![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 405 Gia nhập vào: 29-July 09 Thành viên thứ.: 4,110 ![]() |
Tài liệu trích trong sách Axit - Kiềm
Photpho (Phosphorus - Nguyên tố tạo Axit) Photpho chiếm từ 0,8 đến 1,1% trọng lượng cơ thể và là phần quan trọng của mỗi tế bào sống. Photpho tham gia vào các phản ứng hóa học với protein, chất béo và Carbohydrate để tạo ra năng lượn cho cơ thể, tạo vật liệu cho sự tăng trưởng và sửa chữa; thí dụ phospholipid giữ phần quan trọng trong việc tổng hợp màng tế bào và tổng hợp ADN và ARN. Phospho giúp vào việc trung hòa axit và kiềm trong máu. Phospho kết hợp với canxi để tạo ra xương và răng. Ở người lớn thì lượng phospho và canxi ngang nhau (trong cơ thể) còn ở trẻ con thường có số lượng phospho nhiều hơn canxi từ 1 đến 1,1 lần .Nhu cầu về phospho thông thường cho mọi người cũng ngang với nhu cầu về canxi và protein được cung cấp bằng những thực phẩm như nhau; do vậy ăn uống để cung cấp đầy đủ những nguyên tố này, cũng như cung cấp đủ phospho cho cơ thể. Vì phospho có chứa rất nhiều trong thực phẩm động vật, và chính phospho cũng sản sinh ra axit gây độc, vì thế phương pháp Thực Dưỡng khuyên nên ăn ít thực phẩm động vật. Bảng 6, chỉ cho thấy thực phẩm động vật có chứa quá nhiều phospho, còn rau và rong biển có chứa 1 tỉ lệ cân đối giữa canxi và phospho. Sắt (iron - nguyên tố tạo kiềm) Trong sách Sinh lý học, Arthur Guyton viết như sau : Lượng sắt có trong cơ thể, chủ yếu là dưới dạng hồng cầu (hemoglobin); mặc dù còn có 1 lượng nhỏ nữa nằm ở dạng khác, như trong gan và trong tủy xương. Các thành phần mang điện tử chứa sắt (như cytochromes) đều có mặt trong các tế bào của cơ thể, và rất cần cho việc ôxi hóa cảy ra trong các tế bào.Bởi thế, sắt là hết sức quan trọng đối với việc đưa oxi đến các tế bào và duy trì việc oxi hóa trong các tế bào; nếu không có điều này thì sự sống sẽ ngưng, dù chỉ trong vòng vài giây đồng hồ ( thời tiết mùa đông chúng ta rất cần ôxi, vì không có ánh nắng mặt trời để sản sinh oxi) Kiềm và Natri (Potassium & Sodium - Các nguyên tố tạo kiềm ) Theo sách " Niên giám Nông nghiệp 1959": Na, K và Mg là những thành phần quan trọng trong dinh dưỡng. Đây là những chất có nhiều nhất trong cơ thể. Ca và P có lượng nhiều nhất, thứ đến là K, S,Na ,Cl và Mg giảm dần lượng theo thứ tự. Người có trọng lượng 154 pounds (~ 77 kg), thì cơ thể có chừng 170 gr (k); 113,4 gr (Na) và 36,85 gr (Mg), Na và K có tính chất hóa học tương tự nhau, nhưng có vị trí khác nhau ở trong cơ thể. 6. Axit-Kiềm và trí lực (trạng thái tâm lý) Người có điều kiện máu axit (đông y gọi là "máu chua") làm ức chế hoạt động thần kinh. Người có điều kiện máu Kiềm tính, thì có thể nghĩ và quyết định nhanh chóng. Ngược lại, người có điều kiệm máu Axit tính, thì không thể nghĩ và hành động nhanh nhẹn, mạch lạc và mang tính quyết định được. Do vậy, cần thiết phải duy trì điều kiện máu Kiềm trong mọi lúc - chẳng những có lợi về thể chất, mà lợi cả về mặt trí tuệ. 1.Phân loại thực phẩm theo Axit-Kiềm / Âm- Dương [/size] Những thực phẩm đã được giới thiệu nói đến cả 2 xu hướng Âm DƯƠNG và tính chất tạo axit và kiềm của thực phẩm. Tôi cố gắng để đưa cả 2 khái niệm xích lại gần nhau. Thực phẩm tạo axit có thể được phân loại Âm, hoặc Dương theo hàm lượng của Na, K Ca Mg ,P và S. Thực phẩm tạo kiềm cũng có thể được phân loại là Âm hoặc Dương, theo cùng phương pháp nêu trên. Những thực phẩm tạo axit Âm, đều có chứa nhiều P (phospho) và S (Sulfur) không chứa Na. Những thực phẩm tạo axit Dương, chứa nhiều P, S và Na. Những thực phẩm tạo kiềm Âm có chứa nhiều K và Ca (không chứa P và S). Những thực phẩm tạo kiềm Dương chứa nhiều Na và Mg (không chứa P và S). 4. Thực phẩm mang tính Âm và Dương Theo quan điểm Thực Dưỡng, có 2 loại nguyên tố hóa học: nguyên tố Âm và Dương. Na là nguyên tố Dương; K , Fe , S và P là các nguyên tố Âm. Nói chung, thực phẩm Dương chứa nhiều Na, và thực phẩm Âm chứa nhiều K,Fe ,S và P. Mg gần như nằm trong khoảng giữa Âm và Dương, và ngả về chiều hướng Dương.Canxi có trong cá nhiều hơn trong thịt bò, thịt lơn, gà , vịt ... Canxi cũng có nhiều trong các loại hạt đậu và 1 số loại rau ,củ , quả, canxi trong ngũ cốc rất ít. Do đó canxi không phải là nguyên tố hóa học mà chúng ta có thể dựa vào, để các định thực phẩm là Âm hay Dương được. 7. Kết luận (trang 69 trong sách Axit - Kiềm ) Bác sỹ Katase (trong Canxi medicine) đã viết: Trong dịch nội bào, có 4 loại nguyên tố Kiềm (Na -Natri, K -Kali ,Ca -Canxi, Mg - Magnesium ) ở trong điều kiện Kiềm. Kiềm cũng có trong các chất dinh dưỡng do máu, hormone và chất thải của quá trình chuyển hóa mang lại. Những chất dinh dưỡng này đi vào bên trong của các tế bào ,qua màng tế bào để nuôi tế bào. Khả năng đi qua này phụ thuộc vào số lượng và tỉ lệ của điều kiện ion của 4 nguyên tố Kiềm. Đây là áp xuất thẩm thấu của màng tế bào. Nói khác đi, khi 4 nguyên tố kiềm có 1 lượng thích hợp, với 1 tỉ lệ thích hợp, thì tế bào sẽ hấp thu chất dinh dưỡng ở mức cao nhất, và lức này ta có sức khỏe tốt nhất. Nếu các tế bào ốm yếu ta cũng ốm. Do vậy, điều kiện sức khỏe của chúng ta là phụ thuộc vào điều kiện của nguyên tố Kiềm trong dịch cơ thể. Mặc dù trong quá trình chuyển hóa cơ thể, có thể sinh ra nhiều axit đi nữa, thì cả bốn nguyên tố kiềm nói trên sẽ luôn luôn giữ ổn định độ kiềm trong máu và trong dịch cơ thể. Tuy vậy, sức sống và khả năng kháng khuẩn của tế bào sẽ được nhân lên khi tính kiềm chủ yếu là Ca (hoặc Na) , nhiều hơn là K (hoặc Mg). Bác sỹ Katase đã nuôi cấy vi khuẩn lao bằng cách dùng những khoáng chất này. Ca và Na làm ngừng sự phát triển của vi khuẩn, nhưng K và Mg lại làm tăng sự phát triển của vi khuẩn. ---------------------------------------------------------------------------------- - Các bạn có hiểu biết vì sao 4 nguyên tố tạo kiềm, nhưng Na, Ca làm ngưng vi khuẩn phát triển .. K và Mg lại làm tăng