![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 840 Gia nhập vào: 5-September 09 Từ: Sài gòn Thành viên thứ.: 4,720 ![]() |
LỜI NÓI ĐẦU Con chiên nhờ ăn cỏ mà được bộ lông mướt đẹp… ta hãy dùng lông nó, không cần phải để ý nó ăn cỏ nơi đâu? Cây cối sởn-sơ bông trái, ta hãy ăn trái ngắm hoa, đừng để ý hỏi ngọn suối nơi đâu đã thấm nhuần nuôi nấng nó. Đọc quyển sách này, các bạn cũng không cần phải để ý đến những lý thuyết tư tưởng nào đã giúp nó đơm hoa kết quả. Những học thuyết tư tưởng đã giúp nó sanh thành đối với tác giả nó, cũng như cỏ đối với chiên, nước đối với cây… đã biến hóa khí chất. Tìm nó, vô ích, vì nó không còn nguyên vẹn bản chất của nó nữa. Quyển sách này, viết cho riêng từng bạn. Bạn đừng lo nghĩ nó có ích lợi gì cho kẻ khác chăng ? Bạn hãy tự hỏi : nó có ích lợi cho bạn chút nào không ? Nếu có. Thế là đủ. Bằng không, bạn hãy dẹp nó lại một bên. Bạn đừng đứng bên phương diện xã hội mà quan sát sự ích lợi của nó. Hãy đứng theo phương diện cá nhân, là bạn sẽ ít thấy sự thất vọng hơn. Đọc quyển sách này, các bạn bớt lo cho đời một chút, để tâm lo cho mình một tí, có lẽ sẽ không uổng công đọc nó. Và nhứt là, phải hết sức thành thực với mình mới đặng. * * * Tìm cái lẽ Sống, cái sống thật của mình không phải cái sống sai lầm của bản ngã, là phận sự duy nhất của mỗi một người của chúng ta. Sống trong quan niệm lạc lầm của bản ngã, ta sống trong nô lệ, trong đau khổ. Sống trong Chân – Thể của ta, mới thật là Sống, sống trong Tự Do … Đường giải thoát, là con đường dẫn ta đi tìm cái lẽ sống chân thật của ta, là con đường duy nhất của những nhận chân đặng cái sống vô cùng đang ẩn núp nơi đáy lòng… Sài thành ngày 22 tháng 5 năm 1960 T.G NGUYỄN DUY CẦN “Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi di… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không…” TAGORE Chân lý cứng như Kim cương mà bở như Hoa đào I CHƯƠNG THỨ NHẤT SỐNG Người ta là con vật thông minh nhất trên đời: chuyện trên trời dưới đất, chuyện bên đông bên tây, chuyện xưa chuyện nay, chuyện ông này bà nọ, chuyện tư chuyện công… không việc nào là không tò mò xem xét đến. Ta khảo cổ luận kim, suốt đời cặm cụi tìm nghĩa lý từng chữ một của cổ nhân, cãi nhau vanh vách… Thật không có một việc gì thoát khỏi sự tò mò của ta. Thế nhưng, cái điều quan trọng nhất của đời ta, cái sống của ta đây, không được mấy ai để ý đến. Ôi! Kẻ nói câu: “người là con vật chí ngu”, không phải là không có lý do vậy. Trang tử nói : “Hạng ta gọi là thông tai, không phải là thông tai nghe rõ cái ngoài đâu, mà là thông tai nghe rõ nơi mình. Hạng ta gọi là sáng mắt không phải sáng mắt thấy cái ngoài mình đâu, mà là sáng mắt thấy cái nơi mình. Kẻ chẳng thấy mình mà thấy cái ngoài mình, chẳng được cái trong mình mà được cái ngoài mình, ấy là kẻ được cái được của người mà chẳng