịch do vậy thay đổi theo hai hướng hoàn toàn đối nghịch nhau. Chất khoáng được đưa ra phía sau còn chất đạm, béo .v.v… dồn tới phía trước, phần âm ngoài cơ thể hút dương, trở nên săn chắc, hình thành cột sống và lưng. Ngược lại, phần dương bên trong hút âm (mềm đi) hình thành các cơ quan nội tạng. Sự biến đổi này là một minh chứng tuyệt vời của hai khái niệm “âm” và “dương”, không phải là tĩnh tại mà năng động và luôn biến đổi. Phần dưới của hệ tiêu hóa, ở dưới lồng ngực điều khiển các thức ăn dương tính (như chất rắn, lỏng). Phần trên lồng ngực phát triển thành những bộ phổi dung tích co dãn để chứa chất âm tính (như không khí). Hệ thần kinh cũng đựoc chia thành hai phần. Vào thời điểm đang tiến hóa của phôi thai (khi phôi thai chưa có ý thức), thần kinh chỉ là một hệ đơn giản, không khác biệt, có đặc điểm của trực giao cảm. Sau đó hệ này lại được chia thành hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh tự trị, sau cùng, hệ tự trị phân hóa thêm thành hệ thần kinh trực gaio cảm và đối giao cảm. Hệ trực giao cảm thì làm các cơ quan nội tạng thuộc âm thì bành trướng, thuộc dương thì co rút còn với hệ đối giao cảm thì ngược lại, làm cơ quan thuộc âm thì co rút còn thuộc dương thì bành trướng (xem hình) Làm sao để chia các chức năng của hệ tuần hoàn theo hai khái niệm âm và dương? Máu đỏ và sinh động thuộc dương. Bạch huyết trong suốt từ từ tập trung chất lỏng đã được sử dụng trong cơ thể từ ngoại biên và vận chuyển chúng về tim. Một lần nữa, những hệ thống này lại phân âm và dương, tán ra rồi tụ lại. Trong cơ thể có hai đối cực chính trước và sau. Chất rắn, lỏng và không khí, tất cả được đưa vào từ phía trước (theo con đường từ phía trước). Sau đó nhưng rung động biến đổi từ ngắn, dài và từ tính thu hút đều được đưa vào từ phía sau (hệ thần kinh). Thức ăn (dương) đựoc cuốn xuống theo đường xoắn trôn ốc và trung tâm phía dưới chuyển tải. Các rung động (âm_ có khuynh hướng đi lên cũng chuyển động theo hình xoắn ốc lên não. Vô hình chung, hai khu vực này đựoc gọi là “đan điền” và “thiên nhãn”. Chúng cần được giữ cho ấm và mát để duy trì tình trạng âm dương điều hòa. Nếu những hoạt động mặt trước và mặt sau không phối hợp nhịp nhàng thì sự thúc đẩy để kiểm soát thức ănvà thần kinh không thể thựuc hiện được. Hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa và hệ thần kinh đều tập trung tại vùng miệng. Đây là khu vực chặc chẽ nhất trong cơ thể (dương nhất). Dương có thể tập trung và tiếp nhận, từ vùng này ta ăn và thở, vì dương khiến ta nói. Miệng lại là trung tâm của cơ thể, là nơi ta thể hiện quyền tự do và vốn hiểu biết của mình và đó cũng là mấu chốt của mọi hoạt động cơ thể. Bằng cách điều khiển sự ăn uống, hô hấp và giao tiếp, ta điều khiển luôn cả cuộc đời mình. Vậy vùng miệng âm hay dương? Đó là nhân tố hàng đầu quyết định cho đời sống tinh thần và nhân cách của mỗi người, là manh mối để đánh giá toàn bộ con người, do đó ta cần biết cách “diễn giải” nó. Hãy nhìn người quen, bạn bè, để ý xem họ có hay mím môi hay không là có thể biết họ thuộc loại người chi li hay rộng rãi .v.v… Vị trí của bào thai được trình bày theo hình vẽ sau đây: ![]() Các tạng phủ trong cơ thể thai nhi có vị trí tương hợp như ta thấy ở cổ tay – liên hệ với phổi. Gót chân và mông liên hệ với cơ quan sinh dục. Khoảng giữa cẳng chân thì liên hệ với bộ tiêu hóa. Còn phần đầu gối và cùi chỏ tương quan với gan, và lá lách (tỳ). Ta thấy cổ tay nằm ngang bộ phổi, có lúc đôi tay che lên tới mặt, bởi vậy, khi ta giật mình, bối rối hay khóc lóc, lập tức cả hai tay tự động che lên mặt – như muốn lặp lại động tác quen thuộc từ khi còn trong bào thai. Sau khi sinh, đôi tay ta thường thóng xuống bên sườn và tạo thành tương quan với cơ quan nội tạng. Cho nên bây giờ, cổ tay là đại diện cho chức năng sinh dục. Nếu cổ tay bị đơ, không mềm dẻo thì ắt là nội lực trong bộ sinh dục cũng bị trở ngại, tắc nghẽn. Ngược lại, cổ tay linh hoạt thì hoạt động sinh dục cũng thông suốt. Trong mùa hè, lợi dụng người ta hay mặc quần áo ngắn khi ở nhà hoặc khi bơi lội, ta sẽ dễ thấy các dấu vết, nốt ruồi, mao mạch họ giãn nở hay co thắt. Hãy để ý màu sắc da dẻ tổng quát. Tuy nhiên, bất cứ khi nào trong năm, ta vẫn có thể xoa bóp cho họ - để định bệnh. Trong khi xoa bóp, ta có thể thấy chân họ có dấu hiệu mọng nước hay săn chắc. Hãy nên nhớ, bàn chân đại diện cho bộ sinh dục, cho nên gót chân phải săn chắc, bụng chân đại diện cho đường ruột, còn đầu gối và khuỷu tay thì chỉ về tình trạng của gan, lá lách và tỳ. Nếu xương sống ai bị cong thì chắc chắn cơ quan nội tạng phần xương cong đó không sưng tấy thì cũng bị dãn ra. Xương sống cong khiến miếng sụn đệm bị lệch, vẹo. Vậy sụn đệm có đều không? Nếu mé trong viền sụn hở lớn là dấu hiệu thặng âm, vì người này đã ăn quá nhiều đường và nước, còn nếu sụn hở chút ít thì đó là dấu hiệu thặng dương- vì do người ta ăn uống nhiều thịt, cá hay muối – nhưng tình trạng này rất hiếm. Khi chẩn đoán, ta day mạnh vào phần xương sống cong, nếu cảm thấy đau tại đó thì đúng là cơ quan nội tạng đang bị trở ngại. |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 19th June 2025 - 08:13 AM |