sự phát triển vi khuẩn ?? ( xem lại sách Axit - Kiềm ) - Con người chúng ta mỗi tế bào khỏe mạnh ...không nói ra các bạn cũng nhận thấy .. nhờ có Natri chúng ta mới khõe mạnh và nhanh chóng lành những vết trầy da, tróc vảy , ..v..v.. . - Vì sao KT lại nói vậy? KT không đủ kiến thức để lý luận, giải bày ..nhưng dựa vào 4 nguyên tố tạo kiềm Natri , Canxi , Kali , Mg ...chúng ta ăn uống luôn luôn bị thiếu Canxi ... nên chúng ta khỏe mạnh là nhờ tỉ lệ Natri > Kali, Mg -Các bạn tính toán tỉ lệ các chất tạo kiềm trong thực phẩm các bạn ăn vào sẽ cảm nhận thấy rõ tỉ lệ các chất ấy ảnh hưởng đến sức khỏe của các bạn. Ví như các bạn thay đổi tỉ lệ Natri lúc nấu cơm thử xem ... bữa ăn nào, ngày nào các bạn ăn cơm tỉ lệ Natri nhiều hơn Kali , Mg ..sẽ khác bữa ăn ngày nào các bạn ăn tỉ lệ Natri ít hơn Kali và Mg -Cơ thể chúng ta 75% là nước, chúng ta lao động làm việc ,cử động, đi đứng, mang vác các vật nặng là nhờ có khung xương và hệ cơ, gân ......nên chúng ta để ý đến tỉ lệ nước đưa vào cơ thể cũng như nhu cầu Canxi để giúp hệ thống xương không bị xốp, rỗng, cũng như tạo Kiềm cho mỗi tế vào trong cơ thể -Chúng ta ăn uống thực phẩm mất cân đối giữa các tỉ lệ chất khoáng .. thì cơ thể chúng ta phải bù đắp vào cho tỉ lệ chất khoáng được cân đối, chính vì vậy mà ăn thực phẩm giàu đạm , hệ thống xương của chúng ta bị bòn rút bớt ; thực phẩm giàu Kali lại có ít canxi cũng làm cho cơ thể bị bòn rút bớt canxi trong hệ thống xương ..vì 2 nhóm thực phẩm này bị thiếu canxi ,mất cân đối tỉ lệ chất khoáng, chất đạm -các loại hạt đậu đổ có tỉ lệ giàu đạm, nhưng cũng nhiều canxi hơn các loại thịt, cá ..v..v.. đáng tiếc là nhóm thực phẩm này Âm, chúng ta không nên ăn nhiều -thực phẩm động vật máu nóng, chúng ta ăn vào sẽ làm ấm người ; thực phẩm thực vật mát lạnh như rau ,củ , quả ,trái cây ăn vào làm cho chúng ta mát lạnh,cốc loại cũng có loại mát, ấm, nóng ... nên lúc ăn uống các bạn nhớ lưu ý, nóng, lạnh, Âm Dương, Ngũ Hành 5 tạng ...kết hợp 4 mùa, Xuân, hạ , thu, đông. - Lâu nay KT tìm kiếm giá trị các chất có trong thực phẩm , cũng được khá khá 1 số loại thực phẩm thông dụng , nay đưa ra ... các bạn tham khảo các loại thực phẩm, lựa chọn thực phẩm ăn uống cho phù hợp cho mỗi cá nhân , mỗi vùng , mỗi khí hậu , thể trạng từng người - Các bạn chú ý thực phẩm tỉ lệ nhiều nước, thực phẩm ít nước; thực phẩm khô, thực phẩm tươi ... sẽ cho chúng ta biết thực phẩm ấy Âm Dương thế nào, cũng như tỉ lệ các chất khoáng có trong thực phẩm được phân định Âm Dương .............. ............................. ........................................ |
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 405 Gia nhập vào: 29-July 09 Thành viên thứ.: 4,110 ![]() |
Natri là gì ? N
Khi nói về natri, người ta nghĩ đến muối. Thật vậy, nguồn cung cấp thường xuyên natri là muối. Vai trò của natri ? Muối được tìm thấy khắp cơ thể. Người ta gọi đó là “áp lực thẩm thấu”. Nói cách khác, nó không ngừng từ bỏ ý định đi vào trong tế bào. Lượng muối tồn tại bên trong và bên ngoài tế bào sẽ thiết lập nên một trong những yếu tố chính để kiểm soát khả năng phân bố nước. Ở đâu có nhiều muối, ở đó sẽ có nhiều nước, tất nhiên muối có nhiều trong máu, dịch bao quanh tế bào và dịch mô kẽ hơn trong tế bào. Nếu để muối bên trong màng tế bào, nó sẽ kéo nước vào ngày càng nhiều làm cho màng tế bào bị phù và đưa tới tình trạng ứ nước, cuối cùng sẽ làm vỡ tế bào. Điều này có thể xảy ra khi cũng rất nhiều nước đơn thuần, bị làm mất muối khoáng, cũng giống như vậy, thật sai lầm khi truyền vào cơ thể một lượng lớn dịch nhược trương vì khi đó hồng cầu sẽ dễ vỡ. Vì vậy, điều quan trọng là tế bào phải có khả năng thải ra những lượng natri dư thừa. Để thực hiện được điều này, phải dùng nhiều chất vận chuyển, chủ yếu nhất là “bơm Natri”, bơm này sẽ đẩy lùi ion natri và đưa ion kali vào thay. Quá trình này xảy ra cần phải có năng lượng, vì bơm natri sẽ tiêu thụ 20% năng lượng được tiêu tốn mỗi ngày, gần bằng não. Từ đó, người ta hiểu được chính xác tầm quan trọng của muối trong đặc tính giữ nước cũng như phù (do tích nước trong mô) và một vài dạng cao huyết áp động mạch. Muối là một chất kết hợp với nước, chịu trách nhiệm phân bố nước giữa môi trường bên ngoài và tế bào. Kết hợp với các ion khác, đặc biệt là bicarbonate, để tham gia vào sự cân bằng một hoạt động được theo dõi chặt chẽ bởi cơ thể và giữa acid và kiềm trong cơ thể, tạo ra pH máu ổn định. Khi sự trao đổi điện tích qua màng tế bào, muối sẽ can thiệp vào quá trình dẫn truyền luồng thần kinh và co cơ. Thức ăn nào cung cấp natri ? Nguồn cung cấp đầu tiên natri là thực phẩm : Không có thức ăn nào không có muối, loại chứa ít nhất là dứa khoảng 0,3mg/100g. Do đó tốt hơn nên tìm những thực phẩm chứa ít muối, tránh những thực phẩm chứa nhiều muối. Cần phải phân biệt. Thực phẩm ở tình trạng tự nhiên Trái cây là thực phẩm cung cấp ít nhất cùng với phần lớn rau xanh. Nguồn tự nhiên của Natri Sò, thực phẩm tươi sống Trứng Cá Thịt Sữa Fromage tươi Rau tươi Có một vài loại nước khoáng chứa nhiều Natri : Thức ăn được thêm muối vào Hàm lượng muối thay đổi đáng kể, tùy theo tiêu chuẩn chọn lựa. Trong những thực phẩm được chế biến công nghiệp (đồ hộp, thịt nguội, fromage…) và đối với thực vật, tùy theo khí hậu, tình trạng nuôi trồng, mức độ chín muối và thời gian dự trữ. Trong số những thực phẩm được ướp muối, ai cũng biết đó là jambon hun khói, thịt nguội, fromage lên men, nước sốt công nghiệp…chứa nhiều muối. Ngoài ra, người ta không nghĩ đến muối cũng như không nhận thấy nó qua khẩu vị, đó là muối chứa trong một số sản phẩm bánh ngọt. Các muối không nhìn thấy này cũng có mặt ở : Nước khoáng và một vài nước uống Một vài loại thuốc Nước máy Nguồn thứ hai cung cấp muối là muối thêm vào lúc nấu. Muối trắng, tinh chế mang lại khoảng 3g/100g natri, muối biển nhiều calci, magesi, sắt và yếu tố vi lượng. Tất cả