![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 377 Gia nhập vào: 6-April 10 Thành viên thứ.: 11,098 ![]() |
Mười Ngày Thiền Tập
![]() nguồn:thienviennguyenthuy.com Lời giới thiệu Tập "Mười Ngày Thiền Tập" được phát hành nhân dịp lễ lạc thành Thích Ca Thiền Viện, ngày 23 tháng 3 năm 1997 (Rằm tháng 2, năm Đinh Sửu). Tập sách gồm những bài pháp do Ngài Thiền Sư Khippapanno Kim Triệu ban giảng trong khóa thiền thứ 21 Mùa Đông 1986, được tổ chức tại Chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ. Những bài pháp này vừa có tính cách dẫn giải, khuyến tu cho các thiền sinh, vừa mang chứa những lợi lạc thiết thực đến thân tâm cho tất cả chúng ta. Tập sách được hoàn thành do nhờ công sức cùng sự nhiệt tình bền bỉ của cô Tâm Thuận và bạn hữu. Thiền viện xin chân thành tri ân đến tất cả. Thích Ca Thiền Viện Vài lời về Tác Giả Vài lời về Tác Giả Ngày đăng tin: 20/02/2011 Thiền sư Khippapanno Kim Triệu sanh tại làng Phương Thạnh, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam vào ngày 5 tháng 12, năm 1930. Từ lúc tuổi thơ, Ngài đã được cụ bà thân sinh có nhiều đạo tâm thường dẫn đi chùa và khuyến khích làm quen với nếp sống ở chùa. Nhưng chẳng may Cụ Bà qua đời vào năm Ngài vừa lên chín, rồi vài năm sau, lúc Ngài được mười hai tuổi, Cụ Ông cũng mãn phần. Ngài Kim Triệu xuất gia Sa-di lúc được 17 tuổi, và từ lúc bấy giờ đã có ý thích tìm hiểu và học tiếng Pàli, nghĩ rằng đó là ngôn ngữ mà chính Đức Phật đã dùng để truyền bá Giáo Pháp. Vào năm 1949, ngày 11 tháng 5, Ngài thọ Cụ Túc Giới, xuất gia Tỳ-khưu tại Cao Quý Tự, Phương Thạnh, Trà Vinh (lúc bấy giờ đổi tên là Vĩnh Bình). Thầy Bổn sư cho Pháp Danh là Khippa-Panno (có nghĩa là Thiện Trí hay Tốc Trí), thường được gọi là Sư Panno, hoặc Sư Kim Triệu. Năm 1950, Ngài học đạo tại chùa Giác Quang, Bình Đông, Chợ Lớn, và năm 1956 nhập Hạ tại Kỳ Viên Tự, Bàn Cờ, Sàigòn. Năm 1957, Ngài học Pàli và giáo lý tại Chùa Tam Bảo Tự, do Ngài Đại Đức Giới Nghiêm và Ngài Đại Đức Shanti Bhadra, người Tích Lan hướng dẫn. Năm 1958, Ngài Đại Đức Giới Nghiêm, lúc bấy giờ là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam, phái Ngài đến chùa Phước Quang, Bình Định, dạy đạo. Cũng như ở các nơi khác, Ngài luôn luôn hợp tác với chư vị thiện tín địa phương thành lập đoàn Nhi Đồng, dạy kinh điển và giáo lý cho trẻ em. Vào cuối năm 1958, nhân dịp Phật Học Viện Pháp Quang, Gia Định, khai giảng lớp Giáo Lý và Pàli, Ngài trở về tu học, nhận bằng cấp danh dự Sơ Đẳng Pàli và bằng cấp Trung Đẳng Phật Học, và lưu lại đây phụ dạy văn phạm Pàli và kinh kệ. Từ năm 1962 đến năm 1964, Ngài tu học tại chùa Bửu Quang, xã Tam Bình, quận Thủ Đức. Năm 1964, Ngài được Viện Đại Học Nalanda, Ấn Độ, cấp học bổng đi tu học với nhiều giáo sư Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện. Đến năm 1970, Ngài đỗ bằng Pàli Acharya (giáo sư dạy môn Pali), bằng B.A. Phật Học, và bằng M.A. Pàli. Sau đó, Ngài theo học lớp Cổ Sử Ấn Độ tại Đại Học Maghadh. Năm 1974, Ngài sang Thái Lan hành đạo 6 tháng. Năm 1975, một người Phật tử Mỹ tên Larry Gregory cung thỉnh Ngài sang Nepal, gần thành phố Kathmandu, dạy 7 khóa thiền trong thời gian 7 tháng. Năm 1979, Ngài trở lại đây lần thứ hai để mở một khóa hành đạo 10 ngày. Từ năm 1975 đến năm 1979, trong hai nhiệm kỳ với nhiệm vụ phụ tá Tổng Thư Ký Trung Tâm Thiền Định Quốc Tế tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ngài phụ giúp việc xây cất Trung Tâm. Vào năm 1978, Ngài theo học đạo và hành thiền tại Bồ Đề Đạo Tràng và Pondichery với Ngài Tuang Pulu Kaba Aye Sàyadaw, một vị cao tăng người Miến Điện. Trong hai năm 1978-1979, Ngài nhập hạ tại Asoka Mission Vihara, New Delhi và trong thời gian này, tiếp tay với hội Phật Tử Việt Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn, cứu trợ đồng hương tại Ấn Độ. Vào tháng 7 năm 1980, Ngài sang Ngưỡng Quang (Miến Điện) thực hành pháp Tứ Niệm Xứ trong sáu tháng dưới sự hướng dẫn của Ngài Đại Đức Mahasi Sàyadaw, và gặt hái nhiều thành quả khả quan. Từ năm 1976, theo sự khuyến khích của Ngài Đại Đức Ghosananda, Ngài Kim Triệu theo học với nhiều vị Thiền Sư nổi tiếng tại Ấn Độ như Ngài Shree Acharya Anagarika Munindra, Ngài Goenkar, Ngài Rastrapal, Ngài Tuang Pulu Kaba Aye Sàyadaw, và sau cùng sang Miến Điện được duyên lành thọ huấn với Ngài Mahasi Sàyadaw. Theo lời mời của Cụ Bà Lê Thành Nghiệm, Hội Trưởng Hội Phật Tử Việt Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn, Ngài Kim Triệu sang Mỹ vào năm 1981 và lưu ngụ tại Chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn. Tại nơi đây, từ năm 1982 đến nay, ngoài những buổi lễ hàng tuần và những buổi thiền tập theo nghi thức thường lệ, mỗi mùa -- Xuân, Hạ, Thu, Đông -- Ngài Thiền Sư Kim Triệu mở một khóa thiền 10 ngày. Các chùa ở tiểu bang khác, tùy duyên, cũng thỉnh Ngài đến hướng dẫn những khóa thiền như: Chùa Pháp Vân, Pomona, CA; chùa Lake Wood (người Cam Bốt), Long Beach, CA; Tu Viện Kim Sơn, CA; chùa Veluvana, AL; chùa Taung Pulu Kaba Aye (người Miến Điện), CA; Chùa Phật Ân, MN; Như Lai Thiền Viện, San Jose, CA; v.v... Các nhóm Phật tử đó đây thỉnh thoảng cũng cung thỉnh Ngài đến dạy thiền. Trong những năm 1990-1992, chùa Phật Bảo tại Savigny-Sur-Orge, Pháp, Thích Ca Thiền Viện tại Saint Agnan, Pháp, các nhóm Phật tử tại Paris và các vùng phụ cận, cung thỉnh Ngài Kim Triệu sang Pháp mở những khóa thiền. Năm 1994, nhân dịp cung nghinh Tam Tạng Kinh về Pháp Bảo Tự, Mỹ Tho, Việt Nam, theo lời thỉnh cầu của vị Viện Chủ Phước Sơn Thiền Viện, tỉnh Đồng Nai, Ngài hướng dẫn một khóa thiền tại đây. Nhận thấy thành quả tốt đẹp của những khóa thiền do Ngài Khippapanno Kim Triệu hướng dẫn và nhu cầu cần được đáp ứng của đồng bào Phật Tử địa phương, vào năm 1986, quý vị Phật tử vùng California cung thỉnh Ngài đứng ra sáng lập một đạo tràng để tu tập, và ngày 15 tháng 7 năm 1988, ngôi Thích Ca Thiền Viện, Riverside, bắt đầu hoạt động. Từ đó, tại đây hằng năm, mỗi mùa đều có một khóa thiền. Vừa hoạt động vừa mở mang cơ sở, công trình xây cất Thích Ca Thiền Viện phần lớn đã hoàn tất viên mãn và Lễ Lạc Thành được cử hành vào ngày 23 tháng 3, năm 1997. Ngày Thứ Nhất Giới, Định, Huệ Hôm nay là bắt đầu khóa thiền mùa Đông năm 1986 (năm thứ ba của quý vị). Sư lấy làm hoan hỷ thấy quý vị có đạo tâm, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo. Kiểm điểm sự thực hành của quý vị, thiền sinh nào cũng có tiến bộ, hiểu rõ như thế nào là Thiền Quán hoặc Minh Sát Tuệ, và như thế nào là Thiền Chỉ. Khi đã biết rõ và biết cách tu niệm, thì hành giả lại càng nên tinh tấn thêm, không thối chí. Tinh tấn hành trì cho đến khi nào đức tin của quý vị không còn thay đổi. Tới