![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 377 Gia nhập vào: 6-April 10 Thành viên thứ.: 11,098 ![]() |
Mười Ngày Thiền Tập
![]() nguồn:thienviennguyenthuy.com Lời giới thiệu Tập "Mười Ngày Thiền Tập" được phát hành nhân dịp lễ lạc thành Thích Ca Thiền Viện, ngày 23 tháng 3 năm 1997 (Rằm tháng 2, năm Đinh Sửu). Tập sách gồm những bài pháp do Ngài Thiền Sư Khippapanno Kim Triệu ban giảng trong khóa thiền thứ 21 Mùa Đông 1986, được tổ chức tại Chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ. Những bài pháp này vừa có tính cách dẫn giải, khuyến tu cho các thiền sinh, vừa mang chứa những lợi lạc thiết thực đến thân tâm cho tất cả chúng ta. Tập sách được hoàn thành do nhờ công sức cùng sự nhiệt tình bền bỉ của cô Tâm Thuận và bạn hữu. Thiền viện xin chân thành tri ân đến tất cả. Thích Ca Thiền Viện Vài lời về Tác Giả Vài lời về Tác Giả Ngày đăng tin: 20/02/2011 Thiền sư Khippapanno Kim Triệu sanh tại làng Phương Thạnh, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam vào ngày 5 tháng 12, năm 1930. Từ lúc tuổi thơ, Ngài đã được cụ bà thân sinh có nhiều đạo tâm thường dẫn đi chùa và khuyến khích làm quen với nếp sống ở chùa. Nhưng chẳng may Cụ Bà qua đời vào năm Ngài vừa lên chín, rồi vài năm sau, lúc Ngài được mười hai tuổi, Cụ Ông cũng mãn phần. Ngài Kim Triệu xuất gia Sa-di lúc được 17 tuổi, và từ lúc bấy giờ đã có ý thích tìm hiểu và học tiếng Pàli, nghĩ rằng đó là ngôn ngữ mà chính Đức Phật đã dùng để truyền bá Giáo Pháp. Vào năm 1949, ngày 11 tháng 5, Ngài thọ Cụ Túc Giới, xuất gia Tỳ-khưu tại Cao Quý Tự, Phương Thạnh, Trà Vinh (lúc bấy giờ đổi tên là Vĩnh Bình). Thầy Bổn sư cho Pháp Danh là Khippa-Panno (có nghĩa là Thiện Trí hay Tốc Trí), thường được gọi là Sư Panno, hoặc Sư Kim Triệu. Năm 1950, Ngài học đạo tại chùa Giác Quang, Bình Đông, Chợ Lớn, và năm 1956 nhập Hạ tại Kỳ Viên Tự, Bàn Cờ, Sàigòn. Năm 1957, Ngài học Pàli và giáo lý tại Chùa Tam Bảo Tự, do Ngài Đại Đức Giới Nghiêm và Ngài Đại Đức Shanti Bhadra, người Tích Lan hướng dẫn. Năm 1958, Ngài Đại Đức Giới Nghiêm, lúc bấy giờ là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam, phái Ngài đến chùa Phước Quang, Bình Định, dạy đạo. Cũng như ở các nơi khác, Ngài luôn luôn hợp tác với chư vị thiện tín địa phương thành lập đoàn Nhi Đồng, dạy kinh điển và giáo lý cho trẻ em. Vào cuối năm 1958, nhân dịp Phật Học Viện Pháp Quang, Gia Định, khai giảng lớp Giáo Lý và Pàli, Ngài trở về tu học, nhận bằng cấp danh dự Sơ Đẳng Pàli và bằng cấp Trung Đẳng Phật Học, và lưu lại đây phụ dạy văn phạm Pàli và kinh kệ. Từ năm 1962 đến năm 1964, Ngài tu học tại chùa Bửu Quang, xã Tam Bình, quận Thủ Đức. Năm 1964, Ngài được Viện Đại Học Nalanda, Ấn Độ, cấp học bổng đi tu học với nhiều giáo sư Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện. Đến năm 1970, Ngài đỗ bằng Pàli Acharya (giáo sư dạy môn Pali), bằng B.A. Phật Học, và bằng M.A. Pàli. Sau đó, Ngài theo học lớp Cổ Sử Ấn Độ tại Đại Học Maghadh. Năm 1974, Ngài sang Thái Lan hành đạo 6 tháng. Năm 1975, một người Phật tử Mỹ tên Larry Gregory cung thỉnh Ngài sang Nepal, gần thành phố Kathmandu, dạy 7 khóa thiền trong thời gian 7 tháng. Năm 1979, Ngài trở lại đây lần thứ hai để mở một khóa hành đạo 10 ngày. Từ năm 1975 đến năm 1979, trong hai nhiệm kỳ với nhiệm vụ phụ tá Tổng Thư Ký Trung Tâm Thiền Định Quốc Tế tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ngài phụ giúp việc xây cất Trung Tâm. Vào năm 1978, Ngài theo học đạo và hành thiền tại Bồ Đề Đạo Tràng và Pondichery với Ngài Tuang Pulu Kaba Aye Sàyadaw, một vị cao tăng người Miến Điện. Trong hai năm 1978-1979, Ngài nhập hạ tại Asoka Mission Vihara, New Delhi và trong thời gian này, tiếp tay với hội Phật Tử Việt Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn, cứu trợ đồng hương tại Ấn Độ. Vào tháng 7 năm 1980, Ngài sang Ngưỡng Quang (Miến Điện) thực hành pháp Tứ Niệm Xứ trong sáu tháng dưới sự hướng dẫn của Ngài Đại Đức Mahasi Sàyadaw, và gặt hái nhiều thành quả khả quan. Từ năm 1976, theo sự khuyến khích của Ngài Đại Đức Ghosananda, Ngài Kim Triệu theo học với nhiều vị Thiền Sư nổi tiếng tại Ấn Độ như Ngài Shree Acharya Anagarika Munindra, Ngài Goenkar, Ngài Rastrapal, Ngài Tuang Pulu Kaba Aye Sàyadaw, và sau cùng sang Miến Điện được duyên lành thọ huấn với Ngài Mahasi Sàyadaw. Theo lời mời của Cụ Bà Lê Thành Nghiệm, Hội Trưởng Hội Phật Tử Việt Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn, Ngài Kim Triệu sang Mỹ vào năm 1981 và lưu ngụ tại Chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn. Tại nơi đây, từ năm 1982 đến nay, ngoài những buổi lễ hàng tuần và những buổi thiền tập theo nghi thức thường lệ, mỗi mùa -- Xuân, Hạ, Thu, Đông -- Ngài Thiền Sư Kim Triệu mở một khóa thiền 10 ngày. Các chùa ở tiểu bang khác, tùy duyên, cũng thỉnh Ngài đến hướng dẫn những khóa thiền như: Chùa Pháp Vân, Pomona, CA; chùa Lake Wood (người Cam Bốt), Long Beach, CA; Tu Viện Kim Sơn, CA; chùa Veluvana, AL; chùa Taung Pulu Kaba Aye (người Miến Điện), CA; Chùa Phật Ân, MN; Như Lai Thiền Viện, San Jose, CA; v.v... Các nhóm Phật tử đó đây thỉnh thoảng cũng cung thỉnh Ngài đến dạy thiền. Trong những năm 1990-1992, chùa Phật Bảo tại Savigny-Sur-Orge, Pháp, Thích Ca Thiền Viện tại Saint Agnan, Pháp, các nhóm Phật tử tại Paris và các vùng phụ cận, cung thỉnh Ngài Kim Triệu sang Pháp mở những khóa thiền. Năm 1994, nhân dịp cung nghinh Tam Tạng Kinh về Pháp Bảo Tự, Mỹ Tho, Việt Nam, theo lời thỉnh cầu của vị Viện Chủ Phước Sơn Thiền Viện, tỉnh Đồng Nai, Ngài hướng dẫn một khóa thiền tại đây. Nhận thấy thành quả tốt đẹp của những khóa thiền do Ngài Khippapanno Kim Triệu hướng dẫn và nhu cầu cần được đáp ứng của đồng bào Phật Tử địa phương, vào năm 1986, quý vị Phật tử vùng California cung thỉnh Ngài đứng ra sáng lập một đạo tràng để tu tập, và ngày 15 tháng 7 năm 1988, ngôi Thích Ca Thiền Viện, Riverside, bắt đầu hoạt động. Từ đó, tại đây hằng năm, mỗi mùa đều có một khóa thiền. Vừa hoạt động vừa mở mang cơ sở, công trình xây cất Thích Ca Thiền Viện phần lớn đã hoàn tất viên mãn và Lễ Lạc Thành được cử hành vào ngày 23 tháng 3, năm 1997. Ngày Thứ Nhất Giới, Định, Huệ Hôm nay là bắt đầu khóa thiền mùa Đông năm 1986 (năm thứ ba của quý vị). Sư lấy làm hoan hỷ thấy quý vị có đạo tâm, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo. Kiểm điểm sự thực hành của quý vị, thiền sinh nào cũng có tiến bộ, hiểu rõ như thế nào là Thiền Quán hoặc Minh Sát Tuệ, và như thế nào là Thiền Chỉ. Khi đã biết rõ và biết cách tu niệm, thì hành giả lại càng nên tinh tấn