muối đưa vào đều được hấp thu. Nhu cầu hàng ngày của Natri là bao nhiêu ? Được ước tính khoảng 800 đến 1600 mg/ngày. Chúng ta tiêu thụ trung bình 4000 đến 6000mg dưới dạng 10 đến 15 muối Nacl, cho nên vấn đề thiếu không đặt ra. Nhìn chung, một nửa natri được tiêu thụ từ các thức ăn tự nhiên, một nửa khác từ muối, được thêm vào khi nấu nướng. Khi nào thì nhu cầu tăng lên? Khi nhiệt độ cao, hoạt động thể lực nhiều, ra mồ hôi. Nông dân, người chơi thể thao và những người làm việc kéo dài dưới ánh nắng mặt trời, có thể bị ngất nếu mất muối do mồ hôi và không được bù lại, nhất là những người không có thói quen tiếp xúc. Lúc bị nôn mửa, đi chảy kéo dài. Dùng thuốc lợi tiểu hay thuốc xổ không có lý do. Nó có thể được tăng lên trong một vài bệnh : viêm thận mất muối, bệnh addison. Muối không tương ứng với nhu cầu nữa Mức độ tiêu thụ muối hiện nay không tương ứng với tính cần thiết sinh lý. Nó là quá nhiều, vì hai lý do : Sở thích đối với muối được tạo ra một cách nhân tạo và phát triển từ nhỏ. Công nghiệp hóa dẫn đến nhu cầu tiêu thụ thực phẩm công nghiệp hóa. Ngày nay, may mắn thay dùng thực phẩm đông lạnh và tủ lạnh đã làm giảm mức độ sử dụng muối . 1 muỗng café muối = 6g 1 muỗng tráng miệng muối = 13g 1 muỗng canh muối = 25g Thiếu Natri có biểu hiện triệu chứng như thế nào? Ở người khỏe mạnh, thích nghi với khí hậu, hoạt động thể lực trung bình, thiếu muối không gây bất lợi vì thận bình thường giữ lại natri cho cơ thể và kết hợp với một lượng nhỏ được đưa vào bởi thức ăn là đủ để bù lại sự mất sinh lý. Tuy nhiên, khi mất nhiều hay hạn chế muối quá mức sẽ có những dấu hiệu mất nước ngoại bào biểu hiện : khô miệng, chán ăn, mệt, tăng nhịp tim, đôi khi nôn làm nặng thêm vấn đề, co rút cùng với mức độ nặng hơn, nhãn cầu lõm, hạ huyết áp, da khô, nhăn. Những người dễ bị tổn thương khi mất cân bằng này là trẻ em và người già, đặc biệt khi nhiệt độ cao. Những nhóm nguy cơ Hạn chế muối cho phụ nữ có thai 3 tháng cuối là một biện pháp cổ điển để chống lại phù và tiền sản giật. Nhu cầu sử dụng muối cần thận trọng khi phát hiện ra có thai, vì nhu cầu tự nhiên của cơ thể về natri tăng cũng đủ khả năng cho phép tăng thể tích máu. Nhu cầu hạn chế natri có thể gây ra thiếu natri trong máu và phù sẽ bù trừ. Bấy giờ người ta biết rằng, xu hướng giữ nước và muối là sinh lý trong lúc có thai và được điều khiển bởi quá trình tiết estrogen gia tăng. Thể tích máu gia tăng sẽ đi kèm một cách nghịch lý với giảm huyết áp động mạch. Thuốc lợi tiểu thật không cần thiết trong thời gian này vì nó rất có hại. Ngược lại, bổ sung thêm calci và magesi trong lúc có thai cho thấy có khả năng làm giảm cao huyết áp. Nếu những người béo phải kiêng ăn thì chế độ giảm muối không làm họ gầy đi. Đặc biệt, rất nguy hiểm khi người già ăn theo chế độ không có muối, ngay cả khi huyết áp họ cao. Phải được dung nạp khi huyết áp cao là một cách bình thường với lứa tuổi, vì nó cần để bù lại mức độ giảm lưu lượng não. Do đó chế độ ăn nhạt sẽ khiến họ có nguy cơ bị các vấn đề thần kinh. Mặt khác, người già sẽ không thích nghi tốt khi thiếu nước và thiếu muối vì muối cần cho sự ngon miệng, chế độ ăn không muối làm giảm sự ngon miệng vốn đã giảm ở người già, tạo điều kiện tăng nguy cơ bị gầy cũng như suy dinh dưỡng ở họ. Khi nào người ta có thể tăng nhu cầu cung cấp muối lên ? Khi hạ huyết áp, và các bệnh nhân bị bệnh addison Trong phần lớn các trường hợp mất muối, đi kèm với mất dịch và một số điện giải khác. Khi huyết áp cao. Phần lớn mọi người có thói quen ăn nhiều muối. Không nên tập cho em bé có thói quen ăn mặn, hoặc có thói quen nấu thức ăn mặn Không nên ăn quá nhiều thức ăn công nghiệp. Nên uống nước khoáng giàu magesi và calci hơn là nước giàu Natri. Cuối cùng, nên ăn cá và thức ăn biển có chứa ít muối, nhiều dinh dưỡng bảo vệ cùng các rau trái ít natri và giàu kali. Trong trường hợp cao huyết áp, suy tim, xơ gan, có thể sử dụng muối kali thay thế. Dùng muối khoáng thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không? Quá liều muối sẽ gây ra hai bệnh : Những bệnh mà muối làm tăng dịch ngoại bào, phù toàn bộ như : suy tim, một vài bệnh thận, xơ gan. Khởi phát bệnh cao huyết áp và có khả năng làm nặng thêm. ------------------------------ Kẽm là gì ? Zn Kẽm là một kim loại thiết yếu tìm thấy trong hầu hết các tế bào. Cơ thể chứa khoảng 2 đến 3 g kẽm tìm thấy trong xương, răng, tóc, da. gan, cơ bắp, bạch cầu và tinh hoàn. Một phần ba (1/3) kẽm trong huyết tương gắn lỏng lẻo với albumin, trong khi 2/3 gắn chặt với globulin. Kẽm kích thích hoạt động của khoảng 100 enzym, là những chất xúc tác phản ứng sinh hóa trong cơ thể. Kẽm hỗ trợ một hệ thống miễn nhiễm lành mạnh, cần thiết cho vết thương lành lại, giúp bảo vệ vị giác và khứu giác và cần thiết cho sự tổng hợp DNA. Kẽm cũng hỗ trợ cho việc tăng trưởng và phát triển bình thường thai nhi trong bụng mẹ, thời kỳ ấu thơ, và thiếu niên. Thức ăn nào cung cấp kẽm? Kẽm tìm thấy trong nhiều loại thức ăn. Con hào (oyster) chứa kẽm nhiều nhất trong mỗi phần ăn, nhưng các giống cùng họ như nghêu, sò ốc hến có thể cũng chứa nhiều kẽm mà chưa ai nghiên cứu. Thịt đỏ và thịt gà cũng cung cấp nhiều kẽm. Những nguồn thức ăn khác là đậu, quả hạch (nut), một số hải sản, hạt ngũ cốc chưa chế biến, hay thức ăn cereals đã được gia tăng chất bổ dưỡng (fortified) và thức ăn biến chế từ sữa. Kẽm được hấp thụ nhiều hơn trong chế độ dinh dưỡng giàu đạm động vật hơn là đạm thực vật. Chất phytates trong bánh mì làm bằng lúa mì nguyên hạt, cereals, rau quả có thể giảm hấp thụ kẽm. RDA là gì? RDA là từ viết tắt của Recommended Dietary Allowance là lượng yếu tố nên dùng hàng ngày, chúng ta thường thấy từ này sau lưng chai thuốc đa sinh tố và khoáng chất sản xuất tại Hoa-kỳ. Lượng kẽm khuyên nên dùng hàng ngày cho trẻ em từ 7 tháng đến 3 tuổi là 3mg và nhiều nhất là cho các bà mẹ đang cho con bú 14mg mỗi