![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 377 Gia nhập vào: 6-April 10 Thành viên thứ.: 11,098 ![]() |
Mười Ngày Thiền Tập
![]() nguồn:thienviennguyenthuy.com Lời giới thiệu Tập "Mười Ngày Thiền Tập" được phát hành nhân dịp lễ lạc thành Thích Ca Thiền Viện, ngày 23 tháng 3 năm 1997 (Rằm tháng 2, năm Đinh Sửu). Tập sách gồm những bài pháp do Ngài Thiền Sư Khippapanno Kim Triệu ban giảng trong khóa thiền thứ 21 Mùa Đông 1986, được tổ chức tại Chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ. Những bài pháp này vừa có tính cách dẫn giải, khuyến tu cho các thiền sinh, vừa mang chứa những lợi lạc thiết thực đến thân tâm cho tất cả chúng ta. Tập sách được hoàn thành do nhờ công sức cùng sự nhiệt tình bền bỉ của cô Tâm Thuận và bạn hữu. Thiền viện xin chân thành tri ân đến tất cả. Thích Ca Thiền Viện Vài lời về Tác Giả Vài lời về Tác Giả Ngày đăng tin: 20/02/2011 Thiền sư Khippapanno Kim Triệu sanh tại làng Phương Thạnh, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam vào ngày 5 tháng 12, năm 1930. Từ lúc tuổi thơ, Ngài đã được cụ bà thân sinh có nhiều đạo tâm thường dẫn đi chùa và khuyến khích làm quen với nếp sống ở chùa. Nhưng chẳng may Cụ Bà qua đời vào năm Ngài vừa lên chín, rồi vài năm sau, lúc Ngài được mười hai tuổi, Cụ Ông cũng mãn phần. Ngài Kim Triệu xuất gia Sa-di lúc được 17 tuổi, và từ lúc bấy giờ đã có ý thích tìm hiểu và học tiếng Pàli, nghĩ rằng đó là ngôn ngữ mà chính Đức Phật đã dùng để truyền bá Giáo Pháp. Vào năm 1949, ngày 11 tháng 5, Ngài thọ Cụ Túc Giới, xuất gia Tỳ-khưu tại Cao Quý Tự, Phương Thạnh, Trà Vinh (lúc bấy giờ đổi tên là Vĩnh Bình). Thầy Bổn sư cho Pháp Danh là Khippa-Panno (có nghĩa là Thiện Trí hay Tốc Trí), thường được gọi là Sư Panno, hoặc Sư Kim Triệu. Năm 1950, Ngài học đạo tại chùa Giác Quang, Bình Đông, Chợ Lớn, và năm 1956 nhập Hạ tại Kỳ Viên Tự, Bàn Cờ, Sàigòn. Năm 1957, Ngài học Pàli và giáo lý tại Chùa Tam Bảo Tự, do Ngài Đại Đức Giới Nghiêm và Ngài Đại Đức Shanti Bhadra, người Tích Lan hướng dẫn. Năm 1958, Ngài Đại Đức Giới Nghiêm, lúc bấy giờ là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam, phái Ngài đến chùa Phước Quang, Bình Định, dạy đạo. Cũng như ở các nơi khác, Ngài luôn luôn hợp tác với chư vị thiện tín địa phương thành lập đoàn Nhi Đồng, dạy kinh điển và giáo lý cho trẻ em. Vào cuối năm 1958, nhân dịp Phật Học Viện Pháp Quang, Gia Định, khai giảng lớp Giáo Lý và Pàli, Ngài trở về tu học, nhận bằng cấp danh dự Sơ Đẳng Pàli và bằng cấp Trung Đẳng Phật Học, và lưu lại đây phụ dạy văn phạm Pàli và kinh kệ. Từ năm 1962 đến năm 1964, Ngài tu học tại chùa Bửu Quang, xã Tam Bình, quận Thủ Đức. Năm 1964, Ngài được Viện Đại Học Nalanda, Ấn Độ, cấp học bổng đi tu học với nhiều giáo sư Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện. Đến năm 1970, Ngài đỗ bằng Pàli Acharya (giáo sư dạy môn Pali), bằng B.A. Phật Học, và bằng M.A. Pàli. Sau đó, Ngài theo học lớp Cổ Sử Ấn Độ tại Đại Học Maghadh. Năm 1974, Ngài sang Thái Lan hành đạo 6 tháng. Năm 1975, một người Phật tử Mỹ tên Larry Gregory cung thỉnh Ngài sang Nepal, gần thành phố Kathmandu, dạy 7 khóa thiền trong thời gian 7 tháng. Năm 1979, Ngài trở lại đây lần thứ hai để mở một khóa hành đạo 10 ngày. Từ năm 1975 đến năm 1979, trong hai nhiệm kỳ với nhiệm vụ phụ tá Tổng Thư Ký Trung Tâm Thiền Định Quốc Tế tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ngài phụ giúp việc xây cất Trung Tâm. Vào năm 1978, Ngài theo học đạo và hành thiền tại Bồ Đề Đạo Tràng và Pondichery với Ngài Tuang Pulu Kaba Aye Sàyadaw, một vị cao tăng người Miến Điện. Trong hai năm 1978-1979, Ngài nhập hạ tại Asoka Mission Vihara, New Delhi và trong thời gian này, tiếp tay với hội Phật Tử Việt Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn, cứu trợ đồng hương tại Ấn Độ. Vào tháng 7 năm 1980, Ngài sang Ngưỡng Quang (Miến Điện) thực hành pháp Tứ Niệm Xứ trong sáu tháng dưới sự hướng dẫn của Ngài Đại Đức Mahasi Sàyadaw, và gặt hái nhiều thành quả khả quan. Từ năm 1976, theo sự khuyến khích của Ngài Đại Đức Ghosananda, Ngài Kim Triệu theo học với nhiều vị Thiền Sư nổi tiếng tại Ấn Độ như Ngài Shree Acharya Anagarika Munindra, Ngài Goenkar, Ngài Rastrapal, Ngài Tuang Pulu Kaba Aye Sàyadaw, và sau cùng sang Miến Điện được duyên lành thọ huấn với Ngài Mahasi Sàyadaw. Theo lời mời của Cụ Bà Lê Thành Nghiệm, Hội Trưởng Hội Phật Tử Việt Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn, Ngài Kim Triệu sang Mỹ vào năm 1981 và lưu ngụ tại Chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn. Tại nơi đây, từ năm 1982 đến nay, ngoài những buổi lễ hàng tuần và những buổi thiền tập theo nghi thức thường lệ, mỗi mùa -- Xuân, Hạ, Thu, Đông -- Ngài Thiền Sư Kim Triệu mở một khóa thiền 10 ngày. Các chùa ở tiểu bang khác, tùy duyên, cũng thỉnh Ngài đến hướng dẫn những khóa thiền như: Chùa Pháp Vân, Pomona, CA; chùa Lake Wood (người Cam Bốt), Long