lúc đó, dù quý vị không hành, thì nhiệm vụ Pháp Bảo vẫn hướng dẫn quý vị đến nơi đến chốn. Đó là mục đích chung của hành giả ở trên thế gian này. Đức Phật thường gọi "đệ tử của Như Lai" là những người có đức tin không thay đổi. Như thế nào gọi là đức tin không thay đổi? Đó là đức tin không thay đổi về Tam Bảo. Biết rõ có Phật thật, có giáo lý rõ ràng của Ngài và thực hành theo các lời dạy đó. Những vị này cũng được gọi là những vị Tăng chân đế vì họ đã chứng nghiệm rõ Vô Thường, Khổ Não, Vô Ngã, cũng như thấy rõ Tứ Diệu Đế. Được vậy là chúng ta không uổng công sinh ra làm người, cũng như không uổng công làm người Phật tử. Mục đích của hành giả đến đây trong 10 ngày của khóa thiền là để có tâm định và tạo trí tuệ. Vì vậy khi đến đây, với một đức tin vững chắc trong nội tâm, chúng ta xin cúng dường Đức Phật về vật chất cũng như tinh thần. Về vật chất, quý vị bỏ tất cả công ăn việc làm trong 10 ngày. Về tinh thần, quý vị đến đây để rèn luyện tâm. Sự cúng dường bằng hành động tu tập này là cúng dường quý báu nhất trên thế gian. Việc hành đạo như vậy không phải là dễ. Mỗi khi chúng ta đi hành thiền, nói là trong 10 ngày nhưng không phải trọn đủ 10 ngày. Ngày thứ nhất kể như mất vì tâm vẫn còn bận rộn như ở nhà. Tâm ta cần một thời gian tu tập mới yên định được. Ngày cuối, gần về nhà thì tâm chúng ta bận rộn trở lại. Vì vậy, có thể xem như chúng ta hành thiền đầy đủ chỉ có trong 8 ngày thôi. Dù chỉ 8 ngày, quý vị cũng sẽ thấy một vài kết quả của sự thực hành. Đức Phật dạy rằng nếu hành giả có duyên lành trong Phật Pháp, tinh tấn hành trì chỉ trong 7 ngày thôi là được đắc đạo quả bậc A-La-Hán hay A-Na-Hàm (Bất Lai). Nếu có duyên lành ít hơn thì đắc đạo quả thấp hơn, v.v... Vậy, ta thấy có quả báu thật sự của công phu hành đạo và ta nên hết lòng tin tưởng thực hành trong những ngày còn lại trong khóa thiền này. Việc thực hành ở xứ này rất là khó, không phải như ở những xứ Phật Giáo Á Đông. Ở đó, muốn đi tu tập rất là dễ. Nhưng ở xứ này như quý vị cũng biết, mỗi lần đi là mỗi lần khó khăn, mà mỗi 3 tháng mới đi được một lần. Vì vậy, quý vị phải tinh tấn và tranh đấu với thời gian còn lại, đừng cho hao mất. Căn bản của sự thực hành là gì? Đức Phật chỉ con đường đi đến Niết-Bàn rất rõ ràng, và Ngài để lại một cái thang rất đẹp có 3 nấc: Đó là Giới, Định, và Huệ. Chúng ta đến đây thực tập là để phát triển Định và Huệ. Làm sao phải định tâm và phát triển trí huệ cho được, phải thấy rõ chân tướng của vạn vật. Đức Phật chỉ cho chúng ta phương pháp để Định tâm và khi Định tâm rồi, chúng ta sẽ có Huệ. Trước khi hành thiền, chúng ta cần phải có Giới. Giới giúp thân và khẩu trong sạch. Khi thân và khẩu trong sạch thì tâm mới Định được. Tại sao vậy? Vì tâm định trong thân. Thân sạch, khẩu sạch mới làm nền tảng cho tâm Định được. Vì vậy khi mới vào khóa thiền, sau khi lễ Phật, quy y Tam Bảo là quý vị thọ trì giới đức. Khi Giới trong sạch rồi, tâm nhẹ nhàng thì Định sẽ phát sanh, tiếp theo là Huệ phát sanh. Nếu không giữ Giới đức, tâm sẽ có nhiều trạo hối và không Định được. Khi không Định được thì sẽ không bao giờ có Huệ. Chắc chắn như vậy. Khi Giới trong sạch, rồi Định Huệ lần lần sanh lên thì quý vị thấy rõ chân tướng trên thế gian này. Vì vậy, Giới là quan trọng. Làm thế nào cho Giới được trong sạch? Trong bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo), tác giả Đại Đức Buddhaghosa đã dành một phần lớn để nói về Giới. Ngài nói: Giới là cao thượng, Giới là trong sạch, Giới là nền tảng, Giới là đầu. Đức Phật dạy tất cả những con sông lớn tại xứ Ấn Độ là sông Yamuda, Sarapu, Saravati, Achiravati, hoặc con sông cao thượng nhất là Maghi cũng không thể tắm gội cho sạch những người không có Giới, cũng không có dầu thơm hoặc trầm hương nào có thể gội rửa sạch cho những người không có Giới. Chỉ có Giới mới rửa sạch thân ác và khẩu ác của chúng sanh. Người không có Giới bị thế gian khiển trách và tâm không được an vui. Giới giúp người có của cải. Giới có khả năng đưa hành giả đi đến các cõi Thiên, và tiếp tục đưa hành giả đi tới Niết Bàn. Cho nên, thọ trì Giới luật là nền tảng cho sự thực hành. Ngày đầu tiên trong khóa thiền, quý vị thọ Ngũ Giới, Bát Giới, hoặc Thập Giới. Ngũ Giới là Giới căn bản, là luân lý trên thế gian này. Dù Đức Phật có ra đời hay không, khi có chúng sanh thì tự nhiên có Ngũ Giới trong xã hội. Ngũ Giới gồm: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. 1) Không sát sanh là không giết hại từ loài người đến các loài súc vật. 2) Không trộm cắp là không lấy những vật gì không cho mình. 3) Không tà dâm là giới thứ ba. 4) Không nói dối là phải luôn luôn nói lời chân thật. Giới này rất khó giữ, nên ở các trung tâm thiền, thiền sinh phải tịnh khẩu. Dù cho đàm luận giáo lý giữa các thiền sinh, cũng không được làm. Vì nếu thiền sinh chưa phải là bậc thánh nhân, vẫn còn phiền não, thì khi nói quá lâu, tâm thiền sinh sẽ không được trong sạch. Ngoài những bậc thánh nhân đã đắc đạo quả cao thượng, chỉ có hai hạng người không nói dối. Thứ nhất là Đức Bồ Tát. Dù có hạĩi đến sanh mạĩng đi nữa, Ngài cũng không bao giờ nói dối. Đức Bồ Tát có thể phạm giới sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nhưng không khi nào phạm Giới nói dối. Khi hỏi Ngài: "Vậy chớ Ngài có sát sanh không?" Ngài trả lời: "Dạ tôi có." Vậy là Ngài không nói dối. Hạng chúng sanh thứ nhì cũng giữ Giới không nói dối được trong sạch là gia quyến của Đức Phật. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, dòng họ Thích Ca bị hoàng tử Vidũdabha tru diệt. Hoàng tử cho quân lính xét hỏi từng người, nếu ai thuộc dòng Thích Ca sẽ bị giết, nhưng dù chết không một ai nói dối. Họ đều thừa nhận là họ thuộc dòng Thích Ca. 5) Giới thứ năm là Giới không uống rượu và dùng các chất say như thuốc phiện, xì ke, ma túy. Đây là Ngũ giới, là Giới căn bản nhất của hành giả. Ít nhất, quý vị phải có ngũ giới. Bằng không, vì thân và khẩu không trong sạch, tâm không thể nào định được. Ngũ giới là Giới luân lý. Sau khi Đức Phật thành đạo và bắt đầu hoằng pháp, còn có những Giới khác nữa. Sở dĩ Đức Phật đặt thêm các Giới sau này vì Ngài thấy Giới về thân và khẩu liên quan đến tâm. Nếu giữ thân và khẩu trong sạch thì tâm ít phiền não, nhẹ nhàng. Và khi tâm được nhẹ nhàng thì ít nghĩ đến vấn đề phá Giới. Vì vậy có Bát quan trai Giới và những Giới khác nhằm mục đích giúp cho thân khẩu thanh tịnh hơn nữa. Bát quan trai Giới có thêm 3 điều: - Một là không ăn sái giờ. Quý vị ăn trước ngọ, lúc 11 giờ, trễ lắm là 11:30 giờ sáng. - Hai là không múa hát, thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn, trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa. - Ba là