ngày. Lúc nào có thể thiếu kẽm? Hầu hết trường hợp thiếu kẽm xảy ra khi lượng kẽm tiêu thụ chưa đủ hay hấp thụ kém, khi tăng thất thoát kẽm khỏi cơ thể, hay khi nhu cầu cơ thể về chất kẽm gia tăng. Dấu hiệu và triệu chứng thiếu kẽm gồm lớn chậm, rụng tóc, tiêu chảy, cơ quan sinh dục trưởng thành chậm và bất lực, thương tổn ở da và mắt và ăn mất ngon. Cũng có bằng cớ là sụt cân, vết thương chậm lành, vị giác bất thường và chứng ngủ lịm do não bộ có thể xảy ra. Trường hợp thiếu kẽm trầm trọng được báo cáo ở nhóm người lùn Iran. Những nam thiếu niên này ăn một lượng lớn đất sét, chậm lớn và chậm phát triển cơ quan sinh dục, thiếu máu, giảm năng tuyến sinh dục, lớn gan và lá lách, da thô và trí não lừ đừ. Sau khi chữa trị bằng thức ăn cân đối chứa đủ lượng kẽm trong 1 năm, lông ở cơ quan sinh dục mọc ra, kích thước cơ quan sinh dục lớn bình thường, bề cao phát triển và da trở nên bình thường. Chứng thiếu máu đáp ứng với chất bổ dưỡng sắt. Một số người xơ gan bị thiếu kẽm do không giữ được kẽm. Dấu hiệu sinh hóa đi kèm với thiếu kẽm gồm giảm mức kẽm trong huyết thanh (< 70 mcg/dl hay <10.7 micromol/L), giảm alkaline phosphatase, alcohol dehydrogenase trong võng mạc (không thấy ban đêm) giảm testosterone trong huyết tương và hỏng chức năng hoạt động của tế bào lymphô T, giảm tổng hợp chất tạo keo (collagen) từ đó vết thương không liền được và giảm hoạt động của RNA polymerase trong nhiều mô. Vì phần lớn những triệu chứng trên có thể xảy ra ở nhiều bệnh khác, đừng vội kết luận người bệnh thiếu kẽm khi thấy những triệu chứng trên. Điều quan trọng là nên tham khảo bác sĩ về các triệu chứng bệnh để được chăm sóc thích hợp. Ai cần thêm kẽm? Hiện nay chưa có một xét nghiệm đơn thuần nào đủ để đo lượng kẽm trong dinh dưỡng. Nếu bác sĩ nghi ngờ thiếu kẽm sẽ xem lại các yếu tố nguy hiểm như ăn chưa đủ số calori cần thiết, nghiện rượu, bệnh tiêu hóa và triệu chứng như chậm lớn trong giai đoạn thiếu nhi và thiếu niên khi xác định người bệnh có can kẽm không. Những người ăn chay thường cần thêm 50% lượng kẽm ở người không ăn chay vì hấp thụ kẽm kém hơn ở thức ăn nguồn thực vật, do đó người ăn chay nên chọn những thức ăn có lượng kẽm tốt. Bà mẹ thiếu kẽm sẽ làm cho thai nhi chậm phát triển. Dùng kẽm hỗ trợ có thể làm tăng tốc độ lớn ở một số trẻ em chậm lớn nhẹ hay vừa phải và đồng thời thiếu kẽm. Sữa người không cung cấp đủ lượng kẽm cần thiết cho trẻ em từ 7 đến 12 tháng, vì vậy trẻ em bù sữa mẹ phải ăn thêm thức ăn chứa kẽm hay dùng sữa bột có chứa kẽm. Bác sĩ nhi khoa có thể khuyên dùng thêm kẽm trong trường hợp này. Bú sữa mẹ cũng làm cạn nguồn dự trữ kẽm ở bà mẹ vì nhu cầu tăng lên khi cho con bú. Các bà mẹ cho con bú nên chọn thức ăn giàu chất kẽm và các bà đang mang thai nên theo lời khuyên bác sĩ dùng thêm sinh tố và khoáng chất cần thiết. Theo một nghiên cứu đăng trên American Journal of Clinical Nutrition số tháng 5/04, mức độ kẽm ở bà mẹ thấp có thể ảnh hưởng đến xương của hài nhi. Nghiên cứu này thực hiện ở Peru là quốc gia thường gặp bệnh thiếu kẽm. Họ nghiên cứu 242 phụ nữ mang thai, một nửa dùng vitamin có chứa kẽm và nửa kia dùng vitamin không có kẽm. Thai nhi của những bà mẹ có uống thêm chất kẽm xương phát triển hơn ở vùng chậu và xương đùi hơn là thai nhi của các bà mẹ không uống kẽm. Họ dùng kỹ thuật siêu âm để kiểm soát. Tình trạng thiếu kẽm thấy ở 30% đến 50% người uống rượu. Rượu làm giảm hấp thụ kẽm và tăng that thoát kẽm trong nước tiểu. Ngoài ra, nhiều người nghiện rượu không ăn nhiều loại thức ăn khác nhau, nên lượng kẽm đưa vào cơ thể có thể không đủ. Tiêu chảy cũng làm mất kẽm. Người nào bị mổ cắt ruột hay dạ dày hay có bệnh đường tiêu hóa làm kém hấp thụ như bệnh sprue (viêm ruột loét miệng), bệnh Crohn và hội chứng ngắn ruột dễ bị thiếu kẽm. Người bị tiêu chảy kinh niên cần bảo đảm dùng đủ lượng kẽm cần thiết từ nguồn thức ăn hay chất hỗ trợ dinh dưỡng. Bác sĩ sẽ đánh giá xem có nên dùng thêm chất hỗ trợ dinh dưỡng cấp thêm kẽm nếu thức ăn không đủ. Kẽm, nhiễm trùng và lành vết thương Hệ miễn nhiễm bị tác dụng nghịch cả khi thiếu kẽm ở mức độ vừa phải. Thiếu kẽm trầm trọng sẽ đàn áp hệ miễn nhiễm. Kẽm cần thiết cho sự phát triển và hoạt động của tế bào lymphô T, một loại bạch cầu giúp chống nhiễm trùng. Khi dùng thêm chất hỗ trợ kẽm cho người thiếu kẽm, số tế bào lymphô T lưu thông trong máu gia tăng và khả năng chống nhiễm trùng cải thiện. Các nghiên cứu cho thấy trẻ em nghèo và thiếu dinh dưỡng ở Ấn-độ, Phi châu, Nam Mỹ và Đông nam Á bị tiêu chảy nhiễm trùng trong một thời gian ngắn hơn sau khi dùng chất hỗ trợ kẽm. Lượng kẽm dùng trong nghiên cứu này từ 4 mg đến 40 mg mỗi ngày và được cung cấp ở nhiều dạng muối (zinc acetate, zinc gluconat và zinc sulfat). Thuốc bồi dưỡng kẽm thường được cho để giúp trị loét ngoài da, nhưng không tăng tốc độ lành vết trong khi mức độ kẽm trong cơ thể ở mức bình thường. Kẽm và bệnh cảm mạo Dùng kẽm để chửa bệnh cảm mạo tạo ra kết quả nghịch nhau về mức độ trầm trọng và thời gian mắc bệnh. Một nghiên cứu trên 100 nhân viên ở Cleveland Clinic cho thấy viên kẽm ngậm giảm thời gian bị cảm xuống một nửa, mặc dầu không thấy khác biệt giữa thời gian bị sốt và mức độ cơ bắp bị đau nhức. Những nhà nghiên cứu khác quan sát tác dụng của viên kẽm lên thời gian bị cảm và mức độ trầm trọng của bệnh cảm trên 400 bệnh nhân được chọn theo lối tình cờ. Trong nghiên cứu đầu tiên, họ dùng 1 siêu vi gây ra triệu chứng cảm lạnh. Thời gian bệnh ngắn hơn một cách đáng kể ở nhóm dùng viên ngậm Zn gluconat (hàm lượng 13.3 mg kẽm), nhưng không thay đổi ở nhóm dùng Zn acetate hàm lượng 5 đến 11.5 mg kẽm Cả 2 dạng bào chế đều không ảnh hưởng đến mức độ trầm trọng của bệnh trong 3 ngày đầu điều trị. Trong nghiên cứu thứ hai, quan sát tác dụng viên kẽm lên thời gian và mức độ trầm trọng của bệnh cảm tự nhiên, không thấy khác biệt giữa người dùng viên kẽm và người