Beach, CA; Tu Viện Kim Sơn, CA; chùa Veluvana, AL; chùa Taung Pulu Kaba Aye (người Miến Điện), CA; Chùa Phật Ân, MN; Như Lai Thiền Viện, San Jose, CA; v.v... Các nhóm Phật tử đó đây thỉnh thoảng cũng cung thỉnh Ngài đến dạy thiền. Trong những năm 1990-1992, chùa Phật Bảo tại Savigny-Sur-Orge, Pháp, Thích Ca Thiền Viện tại Saint Agnan, Pháp, các nhóm Phật tử tại Paris và các vùng phụ cận, cung thỉnh Ngài Kim Triệu sang Pháp mở những khóa thiền. Năm 1994, nhân dịp cung nghinh Tam Tạng Kinh về Pháp Bảo Tự, Mỹ Tho, Việt Nam, theo lời thỉnh cầu của vị Viện Chủ Phước Sơn Thiền Viện, tỉnh Đồng Nai, Ngài hướng dẫn một khóa thiền tại đây. Nhận thấy thành quả tốt đẹp của những khóa thiền do Ngài Khippapanno Kim Triệu hướng dẫn và nhu cầu cần được đáp ứng của đồng bào Phật Tử địa phương, vào năm 1986, quý vị Phật tử vùng California cung thỉnh Ngài đứng ra sáng lập một đạo tràng để tu tập, và ngày 15 tháng 7 năm 1988, ngôi Thích Ca Thiền Viện, Riverside, bắt đầu hoạt động. Từ đó, tại đây hằng năm, mỗi mùa đều có một khóa thiền. Vừa hoạt động vừa mở mang cơ sở, công trình xây cất Thích Ca Thiền Viện phần lớn đã hoàn tất viên mãn và Lễ Lạc Thành được cử hành vào ngày 23 tháng 3, năm 1997. Ngày Thứ Nhất Giới, Định, Huệ Hôm nay là bắt đầu khóa thiền mùa Đông năm 1986 (năm thứ ba của quý vị). Sư lấy làm hoan hỷ thấy quý vị có đạo tâm, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo. Kiểm điểm sự thực hành của quý vị, thiền sinh nào cũng có tiến bộ, hiểu rõ như thế nào là Thiền Quán hoặc Minh Sát Tuệ, và như thế nào là Thiền Chỉ. Khi đã biết rõ và biết cách tu niệm, thì hành giả lại càng nên tinh tấn thêm, không thối chí. Tinh tấn hành trì cho đến khi nào đức tin của quý vị không còn thay đổi. Tới lúc đó, dù quý vị không hành, thì nhiệm vụ Pháp Bảo vẫn hướng dẫn quý vị đến nơi đến chốn. Đó là mục đích chung của hành giả ở trên thế gian này. Đức Phật thường gọi "đệ tử của Như Lai" là những người có đức tin không thay đổi. Như thế nào gọi là đức tin không thay đổi? Đó là đức tin không thay đổi về Tam Bảo. Biết rõ có Phật thật, có giáo lý rõ ràng của Ngài và thực hành theo các lời dạy đó. Những vị này cũng được gọi là những vị Tăng chân đế vì họ đã chứng nghiệm rõ Vô Thường, Khổ Não, Vô Ngã, cũng như thấy rõ Tứ Diệu Đế. Được vậy là chúng ta không uổng công sinh ra làm người, cũng như không uổng công làm người Phật tử. Mục đích của hành giả đến đây trong 10 ngày của khóa thiền là để có tâm định và tạo trí tuệ. Vì vậy khi đến đây, với một đức tin vững chắc trong nội tâm, chúng ta xin cúng dường Đức Phật về vật chất cũng như tinh thần. Về vật chất, quý vị bỏ tất cả công ăn việc làm trong 10 ngày. Về tinh thần, quý vị đến đây để rèn luyện tâm. Sự cúng dường bằng hành động tu tập này là cúng dường quý báu nhất trên thế gian. Việc hành đạo như vậy không phải là dễ. Mỗi khi chúng ta đi hành thiền, nói là trong 10 ngày nhưng không phải trọn đủ 10 ngày. Ngày thứ nhất kể như mất vì tâm vẫn còn bận rộn như ở nhà. Tâm ta cần một thời gian tu tập mới yên định được. Ngày cuối, gần về nhà thì tâm chúng ta bận rộn trở lại. Vì vậy, có thể xem như chúng ta hành thiền đầy đủ chỉ có trong 8 ngày thôi. Dù chỉ 8 ngày, quý vị cũng sẽ thấy một vài kết quả của sự thực hành. Đức Phật dạy rằng nếu hành giả có duyên lành trong Phật Pháp, tinh tấn hành trì chỉ trong 7 ngày thôi là được đắc đạo quả bậc A-La-Hán hay A-Na-Hàm (Bất Lai). Nếu có duyên lành ít hơn thì đắc đạo quả thấp hơn, v.v... Vậy, ta thấy có quả báu thật sự của công phu hành đạo và ta nên hết lòng tin tưởng thực hành trong những ngày còn lại trong khóa thiền này. Việc thực hành ở xứ này rất là khó, không phải như ở những xứ Phật Giáo Á Đông. Ở đó, muốn đi tu tập rất là dễ. Nhưng ở xứ này như quý vị cũng biết, mỗi lần đi là mỗi lần khó khăn, mà mỗi 3 tháng mới đi được một lần. Vì vậy, quý vị phải tinh tấn và tranh đấu với thời gian còn lại, đừng cho hao mất. Căn bản của sự thực hành là gì? Đức Phật chỉ con đường đi đến Niết-Bàn rất rõ ràng, và Ngài để lại một cái thang rất đẹp có 3 nấc: Đó là Giới, Định, và Huệ. Chúng ta đến đây thực tập là để phát triển Định và Huệ. Làm sao phải định tâm và phát triển trí huệ cho được, phải thấy rõ chân tướng của vạn vật. Đức Phật chỉ cho chúng ta phương pháp để Định tâm và khi Định tâm rồi, chúng ta sẽ có Huệ. Trước khi hành thiền, chúng ta cần phải có Giới. Giới giúp thân và khẩu trong sạch. Khi thân và khẩu trong sạch thì tâm mới Định được. Tại sao vậy? Vì tâm định trong thân. Thân sạch, khẩu sạch mới làm nền tảng cho tâm Định được. Vì vậy khi mới vào khóa thiền, sau khi lễ Phật, quy y Tam Bảo là quý vị thọ trì giới đức. Khi Giới trong sạch rồi, tâm nhẹ nhàng thì Định sẽ phát sanh, tiếp theo là Huệ phát sanh. Nếu không giữ Giới đức, tâm sẽ có nhiều trạo hối và không Định được. Khi không Định được thì sẽ không bao giờ có Huệ. Chắc chắn như vậy. Khi Giới trong sạch, rồi Định Huệ lần lần sanh lên