thêm, không thối chí. Tinh tấn hành trì cho đến khi nào đức tin của quý vị không còn thay đổi. Tới lúc đó, dù quý vị không hành, thì nhiệm vụ Pháp Bảo vẫn hướng dẫn quý vị đến nơi đến chốn. Đó là mục đích chung của hành giả ở trên thế gian này. Đức Phật thường gọi "đệ tử của Như Lai" là những người có đức tin không thay đổi. Như thế nào gọi là đức tin không thay đổi? Đó là đức tin không thay đổi về Tam Bảo. Biết rõ có Phật thật, có giáo lý rõ ràng của Ngài và thực hành theo các lời dạy đó. Những vị này cũng được gọi là những vị Tăng chân đế vì họ đã chứng nghiệm rõ Vô Thường, Khổ Não, Vô Ngã, cũng như thấy rõ Tứ Diệu Đế. Được vậy là chúng ta không uổng công sinh ra làm người, cũng như không uổng công làm người Phật tử. Mục đích của hành giả đến đây trong 10 ngày của khóa thiền là để có tâm định và tạo trí tuệ. Vì vậy khi đến đây, với một đức tin vững chắc trong nội tâm, chúng ta xin cúng dường Đức Phật về vật chất cũng như tinh thần. Về vật chất, quý vị bỏ tất cả công ăn việc làm trong 10 ngày. Về tinh thần, quý vị đến đây để rèn luyện tâm. Sự cúng dường bằng hành động tu tập này là cúng dường quý báu nhất trên thế gian. Việc hành đạo như vậy không phải là dễ. Mỗi khi chúng ta đi hành thiền, nói là trong 10 ngày nhưng không phải trọn đủ 10 ngày. Ngày thứ nhất kể như mất vì tâm vẫn còn bận rộn như ở nhà. Tâm ta cần một thời gian tu tập mới yên định được. Ngày cuối, gần về nhà thì tâm chúng ta bận rộn trở lại. Vì vậy, có thể xem như chúng ta hành thiền đầy đủ chỉ có trong 8 ngày thôi. Dù chỉ 8 ngày, quý vị cũng sẽ thấy một vài kết quả của sự thực hành. Đức Phật dạy rằng nếu hành giả có duyên lành trong Phật Pháp, tinh tấn hành trì chỉ trong 7 ngày thôi là được đắc đạo quả bậc A-La-Hán hay A-Na-Hàm (Bất Lai). Nếu có duyên lành ít hơn thì đắc đạo quả thấp hơn, v.v... Vậy, ta thấy có quả báu thật sự của công phu hành đạo và ta nên hết lòng tin tưởng thực hành trong những ngày còn lại trong khóa thiền này. Việc thực hành ở xứ này rất là khó, không phải như ở những xứ Phật Giáo Á Đông. Ở đó, muốn đi tu tập rất là dễ. Nhưng ở xứ này như quý vị cũng biết, mỗi lần đi là mỗi lần khó khăn, mà mỗi 3 tháng mới đi được một lần. Vì vậy, quý vị phải tinh tấn và tranh đấu với thời gian còn lại, đừng cho hao mất. Căn bản của sự thực hành là gì? Đức Phật chỉ con đường đi đến Niết-Bàn rất rõ ràng, và Ngài để lại một cái thang rất đẹp có 3 nấc: Đó là Giới, Định, và Huệ. Chúng ta đến đây thực tập là để phát triển Định và Huệ. Làm sao phải định tâm và phát triển trí huệ cho được, phải thấy rõ chân tướng của vạn vật. Đức Phật chỉ cho chúng ta phương pháp để Định tâm và khi Định tâm rồi, chúng ta sẽ có Huệ. Trước khi hành thiền, chúng ta cần phải có Giới. Giới giúp thân và khẩu trong sạch. Khi thân và khẩu trong sạch thì tâm mới Định được. Tại sao vậy? Vì tâm định trong thân. Thân sạch, khẩu sạch mới làm nền tảng cho tâm Định được. Vì vậy khi mới vào khóa thiền, sau khi lễ Phật, quy y Tam Bảo là quý vị thọ trì giới đức. Khi Giới trong sạch rồi, tâm nhẹ nhàng thì Định sẽ phát sanh, tiếp theo là Huệ phát sanh. Nếu không giữ Giới đức, tâm sẽ có nhiều trạo hối và không Định được. Khi không Định được thì sẽ không bao giờ có Huệ. Chắc chắn như vậy. Khi Giới trong sạch, rồi Định Huệ lần lần sanh lên thì quý vị thấy rõ chân tướng trên thế gian này. Vì vậy, Giới là quan trọng. Làm thế nào cho Giới được trong sạch? Trong bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo), tác giả Đại Đức Buddhaghosa đã dành một phần lớn để nói về Giới. Ngài nói: Giới là cao thượng, Giới là trong sạch, Giới là nền tảng, Giới là đầu. Đức Phật dạy tất cả những con sông lớn tại xứ Ấn Độ là sông Yamuda, Sarapu, Saravati, Achiravati, hoặc con sông cao thượng nhất là Maghi cũng không thể tắm gội cho sạch những người không có Giới, cũng không có dầu thơm hoặc trầm hương nào có thể gội rửa sạch cho những người không có Giới. Chỉ có Giới mới rửa sạch thân ác và khẩu ác của chúng sanh. Người không có Giới bị thế gian khiển trách và tâm không được an vui. Giới giúp người có của cải. Giới có khả năng đưa hành giả đi đến các cõi Thiên, và tiếp tục đưa hành giả đi tới Niết Bàn. Cho nên, thọ trì Giới luật là nền tảng cho sự thực hành. Ngày đầu tiên trong khóa thiền, quý vị thọ Ngũ Giới, Bát Giới, hoặc Thập Giới. Ngũ Giới là Giới căn bản, là luân lý trên thế gian này. Dù Đức Phật có ra đời hay không, khi có chúng sanh thì tự nhiên có Ngũ Giới trong xã hội. Ngũ Giới gồm: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. 1) Không sát sanh là không giết hại từ loài người đến các loài súc vật. 2) Không trộm cắp là không lấy những vật gì không cho mình. 3) Không tà dâm là giới thứ ba. 4) Không nói dối là phải luôn luôn nói lời chân thật. Giới này rất khó giữ, nên ở các trung tâm thiền, thiền sinh phải tịnh khẩu. Dù cho đàm luận giáo lý giữa các thiền sinh, cũng không được làm. Vì nếu thiền sinh chưa phải là bậc thánh nhân, vẫn còn phiền não, thì khi nói quá lâu, tâm thiền sinh sẽ không được trong sạch. Ngoài những bậc thánh nhân đã đắc đạo quả cao thượng, chỉ có hai hạng người không nói dối. Thứ nhất là Đức Bồ Tát. Dù có hạĩi đến sanh mạĩng đi nữa, Ngài cũng không bao giờ nói dối. Đức Bồ Tát có thể phạm giới sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nhưng không khi nào phạm Giới nói dối. Khi hỏi Ngài: "Vậy chớ Ngài có sát sanh không?" Ngài trả lời: "Dạ tôi có." Vậy là Ngài không nói dối. Hạng chúng sanh thứ nhì cũng giữ Giới không nói dối được trong sạch là gia quyến của Đức Phật. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, dòng họ Thích Ca bị hoàng tử Vidũdabha tru diệt. Hoàng tử cho quân lính xét hỏi từng người, nếu ai thuộc dòng Thích Ca sẽ bị giết, nhưng dù chết không một ai nói dối. Họ đều thừa nhận là họ thuộc dòng Thích Ca. 5) Giới thứ năm là Giới không uống rượu và dùng các chất say như thuốc phiện, xì ke, ma túy. Đây là Ngũ giới, là Giới căn bản nhất của hành giả. Ít nhất, quý vị phải có ngũ giới. Bằng không, vì thân và khẩu không trong sạch, tâm không thể nào định được. Ngũ giới là Giới luân lý. Sau khi Đức Phật thành đạo và bắt đầu hoằng pháp, còn có những Giới khác nữa. Sở dĩ Đức Phật đặt thêm các Giới sau này vì Ngài thấy Giới về thân và khẩu liên quan đến tâm. Nếu giữ thân và khẩu trong sạch thì tâm ít phiền não, nhẹ nhàng. Và khi tâm được nhẹ nhàng thì ít nghĩ đến vấn đề phá Giới. Vì vậy có Bát quan trai Giới và những Giới khác nhằm mục đích giúp cho thân khẩu thanh tịnh hơn nữa. Bát quan trai Giới có thêm 3 điều: - Một là không ăn sái giờ. Quý vị ăn trước ngọ, lúc 