dùng giả dược (viên đường). Những nghiên cứu mới nay đề nghị tác dụng của kẽm có thể được ảnh hưởng do công thức bào chế đặc biệt cung ứng ion kẽm cho màng nhầy miệng. Cần thêm những nghiên cứu khác để xem công thức bào chế có tác dụng nào lên chứng cảm mạo không. Khi dùng kẽm dưới dạng bơm vào mũi hay ngậm kẽm, mục đích không phải tăng mức độ kẽm trong cơ thể, nhưng để can thiệp vào tác dụng của siêu vi sau cuống họng hay trong mũi. Người ta thấy chỉ có Zn acetate hay Zn gluconat dùng để chống siêu vi. Một số chất phụ gia trong viên ngậm như tăng vị ngọt hay tăng mùi thơm có thể ngăn cản tác dụng chống siêu vi của kẽm. Dextrose, đường, mannitol và sorbitol dùng được, nhưng không nên dùng acid citric và tartaric. Tác dụng của glycin trong viên ngậm cũng không rõ ráng. Tác dụng chống siêu vi có thể gia tăng khi phối hợp với các chất chống oxyt hóa. Kẽm và hấp thụ sắt Bệnh thiếu máu do thiếu sắt ngày nay được xem là một vấn đề nghiêm trọng của ngành y tế công cộng. Chương trình tăng thêm chất dinh dưỡng sắt được phát triển để ngừa chứng thiếu sắt, và đã cải thiện được mức độ sắt ở hàng triệu phụ nữ, hài nhi và trẻ em. Một số nhà nghiên cứu đặt vấn đề tăng cường sắt có ảnh hưởng đến hấp thụ các chất dinh dưỡng khác không, trong đó có cả nguyên tố kẽm. Thức ăn tăng thêm sắt không ảnh hưởng hấp thụ kẽm. Tuy nhiên nếu sắt ở lượng lớn có thể làm giảm hấp thụ kẽm kể cả dung dịch sắt. Dùng thuốc bồi dưỡng sắt giữa các bữa ăn sẽ giảm thiểu tác dụng hấp thụ kẽm. Kẽm và thị giác: Các nhà khoa học biết rằng kẽm giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động bình thường của rhodopsin, một protein trong mắt liên quan đến chứng viêm võng mạc sắc tố (retinitis pigmentosa), một bệnh di truyền có thể đưa đến mù mắt. Nếu không gắn vào kẽm, rhodopsin rất không bền, đó là đặc điểm của chứng viêm võng mạc sắc tố. Bác sĩ John Hwa ở đại học y khoa Hanover, New Hamshire giải thích. Do đó nồng độ kẽm trong võng mạc có thể quan trọng trong điều trị chứng viêm võng mạc sắc tố. (Theo báo Hóa sinh học ngày 20 tháng 8 năm 2004)) Nếu kẽm dư thừa thì sẽ nguy hiểm cho sức khoẻ ra sao ? Nhiễm độc kẽm đã thấy ở dạng cấp và mãn tính. Dùng 150mg đến 450mg mỗi ngày thường kết hợp với tình trạng nguyên tố đồng (Cu) thấp trong cơ thể, thay đổi chức năng của sắt, suy giảm hệ miễn nhiễm, giảm mức cholesterol tốt HDL. Một báo cáo cho biết người bệnh nôn mửa dữ dội sau khi nuốt 4 gam Zn gluconat (570 mg nguyên tố kẽm). Năm 2001, viện khoa học quốc gia Hoa-kỳ đưa ra liều tối đa cơ thể có thể chịu đựng được không thấy phản ứng nghịch gọi là mức độ cao (Upper levels viết tắt là UL). Mức độ cao này không áp dụng cho người uống viên kẽm do bác sĩ điều trị một chứng bệnh nào đó vì đã có bác sĩ theo dõi. Nhiễm độc kẽm thường do ăn uống thức ăn chua đựng trong những bình chứa bằng tôn (mạ kẽm). Sau đây là mức độ cao cho hài nhi, trẻ em và người lớn: Tuổi Trẻ em Nam hay nữ Có thai hay cho bú 0 đến 6 tháng 4 mg 7 đến 12 tháng 5 mg 1 đến 3 tuổi 7 mg 4 đến 8 tuổi 12 mg 9 đến 13 tuổi 23 mg 14 đến 18 tuổi 34 mg 19 tuổi trở lên 40 mg Nhu cầu hàng ngày về kẽm là bao nhiêu? Lượng kẽm cung cấp được khuyên (mg/ngày) Trẻ còn bú: 6 Trẻ từ 1 đến 9 tuổi: 10 Trẻ từ 10 đến 12 tuổi: 12 Thanh niên từ 13 đến 19 (nam):15 Thanh niên từ 13 đến 19 (nữ): 12 Người lớn nam:15 Người lớn nữ :12 Phụ nữ có thai:15 Phụ nữ cho con bú: 19 Người già:12 Dạng muối kẽm và liều lượng: Kẽm có thể ở dạng muối vô cơ hay hữu cơ, nhưng muối có phân tử lượng thấp thường cho một tỷ lệ kẽm cao và có thể gây cảm giác buồn nôn, do đó nên chọn dạng có phân tử lớn như kẽm gluconat. Vì nhu cầu tối đa là 14 mg mỗi ngày, nên trong viên đa sinh tố và khoáng chất như viên Centrum, hàm lượng kẽm 15 mg đủ cung ứng cho nhu cầu hàng ngày khỏi cần uống thêm. Trường hợp uống để chửa bệnh, liều tối đa kẽm nguyên tố là 40 mg từ đó ta có thể suy đoán lượng muối kẽm như Zn gluconat hay Zn acetate là bao nhiêu. Nên hỏi người dược sĩ hàm lượng kẽm trên chai thuốc là kẽm nguyên tố hay muối kẽm, và nên dùng viên có hàm lượng thấp khoảng 30 mg và trong một thời gian ngắn. -------------------------------------- Cu - Đồng là gì? Đồng rất cần thiết cho cơ thể, nhưng với liều rất nhỏ. Dư đồng thường gặp hơn thiếu và rất nguy hiểm. Đồng tồn tại trong cơ thể từ 75 đến 100mg dưới nhiều dạng khác nhau. Đồng được đi kèm với acid amin hay protein. Đặc biệt, đồng được tập trung trong một vài mô như gan, vùng trên não chịu trách nhiệm thức tỉnh. Trong máu, hầu như toàn bộ đồng được liên kết với protein, ceruleoplasmin và albumin. Đồng giống như sắt, đều tồn tại tự do, rất nguy hiểm, có thể xúc tác cho quá trình ôxy hóa không mong muốn. Những nghiên cứu mới đây cho thấy rằng, ngay khi đồng được liên kết với ceruleoplasmin cũng có thể trở thành chất tiền ôxy hóa. Do đó, đồng là một trong những yếu tố “con dao hai lưỡi”. Vai trò của Đồng? Đồng hoạt động như coenzyme, tổng hợp noradrenalin, chất dẫn truyền thần kinh của khả năng thức tỉnh và chú ý. Đồng cũng là coenzyme cần thiết cho quá trình tạo thành melanin, sắc tố của da, đồng thời can thiệp vào hoạt động chuyển hóa của mô liên kết cũng như tham gia vào chuỗi hô hấp (giống như sắt). Nhưng nếu đồng giống như sắt là một chất tiền ôxy hóa, thì đồng cũng đóng vai trò chống ôxy hóa bằng cách tham gia vào hoạt động của superoxyde dismutase (SOD). Tuy nhiên, để hoạt động của SOD dư hủy bỏ thì lượng đồng trong cơ thể phải thiếu nhiều. Do đó, một lần nữa giống như sắt, nhu cầu dư thừa là vấn đề nguy hiểm hơn thiếu hụt, nhưng thiếu đồng là một trường hợp hiếm xảy ra. Đồng có thể xúc tác cho quá trình tạo thành các gốc tự do đặc biệt nguy hiểm, đồng có thể tác động như một tác nhân gây đột biến và góp phần phát triển nên ung thư. Ngoài ra, đồng tương tác với các muối khoáng khác, bằng cách kích thích sự hấp thu và đi vào trong tế bào của sắt, chất này cũng là