thì quý vị thấy rõ chân tướng trên thế gian này. Vì vậy, Giới là quan trọng. Làm thế nào cho Giới được trong sạch? Trong bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo), tác giả Đại Đức Buddhaghosa đã dành một phần lớn để nói về Giới. Ngài nói: Giới là cao thượng, Giới là trong sạch, Giới là nền tảng, Giới là đầu. Đức Phật dạy tất cả những con sông lớn tại xứ Ấn Độ là sông Yamuda, Sarapu, Saravati, Achiravati, hoặc con sông cao thượng nhất là Maghi cũng không thể tắm gội cho sạch những người không có Giới, cũng không có dầu thơm hoặc trầm hương nào có thể gội rửa sạch cho những người không có Giới. Chỉ có Giới mới rửa sạch thân ác và khẩu ác của chúng sanh. Người không có Giới bị thế gian khiển trách và tâm không được an vui. Giới giúp người có của cải. Giới có khả năng đưa hành giả đi đến các cõi Thiên, và tiếp tục đưa hành giả đi tới Niết Bàn. Cho nên, thọ trì Giới luật là nền tảng cho sự thực hành. Ngày đầu tiên trong khóa thiền, quý vị thọ Ngũ Giới, Bát Giới, hoặc Thập Giới. Ngũ Giới là Giới căn bản, là luân lý trên thế gian này. Dù Đức Phật có ra đời hay không, khi có chúng sanh thì tự nhiên có Ngũ Giới trong xã hội. Ngũ Giới gồm: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. 1) Không sát sanh là không giết hại từ loài người đến các loài súc vật. 2) Không trộm cắp là không lấy những vật gì không cho mình. 3) Không tà dâm là giới thứ ba. 4) Không nói dối là phải luôn luôn nói lời chân thật. Giới này rất khó giữ, nên ở các trung tâm thiền, thiền sinh phải tịnh khẩu. Dù cho đàm luận giáo lý giữa các thiền sinh, cũng không được làm. Vì nếu thiền sinh chưa phải là bậc thánh nhân, vẫn còn phiền não, thì khi nói quá lâu, tâm thiền sinh sẽ không được trong sạch. Ngoài những bậc thánh nhân đã đắc đạo quả cao thượng, chỉ có hai hạng người không nói dối. Thứ nhất là Đức Bồ Tát. Dù có hạĩi đến sanh mạĩng đi nữa, Ngài cũng không bao giờ nói dối. Đức Bồ Tát có thể phạm giới sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nhưng không khi nào phạm Giới nói dối. Khi hỏi Ngài: "Vậy chớ Ngài có sát sanh không?" Ngài trả lời: "Dạ tôi có." Vậy là Ngài không nói dối. Hạng chúng sanh thứ nhì cũng giữ Giới không nói dối được trong sạch là gia quyến của Đức Phật. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, dòng họ Thích Ca bị hoàng tử Vidũdabha tru diệt. Hoàng tử cho quân lính xét hỏi từng người, nếu ai thuộc dòng Thích Ca sẽ bị giết, nhưng dù chết không một ai nói dối. Họ đều thừa nhận là họ thuộc dòng Thích Ca. 5) Giới thứ năm là Giới không uống rượu và dùng các chất say như thuốc phiện, xì ke, ma túy. Đây là Ngũ giới, là Giới căn bản nhất của hành giả. Ít nhất, quý vị phải có ngũ giới. Bằng không, vì thân và khẩu không trong sạch, tâm không thể nào định được. Ngũ giới là Giới luân lý. Sau khi Đức Phật thành đạo và bắt đầu hoằng pháp, còn có những Giới khác nữa. Sở dĩ Đức Phật đặt thêm các Giới sau này vì Ngài thấy Giới về thân và khẩu liên quan đến tâm. Nếu giữ thân và khẩu trong sạch thì tâm ít phiền não, nhẹ nhàng. Và khi tâm được nhẹ nhàng thì ít nghĩ đến vấn đề phá Giới. Vì vậy có Bát quan trai Giới và những Giới khác nhằm mục đích giúp cho thân khẩu thanh tịnh hơn nữa. Bát quan trai Giới có thêm 3 điều: - Một là không ăn sái giờ. Quý vị ăn trước ngọ, lúc 11 giờ, trễ lắm là 11:30 giờ sáng. - Hai là không múa hát, thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn, trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa. - Ba là không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp. Ở xứ Mỹ khác hơn ở Á Châu. Ở xứ ta, nếu có giường như vậy là sang trọng; nhưng ở Mỹ hình như đây là tiêu chuẩn bình thường. Ta thông cảm vậy. Thêm vào đó, giới thứ ba - không tà dâm - được sửa lại là không hành dâm trong khi thọ trì Bát quan trai giới. Bát quan trai Giới thường được thọ trì trong những xứ Phật Giáo vào những ngày mồng 5, 8, 14, 15, 20, 23 , 29, và 30 âm lịch. Còn Bát quan trai trường là giữ luôn suốt cuộc đời như Cụ Bà Hội Trưởng Hội Phật Tử Việt Mỹ tại chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn. Người cư sĩ cũng có thể thọ Thập Giới, là thêm 2 giới nữa. Ở đây Giới thứ 7 chia ra làm hai phần: một là không múa hát, thổi đờn kèn, xem múa hát, nghe đờn kèn. Hai là không trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa. Giới thứ 8 trở thành Giới thứ 9. Giới thứ 10 là không giữ tiền bạc, vàng bạc, và thỏa thích trong việc cất giữ tiền bạc. Đó là những Giới của hành giả trong 10 ngày. Nếu giữ Giới trong sạch thì chắc chắn Định và Huệ sẽ phát triển. Bằng không thì Định và Huệ sẽ không lên được. Đức Phật dạy về quả báu của Giới đức như sau: "Tất cả chúng sanh được sanh về cõi Trời cũng nhờ giữ Giới, được giàu sang cũng nhờ giữ Giới, được giải thoát nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ Giới." Vậy Giới đức có khả năng đưa hành giả đến Thiên Đàng và tiếp tục đưa hành giả đi đến cửa Niết Bàn. Niết