được cái được của mình, thích cái thích của người, mà chẳng thích cái thích của mình… ấy đều là hạng ngu si mê muội cả…” * * * SỐNG! Ai là người không sống? Vậy chớ còn thấy, còn nghe, còn ăn còn uống, còn ham muốn, còn cảm giác… là chết hay sao mà lại bảo… đi tìm cái sống? Hỏi thế là vì ta chưa để ý phân biệt sự “có – đây” và “có sống” là hai lẽ khác xa nhau. “Có đây”, là chỉ có tai, có mắt, có mũi cùng óc suy nghĩ, lòng cảm giác như ai, nhưng có tai mà không biết nghe, chỉ nghe theo cái nghe của người khác, nghe theo thành kiến; có mắt mà không biết xem, chỉ xem theo cái xem của kẻ khác; có mũi mà không biết thở, chỉ thở theo cái thở của kẻ khác; có óc mà không biết suy, chỉ suy theo cái suy của kẻ khác; có tâm mà không biết cảm; chỉ cảm theo cái cảm của kẻ khác… Thế thì, “có đây” không phải là luôn luôn “có sống”. Phần đông thiên hạ ngày nay, chỉ biết mình “có đây” là đủ, không quan tâm đến coi mình “có sống” hay “chưa có sống”. Sống, có hai nghĩa : Sống cái sống của mình và sống theo cái sống của kẻ khác. Sống theo mình là “có sống” Sống theo kẻ khác, chưa phải sống. * * * Nhưng, sống theo mình, người ta lại sống lầm theo cái không phải mình, mà là sống theo cái “ta” kết tinh của hoàn cảnh xã hội mà mình nhận lầm là Mình. Cái đó, tôi tạm gọi là cái “phi ngã”, nghĩa là cái Ngã ở ngoài ta, cái không phải Ta. Đó là chưa nói đến cái Bản Ngã mà nhà Phật thường gọi là Ngã chấp nghĩa là thấy ta là khác. “Phi Ngã”, không phải là Ta. Nó chỉ là cái sản phẩm của hoàn cảnh mà ta nhận lầm là Ta. Những cảm giác, tư tưởng, dục vọng của ta phần nhiều do mối kích động của giác quan đối với ngoại giới mà có. Thân thể, giác cảm, nhận thức, tư tưởng đến cả ý thức của mình nữa, hợp lại thành Phi Ngã. Phi Ngã chỉ là phản ánh trung thành của ngoại cảnh. Hoàn cảnh thế nào, ta như thế ấy, như bóng với hình. Nó là kết tinh của hoàn cảnh, xã hội, chế độ, luân lý, học thuyết, tôn giáo, dư luận, phong tục, sách vở… Cái “ta” ấy không phải là Ta mà là cái “ta xã hội” nơi ta. Sống theo mình, mà sống theo cái Phi Ngã của ta tức là sống theo kẻ khác, sống theo ngoại vật, cũng chưa phải là “sống” … II CHƯƠNG THỨ HAI ĐI TÌM CÁI SỐNG Những bảng giá trị của ngày nay, bất luận thuộc về giới nào (tôn giáo, triết học, luân lý, xã hội, văn hóa…) đều căn cứ trên quan niệm Nhị - nguyên chia phân cái Sống – Một làm hai phần rất phân biệt: nhĩ và ngã (ta và người), tâm và vật, thánh và phàm, tâm và trí, cá nhân và xã hội, động và tịnh, phúc và họa… Nhân sự phân chia ấy mới có nảy sanh ra những quan niệm sai lầm về sang hèn, vinh nhục, thị phi. Thực sự, những cặp đối đích ấy chỉ là một bề mặt bề trái của một sự Thật mà thôi: Động ở trong Tịnh mà ra, Tịnh nhân Động mà có. Vật nhờ Tâm mà thông, Tâm nhờ Vật mà hiện. Hai thứ đối địch ấy cũng đồng một gốc mà ra: Tuy hai mà là Một. Đó