11 giờ, trễ lắm là 11:30 giờ sáng. - Hai là không múa hát, thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn, trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa. - Ba là không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp. Ở xứ Mỹ khác hơn ở Á Châu. Ở xứ ta, nếu có giường như vậy là sang trọng; nhưng ở Mỹ hình như đây là tiêu chuẩn bình thường. Ta thông cảm vậy. Thêm vào đó, giới thứ ba - không tà dâm - được sửa lại là không hành dâm trong khi thọ trì Bát quan trai giới. Bát quan trai Giới thường được thọ trì trong những xứ Phật Giáo vào những ngày mồng 5, 8, 14, 15, 20, 23 , 29, và 30 âm lịch. Còn Bát quan trai trường là giữ luôn suốt cuộc đời như Cụ Bà Hội Trưởng Hội Phật Tử Việt Mỹ tại chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn. Người cư sĩ cũng có thể thọ Thập Giới, là thêm 2 giới nữa. Ở đây Giới thứ 7 chia ra làm hai phần: một là không múa hát, thổi đờn kèn, xem múa hát, nghe đờn kèn. Hai là không trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa. Giới thứ 8 trở thành Giới thứ 9. Giới thứ 10 là không giữ tiền bạc, vàng bạc, và thỏa thích trong việc cất giữ tiền bạc. Đó là những Giới của hành giả trong 10 ngày. Nếu giữ Giới trong sạch thì chắc chắn Định và Huệ sẽ phát triển. Bằng không thì Định và Huệ sẽ không lên được. Đức Phật dạy về quả báu của Giới đức như sau: "Tất cả chúng sanh được sanh về cõi Trời cũng nhờ giữ Giới, được giàu sang cũng nhờ giữ Giới, được giải thoát nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ Giới." Vậy Giới đức có khả năng đưa hành giả đến Thiên Đàng và tiếp tục đưa hành giả đi đến cửa Niết Bàn. Niết Bàn ở đâu? Ở Định và Huệ. Khi tham thiền, người thấy Chân Lý là thấy Niết Bàn; người thấy Tứ Diệu Đế là thấy Niết Bàn, người thấy rõ Vô Thường, Khổ, Vô Ngã là thấy Niết Bàn. Đức Phật dạy rất rõ ràng: Muốn thấy Niết Bàn phải quán sát Danh Pháp và Sắc Pháp. Hai pháp cao thượng này là pháp chúng ta đang thực hành trong lúc ngồi, lúc đi, hay trong lúc đang nghe giảng này vậy. Đó là hai pháp mà chúng ta đang cúng dường Đức Phật. Dù người ta có là triệu phú tới chùa cúng dường bông hoa, thức ăn, cũng chỉ một ngày đó thôi rồi trở lại với công ăn việc làm. Còn quý vị không phải vậy. Tới chùa trong 10 ngày, nguyện khắn khít nơi cửa Niết Bàn, chúng ta chỉ thấy Danh và Sắc Pháp; và chúng ta cúng dường Pháp chứ không cúng dường vật thực, trái cây hoặc bông hoa. Với vật thực, sau khi cúng dường, lui ra là chúng ta quên hẳn. Còn cúng dường Pháp Bảo trong khi ngồi khi đi, không phải chúng ta chỉ cúng dường một lúc nào đó thôi mà là từng giờ, từng phút, từng giây, từ lúc thức giấc cho đến khi lên giường ngủ. Đức Phật đã bảo rằng: "Đường đi Niết Bàn Như Lai đã tìm thấy và đã chỉ rõ cho các con. Tới hay không là do nơi các con vậy." Vậy với chìa khóa trong tâm, ta cứ mở ra xem trong thân tâm này cho đến khi không còn gì dấu được ta nữa thì chúng ta mới hết hoài nghi. Ví dụ, các tôn giáo khác nói trong thân có linh hồn. Cái gì khác có thể thay đổi, chứ linh hồn không thay đổi. Hay là họ cho rằng Thượng Đế tạo ra con người. Nếu chúng ta u mê, mờ ám không thấy thì cũng nói rằng Thượng Đế tạo ra ta và để cho vô minh che kín không chuyển nghiệp được, rồi chìm đắm trong sông mê bể khổ. Giờ đây, chúng ta thức tỉnh, sáng suốt đi tới Niết Bàn với một trí nhớ theo dõi, Định ở trong tâm. Khi có Định rồi, chúng ta phải biết phân tách tâm định. Với Chánh Niệm hay trí nhớ, quý vị sẽ thấy rõ đề mục. Niệm phồng xẹp, đi, đứng, nằm, ngồi, co tay ra vô, v.v... gọi là niệm thân. Khi co tay quý vị quán, khi ăn cũng quán, khi nhai cũng quán, khi bụng phồng xẹp cũng quán, để xem có đúng với giáo lý của Đức Phật hay không. Gọi cái này là thân (hay sắc), có đúng vậy không? Rồi phần biết thân này là tâm (hay danh), có đúng vậy không? Như vậy Sắc Pháp và Danh Pháp có đúng không? Rồi quý vị hành trì chi tiết thêm, niệm tỉ mỉ, thấy hai pháp này luôn thay đổi. Đôi khi hành giả có thói quen, ước muốn mọi việc như ý mình. Ví dụ như quý vị nói khi trước cảm thấy đau rồi niệm đau thì hết, bây giờ thấy đau nhưng niệm hoài không hết, rồi sinh hoài nghi pháp hành của mình. Vậy là không đúng. Dù cái đau có hết hay không hết, đó là chuyện của cái đau. Nếu nó không hết, chúng ta phải quán trở lại, suy nghĩ tại sao không hết. Khi suy nghĩ, quý vị sẽ thấy là nó không ở dưới sự kiểm soát của ta. Ta không muốn đau mà vẫn có nó. Ta không bảo nó hết đau được vì ta không làm chủ nó. Đấy là Vô Ngã. Hiểu như vậy, ta không chấp thủ. Nếu có chấp thủ ở đây là chúng ta kẹt. Đề mục chính ở đây là phồng xẹp. Tại sao dùng phồng xẹp làm đề mục? Trước hết, đây là cử động của thân, là yếu tố gió trong Tứ Đại (đất, nước, lửa, gió). Khi hơi thở vào thì bụng phồng; hơi thở ra thì bụng xẹp. Hơn nữa, đây là đề mục thay đổi: hết phồng rồi xẹp, hết xẹp rồi phồng. Đề mục thay đổi giúp hành giả dễ nhận thức được Vô Thường. Điểm này rất là quan trọng. Ngoài đề mục chánh, còn có những đề mục phụ sanh lên. Có khi sanh lên rồi diệt, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc đều đều; cũng như hơi thở vậy. Hơi thở phồng rồi xẹp, khi nhanh, khi chậm, khi đều đều. Hoặc Thọ: đôi khi đau rồi mau hết, đôi khi lâu hết. Cũng như bệnh cảm cúm: đôi khi bệnh cảm mau hết, đôi khi lâu hết, đôi khi còn bị bệnh cảm nặng hơn. Ở đây, nếu không hết đau thì cứ tiếp tục Niệm. Chỉ vậy thôi. Niệm rồi bỏ qua. Không có gì suy nghĩ, thắc mắc ở trong đó. Đừng thắc mắc, tại sao khi trước tôi ngồi thiền thì thấy nó như thế mà bây giờ nó lại không như thế. Nếu chú niệm hoài mà không hết đau, quý vị có thể trở về đề mục chính. Đây là nhiệm vụ của hành giả. Hành giả không nên hoài nghi trong cách thức tu niệm. Về kinh nghiệm, chúng ta không mong rằng hôm nay phải khác hơn hôm qua. Dù nó thay đổi hay không thay đổi, nó cũng là nó. Nhiệm vụ chúng ta là biết trong hiện tại thôi. Nếu có ghi nhận thì chỉ ghi nhận trong lúc này, dù giống hay khác lúc trước thì cũng không thành vấn đề, và ta chỉ cần biết nó là như vậy. Đặt hết niềm tin tưởng, tinh tấn, và luôn luôn có trí nhớ biết mình, thì sẽ có tiến bộ. Trên đây, Sư chỉ cho quý vị thấy rõ Giới là căn bản trong sự thực hành. Giới được trong sạch thì chúng ta thắng được ta. Người đời trên thế gian có thiện có ác. Muốn trở thành người thiện, phải làm thế nào? Từ ác muốn thành thiện thì chỉ có trì Giới thôi. Khi giữ giới được trong sạch thì người đó trở thành thiện ngay. Giới là khí cụ để thắng phiền não. Giữ Giới trong sạch thì chúng ta mới thắng được Tham Sân Si trong nội tâm của ta. Muốn loại được phiền não, tâm chúng ta phải trong sạch vì phiền não ở trong tâm. Mà tâm trong sạch như thế nào? Tâm trong sạch phải có Định và Huệ. Mà muốn có Định và Huệ, cần phải có Giới. Vì vậy, Giới, Định và Huệ luôn luôn liên kết với nhau. Ở đây, quý vị đã và đang thọ trì cả ba phần: Giới, Định, Huệ. Quý vị nên gắng gìn giữ Giới đang thọ trì trong 10 ngày, nhất là Giới không nói dối như Sư mới giảng hồi nãy. Khi nói chuyện, tâm sẽ phóng túng, chạy theo suy nghĩ và ta quên niệm. Mà quý vị cần có trí nhớ, chú ý trong đề mục rồi niệm. Giữ Giới được như vậy là quý vị có lợi ích trong 10 ngày này. Mong rằng quý vị gặt hái được quả báu cao thượng. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật |
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 377 Gia nhập vào: 6-April 10 Thành viên thứ.: 11,098 ![]() |
Ngày Thứ Tư
Danh Sắc và Nhân Quả Hôm nay Sư sẽ giảng thêm về Danh Sắc hay Nama Rupa để quý vị được rõ hơn, vì đây là pháp quan trọng trong Tứ Niệm Xứ. Cái gì mà ta biết rõ thì nó chắc chắn là của ta. Bây giờ đây, biết phương pháp tu niệm và muốn chắc chắn đề mục là của ta, ta phải nắm vững đề mục. Nắm vững nghĩa là có trí nhớ hay có Chánh Niệm, thì ta mới có Huệ được. Có trí nhớ là chủ động, trong khi Danh Sắc (đối tượng) là thụ động. Đề mục của ta là Danh Sắc. Ta cần phải biết rõ đề mục chính mà chúng ta thường niệm. Hơn nữa, trong lúc đang tu niệm ở chùa hay ở nhà, cái gì khởi sanh thì ta cũng phải biết rõ. Để thấy rõ những đối tượng khởi sanh lên, ta phải luôn luôn duy trì và giữ gìn Chánh Niệm. Như vậy, trí nhớ hay Chánh Niệm, tiếng Pàli là sati, là quan trọng trong Thiền Minh Sát. Chính nó là chủ động trong Thiền Minh Sát vậy. Như Sư đã giảng hôm qua, Chánh Niệm là trí nhớ ghi nhận những gì xảy ra trong thân tâm trong lúc hiện tại. Chẳng hạn khi ngồi, ta nhớ ta ngồi. Ngồi là thân hay cũng là sắc. Khi có trí nhớ, chú tâm vào Sắc Pháp thì tự nhiên ta cũng biết được Danh Pháp, vì hai pháp này luôn luôn đi cùng với nhau. Có trí nhớ sống trong hiện tại và luôn luôn chủ động là điều quan trọng nhất. Ta niệm càng nhiều, trí nhớ càng tăng, thì đề mục càng rõ. Đó là luật thiên nhiên của Minh Sát Tuệ. Niệm thân tâm của ta là đề mục nội quán. Ví dụ, quý vị niệm phồng xẹp; hay lúc đang niệm phồng xẹp, có pháp cảnh nào khởi sanh trong tâm, quý vị niệm thấy-thấy-thấy. Trường hợp nhìn ra ngoài, ta thấy quang cảnh thì ta cũng niệm là thấy-thấy-thấy vì đây cũng là Sắc Pháp như cảnh trong nội tâm của ta vậy. Sắc Pháp bên ngoài là đề mục ngoại quán. Vì vậy, niệm có hai phương pháp. Một là ta kinh nghiệm nơi thân tâm của ta. Hai là ta kinh nghiệm ngoại cảnh bên ngoài thân tâm. Do đó, chúng ta sống trong hai thế giới: thế giới bên trong của ta và thế giới bên ngoài của chúng sanh có liên quan đến ta. Khi có trí nhớ, khi đi, ta niệm là đi, hoặc mặt bước - trái bước. Nếu thấy cảnh, niệm thấy-thấy-thấy. Nếu tai nghe, niệm nghe-nghe-nghe. Nếu mũi ngửi, niệm ngửi-ngửi-ngửi. Nếu lưỡi nếm, niệm nếm-nếm-nếm, v.v... Đây là đề mục mà ta học tập trong khóa thiền 10 ngày nầy. Khi thấy rõ Danh Sắc, nếu chỉ có Sắc ta biết rõ chỉ có Sắc, nếu Sắc liên quan đến Danh ta cũng biết Sắc liên quan đến Danh. Mà không phải chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Trong Danh và Sắc còn có sự cử động, thay đổi của chúng mà ta sẽ kinh nghiệm thêm nữa. Bây giờ khi đi, niệm mặt bước - trái bước; khi ngồi, niệm phồng xẹp. Đây là niệm thân hay sắc. Còn danh thì sao? Sau đúng một giờ ngồi, nghe tiếng chuông gõ, làm sao quý vị đứng lên được? Để thân đứng dậy, trước hết phải có tâm muốn đứng dậy. Như vậy ta phải xem coi có cái gì làm thân này đứng dậy được, gọi là tác yù. Quý vị dùng trí nhớ niệm muốn đứng dậy - muốn đứng dậy trước khi đứng dậy. Đây là niệm tâm hay niệm tâm quyết định. Sau khi đứng dậy, phải có tác ý muốn đi, quý vị niệm muốn đi - muốn đi - muốn đi rồi mới đi. Khi đi, quý vị niệm chặt chẽ mặt bước - trái bước. Nếu tiếp tục niệm như vậy thì tâm không phóng ra nơi khác được. Quý vị dùng trí nhớ theo dõi sự cử động của thân và niệm theo nó. Nếu bước nhanh thì niệm mặt bước - trái bước. Nếu chậm thì niệm dở, đạp - dở, đạp. Nếu chậm hơn nữa thì niệm dở, bước, đạp - dở, bước, đạp. Khi đi đến cuối đường, có tác ý muốn ngừng lại khởi sanh, quý vị phải niệm muốn đứng - muốn đứng - muốn đứng rồi mới đứng. Khi đứng rồi, muốn quay thì niệm muốn quay - muốn quay - muốn quay. Lúc quay, niệm quay-quay-quay. Quay xong thì niệm muốn đứng - muốn đứng - muốn đứng; rồi khi đứng, niệm đứng-đứng-đứng. Đứng rồi muốn đi thì niệm muốn đi. Lúc đi thì niệm mặt bước - trái bước trở lại. Trên đây là tuệ Nhân Quả. Vì tâm muốn đi, cái thân mới đi được, muốn ngồi thân mới ngồi được, muốn đứng thì thân mới đứng được. Nếu không có tác ý thì thân không đi được, ngồi được, hay đứng được. Vừa qua, trong một tiếng đồng hồ theo dõi phồng xẹp của bụng, vì tâm chưa muốn đứng dậy nên thân không muốn đứng dậy được. Rồi sau đó, tâm muốn đứng dậy nên thân mới đứng dậy, và tâm muốn đi nên thân mới đi được. Muốn này hoặc tác ý này thuộc Danh Pháp. Tiếng Pàli gọi là Nama (Danh). Muốn đi thì thân mới đi. Muốn ngồi thì thân mới ngồi. Vì vậy, muốn đi là nhân của cái đi, và ngược lại đi là quả của sự muốn đi. Muốn ngồi là nhân của cái ngồi, và ngồi là quả của sự muốn ngồi. Như vậy hành giả phải niệm tác ýđể thấy rõ nhân quả. Nếu hành giả niệm tác ý, thật là quý báu vô cùng vì hành giả sẽ nhận thức được động lực sai khiến cho thân làm việc. Nếu quý vị thiếu ghi nhận tác ý là cũng như thể quý vị thiếu tâm. Con người lúc nào cũng có thân và tâm, nhưng cao thượng hơn, mình ghi nhận cái tâm mà người khác không ghi nhận được. Sự cử động của người không hành thiền rất nhanh vì họ không có ghi nhận. Ở đây quý vị phải ghi nhận và phải làm chậm từng cử động một. Nếu làm nhanh thì quí vị sẽ không ghi nhận được, chỉ nghĩ đến rồi làm theo mà thôi. Tại sao Đức Phật chỉ dạy cho chúng ta phương pháp này? Vì phương pháp này là phương pháp giải thoát phiền não Tham Sân Si trong nội tâm. Có bấy nhiêu đó thôi. Bây giờ, mình đem ra thực hành để kinh nghiệm những gì mình đã từng nghe, từng đọc, chứ không phải chỉ nghe suông hay chỉ đọc suông. Chỉ có bấu nhiêu mà cả mấy khóa rồi, chúng ta cũng chỉ ghi nhận trạng thái của phồng xẹp. Bây giờ đã đến lúc mời quý vị ngồi và ghi nhận cho rõ sự phồng xẹp để thấy nó như thế nào. Bây giờ, Sư hỏi thiền sinh: như vậy sự ghi nhận phồng xẹp từ khóa đầu đến bây giờ có khác nhau không? Chắc thế nào quý vị cũng trả lời là khác. Bây giờ, quý vị ghi nhận được nhiều hơn và biết những nét thay đổi trong phồng trong xẹp một