một tiền ôxy hóa. Đặc biệt, khi thừa đồng, đồng sẽ chiếm chỗ của kẽm trong protein, làm biến đổi hoạt tính của protein tương tự như với protein, làm biến đổi hoạt tính của protein tương tự như với protein chống ung thư P53. Thức ăn nào cung cấp Đồng? Gan của bê và cừu Hàu, hến Gan bò hay não Thức ăn biển hay cá Lúa mì Đậu nành Tiêu Ốc Nhu cầu hàng ngày về Đồng là bao nhiêu? Lượng đồng cung cấp được khuyên Trẻ còn bú: 400 mg/ngày Trẻ từ 1 đến 3 tuổi: 500 mg/ngày Trẻ từ 4 đến 9 tuổi: 600 mg/ngày Trẻ 10 đến 12 tuổi: 800 mg/ngày Người lớn và thanh niên 13 đến 19: 1000mg/ngày Phụ nữ có thai hay cho con bú: 1000 mg/ngày Người già: 1000 mg/ngày Theo một nghiên cứu được thực hiện trong những điều kiện nghiêm ngặt của chuyển hóa. Với những chỉ số được kiểm soát gắt gao thì nhu cầu cung cấp được khuyên này có thể được ước tính trội thêm, nếu người ta cần thật sự. Những dấu hiệu thiếu hụt Đồng Thiếu Đồng, một trường hợp rất hiếm so với thiếu calci, magesi, kẽm, hay sắt. Đồng có thể là nguyên nhân của thiếu máu và những dấu hiệu thường ngoại lệ và không cố định. Dùng Đồng thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không ? Tăng lượng Đồng trong máu dưới tác dụng của estrogen, thuốc ngừa thai và trong lúc có thai (ở đó đồng gây ra hiện tượng tăng sắc tố do hoạt động tổng hợp melanine) hay dưới ảnh hưởng hoạt động của hệ miễn dịch - nhiễm trùng, viêm hay ung thư - chỉ phản ánh rằng đó là quá trình phân bố lại của đồng trong cơ thể chứ không phải làm tăng đồng toàn bộ. Đồng gia tăng trong máu có thể gây ra những tác dụng âm tính, giống như ôxy hóa vitamin C. Khi dùng nhiều gan lợn, nước máy có ống dẫn nước bằng đồng, thuốc lá nhiều đồng, cũng như bổ sung muối khoáng vitamin hay kê đơn kéo dài các yếu tố vi lượng, một trong những nguồn gốc thông thường gây ra thừa đồng. Đồng chỉ được kê khi thiếu thực sự lúc định lượng. ------------------------------- Manganse là gì ? Mn Mangan có một vài tác dụng sinh hóa, tương tác với chuyển hóa của đường và calci. Nếu thiếu nó, điều này hiếm - cần phải điều chỉnh. Ngược lại, không thiếu, dùng quá dư thừa sẽ nguy hiểm. Cơ thể người lớn chứa 10 đến 20 mg. Số lượng mangan nhiều nhất được tìm thấy ở xương, gan, thận. Vai trò của mangan ? Mangan hoạt hóa một vài enzyme và có thể can thiệp vào sự ức chế trong một vài tế bào chuyển động của calci. Nó đóng một vai trò không rõ ràng trong sự cân bằng của đường máu và quá trình tổng hợp cholesterol, cũng như tiến trình hình thành bộ xương. Ngược lại, vai trò của nó quá trình trong tổng hợp urê và trung hòa các anion superoxyde của gốc tự do, trong trung tâm năng lượng của tế bào cùng những lạp thể được biết rõ. Kênh enzyme được liên quan, SOD, mangan trong ty lạp thể cũng như đồng trong tế bào có vai trò chống ôxy hóa. Ngược lại, giống như đồng khi quá nhiều hoặc không được kiểm soát sẽ trở thành tiền ôxy hóa gây độc. Não dường như đặc biệt nhạy cảm với những tác dụng âm tính của mangan, nó gây ra một vài dạng bệnh parkinson. Thức ăn nào cung cấp mangan? Nhiều trong thức ăn, người ta đặc biệt tìm thấy trong ngũ cốc và các dẫn xuất của nó (lúa mì, bắp, gạo, lúa mạch, đậu nành). Rau khô, hạt có dầu, chè. Hàm lượng mangan trong thực phẩm Hạnh đào Lúa mạch Lúa mì toàn phần Nho khô Nhu cầu hàng ngày về mangan là bao nhiêu? Được ước tính trung bình 8mg/ngày. Thực phẩm cung cấp 6 đến 8 mg/ngày. Thiếu mangan biểu hiện triệu chứng như thế nào? Giống với đồng, thiếu dường như rất hiếm và không đưa đến các dấu chứng biểu hiện. Ngược lại, những dấu ngộ độc được biết nhiều hơn, đặc biệt bằng đường thở ở thợ mỏ, có thể gây ra một bệnh giống với bệnh parkinson. Trường hợp ngộ độc bằng đường miệng ngoại lệ. tuy nhiên, có lẽ dư thừa nhẹ thường gặp hơn thiếu, và dư thừa có những tác dụng xấu. Não của trẻ sơ sinh có khả năng tập trung mangan cao hơn não người lớn sẽ dễ bị tổn thương. Thừa mangan có thể đưa đến đột biến. Dùng mangan thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không ? Trên thực tế, thân mangan vào phức hợp vitamin - muối khoáng là cần phải xem lại. Mangan cũng như đồng, sắt chỉ được dùng khi thiếu và được chứng minh bởi định lượng. Đối với mangan, kỹ thuật thực hiện định lượng mangan rất khó. Đưa mangan vào với liều thấp giúp điều trị vi lượng trong nhiều chỉ định không được chứng minh bởi các nghiên cứu. Có lẽ cần thận trọng và giới hạn ở những điều trị ngắn ngày. BS.PHÙNG HOÀNG ĐẠO (Theo Encyclopédie des minéraux) ---------------------------------------------------------------------------------------------- Ảnh hưởng của mangan đối với cơ thể Manggan có nhiều trong gạo lức Hỏi : Tôi được biết trước đây người ta dùng dung dịch thuốc tím kali permanganat để rửa rau sống ăn, vừa có tác dụng khử khuẩn, vừa có tác dụng cung cấp nguyên tố vi lượng mangan cho cơ thể. Mong bác sĩ nói rõ về ảnh hưởng của mangan đối với cơ thể? Nguyễn Vân (Hà Nội) Trả lời : Mangan (Mn) là kim loại đầu tiên được Gabriel Bertrand xem như nguyên tố vi lượng cơ bản đối với sự sống. Mn có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể như: tác động đến hô hấp tế bào, phát triển xương, chuyển hóa gluxit, hoạt động của não, cảm giác cân bằng. Mn có hàm lượng cao trong ty lạp thể làm chất đồng xúc tác cùng các enzym.Hormon tuyến giáp kiểm tra sự di chuyển của Mn. Ngược lại, Mn tác động đến sự chuyển hóa tuyến giáp nhờ được hình thành từ một enzym cơ bản. Mn liên kết với vitamin K tham gia tổng hợp prothrombin ảnh hưởng đến quá trình đông máu. Mn tham gia tổng hợp protein và tương tác với acid nucleic, tham gia tổng hợp cholesterol. Mn làm giảm glucose huyết nhưng lại tham gia phản ứng tạo ra glucose từ các phân tử khác. Cơ thể rất ít khi bị thiếu Mn. Trái lại nguy cơ ngộ độc lại dễ xảy ra trong công nghiệp Mn. Kali permanganat có tính ăn da nên có thể gây ngộ độc cấp tính, vì vậy cần thận trọng khi dùng nước pha thuốc tím để