là chỗ mà Lão Tử bảo: “thủ lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh”. Không có Âm thì Dương không nơi nương tựa, mà không có Dương thì Âm không làm sao biến chuyển. Cũng như Yêu là điều kiện của Ghét, mà Ghét là do Yêu mà có. Người ta ở đời, không một sinh vật nào là không thọ của Trời Đất một cái Sống. Cái sống ấy cùng với Trời Đất là Một, một cái mầm toàn năng, toàn lực, toàn thiện, toàn mỹ. Phận sự của ta là phải trở về với cái Sống – Một ấy, để Sống cái “Sống Vô cùng” đồng với Trời Đất đang ẩn núp trong đáy lòng. Một hiền triết Hy lạp nói: “Nơi ta là một nguồn suối trong bất tuyệt, hãy đào sâu mãi sẽ gặp”. (Epictète). Phần đông, chỉ vì không biết trở về “nguồn Sống-Một” ấy của mình, nên không thể nhận thấy được chỗ toàn thiện của mình, mà chỉ thấy toàn là sản vật của hoàn cảnh xã hội mà thôi. Không nhận thấy được sự toàn thiện của mình mới có sanh cái lòng đèo bòng ham muốn cái toàn thiện ngoài mình, bấy giờ mới có lấy sự Phải Quấy của người làm cái Phải Quấy của mình; lấy cái Vinh Nhục của người làm cái Vinh Nhục của mình; lấy cái Lớn Nhỏ của người làm cái Lớn Nhỏ của mình. Đâu có biết rằng cái Phải của người này đâu còn là cái Phải đối với người kia; cái Quấy của người kia đâu còn là cái Quấy của người nọ. Không có cái Phải nào là cái Phải chung cho tất cả mọi người, mà cũng không có cái Quấy nào là cái Quấy chung cho tất cả mọi người được. Vạn vật dưới Trời, không vật nào tự nó là hữu dụng hay vô dụng cả. Những danh từ Phải Quấy, Tốt Xấu, Vinh Nhục, Lớn Nhỏ… chỉ có cái giá trị tương đối mà thôi. Muốn nói cho đúng hơn thì ta nên nói rằng: chỉ có những cái gì có lợi cho cái Sống của mình là Phải, là Tốt, là Vinh, là Lớn… trái lại đều là Quấy, là Xấu, là Nhục, là Nhỏ cả. Người ta sanh ra không phải là một vật Toàn Thiện ngay. Cái “Sống Vô Cùng” nơi ta, không khác nào cái “Sống Toàn Mãn” của một cây kia hàm chứa trong một hột giống. Trong hột giống, đã chứa sẵn cái mầm của tất cả cây sau này: lúc chỉ là một đọt xanh, rồi đến hồi đơm bông kết quả… phải trải qua không biết bao nhiêu giai đoạn mới phát huy được tất cả sức sống của mình. Phận sự của ta, nếu có thể gọi đó là phận sự, là phải thực hiện cái sống ấy đến chỗ chí thiện của nó. Có một cái gì vô cùng mãnh liệt thúc đẩy ta mà ta không làm gì từ chối hay trốn tránh được. Nên nhớ kỹ: tôi nói “đến chỗ chí thiện của mình” chứ không phải “đến chỗ chí thiện của kẻ khác”. Nếu là cây hường thì phải sống cái sống toàn thiện của cây hường mà không đèo bòng ham muốn cái toàn thiện của cây lan. Và trong đời, không có cái toàn thiện nào là cao trọng hơn cái toàn thiện nào cả. Đã là toàn thiện thì đều đồng như nhau cả. Nhận chân đặng cái lý này rồi, người ta sẽ không còn ai xem ai hơn mình cả và mình cũng không tự xem là hơn ai cả. Lão tử nói: “Ta không muốn ai trọng ta như