cách chi tiết hơn lúc trước. Ở đây, chỉ ghi nhận phồng xẹp thôi mà quý vị luôn luôn có sự tiến bộ. Trong mỗi khóa thiền, quý vị niệm phồng xẹp là có cái mới lạ hơn trước. Nếu ta ghi nhận rõ thì không phải chỉ ghi rõ thân thôi mà còn ghi rõ luôn tâm. Khi ghi nhận tâm, chúng ta nên ghi nhận một cách tỉ mỉ hơn, vì tâm không thấy hay cảm xúc được nên khó ghi nhận. Ta cũng nên có những hành động chậm chạp hơn, nếu hấp tấp không bao giờ thấy được tâm. Ví dụ, khi quý vị muốn uống nước, đừng hấp tấp hành động liền, mà nên niệm muốn uống - muốn uống - muốn uống vài lần cho thấy rõ tác ý muốn uống rồi mới chậm chạp uống nước. Thực tập lâu ngày, khi nhân "muốn hành động" phát sanh, quý vị có thể niệm nhanh được, nhưng ban đầu hành giả phải niệm chậm mới thấy rõ tâm tác ý. Không việc gì xảy ra trên thế gian này mà không có Nhân. Vì vậy mới có Quả. Thông thường chúng sanh sợ là sợ cái Quả mà không biết sợ cái Nhân, chỉ có Đức Bồ-Tát mới sợ Nhân vì Ngài thấy rõ cái Nhân và niệm Nhân nên mới thành Phật. Bây giờ nếu ta là đệ tử Phật và muốn thành Phật, ta phải thấy rõ cái Nhân và sợ cái Nhân như Ngài vậy. Đó là phương pháp chúng ta đang thực tập. Ở đây chúng ta phải niệm chậm chậm. Ví dụ lúc ăn, chúng ta phải niệm nhai-nhai-nhai thật là chậm. Tại sao vậy? Điều này có nhiều ý nghĩa. Ví dụ để làm một việc gì tỉ mỉ, ta phải làm chậm và làm nhiều lần. Thì trong Thiền Minh Sát cũng vậy. Muốn hiểu rõ đề mục một cách tỉ mỉ, chúng ta phải cẩn thận chu đáo, xem xét thật là kỹ lưỡng từ đầu đến cuối. Dù đề mục là phồng xẹp đi nữa, nó có ý nghĩa của cái phồng, cái xẹp. Trong một cái phồng, có bao nhiêu sự chuyển động của cái phồng. Xẹp cũng vậy. Hoặc đưa tay ra rồi kéo tay vào cũng vậy. Nếu thu hình qua máy quay phim thì phải có nhiều hình ghép lại mới thấy được sự chuyển động của tay; còn nếu chỉ lấy một hình ra thì không thấy được sự chuyển động của tay. Ở đây cũng vậy, nếu niệm đưa ra - đưa ra - đưa ra chậm chậm thì ta cũng biết được chi tiết của thân và của tâm trong sự đưa tay ra hay co tay vào. Chỉ là cái tay đưa ra và đưa vào mà nếu quay phim thì biết bao nhiêu phim mà chúng ta có thể thấy được. Huống chi là tâm. Nếu ta có thể chụp hình được tâm, trong một cái đưa ra của tay là có biết bao sự sinh diệt của tâm để nó theo dõi sự chuyển động của tay. Đức Phật bảo: "Sắc sanh diệt một lần thì Tâm sanh diệt 17 lần." Vì vậy, mỗi lần niệm, ta phải niệm cho thật chậm để thấy rõ danh sắc. Làm chậm để dễ niệm và phát triển Chánh Niệm, nhờ vậy sẽ có nhiều trí tuệ. Khi có trí tuệ, hành giả biết rõ Danh Sắc và Nhân Quả. Còn hấp tấp thì không bao giờ thấy rõ Danh Sắc hoặc Nhân Quả. Vì Tuệ Danh Sắc và Nhân Quả quan trọng nên quý vị cần phải kinh nghiệm qua. Nếu Sư giảng theo kinh sách thì không bao giờ quý vị kinh nghiệm được. Quý vị đã từng học rất nhiều trong kinh sách, như trong Vi Diệu Pháp, mà đâu có kinh nghiệm Danh Sắc được đâu! Vì vậy, sau khi thực hành, quý vị đến trình pháp, nói biết rõ cái này là Danh, cái kia là Sắc, Sư rất hoan hỉ. Và nếu quý vị thấy thêm Nhân Quả nữa, Sư càng hoan hỉ hơn. Cho nên, đôi khi Sư khuyên quý vị tự viết lại những kinh nghiệm của mình để xem có đúng hay không. Sách Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) có nói rõ về hai Tuệ này. Tuy hai tuệ này là phàm tuệ, nhưng nếu ta kinh nghiệm hoặc thấy rõ thì nó là trợ duyên cao cho hành giả trong kiếp sống này. Ý nói là nếu hành giả thấy Nhân Quả, thấy được sự thay đổi hay sanh diệt của Danh Sắc, và bắt được tác ý thì quý vị thật sự có một trợ duyên trong Phật Pháp. Sách Visuddhimagga cũng có nói rằng, hành giả nào thấy rõ được Danh Sắc và Nhân Quả với Tuệ Minh Sát thì người đó sẽ không đi vào 4 đường ác đạo (a-tu-la, ngạ quỷ, địa ngục, súc sinh) trong kiếp kế. Và nếu không đi vào 4 đường ác đạo, quý vị sẽ được tái sanh vào những cõi có trợ duyên để có thể tu tập tiếp và có thể đắc quả cao. Người thấy rõ Danh Sắc, rõ Nhân Quả, và thấy sự sanh diệt từng sát-na một, gọi là tiểu Tu-Đà-Hườn. Bây giờ nói về Nhân Quả. Khi ngồi lâu quý vị bị đau, niệm đau-đau-đau. Đôi khi quý vị sợ, nghĩ rằng cái đau này do nghiệp kiếp trước làm những việc xấu. Chỉ vì thấy Nhân Quả mà quý vị có thể thấu triệt được hành động trong kiếp trước. Hoặc đôi khi quý vị nghĩ: Tại sao tôi già? Sở dĩ có già là vì có sanh. Tại sao sanh? Sanh tại có Nghiệp. Tại sao có Nghiệp? Tại ái dục, tại thủ, tại chấp thân này nên có thân này. Chúng ta có thể xem và thấy nhân quả đưa đẩy theo thứ tự của Thập Nhị Nhân Duyên. Ngược, ta cũng tìm thấy Nhân Quả; mà xuôi, ta cũng tìm thấy như vậy. Kế đến, quý vị thấy thân tâm này liên quan với nhau. Nếu có thân mà không có tâm thì thân này chết. Nếu có tâm mà không có thân thì tâm không hoạt động được. Ví dụ, qua cái thấy, sở dĩ tâm hoạt động được là nhờ có mắt mới thấy cảnh bên ngoài. Nếu mắt hư là tâm không thấy chi cả. Nếu có mắt mà không có tâm thì mắt chẳng biết chi cả. Như vậy, chúng ta không có Ngã, chỉ có sự làm việc của thân tâm, mà từ trước đến nay, chúng ta cứ tưởng là có cái "ta". Bây giờ nói về tâm thức. Khi có trần cảnh bên ngoài, thức sẽ hiện ra trong căn và trí nhớ theo niệm tâm thức. Khi ta không có trí nhớ (Chánh Niệm), tâm sẽ hoạt động theo thiện ác. Người không có Chánh Niệm sẽ bị cảnh ở ngoài chi phối và ác pháp khởi sanh. Khi có Chánh Niệm, ví dụ khi thấy thì ta niệm thấy, thì ác pháp không khởi sanh được; và nhờ đó, ta không bị lầm. Từ trước đến nay, khi thấy hay khi nghe ai, chúng ta không cho đó chỉ là người mà còn cho là cái gì khác hơn nữa rồi tô điểm thêm. Vì vậy phiền não sanh lên. Giờ đây dù thấy người đó tốt hay xấu, mình cũng chỉ niệm thấy-thấy-thấy. Niệm được giây phút nào thì tâm ta trong sạch trong giây phút ấy. Chánh Niệm ghi nhận rõ đề mục và dạy tâm thức trú trong đề mục. Chánh Niệm khi thấy thì nói thấy nên tâm không bị những tư tưởng khác bôi nhọ. Từ trước đến nay vì không có Chánh Niệm, vừa thấy thì tâm đã tưởng một cái gì khác xấu hoặc tốt, rồi phiền não sanh lên. Vậy Chánh Niệm có khả năng sửa ác pháp thành thiện pháp và chỉ sửa được trong giây phút này thôi. Nếu thấy qua rồi hay chưa thấy thì không bao giờ sửa được. Vì vậy đang thấy phải niệm thấy-thấy-thấy. Đang nghe, phải niệm nghe-nghe-nghe. Đang nhai, phải niệm nhai-nhai-nhai. Thì lúc đó phiền não không khởi sanh được. Và cứ như vậy ta niệm cho đến khi không còn phiền não nữa. Làm việc gì cũng có Nhân, có Quả. Ta ngồi đây cũng có Nhân, có Quả; hay đi đâu cũng có Nhân, có Quả. Vì vậy, Sư khuyến khích quý vị tinh tấn tu niệm trong những ngày còn lại cho thấy rõ Danh Sắc và Nhân Quả. Có