không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp. Ở xứ Mỹ khác hơn ở Á Châu. Ở xứ ta, nếu có giường như vậy là sang trọng; nhưng ở Mỹ hình như đây là tiêu chuẩn bình thường. Ta thông cảm vậy. Thêm vào đó, giới thứ ba - không tà dâm - được sửa lại là không hành dâm trong khi thọ trì Bát quan trai giới. Bát quan trai Giới thường được thọ trì trong những xứ Phật Giáo vào những ngày mồng 5, 8, 14, 15, 20, 23 , 29, và 30 âm lịch. Còn Bát quan trai trường là giữ luôn suốt cuộc đời như Cụ Bà Hội Trưởng Hội Phật Tử Việt Mỹ tại chùa Kỳ Viên, Hoa Thịnh Đốn. Người cư sĩ cũng có thể thọ Thập Giới, là thêm 2 giới nữa. Ở đây Giới thứ 7 chia ra làm hai phần: một là không múa hát, thổi đờn kèn, xem múa hát, nghe đờn kèn. Hai là không trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa. Giới thứ 8 trở thành Giới thứ 9. Giới thứ 10 là không giữ tiền bạc, vàng bạc, và thỏa thích trong việc cất giữ tiền bạc. Đó là những Giới của hành giả trong 10 ngày. Nếu giữ Giới trong sạch thì chắc chắn Định và Huệ sẽ phát triển. Bằng không thì Định và Huệ sẽ không lên được. Đức Phật dạy về quả báu của Giới đức như sau: "Tất cả chúng sanh được sanh về cõi Trời cũng nhờ giữ Giới, được giàu sang cũng nhờ giữ Giới, được giải thoát nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ Giới." Vậy Giới đức có khả năng đưa hành giả đến Thiên Đàng và tiếp tục đưa hành giả đi đến cửa Niết Bàn. Niết Bàn ở đâu? Ở Định và Huệ. Khi tham thiền, người thấy Chân Lý là thấy Niết Bàn; người thấy Tứ Diệu Đế là thấy Niết Bàn, người thấy rõ Vô Thường, Khổ, Vô Ngã là thấy Niết Bàn. Đức Phật dạy rất rõ ràng: Muốn thấy Niết Bàn phải quán sát Danh Pháp và Sắc Pháp. Hai pháp cao thượng này là pháp chúng ta đang thực hành trong lúc ngồi, lúc đi, hay trong lúc đang nghe giảng này vậy. Đó là hai pháp mà chúng ta đang cúng dường Đức Phật. Dù người ta có là triệu phú tới chùa cúng dường bông hoa, thức ăn, cũng chỉ một ngày đó thôi rồi trở lại với công ăn việc làm. Còn quý vị không phải vậy. Tới chùa trong 10 ngày, nguyện khắn khít nơi cửa Niết Bàn, chúng ta chỉ thấy Danh và Sắc Pháp; và chúng ta cúng dường Pháp chứ không cúng dường vật thực, trái cây hoặc bông hoa. Với vật thực, sau khi cúng dường, lui ra là chúng ta quên hẳn. Còn cúng dường Pháp Bảo trong khi ngồi khi đi, không phải chúng ta chỉ cúng dường một lúc nào đó thôi mà là từng giờ, từng phút, từng giây, từ lúc thức giấc cho đến khi lên giường ngủ. Đức Phật đã bảo rằng: "Đường đi Niết Bàn Như Lai đã tìm thấy và đã chỉ rõ cho các con. Tới hay không là do nơi các con vậy." Vậy với chìa khóa trong tâm, ta cứ mở ra xem trong thân tâm này cho đến khi không còn gì dấu được ta nữa thì chúng ta mới hết hoài nghi. Ví dụ, các tôn giáo khác nói trong thân có linh hồn. Cái gì khác có thể thay đổi, chứ linh hồn không thay đổi. Hay là họ cho rằng Thượng Đế tạo ra con người. Nếu chúng ta u mê, mờ ám không thấy thì cũng nói rằng Thượng Đế tạo ra ta và để cho vô minh che kín không chuyển nghiệp được, rồi chìm đắm trong sông mê bể khổ. Giờ đây, chúng ta thức tỉnh, sáng suốt đi tới Niết Bàn với một trí nhớ theo dõi, Định ở trong tâm. Khi có Định rồi, chúng ta phải biết phân tách tâm định. Với Chánh Niệm hay trí nhớ, quý vị sẽ thấy rõ đề mục. Niệm phồng xẹp, đi, đứng, nằm, ngồi, co tay ra vô, v.v... gọi là niệm thân. Khi co tay quý vị quán, khi ăn cũng quán, khi nhai cũng quán, khi bụng phồng xẹp cũng quán, để xem có đúng với giáo lý của Đức Phật hay không. Gọi cái này là thân (hay sắc), có đúng vậy không? Rồi phần biết thân này là tâm (hay danh), có đúng vậy không? Như vậy Sắc Pháp và Danh Pháp có đúng không? Rồi quý vị hành trì chi tiết thêm, niệm tỉ mỉ, thấy hai pháp này luôn thay đổi. Đôi khi hành giả có thói quen, ước muốn mọi việc như ý mình. Ví dụ như quý vị nói khi trước cảm thấy đau rồi niệm đau thì hết, bây giờ thấy đau nhưng niệm hoài không hết, rồi sinh hoài nghi pháp hành của mình. Vậy là không đúng. Dù cái đau có hết hay không hết, đó là chuyện của cái đau. Nếu nó không hết, chúng ta phải quán trở lại, suy nghĩ tại sao không hết. Khi suy nghĩ, quý vị sẽ thấy là nó không ở dưới sự kiểm soát của ta. Ta không muốn đau mà vẫn có nó. Ta không bảo nó hết đau được vì ta không làm chủ nó. Đấy là Vô Ngã. Hiểu như vậy, ta không chấp thủ. Nếu có chấp thủ ở đây là chúng ta kẹt. Đề mục chính ở đây là phồng xẹp. Tại sao dùng phồng xẹp làm đề mục? Trước hết, đây là cử động của thân, là yếu tố gió trong Tứ Đại (đất, nước, lửa, gió). Khi hơi thở vào thì bụng phồng; hơi thở ra thì bụng xẹp. Hơn nữa, đây là đề mục thay đổi: hết phồng rồi xẹp, hết xẹp rồi phồng. Đề mục thay đổi giúp hành giả dễ nhận thức được Vô Thường. Điểm này rất là quan trọng. Ngoài đề mục chánh, còn có những đề mục phụ sanh lên. Có khi sanh lên rồi diệt, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc đều đều; cũng như hơi thở vậy. Hơi thở phồng rồi xẹp, khi nhanh, khi chậm, khi đều đều. Hoặc Thọ: đôi khi đau rồi mau hết, đôi khi lâu hết. Cũng như bệnh cảm cúm: đôi khi bệnh cảm mau hết, đôi khi lâu hết, đôi khi còn bị bệnh cảm nặng hơn. Ở đây, nếu không hết đau thì cứ tiếp tục Niệm. Chỉ vậy thôi. Niệm rồi bỏ qua. Không có gì suy nghĩ, thắc mắc ở trong đó. Đừng thắc mắc, tại sao khi trước tôi ngồi thiền thì thấy nó như thế mà bây giờ nó lại không như thế. Nếu chú niệm hoài mà không hết đau, quý vị có thể trở về đề mục chính. Đây là nhiệm vụ của hành giả. Hành giả không nên hoài nghi trong cách thức tu niệm. Về kinh nghiệm, chúng ta không mong rằng hôm nay phải khác hơn hôm qua. Dù nó thay đổi hay không thay đổi, nó cũng là nó. Nhiệm vụ chúng ta là biết trong hiện tại thôi. Nếu có ghi nhận thì chỉ ghi nhận trong lúc này, dù giống hay khác lúc trước thì cũng không thành vấn đề, và ta chỉ cần biết nó là như vậy. Đặt hết niềm tin tưởng, tinh tấn, và luôn luôn có trí nhớ biết mình, thì sẽ có tiến bộ. Trên đây, Sư chỉ cho quý vị thấy rõ Giới là căn bản trong sự thực hành. Giới được trong sạch thì chúng ta thắng được ta. Người đời trên thế gian có thiện có ác. Muốn trở thành người thiện, phải làm thế nào? Từ ác muốn thành thiện thì chỉ có trì Giới thôi. Khi giữ giới được trong sạch thì người đó trở thành thiện ngay. Giới là khí cụ để thắng phiền não. Giữ Giới trong sạch thì chúng ta mới thắng được Tham Sân Si trong nội tâm của ta. Muốn loại được phiền não, tâm chúng ta phải trong sạch vì phiền não ở trong tâm. Mà tâm trong sạch như thế nào? Tâm trong sạch phải có Định và Huệ. Mà muốn có Định và Huệ, cần phải có Giới. Vì vậy, Giới, Định và Huệ luôn luôn liên kết với nhau. Ở đây, quý vị đã và đang thọ trì cả ba phần: Giới, Định, Huệ. Quý vị nên gắng gìn giữ Giới đang thọ trì trong 10 ngày, nhất là Giới không nói dối như Sư mới giảng hồi nãy. Khi nói chuyện, tâm sẽ phóng túng, chạy theo suy nghĩ và ta quên niệm. Mà quý vị cần có trí nhớ, chú ý trong đề mục rồi niệm. Giữ Giới được như vậy là quý vị có lợi ích trong 10 ngày này. Mong rằng quý vị gặt hái được quả báu cao thượng. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật |
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 377 Gia nhập vào: 6-April 10 Thành viên thứ.: 11,098 ![]() |
Ngày Thứ Tám
Niết-Bàn Sư đã giảng về phương pháp tực tập của Thiền Chỉ và Thiền Quán. Hôm nay, Sư xin nhấn mạnh về sự an vui của các pháp thiền này, nhất là Thiền Quán. Sự an vui của Thiền Chỉ có 5 chi: Tầm, Sát, Hỷ, Lạc, Định. Khi tâm chú trên một đề mục, các chi thiền bắt đầu sanh lên theo thứ tự. "Tầm" là sự chú tâm nơi đối tượng. "Sát" là bắt dính theo đối tượng và quán cho kỹ. Tâm không rung động theo đối tượng khác. Tâm được an vui gọi là "Hỷ". Sau đó tâm lên đến Lạc và Định. Sơ thiền bao gồm cả 5 chi trên. Đến Nhị thiền, tâm của hành giả bén nhạy, tự nhiên mất Tầm và bắt đầu từ Sát trở lên Hỷ, Lạc, Định. Tam thiền thì mất hai chi đầu là Tầm và Sát, chỉ bao gồm Hỷ, Lạc, Định. Tứ thiền mất ba chi đầu chỉ bao gồm Lạc và Định. Ngũ thiền thì có Xả và Định. Đó là trạng thái an vui của tâm định trong một đối tượng cố định. Khi có đối tượng, hành giả chú tâm khắn khít trên đối tượng. Tâm sẽ được an vui, tránh khỏi 5 pháp chướng ngại là Tham Ái, Oán Thù, Phóng Dật, Hôn Trầm và Hoài Nghi. Đó là sự an vui của Thiền Chỉ hay Thiền Định. Hôm nay, quý vị đi sâu trong Thiền Quán, cũng được gọi là Thiền Minh Sát hay Thiền Tuệ, sự an vui của Thiền Tuệ là Niết-Bàn. Tuy rằng Niết-Bàn khó hiểu đối với hành giả nào chưa kinh nghiệm, nhưng qua những câu Phật ngôn trong kinh tạng Pàli và qua sự thực hành, hành giả có thể đoán được ý nghĩa của Niết-Bàn. Cái gì mà có thân, có tâm, có ngũ căn, có ngũ trần làm đối tượng thì vấn đề đó dễ hiểu. Trái lại, nói về Niết-Bàn là một vấn đề khó hiểu, vì Niết-Bàn không có thân tâm, không có ngũ uẩn làm đối tượng. Như vậy, nói về một vấn đề không thân, không tâm mà được sự an vui là một vấn đề khó hiểu vô cùng. Trừ những người Phật Tử có duyên lành, có nhiều Ba-La-Mật mới có đức tin mạnh mà đi tìm và thực hành để giác ngộ được Niết-Bàn. Còn lại, chúng sanh thường chạy theo những thú vui của thế tục. Đó là thú vui qua lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), mà đối thượng là lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp hay đối tượng của ý). Thú vui ở đời thấy rõ như vậy. Tại sao hành giả lại chạy theo một sự an vui khác không có đối tượng, một sự an vui mà nhiều người không chấp nhận là có như vậy? Điều này khó giải thích được, mà tại sao ta lại ngồi tìm? Nếu hành giả không hấp tấp chạy theo bàn luận ở đời mà suy nghĩ cho kỹ, thì hành giả phải nhìn nhận là sự vui thú ở đời không phải là cái vui vĩnh viễn. Nhìn nhận có sự vui thật, nhưng sau cái vui ấy có một sự khổ. Tại sao vậy? Tại sao mà sự vui ở thế gian này không vĩnh viễn? Sự vui do đối tượng của lục căn là lục trần có sẵn như vậy mà nó không vĩnh viễn, vì có sự thay đổi trong cái vui. Khi mắt thấy cảnh vật hoặc tai nghe tiếng động, mắt cũng như tai bắt được đối tượng mà đối tượng lại không tồn tại lâu dài. Vì đối tượng không tồn tại lâu dài nên biến thành sự khổ. Đành rằng lúc ban đầu nó vui thật, nhưng cuối cùng nó cũng mất đi. Cái mất đó làm cho tâm đau khổ. Vì vậy, nếu chúng sanh thèm khát, càng chạy theo thú vui ở đời bao nhiêu thì càng khổ bấy nhiêu. Cụ thể trên thế gian này, biết bao người chỉ nghĩ đến và chạy theo lạc thú của ngũ trần. Biết bao người phạm luật pháp để phải bị tù tội, chẳng những chỉ trong kiếp hiện tại thôi mà còn hậu quả lâu dài trong những kiếp tương lai. Ta mới thấy rằng sự an vui trong ngũ dục có cái quả không mát mẻ; mà lại nóng nảy, đưa tới đau khổ. Không phải chỉ có ngày nay, mà từ xa xưa đã có câu hỏi về Niết-Bàn. Vào thời Đức Phật còn tại thế, có câu chuyện bàn luận về Niết-Bàn như sau: Tại Trúc Lâm Tịnh Xá ở Vương Xá Thành, Ngài Xá-Lợi-Phất hội họp các thầy Tỳ-khưu lại và hỏi: - Vậy sự an vui ở Niết-Bàn như thế nào? Nghĩa của Niết-Bàn như thế nào? Ngài Udayi trả lời: - Niết-Bàn thì không còn cảm thọ. Ngài Udayi lại hỏi: - Nếu không còn cảm thọ, làm sao có sự an vui? Ngài Xá-Lợi-Phất trả lời: - Như vậy đó, Niết Bàn thì không còn cảm thọ, không còn vui thú ở ngoại cảnh. Nơi đó dập tắt hết mọi khổ đau, không còn già, không còn chết. Trong thời xưa, có nhiều tín ngưỡng quan niệm về Niết-Bàn khác nhau. Có người nói Niết-Bàn là tinh hoa của thân và tâm. Có người lại bảo Niết-Bàn là một cái nghiệp báo do con người đào tạo. Khi thân tâm này chềt rồi thì nghiệp báo đó trở thành một sự an vui. Nhưng theo Phật Giáo, Niết-Bàn là sự dập tắt hết Danh và Sắc. Có nghĩa là cho dù có giác quan tiếp xúc với trần cảnh, tâm vẫn không bị chi phối. Tâm không bị chi phối gọi là tâm Niết-Bàn. Chúng sanh trên thế gian này không chấp nhận có sự an vui của Niết-Bàn, vì Niết-Bàn ở ngoài sự kinh nghiệm của thân tâm, của giác quan này. Mở mắt ra nhìn, thấy cảnh đẹp thì vui với cái đẹp; tiếng hay tới tay thì với tiếng hay; v.v... Mà lại bảo rằng Niết-Bàn không có thân tâm, không có ngũ uẩn, không có giác quan; như vậy, sự an vui ấy từ đâu mà có? Khi phủ nhận, không cho rằng cái vui theo mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý là sự an vui thật sự, như vậy còn cái vui nào hơn nữa? Vì vậy Niết-Bàn khó hiểu vô cùng! Ngoại trừ những hành giả nào có duyên lành, có một đức tin mạnh và đã từng trải luân hồi ở sông mê bể khổ, đã từng kinh nghiệm sự vui thú ở đời và nhận thức rằng nó không đưa tới sự an vui vĩnh viễn, thì mới đi tìm cái gì khác hơn. Nghe nói Niết-Bàn là an vui vĩnh viễn nên mới thử đi tìm và ngày hôm nay mới ngồi tại đây trong khoá thiền này. Niết-Bàn có được là phải đầy đủ Ba-La-Mật. Như Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hay các Chư Phật khác trong qua khứ đã đầy đủ Ba-La-Mật mới giác ngộ, đắc được pháp cao thượng là Niết-Bàn. Mười pháp Ba-La-Mật gồm có: 1. Bố Thí Ba-La-Mật, 2. Trì Giới Ba-La-Mật, 3. Xuất Gia Ba-La-Mật, 4. Trí Tuệ Ba-La-Mật, 5. Tinh Tấn Ba-La-Mật, 6. Nhẫn Nại Ba-La-Mật, 7. Chơn Thật Ba-La-Mật, 8. Nguyện Vọng Ba-La-Mật, 9. Tâm Từ Ba-La-Mật, và 10. Tâm Xả Ba-La-Mật. Mười Ba-La-Mật này khi tròn đủ sẽ đưa chúng sanh đến nơi an vui vĩnh viễn. Sự an vui đó ở ngoài sáu giác quan này. Đó là sự an vui của Niết-Bàn. Sư không biết nói chi hơn, vì Niết-Bàn thuộc về kinh nghiệm thực chứng. Bây giờ thì Sư chỉ thí dụ thôi cho quý vị có đức tin mạnh để tiến bước và không bỏ Ba-La-Mật của quý vị. Ở đây, Sư không dám đề cập