ngọc ngà mà cũng không muốn ai khinh ta như sỏi đá”. Kẻ tự mình khinh mình thì làm gì tránh được kẻ khác khinh mình. Không tự khinh là tự biết chỗ cao trọng của mình và lo trau dồi phát huy cái sống của mình đến chỗ tận thiện của nó, không đèo bòng ham muốn cái tận thiện của kẻ khác. Còn trái lại, nếu mình chỉ thấy cái cao trọng của kẻ khác mà không thấy chỗ cao trọng của mình đó là tự mình, mình tạo ra người bóc lột mình rồi. Kẻ trên bóc lột người dưới, người dưới bóc lột người dưới nữa… và cứ cái đà ấy mà đi, chưa biết đến đâu là cùng. Toàn chỉ vì tất cả chúng ta đều bị tâm cảm tự ti và cái Sợ là đầu mối của biết bao nhiêu tao loạn. Kẻ bóc lột thì sợ bị bóc lột nên bóc lột thẳng tay; người bị bóc lột thì nhẫn nại chịu đựng để hy vọng một ngày gần đây bóc lột lại kẻ khác để trả thù. Vì thế mà đồng lòng cùng nhau lo bảo vệ những bảng giá trị sai lầm. Cuộc đời, rốt cuộc, chỉ là một trường cạnh tranh không ngớt “cá ăn kiến, kiến ăn cá”. Vấn đề nhân sinh không còn ý nghĩa gì nữa cả. Cái Văn minh lấy sự so đo hơn kém với cái ngoài mình làm tôn chỉ là “văn minh tiến bộ” mà loài người đang tranh nhau sùng bái. “Tiến bộ”, theo phần đông, có nghĩa là hơn người… Hơn về của cải, tước quyền, mưu mô, thủ đoạn, chứ không phải hơn về nhân cách. Người mà “tiến bộ” là người có nhiều của cải, địa vị cao, tôi tớ nhiều… Nước mà “tiến bộ” là nước có nhiều lúa gạo, bạc vàng, binh gia và thuộc địa… Mục đích của văn minh tiến bộ là “thành công”, là “đắc thắng”… Rốt lại, chỉ có kẻ nào lòng tham dục mạnh hơn tất cả là tiến bộ cao hơn hết và được thiên hạ tôn thờ, bất luận đã dùng thủ đoạn gian ngoan nào để đắc thắng. Trong cái xã hội tôn thờ “văn minh tiến bộ” thì những chữ nhân nghĩa toàn là giả dối cả. Kẻ mạnh hiếp yếu thì dùng nhân nghĩa bên lêu làm bình phong để che dấu giả tâm mình. Kẻ bị đè đầu cưỡi cổ thì kêu gào nhân nghĩa để được người ta thương hại mà nới tay… đợi một ngày kia quật khởi sẽ đè đầu cưỡi cổ lại. Tựu trung chỉ một trò tuồng trong đó chỉ lấy sự hơn kém nhau về thế lực bên ngoài làm mục tiêu tranh đấu. Thấy kẻ “hơn” mình mà quý trọng, đó là mối loạn đã gieo vào lòng người rồi. Trang Tử cũng có nói: “Nước dựng lên, cá kéo cả bầy lên bãi… Nước rút xuống, trở về sông biển không kịp, mắc cạn cả bầy trên vũng nước nhỏ. Bây giờ, chen lưng đấu cật, chum nhum xúm xít với nhau, kêu gọi sự hỗ trợ yêu thương nhau và gọi đó là Nhân. Sao không lo trở về vực sâu trước đi, để đến nước bị cạn mà phải đem Nhân Nghĩa giảng dạy nhau chi có ích gì?” Xã hội sở dĩ loạn là vì không ai biết trở về với cái sống thật của mình, mãi đèo bòng ham muốn cái ngoài mình, lấy sự “hơn người” làm tiến bộ để kích thích nhau, đến tàn sát nhau như bầy lang sói. Chừng ấy, dù có đem Nhân Nghĩa mà khuyên bảo nhau cũng bất quá là việc làm tạm bợ cho qua buổi thôi. Cái mầm loạn đã bắt