như vậy, quý vị mới không còn nghi ngờ. Khi hành giả tích cực niệm không gián đoạn, tâm không phóng và sẽ thấy đề mục rõ ràng. Khi hành giả đang ăn hoặc đang đi, nếu làm chậm chậm, tinh tấn niệm, và chú ý kỹ thì sẽ thấy rất rõ Danh Sắc đi chung với nhau cũng như lúc ngồi vậy. Khi chú tâm niệm vào bất cứ đề mục nào, hành giả sẽ thấy đó là Danh và Sắc, là sự thay đổi Vô Thường từng sát-na một; và như vậy không chấp vào nó. Đề mục khởi sanh có thể nhỏ, to, dễ chịu, khó chịu hay thay đổi. Quý vị không nên sợ sệt vì đề mục thay đổi, cũng không nên dính mắc vì đề mục dễ chịu. Cứ niệm cho qua, dù khó khăn hay dễ chịu. Nhiệm vụ hành giả là ghi nhận cái gì đang xảy ra trong hiện tại; không nên nghĩ lại quá khứ và tưởng tượng đến tương lai. Hành giả cứ sống trong hiện tại. Vì vậy trong thời gian còn lại của khóa thiền, Sư khuyến khích quý vị tinh tấn tu niệm và mong quý vị kinh nghiệm chính chắn những loại Tuệ mà Sư vừa trình bày. Thời giáo lý đến đây xin tạm dứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành, mau đến nơi giải thoát Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Ngày Thứ Năm Tứ Diệu Đế Hôm nay Sư sẽ giảng về Tứ Diệu Đế, một đề tài sâu xa nhất và khó hiểu nhất trong Phật giáo. Tứ Diệu Đế hay Tứ Thánh Đế là gì? Đây là bốn sự thật. Gọi là thật vì nó không thay đổi. Bốn sự thật này chỉ có bậc thánh nhân mới thấy rõ được. Bậc thánh nhân là các vị: Tu-Đà-Hườn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La-Hán, Phật Độc Giác và Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Chỉ những bậc thánh nhân mới thấy rõ Tứ Diệu Đế, hiểu rõ đó là thật, và nhận thức đó là thật. Đức Phật tìm ra Tứ Diệu Đế, chứ Ngài không sáng tạo ra Tứ Diệu Đế. Lịch sử Phật Giáo có ghi rằng: "Tất cả các vị Phật trong quá khứ, hiện tại, và tương lai, như Đức Thích Ca Mâu Ni, đều tìm thấy Tứ Diệu Đế." Vì vậy, Tứ Diệu Đế hay Tứ Thánh Đế là những sự thật luôn luôn hiện hữu và không thay đổi. Đức Phật thuyết giảng về Tứ Diệu Đế lần đầu tiên tại rừng Lộc Giả cho năm anh em Kiều-Trần-Như. Và trong 45 năm trên đường hoằng pháp của Đức Phật, Ngài luôn luôn nhắc nhở về Tứ Diệu Đế, vì Tứ Diệu Đế rất quan trọng. Ngài luôn luôn nhắc đến bốn sự thật đó vì muốn chúng sanh thấy được sự thật như Ngài. Chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Đó là những sự thật có lợi ích mà Ngài đã tìm kiếm trong bao nhiêu kiếp. Công phu tu luyện, từ khi nguyện trong tâm cho đến khi nguyện ra lời, thành Phật của Ngài chỉ có một mục đích là để thấy rõ sự thật. Ngày hôm nay, Đức Thế Tôn đã thấy rõ ràng, nên Ngài luôn luôn đề cao sự thật và hướng dẫn cho các đệ tử của Ngài để nếm được hương vị của sự thật như Ngài. Chỉ có bốn sự thật này là liên quan đến tất cả các pháp của Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 45 năm. Bất cứ đề tài nào của giáo pháp cũng không ngoài Tứ Diệu Đế. Đức Phật dạy rằng chỉ có bốn sự thật, gọi là Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế gồm có: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, và Đạo Đế. Đức Phật bảo Khổ là thật. Nếu ta nghĩ Khổ là giả là ta vẫn còn mê lầm. Nhân gây ra Khổ, gọi là Tập, cũng là thật nữa. Nhân này gây ra sự đau khổ cho chúng sanh cũng như cho chính Đức Bồ-Tát trong bao nhiêu kiếp. Sau khi biết được hai sự thật này rồi, Đức Phật còn tìm thấy sự Diệt Khổ. Do vậy, sự Diệt Khổ hay Niết-Bàn cũng là một sự thật. Và cái gì có thể dập tắt sự đau khổ? Đức Phật tìm ra phương pháp để diệt hẳn sự khổ. Phương pháp diệt khổ, gọi là Đạo, là sự thật thứ tư. Tóm lại, Tứ Diệu Đế là bốn sự thật mà chư Phật tìm ra và chỉ dẫn lại cho các hàng đệ tử của Ngài. Một bậc thánh nhân phải thấy bốn sự thật này. Nếu chưa thấy thì chưa phải là thánh nhân. Vì vậy, giáo lý của Đức Phật luôn đề cập đến Tứ Diệu Đế. Khi nói đến Tứ Diệu Đế thì có Khổ là đầu; mà chúng sanh thì không muốn nghe như vậy, cho nên họ thấy dường như giáo lý đạo Phật có vẻ bi quan. Tuy nhiên, nếu chúng ta thông hiểu sâu xa thì không phải như vậy. Thế nào gọi là Khổ? Đức Phật bảo sanh là khổ. Tại sao vậy? Vì đây là nhân của sự giaụ. Sau cái sanh là già, mà già thì khổ thật vì nhiều bệnh hoạn ốm đau. Cái Khổ này, không ai muốn có nhưng không thể tránh được. Suy xét lại, ta thấy nếu không có sanh thì làm sao có già và có khổ? Vì vậy, có phải sanh là nhân làm cho ta khổ không? Tại vì ta không có trí tuệ suy xét nên không biết đó thôi. Bây giờ ta thấy già có cái Khổ của già, lại thêm bệnh hoạn vì thân này đã cũ. Cái gì đã cũ, đã hư hoại thì đau khổ. Vậy già là khổ, bệnh hoạn là khổ. Kế đó là sự chết, một cái khổ nữa. Không ai muốn đi đến cái chết; mà dù muốn dù không, lúc nào ta cũng phải bước về chỗ đó. Vì vậy, cuộc đời là một chuỗi đau khổ từ đầu đến cuối. Còn có những cái khổ khác trong đời sống. Một là cái ta thích mà lại xa lìa ta thì cũng làm ta đau khổ. Hai là cái ta ghét mà lại phải gặp thì ta cũng khổ. Ba là điều mà Đức Phật tóm tắt trong câu: "Sankhithena paccuppanna khandhadukkha." Nghĩa là gom tất cả các sự khổ ấy trong một chỗ gọi là "ngũ uẩn thủ". Khi chúng ta chấp vào ngũ uẩn này, đó là khổ. Điều này hơi khó hiểu. Ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức trong con người. Thuộc về ngoại thân là ngũ trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Chữ "chấp" ở đây có nghĩa là khi thấy thân này, ta chấp vào một cái Ta hay một cái Ngã. Con người thường cho sắc là ta, thọ là ta, tưởng là ta, hành là ta, thức là ta; và chấp vào đó. Ví dụ: chấp ta đau. Khi có cái chấp này rồi, tự nhiên cũng có chấp vào ngoại cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc là ta nữa. Chẳng hạn chấp vật đó là của ta. Càng chấp nhiều chừng nào thì ta càng khổ nhiều chừng ấy. Vì vậy, Đức Thế Tôn thường nói chấp ngũ uẩn thủ là khổ. Đức Phật và các bậc A-La-Hán cũng có ngũ uẩn nhưng không còn khổ vì các Ngài không còn chấp ngũ uẩn này là của các Ngài nữa. Các Ngài đã thấy rõ con người là Danh và Sắc. Do đó, cái Ta của các Ngài mất hẳn. Đối với các Ngài, đây chỉ là Danh Sắc đang hoạt động đó thôi. Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, các Ngài không có chấp cái sắc là ta, cái thọ là ta, v.v... Vì vậy các Ngài không đau khổ. Chúng sanh khổ vì chúng sanh chấp ngũ uẩn là của ta. Cho nên, Khổ là khổ ở cái chấp đó. Khi thân tâm khổ, ta cho là khổ, thì dễ hiểu. Nhưng tại sao khi thân tâm vui, mình cũng cho là khổ? Đây là điều chúng sanh không nhìn nhận vì thấy khó hiểu. Muốn hiểu điểm này, phải hiểu thêm giáo lý của Đức Phật. Ở đây, Ngài thuyết giảng về các loại khổ cho ta hiểu. Nếu hiểu rõ, ta sẽ thấy đạo Phật không phải bi quan. Đức Phật nói có ba cái Khổ cần phải hiểu rõ: 1. Một là dukkha dukkha (khổ khổ): Khổ vì khổ, hay nói rõ hơn khi thân đau, tâm cũng cảm thấy khó chịu. 2. Hai là viparinamadukkha (hoại khổ): Khổ vì thay đổi. Đức Phật bảo, nếu không có thay đổi thì chúng sanh không khổ. Nhưng mọi việc trên thế gian đều thay đổi, vì vậy mà chúng sanh khổ nhiều nhưng không hay biết. Ví dụ, trèo cao thì té nặng. Chức vị càng cao thì khi bị giáng chức, lại càng đau buồn. Càng vui nhiều thì lúc hết vui cũng buồn nhiều. Vui bao nhiêu thì cái khổ cũng trả lại bấy nhiêu, không bao giờ ít hơn. Cũng như khi ta có một cái gì làm ta hết sức vui mừng, mà sau đó vật ấy lại bị hư hỏng thì ta khổ cũng nhiều như vậy hoặc còn hơn đó nữa. Tại sao vậy? Vì cái vui có thời hạn. Vui được một tháng, hai tháng, một năm, hai năm. Mà cái khổ không có thời hạn. Một năm vẫn còn khổ, hai năm vẫn còn khổ, đôi khi khổ suốt đời. Do đó Đức Phật dạy: "Sự thay đổi gây ra cái khổ". 3. Ba là sankharadukkha (hành khổ): Khổ ở trong điều-kiện-pháp. Chỗ này hơi khó hiểu. "Điều kiện pháp" là gì? Tất cả các pháp thên thế gian này đều nằm trong 3 điều kiện pháp, cũng được gọi là tam tướng. Điều kiện thứ nhất là Vô Thường, thứ hai là Khổ, thứ ba là không có ai làm chủ được hết, cũng gọi là Vô Ngã. Vậy sankharadukkha bao gồm hai cái Khổ trên. Vì Khổ ở trong điều kiện pháp này nên hành giả mới lại tu tập. Mà làm sao thấy được những điều kiện pháp này được? Muốn thấy rõ, chỉ có thực hành Thiền Minh Sát hay Vipassana, và khi có Minh Sát Tuệ mới thấy những điều kiện pháp như vậy được. Vì vậy có câu kệ: "Sabbe sankhara aniccati yada pannaya passati atha nibbindati dukkhe esa maggo visuddhiya"; có nghĩa là "Khi hành giả suy xét các tập hợp pháp là Vô Thường trong giờ nào thì ắt chán nản sự khổ trong giờ ấy. Đó là con đường thanh bạch trong sạch." Tất cả các tập hợp pháp đều là Vô Thường. Ở đây, các tập hợp pháp có nghĩa là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hay là sắc, thanh, hương, vị, xúc, hay là danh sắc. Chỉ có người có trí tuệ mới thấy được Vô Thường. Khi hành giả thấy được Vô Thường như vậy thì phát sanh sự chán nản trong các tập hợp pháp hay là trong Danh Sắc. Đây là con đường thanh bạch hay là con đường Niết Bàn vậy. Khi hành giả tu niệm trong 10 ngày, niệm Danh niệm Sắc, thì hành giả sẽ thấy sự thật hay chân đế. Danh Sắc hay Ngũ Uẩn gom lại gọi là tập hợp pháp hay pháp hành. Bằng Tuệ Minh Sát, hành giả luôn luôn thấy nó. Ngoài Tuệ Minh Sát, không bao giờ ta thấy được những pháp này. Nếu không có Tuệ Minh Sát, chúng sanh lầm lẫn, cho đời là vui, là thường rồi mừng. Càng vui mừng nhiều, khi nó thay đổi, thì càng khổ nhiều, vì không thấy được pháp sanh diệt. Như Sư vừa nói, chỉ có Đức Phật và các vị A-La-Hán mới không còn khổ nữa. Chúng sanh còn Khổ vì chưa diệt trừ được phiền não trong tâm. Nhưng dù chưa hoàn toàn diệt được phiền não, khi đang hành Thiền Minh Sát, hành giả có thể tranh đấu với sự Vô Thường, Khổ Não một phần nào; hay là có trí tuệ để diệt sự Khổ một phần nào. Do nhờ Tuệ Minh Sát, hành giả thấy rõ Danh cũng như Sắc luôn luôn sanh diệt. Nếu thấy rõ sanh diệt (hay thay đổi) là quý vị sẽ thấy Khổ trong lúc đang tham thiền. Thiết tưởng hành giả nào cũng vậy, chán nản sự Khổ này, không muốn có nó. Để giải thoát đau khổ, chúng ta phải niệm cho thấy danh sắc rõ ràng và có như vậy, mới giải thoát được. Đây là phương pháp của Đức Phật dạy. Chính nhờ Tuệ Minh Sát này, Đức Phật mới diệt hẳn phiền não, diệt hẳn điều kiện pháp. Như vậy, Đức Phật dạy: "Khổ là do sự thay đổi, Khổ do sự chấp, và Khổ do ngũ uẩn." Tất cả đều là Khổ hết. Đây gọi là Khổ đế. Đức Phật thuyết bài pháp này cho loài người trên thế gian nghe vì con người mới có đủ trí để suy xét và nhận thức được giáo lý này. Chúng sanh ở cõi thấp hơn thì lại quá đau khổ, luôn bi quan, không nhận thức được. Còn chúng sanh ở cõi cao thì lại quá vui, quá lạc quan, cũng không nhận thức được. Đức Phật cũng dạy giáo lý này ở cõi trời cho những Chư Thiên nào đã tu tập và có chánh kiến, nhận thức giáo lý của Đức Phật; chứ không phải thuyết cho vật vô tri vô giác. Bây giờ chúng ta đã thấy rõ Khổ và nhìn nhận có thật như vậy. Khổ này không thay đổi, gọi là Khổ Đế. Có Khổ rồi, vậy cái gì làm cho chúng sanh Khổ? Đức Phật dạy rằng nhân sanh ra Khổ là ái dục. Ái dục hay tham lam, tham ái là guồng máy của sự đau khổ. Tâm tham ái là tâm không muốn mất. Nếu chúng sanh có tâm như vậy thì tự nhiên có hành động hay tạo nghiệp để gìn giữ những cái mình có mà không muốn mất. Có ba cấp ái dục: ái dục ở cõi người và cõi trời Dục giới, ở cõi Sắc Giới, và ở cõi Vô Sắc Giới. Bây giờ nói về ái dục ở cõi Dục Giới. Khi có tâm ham muốn thì tự nhiên tạo hành động cũng gọi là tạo nghiệp. Nghiệp thì có nghiệp thiện và nghiệp ác. Và khi có nghiệp thì có quả. Nếu có quả rồi, tự nhiên sẽ đưa tới những nghiệp và quả khác nữa. Vì vậy, khi nói về Khổ, ta thấy rõ sự Khổ trong hiện tại do nghiệp trước đưa lại; mà nghiệp là do ái dục. Vậy sự Khổ trong hiện tại là do ái dục đưa lại. Rồi ái dục còn bảo hộ, duy trì, gìn giữ, và tạo thêm nghiệp mới nữa. Cũng vậy, nghiệp mới sẽ sanh ra những quả mới. Quả mới sẽ đưa đẩy chúng sanh đi trong kiếp khác nữa. Đây là guồng máy luân hồi tạo đau khổ không bao giờ chấm dứt; từ những đau khổ trong quá khứ đến những đau khổ khác trong kiếp này và từ những đau khổ trong kiếp này đến những đau khổ khác trong kiếp vị lai. Như thế, nếu còn ái dục thì sự đau khổ sẽ không bao giờ chấm dứt. Khi ta thấy rõ lý Tứ Diệu Đế thì sẽ thấy đây là khía cạnh của luân hồi và đau khổ. Không phải là ta không thoát ra được. Đức Phật còn thuyết thêm hai sự thật kế tiếp. Đó là Diệt Đế và Đạo Đế. Diệt Đế có khả năng dập tắt sự đau khổ, và làm cho sự đau khổ không còn trở lại nữa. Muốn có Diệt Đế, phải có phương pháp cho chúng ta thực hành, đó là Đạo Đế. Chữ Diệt Đế có nghĩa là Niết-Bàn, vì Niết-Bàn diệt hẳn phiền não và làm phiền não không còn trở lại. Đây là có ý nói về Đức Phật và các bậc A-La-Hán. Còn các bậc Tu-Đà-Hườn, Tư-Đà-Hàm và A-Na-Hàm chỉ diệt được một phần nào và vẫn còn những phiền não vi tế. Diệt ở đây là do đạo tâm diệt. Các bậc A-La-Hán diệt phiền não rồi đi đến Niết-Bàn thì sự khổ không còn trở lại nữa. Riêng hành giả khi thực hành, làm sao biết được là phương pháp đó đúng và kết quả của sự thực hành đó là gì? Như thế nào là diệt trừ phiền não? Sư xin nhắc lại: "Khi ái dục diệt thì phiền não cũng diệt, vì ái dục là nhân của phiền não." Diệt trừ phiền não hay diệt trừ ái dục cũng có cấp bậc. Đức Phật và các vị A-La-Hán có đạo