đến kiếp trước, nhưng trong kiếp này quý vị đã và đang đào tạo 10 pháp Ba-La-Mật kể từ Bố Thí, Trì Giới, Xuất Gia, Trí Tuệ, v.v... trong những khóa thiền như thế này. Hành thiền gặp khó khăn, quý vị rán nhẫn nại chịu đựng sự khó khăn. Đó là Nhẫn Nại Ba-La-Mật. Ngồi tinh tấn kéo tâm lại, không cho buông lung là Tinh Tấn Ba-La-Mật. Người đời không nghĩ như quý vị. Đụng một chút đau khổ là người ta phản ứng ngay, tìm một cái gì để che lấp sự đau khổ đó. Ngược lại, hành giả ngồi như thế này, nguyện chịu đựng sự khổ đau và lấy đó làm đối tượng để tìm sự an vui. Tại sao lấy sự đau khổ ấy nhìn để đổi lấy sự vui? Ai ai cũng đã từng kinh nghiệm rằng thú vui ở đời chỉ mở đường cho đau khổ và hội ngộ sẽ nảy mầm chia ly. Chỉ có Niết-Bàn mới dập tắt được sự khổ và sự hội ngộ ấy mới được an vui mãi mãi. Không gì hơn là bây giờ quý vị từ chối những lạc thú ở đời và đến đây để thực hành những Ba-La-Mật pháp như vậy. Ba-La-Mật nhiều chừng nào, quý vị lại càng có đức tin mạnh chừng ấy, có một nguyện vọng, một sự chân thật và tâm Từ mạnh chừng ấy. Không phải luyện tâm Từ mới có tâm Từ. Tâm Từ của chúng sanh đã có từ hồi nào đến giờ, chỉ cần hành giả cố gắng thì sẽ phát triển nó. Thương thân tâm này, không muốn cho thân tâm này đau khổ nữa nên quý vị mới nhẫn nại lại ngồi đây, cầu cho thân tâm được an vui mãi mãi. Vì thương mình nên quý vị mới hành thiền thanh lọc tâm. Quý vị dám hy sinh bỏ những thú vui ở đời mà người khác luôn chạy theo, vì biết đó chỉ là vui tạm và chỉ có Niết-Bàn mới là vĩnh viễn. Bây giờ hỏi lại, tại sao chúng ta không kinh nghiệm được Niết-Bàn mà vẫn cố gắng đi tìm? Chúng ta chỉ nghe Chư Phật và các vị đã từng đi theo dấu chân của Đức Phật thuyết lại, nói rằng sự an vui của Niết-Bàn không có giác quan mà cũng không có đối tượng của giác quan. Nói về ngũ uẩn này, có mắt, chúng ta mở từ sáng đến tối thì mắt mỏi. Tai nghe từ sáng đến tối cũng mỏi. Mũi ngửi, lưỡi nếm, thân đụng chạm cả ngày nên cũng mỏi mệt. Nói tóm lại, ngũ uẩn chạm xúc cả ngày nên mệt mỏi lắm rồi. Làm sao cho mắt đừng thấy, tai đừng nghe, mũi đừng ngửi, lưỡi đừng nếm, thân đừng đụng chạm thì được an vui. Mà cũng làm sao quên được cái thấy, cái nghe, cái ăn, v.v... thì nó sẽ được an vui. Để tìm kiếm an vui, không gì hơn là chúng sanh đi ngủ một giấc ngon lành. Cũng như có một người sau một đêm ngủ dài, không mộng mị xấu xa, thức dậy khoe: "Đêm hôm qua tôi ngủ ngon lành." Hỏi: - Trong lúc ngủ ngon lành như vậy, mắt có thấy không? - Dạ không. - Tai có nghe không? - Dạ không. - Thân có đụng chạm, giường cao chiếu rộng có cảm giác không? - Dạ không. Như vậy nếu giác quan không có cảm giác, tại sao người đó có thể nói là ngủ một đêm ngon lành? Câu hỏi này, không ai trả lời được; chỉ biết là an vui trong cái quên, quên cái mỏi mệt của giác quan mà xác nhận là một đêm ngủ ngon lành. Nếu Sư không lầm thì có lẽ sự an vui đó là một an vui của cái gì không thay đổi. Hậu quả cuối cùng của ngũ trần lục dục, mà chúng sanh đeo đuổi, là đau khổ. Và nếu chúng sanh thức tỉnh, tâm không còn bị chi phối bởi ngũ trần, thì cảm thấy được sự an vui. Sự an vui này gọi là an vui Niết-Bàn mà Đức Thế Tôn đã tìm thấy dưới cội cây Bồ Đề. Giác quan Ngài vẫn dùng mà tâm Ngài không bị động. Vì vậy tâm Ngài lúc nào cũng có sự an vui. Chúng sanh thì không như vậy. Chạm vào ngũ trần thì bị động, không thương thì ghét, không ghét thì thương. Ghét cũng là một cái ghét rung động. Thương cũng là một cái thương rung động. Có chỗ nào là an vui đâu? Trái lại, một tâm không rung động mới là một tâm an vui. Có nghĩa làụ tâm không bị chi phối bởi sự thay đổi, sự Vô Thường của trần cảnh. Trong khi đó, chúng sanh đau khổ vì sự thay đổi của ngũ trần, của giác quan, và của đối tượng. Đó là ví dụ sơ qua về Niết-Bàn mà hành giả đang đi tìm. Nếu hỏi lại Niết-Bàn ra làm sao, thưởng thức như thế nào, thì khó trả lời được. Như một người ngủ thức dậy nói là ngủ được một giấc ngon lành, thì có lẽ người kinh nghiệm Niết-Bàn cũng vậy. Mà có lẽ Niết-Bàn còn an vui hơn nhiều. Trong A-Tỳ-Đàm (Vi Diệu Pháp) có giải thích rõ về Tâm Vương, Tâm Sở, Sắc Pháp và Niết-Bàn. Khi nói về Tâm Vương hay Tâm Sở là nói về trạng thái tâm làm việc thiện hoặc ác, chủ động hoặc thụ động, là một tâm luôn luôn tạo nghiệp không ngừng nghỉ. Khi nói về Sắc Pháp là nói về đất, nước, gió, lửa mà trạng thái của nó cũng không ngừng thay đổi. Nhưng khi nói về Niết-Bàn, thì lại nói là ở ngoài Sắc Pháp, ngoài Tâm Vương và Tâm Sở. Như vậy, khi nói về Niết-Bàn có thể nói là khi nào dập tắt được Danh và Sắc này. Nếu ở ngoài Danh Sắc, thì khi Danh Sắc này diệt rồi, tự nhiên đó là Niết-Bàn vĩnh viễn vậy. Nếu còn thân tâm này mà tâm hành giả không còn bị phiền não, không còn bị chi phối theo giác quan, đó gọi là "Niết-Bàn tâm" hay "hữu dư Niết-Bàn". Đấy là cái nghĩa của Niết-Bàn. Nếu quý vị nào đã kinh nghiệm qua thì sẽ hiểu được. Sư xin đọc một đoạn trong quyển Thắng Pháp Tập Yếu Luận (hay A-Tỳ-Đàm Tập Yếu, Abhidhammattha Sanghaha) để quý vị nhận thức thêm về Niết-Bàn: "Niết-Bàn là Lokuttara Sankhàtam, được gọi là Siêu Thế, là Catumagganànena do bốn Đạo cần được chứng đắc. Sacchikàtabbam: trở thành đối tượng cho Đạo và Quả. Vànasankhataya tanhàya: Ái được gọi là vàna (rừng rậm). Nikkhantattà: Thoát ly. Sabhàvato: Về tự tánh. Ekavidhampi: Chỉ một loại. Saupàdisesa vibbànadhàtu: Hữu-dư-y Niết-Bàn giới. Anupadisese vibbànadhàtu: Vô-dư-y Niết-Bàn giới. Karanapariayyena: Theo phương thức tự kinh nghiệm trước và sau khi chết. Sannatam nghĩa là Không. Animittam là Vô Tướng. Niết-Bàn không có Tướng. Appanihitam làVô Nguyện. Akarabhedena Theo hành tướng." Việt văn: "Niết-Bàn được gọi là Siêu Thế và phải được chứng ngộ bởi trí của bốn Đạo, thành một đối tượng cho bốn đạo và quả. Và được gọi là Niết-Bàn, vì là một sự thoát ly khỏi tham ái xem như là rừng rậm (vanà). Niết-Bàn theo tự tánh chỉ có một loại; theo phương thức tự kinh nghiệm trước và sau khi chết có hai: Hữu dư y Niết-Bàn giới và Vô dư y Niết-Bàn giới. Còn theo hành tướng có ba: Không, Vô Tướng và Vô Nguyện." Giải thích: "Niết-Bàn, Nirvana hay Nibbana, gồm có Ni và bana. Ni có nghĩa là không, bana có nghĩa là dệt hay ái. Chính ái này tác dụng như một sợi dây nối liền đời sống của một cá nhân, khi cá nhân này trôi lăn trong biển sanh tử luân hồi. Ni có nghĩa là không. Bana có nghĩa là thổi tắt. Nibbana có nghĩa là thổi tắt lửa tham ái, sân hận, và si mê. Niết-Bàn là nguyên lý cuối cùng, (Vatthudhama) thuộc về Siêu Thế, ra ngoài thế giới của Danh và Sắc, hay Năm Uẩn. Niết-Bàn được chứng ngộ nhờ trực giác (Paccakkha), hiện kiến hay là Thông-đạt-trí (Pativedhanàna), và Tỷ Lượng (Anumàna), hay Tùy-Giác-Trí (Anubothanàna). Để