Bàn ở đâu? Ở Định và Huệ. Khi tham thiền, người thấy Chân Lý là thấy Niết Bàn; người thấy Tứ Diệu Đế là thấy Niết Bàn, người thấy rõ Vô Thường, Khổ, Vô Ngã là thấy Niết Bàn. Đức Phật dạy rất rõ ràng: Muốn thấy Niết Bàn phải quán sát Danh Pháp và Sắc Pháp. Hai pháp cao thượng này là pháp chúng ta đang thực hành trong lúc ngồi, lúc đi, hay trong lúc đang nghe giảng này vậy. Đó là hai pháp mà chúng ta đang cúng dường Đức Phật. Dù người ta có là triệu phú tới chùa cúng dường bông hoa, thức ăn, cũng chỉ một ngày đó thôi rồi trở lại với công ăn việc làm. Còn quý vị không phải vậy. Tới chùa trong 10 ngày, nguyện khắn khít nơi cửa Niết Bàn, chúng ta chỉ thấy Danh và Sắc Pháp; và chúng ta cúng dường Pháp chứ không cúng dường vật thực, trái cây hoặc bông hoa. Với vật thực, sau khi cúng dường, lui ra là chúng ta quên hẳn. Còn cúng dường Pháp Bảo trong khi ngồi khi đi, không phải chúng ta chỉ cúng dường một lúc nào đó thôi mà là từng giờ, từng phút, từng giây, từ lúc thức giấc cho đến khi lên giường ngủ. Đức Phật đã bảo rằng: "Đường đi Niết Bàn Như Lai đã tìm thấy và đã chỉ rõ cho các con. Tới hay không là do nơi các con vậy." Vậy với chìa khóa trong tâm, ta cứ mở ra xem trong thân tâm này cho đến khi không còn gì dấu được ta nữa thì chúng ta mới hết hoài nghi. Ví dụ, các tôn giáo khác nói trong thân có linh hồn. Cái gì khác có thể thay đổi, chứ linh hồn không thay đổi. Hay là họ cho rằng Thượng Đế tạo ra con người. Nếu chúng ta u mê, mờ ám không thấy thì cũng nói rằng Thượng Đế tạo ra ta và để cho vô minh che kín không chuyển nghiệp được, rồi chìm đắm trong sông mê bể khổ. Giờ đây, chúng ta thức tỉnh, sáng suốt đi tới Niết Bàn với một trí nhớ theo dõi, Định ở trong tâm. Khi có Định rồi, chúng ta phải biết phân tách tâm định. Với Chánh Niệm hay trí nhớ, quý vị sẽ thấy rõ đề mục. Niệm phồng xẹp, đi, đứng, nằm, ngồi, co tay ra vô, v.v... gọi là niệm thân. Khi co tay quý vị quán, khi ăn cũng quán, khi nhai cũng quán, khi bụng phồng xẹp cũng quán, để xem có đúng với giáo lý của Đức Phật hay không. Gọi cái này là thân (hay sắc), có đúng vậy không? Rồi phần biết thân này là tâm (hay danh), có đúng vậy không? Như vậy Sắc Pháp và Danh Pháp có đúng không? Rồi quý vị hành trì chi tiết thêm, niệm tỉ mỉ, thấy hai pháp này luôn thay đổi. Đôi khi hành giả có thói quen, ước muốn mọi việc như ý mình. Ví dụ như quý vị nói khi trước cảm thấy đau rồi niệm đau thì hết, bây giờ thấy đau nhưng niệm hoài không hết, rồi sinh hoài nghi pháp hành của mình. Vậy là không đúng. Dù cái đau có hết hay không hết, đó là chuyện của cái đau. Nếu nó không hết, chúng ta phải quán trở lại, suy nghĩ tại sao không hết. Khi suy nghĩ, quý vị sẽ thấy là nó không ở dưới sự kiểm soát của ta. Ta không muốn đau mà vẫn có nó. Ta không bảo nó hết đau được vì ta không làm chủ nó. Đấy là Vô Ngã. Hiểu như vậy, ta không chấp thủ. Nếu có chấp thủ ở đây là chúng ta kẹt. Đề mục chính ở đây là phồng xẹp. Tại sao dùng phồng xẹp làm đề mục? Trước hết, đây là cử động của thân, là yếu tố gió trong Tứ Đại (đất, nước, lửa, gió). Khi hơi thở vào thì bụng phồng; hơi thở ra thì bụng xẹp. Hơn nữa, đây là đề mục thay đổi: hết phồng rồi xẹp, hết xẹp rồi phồng. Đề mục thay đổi giúp hành giả dễ nhận thức được Vô Thường. Điểm này rất là quan trọng. Ngoài đề mục chánh, còn có những đề mục phụ sanh lên. Có khi sanh lên rồi diệt, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc đều đều; cũng như hơi thở vậy. Hơi thở phồng rồi xẹp, khi nhanh, khi chậm, khi đều đều. Hoặc Thọ: đôi khi đau rồi mau hết, đôi khi lâu hết. Cũng như bệnh cảm cúm: đôi khi bệnh cảm mau hết, đôi khi lâu hết, đôi khi còn bị bệnh cảm nặng hơn. Ở đây, nếu không hết đau thì cứ tiếp tục Niệm. Chỉ vậy thôi. Niệm rồi bỏ qua. Không có gì suy nghĩ, thắc mắc ở trong đó. Đừng thắc mắc, tại sao khi trước tôi ngồi thiền thì thấy nó như thế mà bây giờ nó lại không như thế. Nếu chú niệm hoài mà không hết đau, quý vị có thể trở về đề mục chính. Đây là nhiệm vụ của hành giả. Hành giả không nên hoài nghi trong cách thức tu niệm. Về kinh nghiệm, chúng ta không mong rằng hôm nay phải khác hơn hôm qua. Dù nó thay đổi hay không thay đổi, nó cũng là nó. Nhiệm vụ chúng ta là biết trong hiện tại thôi. Nếu có ghi nhận thì chỉ ghi nhận trong lúc này, dù giống hay khác lúc trước thì cũng không thành vấn đề, và ta chỉ cần biết nó là như vậy. Đặt hết niềm tin tưởng, tinh tấn, và luôn luôn có trí nhớ biết mình, thì sẽ có tiến bộ. Trên đây, Sư chỉ cho quý vị thấy rõ Giới là căn bản trong sự thực hành. Giới được trong sạch thì chúng ta thắng được ta. Người đời trên thế gian có thiện có ác. Muốn trở thành người thiện, phải làm thế nào? Từ ác muốn thành thiện thì chỉ có trì Giới thôi. Khi giữ giới được trong sạch thì người đó trở thành thiện ngay. Giới là khí cụ để thắng phiền não. Giữ Giới trong sạch thì chúng ta mới thắng được Tham Sân Si trong nội tâm của ta. Muốn loại được phiền não, tâm chúng ta phải trong sạch vì phiền não ở trong tâm. Mà tâm trong sạch như thế nào? Tâm trong sạch phải có Định và Huệ. Mà muốn có Định và Huệ, cần phải có Giới. Vì vậy, Giới, Định và Huệ luôn luôn liên kết với nhau. Ở đây, quý vị đã và đang thọ trì cả ba phần: Giới, Định, Huệ. Quý vị nên gắng gìn giữ Giới đang thọ trì trong 10 ngày, nhất là Giới không nói dối như Sư mới giảng hồi nãy. Khi nói chuyện, tâm sẽ phóng túng, chạy theo suy nghĩ và ta quên niệm. Mà quý vị cần có trí nhớ, chú ý trong đề mục rồi niệm. Giữ Giới được như vậy là quý vị có lợi ích trong 10 ngày này. Mong rằng quý vị gặt hái được quả báu cao thượng. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật |
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 377 Gia nhập vào: 6-April 10 Thành viên thứ.: 11,098 ![]() |
Ngày Thứ Sáu
Thập Nhị Nhân Duyên Khi nói đến giáo lý của Phật giáo, chúng ta nói về nhân quả. Tay làm thì thân sẽ hưởng quả. Miệng (khẩu) nói thì thân sẽ hưởng quả. Tâm suy nghĩ thì tâm sẽ hưởng quả. Như vậy, giáo lý Phật Giáo chỉ nói đến nhân quả của thân và tâm, mà không nói đến Ngã. Và vì vậy, khi thuyết giảng, Đức Phật thường dùng chữ Danh Sắc để chỉ con người. Trong xã hội, Đức Phật cũng dùng chữ Ta hay Như Lai để chỉ Ngài khi nói chuyện. Đây là tục đế chứ không phải là chân đế. Để hiểu nghĩa đó thật đúng mức, ta phải thực hành như quý vị đang thực hành đây. Như Sư đã nói hôm trước, mọi việc trên thế gian này, có ta hoặc không có ta làm, có người hoặc không có người làm, đều liên quan đến Thập Nhị Nhân Duyên. Sư sẽ giảng về Thập Nhị Nhân Duyên sau khi giải thích cho quý vị rõ hơn thế nào là nhân quả. Con người có từng giai đoạn liên quan với nhau. Những giai đoạn này không hoàn toàn giống nhau mà cũng không hoàn toàn khác nhau. Như vậy, con người chỉ là sự thay đổi từng giây từng phút một, là vô thường, tùy theo nhân quả. Vì vậy, không có một việc gì bất biến, trường tồn mãi mãi. Nếu không có sự thay đổi, thì không bao giờ con người có thể thành Phật, thành Thánh. Thành Phật, thành Thánh được là vì có nhân thay đổi. Thay đổi từ phàm đến thánh, đến khi thành Phật. Vì vậy, chúng ta phải chắc chắn tin tưởng là không có một cái Ta trường cửu, mà chỉ có một sự thay đổi. Nếu nhìn nhận không có luật trường tồn, ta nên hiểu giáo lý sâu hơn, trong Thập Nhị Nhân Duyên, cũng gọi là Thập Nhị Duyên Khởi. Chỉ có Thập Nhị Duyên Khởi mới đánh đổ được thường kiến và đoạn kiến vì nó giải thích rõ từng giai đoạn một của con người và cho ta thấy sự liên quan giữa những giai đoạn này. Sự thay đổi từ chặng này qua chặng kế tiếp có một ý nghĩa sâu xa. Chúng ta xem, từ vô minh đổi sang hành, từ hành đổi sang danh sắc, rồi thức, lục căn, v.v... theo hệ thống của nó. Sự thay đổi này luôn luôn diễn biến không ngừng nghỉ, cho đến khi con người đi tái sanh, rồi già, chết. Luật thay đổi này, dù có Đức Phật Toàn Giác ra đời hay trong thời kỳ không có giáo lý của bậc Toàn Giác, vẫn tồn tại với chúng sanh và nhân loại. Dưới cội Bồ-đề, Đức Phật dùng hơi thở làm đề mục để nhập định. Ngày xưa, một đêm chia làm ba canh, mỗi canh có bốn giờ đồng hồ. Chỉ trong canh đầu, Ngài đắc Thiền Sắc Giới (theo thứ tự từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, ngũ thiền) và Vô Sắc Giới (theo thứ tự từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền). Sau đó cũng trong canh đầu, Đức Phật đắc Túc Mạng Minh. Với tuệ này, Ngài soi thấy sự sanh tử luân hồi của Ngài. Bắt đầu từ thời điểm ngồi ở đó và đi ngược lại thời gian, Ngài thấy sự luân hồi của Ngài trôi lăn không tận cùng. Và Ngài soi thấy những chúng sanh khác cũng như thế. Đó gọi là Túc Mạng Minh. Ngài tiếp tục tham thiền và đắc Thiên Nhãn Minh, cũng gọi là Sanh Tử Minh, trong canh thứ nhì. Ngài thấy chúng sanh sau khi chết rồi, lại đi tái sanh nữa. Điều nầy có nghĩa là luật luân hồi không bao giờ ngừng nghỉ đối với chúng sanh. Đi tái sanh là do nghiệp. Rồi tạo thêm nghiệp và trả quả từ kiếp này qua kiếp khác, kéo dài nghiệp quả như vậy, không bao giờ ngừng nghỉ trong thời gian vô định. Trong canh thứ ba, Đức Phật quán về Thập Nhị Nhân Duyên. Ngài bắt đầu từ già, đau, chết. Rồi tìm xem trước già, đau, chết là cái gì; Ngài thấy là sanh. Rồi trước sanh là nghiệp. Nghiệp là do chấp, do ái. Rồi theo Thập Nhị Nhân Duyên, Ngài đi lần tới danh sắc (hay con người) và thức. Khi quán tới đó, Ngài quán ngược, cũng thấy chết trở lại. Kế đó, Ngài quán thuận, quán nghịch, để tìm hiểu làm sao cho mất cái già, đau, chết. Ngài quán thấy, nếu muốn mất già, đau, chết phải mất sanh; rồi tuần tự, những giai đoạn khác cũng phải mất hết. Nếu cái này mất thì cái kia phải mất; cái kia mất thì cái nọ mất, v.v... Như vậy là cắt đứt vòng sanh tử luân hồi. Quán như vậy gọi là quán Thập Nhị Nhân Duyên. Trong khi quán, Ngài tuần tự đắc quả Tu-Đà-Hườn, kế đến là Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm và A-La-Hán. Làm sau quán như vậy? Ngài biết công