tâm đi đến Niết-Bàn và diệt hẳn phiền não. Riêng hành giả, lúc tu niệm cũng diệt được phiền não một phần nào. Với chánh niệm, hành giả diệt được phiền não từng sát-na một. Vì vậy khi thực tập, hành giả phải luôn luôn có Chánh Niệm và tâm Định. Định, Huệ ở trong Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Đây là những chi của sự giải thoát. Khi ta ở trong những chi phần này thì ta có khả năng diệt trừ phiền não trong lúc ấy. Đức Phật dạy sankharadukkha, nghĩa là ngũ uẩn là khổ hay các pháp hành là khoạ. Nếu chúng ta chấp nó là chúng ta khổ. Nếu có ngũ uẩn này mà chúng ta không chấp nó thì chúng ta không khổ. Vì vậy, khi chúng ta niệm Danh Sắc chính là niệm ngũ uẩn này. Niệm Danh, niệm Sắc chính là niệm các tập hợp pháp này. Và khi niệm, chúng ta có huệ, thấy sự thay đổi hay sanh diệt trong Danh Sắc. Người đời thấy vui chạy theo vui mà khi hết vui trở thành buồn. Nhưng hành giả không phải vậy. Có đề mục, dù vui dù buồn, hành giả đem ra thực tập, niệm cho thấy sự Khổ Não, cho thấy các điều kiện pháp mà chúng sanh thường không thấy. Như Đức Phật đã nói, muốn thấy Niết-Bàn phải thấy điều kiện pháp. Vì vậy, ta phải thấy điều kiện pháp ở trong Danh Sắc này. Nếu chúng ta thấy điều kiện pháp rồi, thì hiểu Danh Sắc ở trong điều kiện pháp là ở trong sự vô thường. Nếu ở trong vô thường như vậy, ta dạy tâm ta, là danh sắc sanh rồi diệt. Hay khi Tham sanh lên, với trí nhớ mạnh ta niệm, cái Tham sẽ diệt mất đi. Như vậy mình có khả năng diệt Tham được liền trong giây phút đó. Nhưng vì chúng ta còn ở trong sát-na Định, chưa đi đến đạo tâm, nên tâm Tham còn trở lại sau đó. Nếu ta đi tới đạo tâm thứ tư như vị A La Hán, phiền não tiêu diệt hoàn toàn và không bao giờ trở lại. Như chúng ta, khi niệm đến ngày thứ năm, thứ sáu, là đã thấy phiền não khó khởi sanh làm chi phối tâm ta. Huống chi là các Ngài A-La-Hán. Khi các Ngài đi đến đạo tâm thứ tư, phiền não hoàn toàn diệt hẳn, không còn khởi sanh trở lại trong tâm. Nghĩa là mất hẳn. Tham không còn sanh lại được, Sân cũng không còn sanh lại được, thì đâu có gì có thể chi phối tâm của một vị A-La-Hán. Vì không có phiền não, các Ngài không cần phải niệm. Trong khi chúng ta phải niệm vì phiền não còn khởi sanh trong tâm ta. Và vô thường, phiền não có thể khởi sanh bất cứ lúc nào. Ví dụ như đang vui, cái buồn khởi sanh lên, cắt đứt niềm vui đi. Nếu chỉ có vui thôi, còn buồn không sanh lên thì mình đâu có lo. Vì vậy chúng ta phải niệm, niệm cho thấy vui cũng vô thường mà khổ cũng vô thường. Đang vui, niệm vui là nó mất rồi. Đang buồn, niệm buồn là nó cũng mất. Đức Phật chỉ dạy đây là viparinama dukkha, là "khổ vì thay đổi" mà chúng sanh thường mê lầm, không biết vậy. Chúng ta phải có kinh nghiệm hết tất cả các điều đó. Chúng ta phải nhìn nhận Khổ vì khổ, Khổ vì sự thay đổi, và Khổ vì chấp ngũ uẩn. Và cứ như vậy, ta niệm. Đây là phương pháp diệt trừ phiền não từng sát-na một. Chúng ta cứ diệt từng cái cho đến khi phiền não không còn trở lại trong tâm. Bây giờ phiền não của ta đang "ốm yếu" dần dần. Nghĩa là phiền não lắng xuống, không còn hoạt động mạnh, như vậy tâm hành giả có thể khắn khít với đề mục. Và khi tâm khắn khít trong đề mục thì phiền não lại càng yếu và càng không có sức mạnh nổi dậy. Đây là sát-na diệt trong khi hành giả đang hành thiền tích cực, nhưng chưa phải là cái diệt cuối cùng của phiền não. Cái diệt cuối cùng của phiền não chính là Diệt Đế, là sự thật thứ ba vậy. Làm sao có sự thật thứ ba này? Để có Diệt Đế, phải có phương pháp cho chúng ta thực tập. Phương pháp diệt hẳn phiền não hay diệt trừ từng sát-na một là Đạo Đế. Đạo Đế, hay con đường đến Niết-Bàn có tám chi: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Nghiệp, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Nói tóm lại, tất cả là bốn sự thật mà Đức Thế Tôn tìm thấy. Ngài không tìm thấy ở nơi nào khác, không phải cõi trời, hay ở cõi Phạm Thiên. Mà Ngài tìm thấy trong thân tâm này. Vì vậy, Đức Phật dạy con đường đến Niết-Bàn chính ở trong thân tâm ta, và Ngài chỉ phương pháp cho chúng ta áp dụng. Chúng ta phải trở lại với chính bản thân ta và thực tập. Đức Phật bảo, phải thấy Danh Sắc là điều thứ nhất. Làm sao thấy Danh Sắc? Phải niệm: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Phải niệm cho đến khi thấy rõ Danh Sắc. Khi thấy rõ Danh Sắc rồi, niệm cho đến khi thấy trong Danh Sắc có Nhân có Quả. Danh Sắc ở đâu đưa lại đây? Trước khi ngồi đây, từ đâu đưa lại? Tại sao thân cử động được? Cái gì là chủ chốt đưa thân này ngồi xuống trong khi tứ đại không biết gì hết? Phần chủ động sự cử động của thân chính là tâm. Tác ý muốn cử động như muốn đi, muốn đứng, muốn nằm, muốn ngồi, v.v... làm chủ động cho sự cử động. Tác ý muốn cử động là nhân của sự cử động và sự cử động là quả của tác ý muốn cử động. Đây là nhân quả. Vì vậy, quý vị phải niệm tác ý muốn cử động. Đây là nhân quả. Vì vậy, quý vị phải niệm tác ý trước khi làm một điều gì, niệm cho đến khi bắt được nó. Quý vị cần phải khuyến khích tâm, đừng dải đãi. Người ta ở đời còn dạy được. Con cháu ta không biết chi hết mà ta còn dạy cho biết đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, v.v... được. Huống chi chúng ta có trí tuệ đầy đủ và ở đây ta chỉ làm lại những việc đã làm rồi trong bao nhiêu năm. Chỉ khác là bây giờ ta tìm sự thật đang ẩn trong ta. Vì vậy, Đức Phật nói, Niết-Bàn ở trong thân tâm. Bây giờ, chúng ta đang tìm kiếm từ từ, sự sáng suốt sẽ lần lần đến với chúng ta. Nếu thấy rõ Danh Sắc, lần lần ta không còn chấp vào một cái Ngã. Như vậy là bớt một cái khổ rồi. Và nếu niệm, ta thấy nhân quả và sanh diệt nữa thì càng đáng vui cho thân tâm này. Mỗi lần ta thấy rõ sự sanh diệt là mỗi lần ta thêm xa rời phiền não, vì ta bớt chấp thân tâm này. Đây là diệt phiền não. Ta xa nó bằng cách nhìn nó, hiểu nó cho rõ. Không phải ta xa nó bằng cách chạy trốn. Vì vậy Đức Phật bảo rằng Niết-Bàn ở trong thân tâm chứ không phải ở ngoài thân tâm. Sự khổ không ngoài thân tâm. Ái dục không ngoài thân tâm. Niết-Bàn không ngoài thân tâm. Cũng như Bát Chánh Đạo không ngoài thân tâm. Vì vậy, cái khổ, cái vui ở trong thân tâm chứ không phải ở ngoài thân tâm. Và con đường đi đến Niết-Bàn cũng ở trong thân tâm. Bây giờ, chúng ta đang trên con đường đến Niết-Bàn. Mong rằng quý vị phát triển trí tuệ hiểu biết Danh Sắc, hiểu biết nhân quả, và trí tuệ thấy sự sanh diệt từng sát na một của Danh cũng như Sắc. Mong rằng quý vị luôn gặt hái được quả báu cao thượng cho đến khi đắc đạo quả Niết-Bàn. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 20th June 2025 - 11:23 AM |