diễn đạt hai ý trên, Niết-Bàn cần phải được chứng ngộ bởi trí tuệ thuộc bốn thánh đạo và trở thành một đối tượng cho các Đạo và Quả. Về tự-tánh (Sabbhàvatto), Niết-Bàn là an tịnh (santi), và như vậy chỉ có một (kevala). Niết-Bàn này được xem là hai, tùy theo sự chứng nghiệm trước và sau khi chết. Trong chính văn có dùng danh từ Karanapariyàyena được các tập sớ Pàli ở Tích Lan giải thích là nguyên nhân được gọi vậy vì có hữu dư y hay không có hữu dư y. Saupadisesa: sa là với, upàdi là 5 uẩn (thân và tâm), Sesa là còn dư sót lại. Upàdi từ nguyên chữ upa+a+da lấy nghĩa là 5 uẩn do tham ái và tà kiến chấp chặt. Upàdi cũng có nghĩa là Kilesa (phiền não). Theo chánh bản và các tập sớ, Niết-Bàn do các vị Sotàpanna, Sakadàgami, và Anàgami chứng ngộ thuộc Saupadisesanibbànadhàtu. Vì còn thân và còn phiền não. Niết-Bàn của các vị A-La-Hán cũng vẫn là Saupadisesanibbànadhàtu vì các vị này vẫn còn thân. Chỉ có Niết-Bàn của vị A-La-Hán sau khi chết mới gọi là anupadisesanibbànadhàtu. Vì cả phiền não và ngũ uẩn đều đã được vất bỏ, dứt sạch. Sunnata là Không, có nghĩa là không có Tham Sân Si hay mọi pháp hữu vi. Animitta, Vô Tướng, có nghĩa là không có tướng Tham Sân Si hay tướng các pháp hữu vi. Appanihita, Vô Nguyện, có nghĩa là không còn đèo bồng, luyến ái gì nữa." Đây là Niết-Bàn. Có bấy nhiêu đó thôi. Nói rất là tóm tắt mà Đức Phật phải tu 4 A-Tăng-Kỳ 100 ngàn kiếp mới kinh nghiệm được. Như vậy, ta thấy Niết-Bàn nằm ngoài sự suy nghĩ, ngoài cái thấy, nghe, ngửi, vị, xúc giác của thân. Như thế nào gọi là kinh nghiệm hay thấy Niết-Bàn? Và làm sao tin tưởng đó là Niết-Bàn? Hành giả phải hành thiền, lấy đối tượng để quán. Và khi quán, tất cả đối tượng đem lại đều thấy Vô Thường, Khổ Não và Vô Ngã. Vô Thường là luôn luôn thay đổi. Và cái gì thay đổi là Khổ. Cứ như vậy, Thay Đổi - Khổ, Thay Đổi - Khổ, Thay Đổi - Khổ. Và nếu cứ thấy vậy, hành giả sẽ không còn chấp vào sự thường tồn ở chỗ nào nữa. Trong khi hành thiền, quý vị nhận thức được cảm xúc trong thân; và khi theo dõi tỉ mỉ, hành giả sẽ nhận thức được sự thay đổi của cảm xúc. Chính sự thay đổi đó làm cho quý vị đau khổ. Cuối cùng, trong một giây phút nào đó, quý vị không còn chấp là của mình nữa. Không chấp là không chấp vào suy nghĩ, vào thân, cũng như vào thọ hoặc vào pháp. Tất cả những đối tượng nào thuộc ngũ uẩn cũng đều thấy đến rồi đi, ngoài ý muốn của quý vị. Sự thay đổi hay sanh diệt là Vô Thường. Không còn chấp cái này là của ta, là thuộc quyền sở hữu của ta, hay dưới sự kiểm soát của ta, chính là Vô Ngã. Mong rằng Ba-La-Mật mà quý vị đang đào tạo đây sẽ đưa quý vị đến kinh nghiệm Niết-Bàn trong một giây phút nào đó. Hãy tĩnh lặng mà kinh nghiệm, không có suy nghĩ ngoài đối tượng. Đó gọi là Niết-Bàn tâm. Thời giáo lý đến đây xin tạm đứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành mau đến nơi giải thoát. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Ngày Thứ Chín Sống theo Đức Phật Hôm nay là ngày thứ chín. Chỉ còn ngày mai nữa là quý vị hành trì tròn đủ 10 ngày của khóa thiền này. Thông thường lớp học nào cũng vậy, tới ngày cuối chúng ta nên ôn lại những bài đã học. Cho nên, hôm nay, Sư xin ôn lại những gì quý vị cần kinh nghiệm và hiểu biết trong 9 ngày qua. Chúng ta đã và đang học những gì? Chúng ta học phương pháp sống theo Đức Phật. Chúng ta đã từng biết đau, biết buồn, và chúng ta để trôi theo cái đau cái buồn. Bây giờ, ta không buông trôi theo nó mà nhìn thẳng vào nó, để biết rõ những cảm xúc này. Khi biết rõ, ta mới có thể đối phó với chúng được. Khi xưa, lúc đi, lúc cười, ta trôi theo cái đi, buông theo tiếng cười. Ngày nay, ta đi và ta cười theo phương pháp của Đức Phật. Đi, ta biết ta đi. Cười, ta biết ta cười. Nếu biết đi, biết cười theo phương pháp của Đức Phật, ta sẽ sống an vui mãi mãi. Đức Phật dạy: Sabbesata aharatthitika, nghĩa là tất cả chúng sanh trên thế gian này sống nhờ vật thực. Hôm nay ta cũng học làm sao ăn theo cách của Đức Phật. Từ trước đến nay, ta ăn theo thói quen, theo thói vui, ăn mà nhiều khi không biết mình ăn. Hôm nay, ta ăn theo cách của Đức Phật. Ta ăn trong tỉnh thức. Khi ăn, ta biết ta ăn. Khi không ăn, ta biết ta không ăn. Ta ăn theo cách ăn của Đức Phật. Ăn cách này sẽ tạo chất bổ tinh thần cho tất cả chúng sanh có duyên lành muốn giải thoát những khổ não đã đầu độc thân tâm ta. Vấn đề chúng ta đang tìm hiểu ở đây chính là vấn đề ở gần ta nhất. Đó là con người của ta. Đức Phật dạy: con người là Danh Sắc cũng gọi là thân tâm, hay con người là Ngũ uẩn. Như vậy, trong thân tâm này, có cái gì cho ta biết cái này là Danh, cái kia là Sắc? Đó là trí nhớ (hay Chánh Niệm). Chính trí nhớ này làm cho ta cao thượng hơn, và dẫn ta đi đến nơi an vui vĩnh viễn. Vì vậy, ta dùng trí nhớ đó mà thực tập trong mấy ngày nay. Đức Thế Tôn dạy rằng Bát Chánh Đạo có tám chi, mà quan trọng nhất là Chánh Niệm. Chính như bản thân Ngài cũng như tất cả chúng sanh, khi đem Chánh Niệm ra áp dụng thì tất cả những chi pháp khác cũng sẽ phát sanh. Vì vậy, hôm nay ta đem chánh niệm hay trí nhớ ra áp dụng. Trí nhớ là gì? Trí nhớ là sự phân biệt của tâm ở trong thân này. Chúng sanh nào cũng có một phần trí nhớ; mà khi trí nhớ này được đem ra áp dụng thì nó sanh lên đều đều và đưa tuệ giải thoát lại cho chúng ta. Tập như thế nào để ta có trí nhớ và trí tuệ? Không phải tập ở đâu bên ngoài, mà chính là ở trong thân ta. Sư xin kể lại một câu chuyện để quý vị thấy sự thực hành rất là quan trọng: Câu chuyện ở Âu Mỹ về một vị thuyền trưởng và một ông giáo sư. Một hôm nọ. ông giáo sư đi nghỉ hè theo đường biển. Trong chuyến du lịch, vị giáo sư muốn tìm hiểu thêm, cho nên mỗi ngày ông đến hỏi vị thuyền trưởng. Lần đầu, ông hỏi: - Ông là thuyền trưởng, vậy ông có biết Hải Dương Học không? Vị thuyền trưởng trả lời: - Thưa ông, không. Tôi không học về môn đó. Tôi chỉ chuyên lái thuyền thôi. Vị giáo sư bảo: - Vậy là ông đã mất một phần tư của đời sống. Hải Dương Học là môn học quan trọng về biển. Ngày thứ nhì, ông giáo sư hỏi nữa: - Thưa thuyền trưởng, ông có biết Khí Tượng Học không? Ông thuyền trưởng trả lời: - Thưa giáo sư, tôi không biết. Đừng nói đến biết, ngay cả danh từ ấy tôi cũng ít nghe tới. Ông giáo sư nói: - Vậy là ông mất hết hai phần tư của đời sống. Đến ngày thứ ba, ông giáo sư lại hỏi: - Thưa thuyền trưởng, ông có biết Thiên Văn Học không? Vị thuyền trưởng trả lời: - Thưa ông, tôi không biết về môn học đó. Sự thật, nghề của tôi là lái thuyền. Và tôi lái đã 10 năm rồi. Vị giáo sư nghĩ vị thuyền thưởng này không biết chi hết, nên bảo: - Vậy là ông mất hết ba phần tư của cuộc sống. Đến ngày thứ tư, có một trận bão to thổi đến. Thuyền trưởng báo động để