rửa rau. Nếu lượng Mn hấp thu vào cơ thể cao có thể gây độc với phổi, hệ thần kinh, thận và tim mạch. Cơ thể người trưởng thành chứa 12-20mg Mn, nhiều nhất ở gan (chiếm 20%) và tụy. Trong máu hàm lượng Mn là 10mcg/1, tập trung chủ yếu ở hồng cầu; huyết thanh chỉ chứa 0,6-4mcg/1. Nhu cầu hằng ngày của cơ thể từ 2-3mg Mn. Mn được bài tiết qua phân, nước tiểu, tóc. Mn có nhiều trong thực phẩm nguồn gốc thực vật như ngũ cốc, chè, các loại gia vị khoảng 10-100mg/kg. --------------------------------- Fluoride là gì? F Fluor không là một yếu tố vi lượng cần thiết thực sự. Điều này không được chứng minh ở người. Nó chỉ được sử dụng để ngừa sâu răng, liều độc rất gần với liều dùng. luor hoạt động rất mạnh và không tồn tại ở tình trạng đơn thuần. Trên thực tế, ngược với những yếu tố mà bạn đã thấy ở trên chúng cần thiết ở người, fluor không cần thiết cho hoạt động của cơ thể và sức khỏe, nhưng lại cần để có trong răng và xương. Trong cơ thể, chủ yếu là răng và xương chứa khoảng 2 g fluor. Vai trò của fluor? Fluor không có vai trò của coenzyme, ngược lại với sắt, đồng và mangan các chất này tham gia vào các phản ứng sinh hóa. Fluor cố định trong răng và khung xương, ở đó vai trò của chúng không rõ ràng. Với liều nhỏ sẽ làm giảm tần suất bị sâu răng. Trong xương, nó tích tụ lại tùy theo mức độ cung cấp vào. Theo một số tác giả, nó làm mạnh thêm xương xốp nhưng lại làm yếu vỏ xương, tức là tăng nguy cơ gãy cổ xương đùi và các xương khác, trừ xương sống. Ngoài ra, với liều thường được đưa vào nó có thể gây nhiễm fluor. Đó là lý do mà chúng ta đặt nó vào yếu tố “con dao hai lưỡi”. Nhu cầu về fluor là bao nhiêu? Không thể xác định nhu cầu vì không có phản ứng nào lệ thuộc vào fluor. Chỉ có những lời khuyên dùng fluor để ngừa sâu răng, nhưng những nghiên cứu mới đây nghiên về sử dụng fluor tại chỗ có trong kem đánh răng và nước súc miệng hơn là bổ sung fluor bằng đường uống. Nguồn cung cấp về fluor thế nào? Fluor có trong một vài loại nước khoáng, chè, muối, trong kem đánh răng, nước súc miệng, và trong một vài loại nước. Trong nước máy người ta cũng thêm fluor vào, nhưng điều này còn bàn cãi. Dấu hiệu thiếu fluor ra sao? Những lưu ý về thiếu không tồn tại vì nhu cầu không được xác định. Ngược lại, dư thừa fluor là thường gặp Dấu hiệu thừa ở : + Men răng: xuất hiện các vết sắc tố, những vết này hiếm và nhỏ nếu nhẹ, nhiều, nâu và xấu nếu nặng. Nó có thể xuất hiện các lỗ. + Xương: trở nên quá đậm và quá yếu, hình ảnh trên xương giống với hình ảnh của bệnh Paget, biến dạng chi và cột sống. Ngoài ra, fluor cho thấy là chất ôxy hóa mạnh, hoạt tính mạnh hơn ôxy vì vậy, nó có những tác dụng âm tính khác. Nguy cơ quá liều Có nhiều ý kiến khác nhau về liều độc: 5mg. Nguồn gốc của những dấu ngộ độc mạn tính không bàn cãi nữa ở những công nhân mỏ hay những vùng nước uống giàu fluor. Theo Moan, nhiều fluor xuất hiện với liều hàng ngày trên 3mg, và nhìn chung từ 4 đến 5mg. Hoạt động âm tính lên xương ở những vùng mà nước chứa từ 10 đến 30mg/l, sau thời gian tiêu thụ tối thiểu từ 10 đến 15 năm. BS.PHÙNG HOÀNG ĐẠO (Theo Encyclopédie des minéraux) --------------------------------- Selenium là gì ? Se Selen không hoàn toàn là một kim loại giống như các yếu tố khác trước đây. Nó được mô tả gần giống với kim loại tiêu biểu là lưu huỳnh. Cơ thể chứa từ 3 đến 15mg, tùy theo sự phong phú của đất ở từng vùng. Vai trò của selen? Selen đầu tiên là chất khử độc. Nó có khả năng liên kết với các kim loại nặng như thủy ngân và đào thải các kim loại nặng ra nước tiểu. Selen cũng bảo vệ cơ thể khỏi tác hại của cadimi, chì, đồng, bạc, platin và arsenic. Ngoài ra, bằng cách hợp tác với glutathion, selen góp phần giảm độc tính của nhiều chất khác. Nhưng sự tham gia của nó vào hoạt động của một men chống ôxy hóa, glutathion peroxydase, hay GPX, khiến nó trở nên có vai trò sáng chói. Enzyme này trung hòa nước có oxy trước khi tạo thành các gốc tự do có hại, dưới sự hiện diện của sắt hay đồng. Nó cũng là enzyme duy nhất có khả năng tái sử dụng acid béo bị hư hỏng do các gốc tự do. Đặc biệt ở mặt màng tế bào. Từ các acid béo bị oxy hóa này mà các chất trung gian của viêm, dị ứng và ngưng tập tiểu cầu được tạo thành. Do đó, selen cũng có vai trò trong hoạt động thay đổi dịch của máu và các đáp ứng miễn dịch. Trong những chức năng chống viêm là làm loãng máu, nó tác động hiệp đồng với glutathion, vitamin E và các acid béo không no. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng cung cấp tối đa selen sẽ làm giảm tần số của bệnh tim mạch và ung thư. Gần đây, người ta đã phát hiện ra ở Écosse, công cụ sinh hóa cho phép hoạt hóa các hormon tuyến giáp, cũng lệ thuộc vào selen. Nguồn thức ăn nào cung cấp selen? Selen được kết hợp với protein. Do đó, người ta tìm thấy nó trong thịt, cá, trứng và ngũ cốc. Tuy nhiên, hàm lượng thức ăn lệ thuộc vào đặc tính phong phú của đất có selen. Selen chủ yếu có từ chất phun ra khi có núi lửa. Từ vùng này đến vùng khác, đất có thể thay đổi và lượng selen sẽ thay đổi gấp 1000 lần hay ít selen. Nhu cầu hàng ngày về selen là bao nhiêu? Theo các chuyên gia, liều tối ưu vào khoảng 200mg/ngày. Trẻ còn bú: 15mg Trẻ từ 1 đến 3 tuổi: 20 mg Trẻ từ 4 đến 9 tuổi: 30 mg Trẻ từ 10 đến 12 tuổi: 40 mg Thanh niên từ 13 đến 19 (nam): 60 mg Thanh niên từ 13 đến 19 (nữ):55 mg Người lớn nam: 70 mg Người lớn nữ: 55 mg Phụ nữ có thai: 60 mg Phụ nữ cho con bú: 75mg Người già : 70 mg Thiếu selen biểu hiện triệu chứng như thế nào? Thiếu nặng, biểu hiện bằng bệnh cơ tim. Thiếu nhẹ, không có triệu chứng gì đặc biệt. Tuy nhiên, nó góp phần làm xuất hiện các tổn hại tế bào quan trọng cũng như thúc đẩy quá trình lão hóa và nguy cơ mắc các bệnh thoái hóa. Vấn đề tương tự khi quan sát dưới vitamin E, carotenoid và những chất béo khác. Do đó, giá trị của việc thực hiện định lượng một cách hệ thống những thiếu hụt các yếu tố sinh học