thức niệm. Lúc đầu, Ngài dùng hơi thở đắc Thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Sau đó, Ngài đắc thêm hai tuệ Túc Mạng Minh và Thiên Nhãn Minh. Rồi tại sao Ngài lại quán Thập Nhị Nhân Duyên? Sự thật, đây là luật lệ của một vị Bồ-Tát. Các vị Bồ-Tát tu Ba-La-Mật không biết là bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp và khi Ba-La-Mật tròn đủ rồi, Ngài có đủ trí tuệ quán như vậy. Tất cả các vị Bồ-Tát đều quán giống nhau; phải qua Thập Nhị Nhân Duyên rồi mới đắc quả theo thứ tự Tu-Đà-Hườn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La-Hán trong canh ba. Sau khi đắc quả A-La-Hán, Ngài kiểm điểm lại pháp Ngài đang quán, thấy rằng Ngài không còn sanh tử luân hồi nữa. Vì sau kiếp này, không còn sanh tử luân hồi nên gọi là Lậu Tận Minh. Sau đó, Ngài ngồi dưới cội cây Bồ-đề hưởng hương vị giải thoát trong bảy ngày. Đến ngày thứ tám, Ngài quán thêm thấy nguồn gốc sanh tử luân hồi là vô minh; "avijja paccaya sankhara, sankhara paccaya vinnanam"; nghĩa là vô minh sanh ra hành, hành sanh ra thức, v.v... Quán thuận hay nghịch, Ngài cũng thấy vòng Thập Nhị Nhân Duyên như vậy.... Giáo lý này thật là cao siêu và khó hiểu, cho nên một hôm Ngài Ananda đến hầu Đức Phật tại xứ Kammasadama và bạch hỏi Phật: - Bạch Đức Thế Tôn, con thấy rằng giáo lý của Ngài giác ngộ thật là sâu xa và khó hiểu; nhưng nhờ Đức Thế Tôn giảng dạy con hiểu được rõ ràng. Ngài Ananda vừa nói xong, Đức Phật liền ngăn lời: - Ananda, không nên nói như vậy. Giáo lý của Như Lai thật là sâu xa khó hiểu, không phải là dễ hiểu. Dù là bậc Sơ Quả, đã thông hiểu và thuộc Tam Tạng Pháp Bảo mà Ananda còn bị Phật ngăn lời, bảo rằng không nên nói là "dễ hiểu". Chữ "dễ hiểu" ở đây có ý chỉ rằng phải giác ngộ rốt ráo, không còn Tham Sân Si trong nội tâm, mới hiểu được thuyết Thập Nhị Nhân Duyên. Đôi khi, có người vì có duyên lành đầy đủ nên chỉ nghe thuyết có một câu ngắn thôi cũng lãnh hội được. Tuy rằng có những câu kệ ngôn khác nhau, chúng cũng đều có ý nghĩa thâm sâu vi diệu liên quan đến Thập Nhị Nhân Duyên. Để đưa ra một thí dụ điển hình, Sư xin kể về cuộc gặp gỡ giữa Ngài Asajji và Đức Xá-Lợi-Phất: Lúc bấy giờ, Ngài Asajji là một trong năm anh em Kiều-Trần-Như, đã giác ngộ giáo lý của Đức Phật; còn Ngài Xá-Lợi-Phất là một vị đạo sĩ đang khao khát đi tìm sự giải thoát. Một hôm, Ngài Xá-Lợi-Phất thấy Ngài Asajji đi trì bình khất thực với một tác phong trong sạch và một dáng điệu giải thoát, bèn đi theo. Đợi đến khi Ngài Asajji tìm nơi thanh vắng và dùng cơm xong, Ngài Xá-Lợi-Phất mới bạch hỏi: - Bạch Ngài, Ngài tu theo giáo lý nào? Thầy của Ngài là ai? Thầy của Ngài dạy những giáo lý nào cho Ngài? Ngài Asajji đáp: - Bần tăng tu với vị sa môn Cồ-Đàm. Thầy của bần tăng dạy bần tăng rất ít. Bần tăng không hiểu được nhiều. Ngài Xá-Lợi-Phất thưa: - Bạch Ngài, tuy rằng thầy của Ngài dạy Ngài rất là ít, mong Ngài chỉ dạy cho con. Con thiết tưởng sau khi nghe, có thể con sẽ giác ngộ được giáo lý của Ngài. Sau khi nghe lời yêu cầu của Ngài Xá-Lợi-Phất, Ngài Asajji chỉ đọc một bài kệ tóm tắt mà Ngài đã học từ Đức Phật. Bài kệ như sau: "Ye dhammà hetuppabhavà tesam hetum tathàgato àhatesamca yo nidrotho evamvàdì mahà samano." (Về các pháp phát sinh từ một nhân, Đức Như Lai đã chỉ rõ, và cũng chỉ rõ sự diệt các pháp đó. Đó là lời dạy của bậc Đại Sa-môn). Ý nói, tất cả các pháp đều có nhân sanh. Theo bài kệ này, có nhân sanh thì có quả; muốn diệt quả đó phải biết cái nào là nhân. Vậy, bài kệ này liên quan đến Thập Nhị Nhân Duyên. Đức Xá-Lợi-Phất chỉ cần nghe hai câu đầu của bài kệ là Ngài giác ngộ được giáo lý của Đức Phật, đắc Sơ Quả và trở thành bậc thánh nhân. Ngài hỏi tiếp: - Bây giờ thầy của Ngài ở đâu? Ngài Asajji trả lời: - Bây giờ thầy của tôi đang ở Vương Xá Thành. Nghe vậy, Ngài đi tìm người bạn thân là Đức Mục-Kiền-Liên vì họ đã hứa với nhau là nếu ai gặp được giáo lý giải thoát trước thì phải cho người kia biết. Đức Mục-Kiền-Liên thấy bạn mình đi lại, gương mặt từ bi, thanh tịnh; dáng đi nhẹ nhàng, thanh thoát, Ngài rất lấy làm lạ. Ngài bèn hỏi cớ sự. Ngài Xá-Lợi-Phất lập lại bài kệ đã nghe từ Ngài Asajji ,và sau khi nghe xong, Ngài Mục-Kiền-Liên cũng đắc Sơ Quả. Sau đó hai người đi tìm Đức Phật. Khi thấy hai người từ xa, Đức Phật biết rằng hai vị đại đệ tử của Ngài đã đến. Cho nên, giáo lý của Đức Phật thật là vi diệu; và chúng ta đang thực hành giáo lý ấy tại đây. Nếu chúng ta tin tưởng rằng có thiện ác, có nhân quả, đó là một việc tốt. Mà nếu chúng ta còn tìm thêm nữa để cho thấy là không có Ngã như lời Đức Phật giảng dạy thì còn tốt hơn nữa. Nghĩa là không có Ngã, mà chỉ có nhân quả, có nghiệp làm, có sự thay đổi như vậy. Điều này có nghĩa là chỉ có Danh Sắc, chỉ có Thập Nhị Nhân Duyên: bắt đầu từ vô minh sanh ra hành, thức, v.v... Đếm một loạt như vậy thì ta không thấy có một người nào cả, chỉ là một hệ thống của danh và sắc vận hành mà thôi. Do vậy, con người là một cái trống biết đi. Nhưng đôi lúc, khi ta nói về luật tái sanh thì lại cảm thấy khó hiểu. Người đời có thể lý luận rằng, phải có người ta thì mới tái sanh được; khi chết rồi, người ta đi đầu thai lại, thì mới gọi là tái sanh. Giờ đây, nếu nói là không có ta, làm sao có thể nhìn nhận luật đó được? Vì vậy mà nó khó hiểu. Nói là không có ta mà lại bảo có tái sanh, có luân hồi, thì làm sao hiểu được? Chỗ này phải hiểu là có luân hồi thật, nhưng không có cái "ta" hay là một "linh hồn" đi tái sanh. Có nghĩa là vì có nhân quả, có danh sắc, mà đi luân hồi đó thôi. Thời giáo lý đến đây xin tạm dứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành mau đến nơi giải thoát. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngày Thứ Bảy Vô Minh: Căn Nhân của sự Luân Hồi Hôm qua, Sư có giảng về Thập Nhị Nhân Duyên. Trong Thập Nhị Nhân Duyên, chi pháp này liên quan đến chi pháp khác, nên cũng còn gọi là Thập Nhị Duyên Khởi. Sư cũng có nói là vị Bồ-Tát quán Thập Nhị Nhân Duyên trước khi thành đạo. Sau khi thành đạo, Ngài đem giáo lý này giảng dạy cho chúng sanh trong 45 năm vì đây là giáo pháp rất quan trọng. Thập Nhị Nhân Duyên là gì? Có câu kệ bằng tiếng Pàli, Sư xin đọc cho quý vị nghe: "Avijja (vô minh) paccaya (sanh ra) sankhara (hành), sankhara paccaya vinnana (thức), vinnana paccaya namarupa (danh sắc), namarupa paccaya ayatana (lục căn), ayatana paccaya phassa (xúc), phassa paccaya vedana (thọ), vedana paccaya tanha (ái dục), tanha paccaya upadanam (thủ), upadana paccaya bhavo (hữu hay cảnh giới hay nghiệp), bhava paccaya jati (sanh), jati paccaya vachanam (già chết), charamaranam sakhaparaveta dukkha domanasa payasasam pavanti (già chết, buồn rầu, khóc than, khổ não, phiền muộn, đau đớn cũng phát sanh lên)." Đó là 12 chi của Thập Nhị Nhân Duyên. Đức Phật dạy: "Này các vị Tỳ-khưu, vô minh khởi, kế tiếp là điều kiện pháp bắt đầu khởi, khi hành khởi rồi thì pháp kế tiếp sanh lên, v.v... Thì khi diệt trừ vô minh, hành mới diệt được và các pháp kế tiếp cũng không sanh lên được." Đây là các chi pháp Thập Nhị Nhân Duyên mà Sư giảng hôm qua. Hôm nay, Sư xin nói về sự quan trọng của Giáo Pháp này. Trước hết, Vô Minh trong Thập Nhị Nhân Duyên là gì? Vô minh là sự hiểu biết không đúng, hay là không có trí tuệ trong sự quán sát. Như vậy, vô minh là hiểu biết không đúng. Đức Phật chỉ rõ vô minh trong Tứ Diệu Đế là không thấy Khổ Diệu Đế, không thấy Tập Diệu Đế, không thấy Diệt Diệu Đế, không thấy Đạo Diệu Đế. Nghĩa là hiểu không đúng trong Khổ-Tập-Diệt-Đạo. Theo Khổ Diệu Đế, tất cả vạn vật trên thế gian này đều là Vô Thường, Khổ Não và Vô Ngã; nhưng trái lại chúng sanh cho là thường, vui và ngã. Hiểu ngược sự thật như vậy gọi là vô minh. Vô Minh này thật là sâu dày, khó diệt được. Đức Phật có nói rõ: "Vô minh chỉ được diệt hẳn khi hành giả đắc A-La-Hán quả." Vì vậy, ta thấy cái gốc của Vô Minh rất là sâu dày. Sơ Quả, Nhị Quả và Tam Quả vẫn còn vô minh. Tại sao ta có vô minh? Vì ta không chú ý và không có trí nhớ trong những kinh nghiệm. Như thế nào là không chú ý và không trí nhớ trong kinh nghiệm? Có ý nói là không nhớ trạng thái, bản chất của nó. Ví dụ đây là lửa và trạng thái của lửa là nóng, ta kinh nghiệm như vậy. Nhưng sau đó không kinh nghiệm nữa nên ta không còn nhớ lửa là nóng. Vậy là không chú ý và không có trí nhớ trong kinh nghiệm. Quên như vậy gọi là vô minh. Trên thế gian này, tất cả chúng sanh cho ngũ trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc) là vui, là đẹp; mà sự thật nó là không vui, không đẹp. Bản chất nó là như vậy. Biết bao chúng sanh trên thế gian này gặp những chuyện khổ não. Tuy nhiên, khi xa nó một thời gian, rồi cũng lặp lại những chuyện đó và chịu khổ nữa. Cứ luôn tiếp diễn như thế! Tại sao vậy? Tại vì chúng sanh không có trí nhớ. Nếu biết cái đó là khổ, mình tránh xa nó thì không còn bị khổ nữa. Nhưng vì thói quen nên cứ quay trở lại. Như vậy gọi là Vô Minh. Vô Minh như thế là vì thiếu Minh Sát Tuệ. Chỉ có Minh Sát Tuệ mới cho ta thấy rõ bản chất của sự vật. Nếu thấy rõ, gọi là Minh. Minh Sát Tuệ tiếng Pàli gọi là Vipassana, có nghĩa là "pannati visesena passati vipassana" -- "thấy vạn vật trên thế gian với thật tướng của nó, gọi là Vipassana". Như vậy, ta phải quán sát tất cả vạn vật trên thế gian này với Tuệ Minh Sát để thấy rõ. Đó gọi là Minh Sát Tuệ. Không thấy rõ, không nhận thức rõ điều khổ, đó là Vô Minh trong Khổ Diệu Đế. Ví dụ khổ già, khổ sanh; tuy vậy nhưng có bao giờ chúng sanh thấy sanh là khổ đâu? Ngay cả khi những người già, dù đang đau yếu, cũng không bao giờ nghĩ trong tâm: già là khổ. Và ngay cả mình đang khổ đây mà cũng không thấy là khổ nữa. Tại sao vậy? Vì thiếu Minh Sát Tuệ. Huống chi những vật trên thế gian liên quan đến danh sắc, lục căn, lục trần, luôn luôn che mờ chúng sanh không cho thấy sự khổ! Hai là Vô Minh trong Tập Diệu Đế. Chúng sanh lúc nào cũng muốn được vui mà không biết khổ là do ái dục