mọi người chuẩn bị khi bão tới. Trong lúc ấy, vị thuyền trưởng chạy tới chạy lui, nhắc nhở mọi người. Khi đến ông giáo sư, thuyền trưởng hỏi: - Thưa giáo sư, ông có biết bơi lội không? Vị giáo sư trả lời: - Thưa ông, tôi không biết bơi. Vị thuyền trưởng bảo: - Vậy là giáo sư mất hết bốn phần của đời sống rồi! Quý vị thấy đó, mặc dù sự học hỏi có lợi cho đời sống thật, nhưng chỉ có lợi phần nào thôi. Nếu đi biển mà không biết bơi lội thì thật là có hại cho sinh mạng chúng ta. Hôm nay, quý vị đến đây học phương pháp bơi lội trong biển sanh tử luân hồi. Chúng sanh vì mù quáng tối mê nên luôn luôn nằm trong luân hồi, bị sanh lão bệnh tử mãi mãi. Chỉ có Đấng Giác Ngộ là Đức Phật mới tìm thấy phương pháp để ra khỏi sự đau khổ này. Đó là phương pháp chúng ta đang thực tập mấy ngày nay. Phương pháp niệm cho biết cái nào là Danh, cái nào là Sắc. Đây là phương pháp bơi lội mà đại dương chính là thân tâm của ta. Tuy rằng đại dương này nhỏ mà ta lại không biết bờ bến, không biết chiều sâu, nghĩ không cùng, đi không cạn, tìm hiểu không hết. Mặc dù vẫn còn trong sanh tử luân hồi, nếu ta biết được phương pháp Đức Phật dạy là chúng ta vững tâm hơn. Tuy vẫn còn trầm luân, nhưng nhờ biết bơi lội, ta yên lòng đi trên chiếc thuyền Danh Sắc. Nếu ta không biết phương pháp Đức Phật dạy là ta mãi mãi chìm đắm trong đau khổ. Tóm lại, con người chỉ có hai phần thôi, phần vật chất gọi là Sắc (hay thân) và phần tinh thần gọi là Danh (hay tâm). Nếu chỉ có bấy nhiêu thôi, ta phải thực tập để kinh nghiệm sâu xa trong thân tâm chúng ta. Nếu đem thân tâm ra phân tách thì ta sẽ thấy có một phần tử cao quý hơn mà Đức Phật đã tìm ra và dạy lại cho chúng ta. Đó là yếu tố giải thoát, gọi là trí nhớ (hay Chánh Niệm). Chính trí nhớ này, ta đem ra áp dụng. Trí nhớ hay Chánh Niệm, tiếng Pali gọi là Sati. Sati nghĩa là phải để trước mặt, phải đem đề mục ra áp dụng. Đề mục đầu tiên phải là đề mục về Sắc. Tại sao vậy? Vì trí nhớ là phần của tâm. Và tâm không có hình ảnh nên tâm không thể nào nhìn thấy tâm được. Đức Phật, với trí tuệ siêu phàm, hiểu rõ vấn đề. Ngài cho mình biết, phần từ đầu đến chân là vật chất hay cũng gọi là thể Sắc. Ngài dạy ta lấy tâm soi lại thể Sắc này và lấy trí nhớ ra để niệm. Ngài dạy mình để trí nhớ vào một địa điểm nào nhỏ, dễ trụ tâm; nên các thiền sư nhiều kinh nghiệm dùng hơi thở nơi mũi hoặc nơi bụng. Hai đề mục này liên quan với nhau. Khi hơi thở vào thì bụng phồng, thở ra thì bụng xẹp. Vì lý do này nên dùng chỗ nào cũng được; nhưng ở bụng thì dễ chú tâm hơn. Bây giờ, vì ta muốn sát cánh trong thân hơn nên ta để trí nhớ nơi bụng. Chính ở trong thân thì dễ theo dõi hơn là một thể sắc từ ngoài chen vào thân. Ví dụ, hơi thở vô ở mũi khó cho mình cảm giác nó một cách rõ ràng từ đầu đến cuối vì nó vi tế hơn sự chuyển động ở bụng. Một hơi thở vô mà mình tìm bắt, kinh nghiệm cho được một cách rõ ràng ở mũi rất là khó cho người mới thực tập. Thay vào đó, chúng ta để tâm niệm nơi bụng. Bụng phồng, nó cử động rõ ràng. Bụng xẹp, nó cử động rõ ràng. Vì sự cử động của bụng thô sơ hơn nên dễ theo dõi. Ngoài ra nó còn có thân xúc mạnh hơn nên dễ bắt và dễ theo dõi hơn. Vì vậy khi hành giả mới chú tâm nơi bụng là tự nhiên thấy bụng phồng xẹp liền. Mà khi thấy bụng phồng xẹp, đó chính là ta học về thân (sắc) vậy. Phồng Xẹp là gì? Là sự cử động hay chuyển động của thân. Tại sao chúng ta niệm theo phồng xẹp, mà không niệm nơi chân hay bàn tay hay nơi nào khác? Thật ra, niệm ở những nơi này cũng được; nhưng nếu để tâm một chỗ không có sự cử động làm cho nó thức tỉnh, thì tâm định ở đó dễ đưa đến buồn ngủ. Để tâm trong đề mục chuyển động là bắt tâm luôn luôn thức tỉnh. Vì vậy, đề mục nơi bụng phồng xẹp là đề mục của Thiền Minh Sát, một đề mục Thiền Quán; nghĩa là làm cho mình luôn thức tỉnh và sự thay đổi của đề mục (hết phồng rồi xẹp) làm cho mình có một trí nhớ phân biệt. Sau khi niệm một thời gian, ta sẽ biết bụng cử động đều hoặc không đều, mạnh hoặc yếu, dài hoặc ngắn. Do vậy mà ta luôn kinh nghiệm được sự cử động của thân. Rồi chúng ta dạy tâm phân tách. Phần nào trong thân cử động hay nhìn được, rờ được, cảm giác được gọi là sắc (thân). Phần thể sắc này không biết chi hết. Dùng trí nhớ kinh nghiệm, cảm giác nó, biết sự cử động của nó. Sự phân biệt này gọi là danh (tâm). Chánh Niệm là trí nhớ ghi nhận những gì xảy ra trong hiện tại; còn tâm thức là phần suy nghĩ. Nhưng bây giờ quý vị thấy tâm không suy nghĩ. Vậy tâm ở đâu? Khi trí nhớ chạy sát theo phồng xẹp, tâm ở yên trong đề mục. Nhờ có Chánh Niệm ghi nhận tỉ mỉ nên tâm thức nhận biết đề mục rõ ràng. Biết sự cử động và xúc giác của bụng trong hiện tại. Như vậy, Chánh Niệm luôn luôn theo từ đầu đến cuối của phồng của xẹp. Khi có trí nhớ như vậy gọi là biết mình. Biết mình là phần trí tuệ. Nhờ vậy mới phân tách được phồng rồi xẹp, xẹp rồi phồng; biết được sự cử động của phồng xẹp. Đây gọi là trí tuệ phân tách. Nghĩa là trí nhớ theo dõi đối tượng; và song song với trí nhớ, tâm phân tách được đây là phồng, khác với xẹp. Tuy có một chút suy nghĩ, nhận xét. Nhưng suy nghĩ này là suy nghĩ, phân tách và kinh nghiệm trong đề mục hiện tại và thực tế, không phải do tưởng tượng hay suy nghĩ về quá khứ và tương lai. Đây, tâm luôn luôn ở trong hiện tại, có đề mục chắc chắn của nó để tâm kinh nghiệm, cảm giác được. Vì vậy ta mới phân tách được cái nào là Danh, cái nào là Sắc. Khi phân tách được, ta thấy phần thân (sắc) cử động và chỉ cử động thôi, không biết chi cả. Rồi có cái biết sự cử động của thân. Biết đó thuộc về tâm (danh). Khi thấy vậy, ta biết con người chỉ là Danh Sắc, thân tâm, hay là thể chất và tinh thần. Đấy là bài học đầu tiên của hành giả. Bây giờ ta đã tìm thấy trong con người có thân có tâm. Khi niệm như vậy, ta phân tách được trong thân có trạng thái như thế nào, và trong tâm có trạng thái như thế nào. Theo Vi Diệu Pháp, trong thân có Tứ Đại: đất, nước, gió, lửa. Nhờ có trí nhớ ở trong thân, ta mới cảm giác được trạng thái của Tứ Đại; và nhận thức được mỗi thể chất có một trạng thái riêng. Đó là cứng mềm, dính mắc, chuyển động, và nóng lạnh. Nếu tiếp tục Niệm như vậy, chúng ta càng có trí tuệ, càng có thể đi sâu vào vấn đề và phân tách rõ từng chi tiết một. Phần cử động trong thân là gió, thuộc về thể sắc. Nó luôn luôn thay đổi và không biết chi hết. Chỉ có Tâm là phần cao thượng hơn, mới biết được. Khi có nhiều trí nhớ, ta sẽ kinh nghiệm hơn nữa, sẽ thấy thân tâm này sanh diệt chung nhau. Kế đó, ta kinh nghiệm thêm một phần tử tế nhị hơn nữa, gọi là thọ. Nếu ta đếm đủ ngũ uẩn theo thứ tự: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; thì tiếp theo sắc là thọ. Vì thọ là cảm giác trong thân