bảo vệ được xác định. Những nhóm nguy cơ thiếu selen? Một vài đất nước có mức độ cung cấp đưa vào từ thức ăn cao, một số nước khác thì ngược lại. Một vài nhóm có nguy cơ thiếu selen là: người già, người tiếp xúc với ô nhiễm, người hút thuốc lá, uống rượu nhiều, người bị viêm, bệnh gan, suy thận, loạn dưỡng cơ, mucovisidose. SELEN VÀ UNG THƯ Selen bảo vệ chống lại nguy cơ ung thư. Nó được đi kèm với hoạt tính của enzyme loại bỏ peroxyde và ngăn chặn cấu trúc của hồng cầu bởi ôxy hóa. Tính hiệu quả khi chống lại nhiều tác nhân gây ung thư ở chuột, nó bảo vệ chuột khỏi u đại tràng và vú. Ở Trung Quốc và Phần Lan, tần suất ung thư tăng lên tại các vùng đất nghèo selen. Trường hợp nào nên dùng selen? Selen, giống như vitamine E, vitamine C và một vài carotenoid cùng những chất chống oxy hóa khác, xuất hiện giống nhau khi bổ sung tạo cân bằng hàng ngày, hướng tới điều chỉnh các giới hạn kỹ thuật và của thực phẩm, giống như iod. Những nhóm nguy cơ trên đây phải được bổ sung và theo dõi hơn các nhóm khác, vì nguy cơ tăng hơn. Đôi khi, selen cũng được sử dụng cao hơn liều dinh dưỡng, trong sự điều chỉnh thiếu hụt được phát hiện bởi định lượng hoặc chưa bị lão hóa, mắc một vài bệnh viêm, dị ứng hay tự miễn, một vài bệnh tim, cơ, gan và thần kinh. Nhiều công trình chỉ ra rằng, không chỉ selen với liều dinh dưỡng mới có thể góp phần phòng ngừa ung thư, mà ở liều dược lý nó có thể được sử dụng để điều trị một vài bệnh ung thư, bao gồm di căn, đồng thời đề kháng với điều trị hóa chất và phóng xạ. Trong những trường hợp này, selen với liều cao có thể làm giảm sức đề kháng của các ung thư với các phương pháp hóa trị liệu và xạ trị. Những điều trị này phải được kê và theo dõi bởi bác sĩ, nhà dinh dưỡng trị liệu. Những công trình mới đây cho thấy rằng, selen phải được đưa vào cho bệnh nhân ở khoa hồi sức. Dùng selen thường xuyên hay dùng liều cao hơn khuyến cáo của bác sĩ có nguy hiểm không? Độc tính có thể xuất hiện đối với việc kéo dài liều từ 10 đến 20 lần cao hơn liều dinh dưỡng. Nó biểu hiện bằng hơi thở và mồ hôi có mùi tỏi hoặc móng và tóc dễ gãy, hay kích thích da đầu. SELEN VÀ BỆNH TIM - MẠCH Ở động vật, cũng như ở người, thiếu cung cấp selen và vitamin E sẽ gây ra bệnh tim thoái hóa. Ở Trung Quốc, thiếu cung cấp selen đã gây ra bệnh cơ tim cho trẻ em thậm chí đôi khi gây tử vong. Bệnh này nhạy cảm với sự điều trị bằng selen. Ở Phần Lan và Tân Tây Lan, những thăm dò cho thấy rằng, tử vong vì bệnh tim mạch sẽ cao hơn trong trường hợp thiếu selen. Selen là một chất tạo thành glutathion peroxydase, một men đóng vai trò trong sự bảo vệ một vài phân tử chống lại nước ôxy già được sinh ra từ các phản ứng peroxyde hóa. Thiếu selen cũng làm tăng ngưng tập tiểu cầu của máu và biến đổi mỡ trong thành động mạch, hai cơ chế chính dẫn đến xơ vữa động mạch. ----------------------------- Iốt: Cần rất ít nhưng không thể thiếu ( I ) Trong cơ thể, iốt là một khoáng chất vi lượng, ít hơn lượng sắt 100 lần. Nhưng cái phần ít ỏi ấy lại có thể quyết định đứa trẻ thông minh hay trì độn, nguyên lành hay dị tật. Chế độ ăn hiện nay thường không đủ iốt. Nhu cầu iốt của cơ thể được tính bằng microgam (mcg) nhưng nếu thiếu nó, nhiều biểu hiện bệnh lý quan trọng sẽ xuất hiện, đặc biệt là bệnh lý tuyến giáp. Trong cơ thể, trên 75% iốt được tập trung ở tuyến giáp để tổng hợp hoóc môn giáp trạng. Phần còn lại được phân bố trong các mô khác như nước bọt, tuyến vú, dịch tiêu hóa và thận. Hoóc môn tuyến giáp T3 (tri-iodothyronin) và T4 (thyroxin) đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa phát triển cơ thể. Nó kích thích tăng quá trình chuyển hóa tới 30%, tăng sử dụng ôxy và làm tăng nhịp tim. Khi nồng độ iốt trong máu thấp, tuyến yên được kích thích bài tiết một hoóc môn kích giáp trạng là TSH. Chất này được đưa tới tuyến giáp để "bắt" nó làm việc nhiều hơn nhằm tổng hợp thêm hoóc môn giáp trạng. Hậu quả là tuyến giáp to lên, gây ra bướu cổ. Đó là loại bướu cổ đơn thuần. Việc thiếu iốt trong thời kỳ thiếu niên không chỉ gây ra bướu cổ mà còn dẫn đến đần độn, chậm lớn, nói ngọng, nghễnh ngãng. Phụ nữ mang thai nếu thiếu iốt có thể bị sẩy thai, thai chết lưu, đẻ non. Khi thiếu iốt nặng, trẻ sinh ra có thể bị các khuyết tật bẩm sinh như điếc, câm, lác mắt hoặc tinh thần trì trệ. Nhu cầu iốt : 150 mcg/ngày đối với người trưởng thành 175 mcg/ngày cho phụ nữ có thai 200 mcg/ngày cho bà mẹ nuôi con bú. Một liều lên tới 1.000 mcg/ngày có thể coi là an toàn. Các nghiên cứu cho thấy, hầu hết địa phương hiện đều bị thiếu iốt. Cần bổ sung chất này qua muối iốt và thực phẩm, nhất là loại có nguồn gốc từ biển. Sau đây là lượng iốt có trong 100 g thực phẩm: - Muối iốt: 555 mcg. - Rau dền: 50 mcg. - Nước mắm: 950 mcg. - Rau cải xoong: 45 mcg. - Cá thu: 45 mcg. - Nấm mỡ: 18 mcg. - Cá trích: 52 mcg. - Khoai tây: 4,5 mcg. - Bầu dục: 36,7 mcg. - Súp lơ: 12 mcg. -Người ta ước tính trong 100g hải đới ( rong biển Kombu )có tới 24mg iốt -Trong 100g thịt con Hàu có chứa tới 70-100mg iốt và kẽm -Trong 100g sứa khô có 132 microgam iốt. -ước tính trong 100mg Tử Thái ( tảo tím , có thể là loại rong biển NORI màu tím )có 1,8mg iốt -Trong 100g thịt ngao khô có tới 240 microgam iốt. -Nghiên cứu hiện đại cho thấy, trong 100g hồng xanh có chứa tới 49,7mg iốt. -Theo dinh dưỡng học hiện đại, trong 100g côn bố có tới 0,28g iốt. http://www.baophuyen.com.vn/portals/0/quan...THUOC/CONBO.HTM -1 kg tôm biển có 6mg iốt -1 kg cá ngần tươi có 80 microgam iốt -1 kg cá chim có tới 120 microgam iốt http://www.tamthuocsapa.com/ae622/Cham-soc...-thieu-iot.html Cần chú ý cách bảo quản, chế biến để giảm sự hao hụt iốt; chẳng hạn như để muối iốt trong túi nhựa kín, không phơi nắng, không để gác bếp. Khi nấu thức ăn gần chín mới cho muối vào. BS. Phạm Thị Thục, Sức Khỏe & Đời Sống |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 20th June 2025 - 06:58 PM |