sanh ra. Khi muốn được vui, chúng sanh tạo biết bao hành động để tìm sự vui thú, rồi cũng tạo biết bao hành động để bảo vệ, duy trì sự vui thú và ham muốn của mình. Bất cứ cái gì mà chúng sanh tạo với sự ham muốn, với nhân ái dục, là toàn đem lại Khổ Não. Bây giờ lấy ví dụ là mấy chương trình quảng cáo trên máy truyền hình. Khi đem ra quảng cáo, cái gì xem cũng hay, cũng đẹp, cũng tốt; và nếu chúng sanh thấy cái đó là hay, là đẹp, là tốt thì cứ chạy theo. Mà càng chạy theo đời sống vật chất thì càng lo lắng để kiếm tiền của cung ứng cho những nhu cầu trên. Như vậy, càng chạy theo ái dục (nhân) nhiều chừng nào thì càng chịu khổ đau (quả) nhiều chừng ấy. Đó là Vô Minh trong Tập Diệu Đế. Bậc thánh nhân thấy thế gian này là Khổ; ngược lại, phàm nhân thấy thế gian này là vui. Đó là vì bậc thánh nhân có Tuệ Minh Sát và hiểu sự thật thế gian toàn là Khổ; và vì phàm nhân không có Tuệ Minh Sát nên thấy thế gian toàn là vui. Vì thế, phàm nhân cứ mãi bị dính mắc trong Tam giới -- đó là Dục giới, Sắc giới, và Vô Sắc giới. Còn bậc thánh nhân thấy Khổ nên không dính mắc trong Tam giới. Nếu ta thấy thế gian này vui thì chính ta đang có vô minh trong Dục Giới hay ái dục, hay ta đang vô minh trong Tập Diệu Đế. Vì vô minh nên thấy đời khổ cho là vui, thấy vô thường cho là thường, không có Ngã nhưng lại cho là có Ngã. Như vậy, làm sao diệt được Vô Minh? Chỉ có con đường đến Niết-Bàn mới diệt được thôi. Diệt đây là diệt cái gì? Như ta đã biết, Vô Minh là căn bản tạo ra Danh Sắc (nama rupa). Nói gọn lại, khi Danh Sắc này còn, ta vẫn tiếp tục luân hồi, thì sự đau khổ kéo dài. Nhưng nếu không thấy rõ Danh Sắc này là khổ, là thay đổi, thì làm sao thấy Niết-Bàn được? Tại sao vậy? Vì Danh Sắc che áng không cho chúng sanh thấy Niết-Bàn. Và vì không thấy Niết-Bàn, nên chúng sanh không muốn đến Niết-Bàn. Đây là Vô Minh trong Diệt Diệu Đế. Sự sanh diệt hay sự diệt hẳn của Danh Sắc rất là khó hiểu vì Vô Minh che áng không cho ta thấy rõ điều này. Vì vậy, Khổ Đế, Tập Đế, và Diệt Đế là ba sự thật mà chúng sanh không thấy rõ. Còn Diệu Đế thứ tư là Đạo Diệu Đế hay Bát Chánh Đạo, là con đường tốt nhất trên thế gian này; nhưng cũng vì Vô Minh che áng, chúng sanh không nhận thức được đó là con đường đúng. Như vậy, bốn sự thật đều bị che áng bởi Vô Minh, khiến cho chúng sanh không thấy một sự thật nào. Nếu Vô Minh như vậy gọi là Vô Minh trong Tứ Diệu Đế hay là Vô Minh trong Thập Nhị Nhân Duyên. Với sự vui thú, con người tạo biết bao hành động tàn ác, như giết súc vật để tế thần. Làm như vậy không phải là con đường vui, là con đường diệt khổ. Chỉ vì mê lầm, chúng sanh cầu sự an vui bằng cách làm như vậy. Nhưng thật ra, con đường an vui là con đường đi đến Niết-Bàn. Và ta chỉ thấy được con đường đi đến Niết-Bàn nếu ta có Minh Sát Tuệ (Vipassananana). Nếu không có Minh Sát Tuệ thì không bao giờ thấy con đường an vui. Nhưng vì bị Vô Minh che áng nên chúng sanh không tìm thấy Minh Sát Tuệ được. Mà không có Tuệ Minh Sát thì làm sao thấy rõ Danh Sắc? Nhờ Tuệ Minh Sát, ta thấy đúng thật, hay thấy Tứ Diệu Đế. Thấy rõ Tứ Diệu Đế gọi là thấy rõ sự thật. Vậy thì làm sao có Tuệ Minh Sát để ta thấy rõ Tứ Diệu Đế? Muốn có Tuệ Minh Sát, ta phải thực hành. Chính Đức Bồ-Tát cũng thực hành Vipassana để đắc đạo quả. Hôm qua, Sư có giảng, qua canh thứ ba Đức Bồ-Tát quán Thập Nhị Nhân Duyên bắt đầu từ chỗ sanh, già, đau, chết. Ngài quán thấy: "Sở dĩ có già, có chết là tại có sanh. Tại sao có sanh? Vì có hữu. Tại sao có hữu? Vì có thủ. Tại sao có thủ? Vì có ái. Tại sao có ái? Vì có thọ? Tại sao có thọ? Vì có xúc. Tại sao có xúc? Vì có lục căn. Tại sao có lục căn? Vì có Danh Sắc. Tại sao có Danh Sắc? Vì có thức. Vì khi có thức là có hành vi." Đến đây, Ngài quán ngược lại, thấy rằng nếu muốn không già, đau, chết thì phải không có sanh, v.v... Nghĩa là nếu pháp này mất thì pháp kia cũng mất; rồi tuần tự những pháp khác cũng mất hết. Cứ thế, Ngài quán xuôi quán ngược. Sau khi quán phần này rồi, Ngài chuyển sang hành Minh Sát Tuệ (hay Tứ Niệm Xứ) và đắc đạo quả thánh theo thứ tự Tu-Đà-Hườn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm và A-La-Hán; nghĩa là đắc Lậu Tận Minh, thành Phật trong canh ba. Đó là Ba-La-Mật của một vị Bồ-Tát. Sau khi thành Phật, đến ngày thứ tám, Ngài quán Thập Nhị Nhân Duyên một lần nữa. Nhưng ở đây, Ngài quán thêm, thấy rõ nguồn gốc của hành là Vô Minh. Và dưới cội cây Bồ Đề, Ngài thốt lên: "avijja paccaya sankhara" nghĩa là "Vô Minh sanh ra Hành." Theo thứ tự trong Thập Nhị Nhân Duyên, pháp này sanh thì pháp kia cũng sanh; pháp này diệt thì pháp kia cũng diệt. Khi diệt một pháp thì mọi pháp khác cũng diệt, nghĩa là Vô Minh cũng diệt. Khi diệt được Vô Minh thì có Minh, tức là Niết-Bàn vậy. Thời giáo lý đến đây xin tạm dứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành mau đến nơi giải thoát. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 20th June 2025 - 11:46 AM |