nên cũng gọi là thân thọ. Thân thọ có thọ dễ chịu (thọ lạc), thọ khó chịu (thọ khổ), và thọ không lạc không khổ (thọ vô ký). Có Chánh Niệm theo dõi, tâm phân tách được thọ này là dễ chịu hoặc không dễ chịu. Dù dễ chịu hoặc không dễ chịu, ta vẫn niệm. Thọ là thọ. Ví dụ, khi nóng, ta niệm là nóng. Nóng lạnh là lửa; cứng mềm là đất đó thôi. Hay là khi đau, ta cũng niệm là đau. Khi niệm như vậy là ta cũng tập đi trong thân này với một tâm xả, không vui không buồn. Thân này chuyển động, ta đi song song với nó mà không chìm đắm. Cảm thọ này nổi lên, ta cũng đi song song với nó. Đấy là ta biết được Danh Sắc, bài học đầu tiên mà Đức Phật đã dạy. Chúng sanh thường chấp con người có cái Ta. Nếu chấp vậy gọi là tà kiến. Nếu có tà kiến, ta sẽ chìm đắm dưới đáy biển. Riêng hành giả hôm nay làm một vị thuyền trưởng, học theo phương pháp của thuyền trưởng. Tuy rằng có học thức ít, nhưng ta chú trọng về phần kinh nghiệm. Kinh nghiệm trong thân và trong tâm, và phân tách hơn nữa để biết thân tâm làm việc như thế nào. Bây giờ nói về tâm. Như thế nào gọi là tâm? Trạng thái của tâm là suy nghĩ. Khi nãy, Sư có nói chánh niệm là trí nhớ ghi nhận Danh Sắc trong hiện tại. Vì vậy, chánh niệm là một phần tử giải thoát ở trong thân tâm đó nữa. Khi tâm ta suy nghĩ hoặc muốn làm gì, ta cũng biết. Người không thực tập thì không thấy rõ thân tâm, muốn làm gì thì làm. Tại sao vậy? Bởi một cái Ngã đã che áng luôn thân tâm này. Khi đi lúc nào cũng nói "ta đi". Khi nghỉ lúc nào cũng nói "ta nghỉ", v.v... Nhưng hành giả ở đây lại phân tách. Khi đi hoặc nghỉ, hành giả phải niệm, phải phân tách Danh Sắc coi cái gì xảy ra, cái gì chuyển động. Bây giờ lấy một ví dụ. Lúc nãy thân này ngồi, bây giờ lại đi. Nhưng tại sao ta đi được? Trước khi đi, phải có cái gì sai khiến cái đi, mới đi được. Như vậy thì phải có cái tâm. Trí nhớ trong hiện tại lần lần cho ta thấy rõ ý định mình muốn làm gì. Trước khi đi, phải có một ý định muốn đi thì thân này mới đi được; và trí nhớ biết như vậy. Lúc nãy thân phồng xẹp, chúng ta biết niệm vì đã quen niệm phồng xẹp. Bây giờ tâm muốn đi, thì trí nhớ cũng phải niệm muốn đi - muốn đi - muốn đi. Như vậy, trí nhớ biết thêm một phần tử nữa thuộc về tâm (danh), gọi là tác ý. Chúng ta thấy danh và sắc nương qua nương lại nhau tạo thành con người. Khi tâm muốn đi thì thân mới đi được. Khi tâm muốn ngồi thì thân mới ngồi được. Và hơn đó nữa, vì có trí nhớ nên ta phân tách được thân tâm mấy ngày nay. Chỉ vậy thôi. Nếu nhớ như vậy mãi mãi là ta đánh đổ cái gọi là Ta, chỉ thấy có Danh Sắc đó thôi. Đây là điều đầu tiên mà hành giả phải có trong Thiền Minh Sát. Muốn có Minh Sát Tuệ để giải thoát phiền não trong thân tâm này, ta phải biết cái nào là thân, cái nào là tâm, mới đi vào chi tiết được. Như quý vị thấy, đầu tiên chỉ có niệm thân là phồng xẹp thôi mà quý vị đã biết tới bản chất của nó (nóng lạnh, nặng nhẹ, chuyển động) và biết được thân thọ. Quý vị cũng biết được ý muốn của mình trước khi làm gì. Vì vậy, chúng ta luôn luôn đi trên con đường Bát Chánh Đạo. Và đi như vậy, ta không bị chìm đắm trong sông mê bể khổ này. Chúng sanh trên thế gian cứ mãi chìm đắm trong sanh tử luân hồi vì không thấy Danh Sắc và cứ chấp vào một cái Ngã. Bây giờ ta biết con người là Danh và Sắc. Rồi hơn đó nữa, ta phân tách thấy Danh Sắc luôn luôn ở trong trạng thái thay đổi. Cứ theo dõi vậy, thì ta sẽ thấy không một ngày nào, một giờ nào, một phút nào mà nó không thay đổi. Trạng thái thay đổi này làm cho ta khó chịu. Cái khó chịu này là phần của trí tuệ - trí tuệ chán nản. Chán nản thân vì nó có trạng thái thay đổi; chán nản tâm vì nó có trạng thái thay đổi. Mà ai cấu tạo thân tâm này? Ta không biết được. Nguyên nhân nó từ đâu? Ta không biết được. Cho dù từ trước đến nay, người ta nói là có Bề Trên tạo con người đi nữa, ta vẫn để qua một bên. Ai gieo cho mình? Mình không biết. Bây giờ, chúng ta chỉ thấy sự Khổ; rồi làm sao ra khỏi cái Khổ mà ta đang có đây. Để giải thoát sự khổ này, chỉ có phương pháp Đức Phật dạy mà chúng ta đang thực tập ở đây. Trong mười ngày, quý vị đã kinh nghiệm thế nào là trạng thái thay đổi của thân tâm, và thế nào là sự chán nản thân tâm này. Chúng ta được lợi ích gì trong 10 ngày nay? Lợi ích trong sự đau mỏi của thân hay là sự đau khổ của tâm? Có như vậy, chúng ta kinh nghiệm sự đau khổ của thân cũng như tâm. Hơn đó nữa, ta kinh nghiệm phần chán nản của thân tâm này, và lấy chán nản đó để ta trắc nghiệm. Tại sao vậy? Vì do chán nản đó, ta mới lần lần rời khỏi sự đau khổ. Tâm không chán nản là tâm luôn luôn ở trong bóng tối Tham Sân Si. Khi tâm chán nản, tự nhiên Tham Sân Si lần lần diệt mất. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, có lần Ngài hỏi một nhóm các thầy Tỳ-khưu: - Đêm qua, lúc nằm hay lúc ngồi, tâm các con để đâu? Vị Tỳ-khưu thứ nhất đáp: - Bạch Đức Thế Tôn, tâm con đêm qua ở trong thế giới này. Ý nói là vị Tỳ-khưu kinh nghiệm việc trong quá khứ và tương lai, nơi nào tâm cũng đều biết tới hết. Đức Thế Tôn im lặng. Vị Tỳ-khưu thứ nhì trả lời: - Bạch Đức Thế Tôn, tâm con đêm qua ở trong làng này. Từ đầu làng cho đến cuối làng, con đều biết hết. Đức Phật cũng im lặng. Vị thứ ba trả lời: - Bạch Đức Thế Tôn, tâm con đêm qua ở trong nhà này. Đức Phật cũng im lặng. Vị thứ tư trả lời: - Bạch Đức Thế Tôn, tâm con đêm qua ở trong thân này. Đức Thế Tôn tán dương vị Ty-khưu thứ tư: - Này con, thật đúng như vậy. Thân tâm luôn luôn nương nhờ nhau. Phải sống như vậy mới gọi là sống đúng chân lý, sống đúng theo chánh đạo. Bây giờ biết sống theo Đức Phật, ta xóa bỏ những cái sống trong dĩ vãng hay tương lai. Sống trong kinh nghiệm của quá khứ hay trong tưởng tượng của vị lai thì sẽ mãi mãi đau khổ. Nhưng, sống bên bờ giác ngộ, sống theo Đức Phật, thì có hương vị giải thoát như chúng ta đang thực tập đây. Quý vị còn thêm một ngày nữa. Một ngày vẫn còn nhiều thời gian, vì có 24 giờ đồng hồ. Ngồi một giờ là có 60 phút. Một phút có 60 giây mà một giây có biết bao sự sanh diệt của thân và tâm này. Như vậy thì chúng ta có cơ hội tu niệm được nhiều nữa trong ngày nay và đêm nay. Còn một ngày một đêm nữa, mong quý vị lấy thời giờ quý báu ấy mà cố gắng thực tập như vị Tỳ-khưu thứ tư. Quý vị cố gắng để kinh nghiệm bơi lội trong thân tâm này như vị thuyền trưởng biết bơi lội trong đại đương. Chúng ta sống với thân tâm mà không bị chết chìm với nó, nghĩa là luôn luôn sống thực với nó. Thời giáo lý đến đây xin tạm dứt. Trước khi dứt, Sư xin cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo hộ trì cho quý vị được sự an vui, tinh tấn tu hành mau đến nơi giải thoát. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 20th June 2025 - 11:53 AM |