đầu ở chỗ “quên mình” để “chạy theo người” của chúng ta. Hay nói một cách khác, cái mầm loạn là do mỗi người của chúng ta chưa ai biết sống cái sống của mình vậy. * * * Muốn tìm lại cái thuật Sống của mình phải làm thế nào ? Trước hết phải đem những bảng giá trị sai lầm của thời đại mà kiểm soát và phê bình sửa đổi lại. Nhưng cũng chưa đủ. Nếu cần phải hủy phá thì cũng phải có đủ cương quyết mà hủy phá nó, mặc dù làm thế có chạm vào quyền lợi ích kỷ của những kẻ thân yêu mình. * * * Sống, tức là chiến đấu. Chiến đấu với ngoại cảnh, với những gì có thể làm trở ngại cho đời sống tự do theo bản tánh của mình. Chiến đấu với nội tâm để tìm lại cái quân bình của Tâm Trí. Sống tức là tìm kiếm, suy xét cho ra thế nào là cái lẽ sống chân thật của ta, và thế nào là cái chân giá trị của sự vật bên mình. Vậy, bước đầu tiên trên con đường tìm cái sống của mình là phải luôn luôn hữu tâm, thật hữu tâm trong từng mảnh mún hành vi của mình hằng ngày, nghĩa là đừng sống vô tâm như bộ máy nữa. Ôi “thiên hạ đều biết tìm cái mà mình không biết mà chẳng ai biết tìm cái mà mình đã biết; đều biết chê cái điều mà mình cho là không phải, mà chẳng ai biết tìm cái mình đã cho là phải.” Đó là cái khôn của thiên hạ ngày nay. Nhưng đó chỉ là cái khôn vặt, chưa phải là cái thật khôn. Cái khôn ấy là cái khôn đeo đuổi theo cái ngoài mình, cái mình không biết, mà quên mất Mình, tức là cái mà mình đã biết… hay muốn nói cho đúng hơn, cái mà mình tưởng đã biết. -------------------- There is no such thing as a true belief - Không có cái gọi là niềm tin đúng thực.
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 840 Gia nhập vào: 5-September 09 Từ: Sài gòn Thành viên thứ.: 4,720 ![]() |
VII CHƯƠNG THỨ BẢY LẼ TRỜI “Người thợ tên Khánh làm một cái giá chuông xinh đẹp hoàn toàn đến đỗi thần kinh quỷ phục. Lỗ hầu đến xem, hỏi Khánh dùng pháp thuật gì mà làm đặng như thế? Khánh tâu: Tôi là một tên thợ, nào có thuật pháp nào đâu! Tuy vậy mà có. Thuật pháp tôi như vầy: khi tôi lãnh làm giá chuông đó, tôi tập chăm chỉ, thu hết cả sức tự trị của tôi, tôi không trông khéo, không sợ vụng nữa. Tập được như vậy trong bảy ngày, tôi quên mất tới bệ hạ, tới triều thần; tất cả quan năng của tôi đều chăm chú vào cái giá chuông. Bấy giờ, tôi biết rằng đến lúc khởi công. Tôi vào rừng xem hình trạng cây cối, hình trạng nào hoàn toàn hơn hết. Khi tôi thấu rành ý niệm ấy rồi, bấy giờ tôi mới để tay vào việc. Nhờ hiệp lại làm một cái thiên tánh của tôi với cái thiên tánh của cây mà cái giá chuông này mới có đủ tư chất làm cho người người đều khen nó”. ( Trang tử ) * * * Diệt cả tình dục của tư tâm, (nào là ham khen, sợ chê, ham khéo, sợ vụng…) để biểu lộ thiên tánh của mình rồi hòa hợp với thiên tánh của Lẽ Trời ở trong mọi sự vật đó là hành động hoàn toàn viên giác, thuận với thiên lý. Đại ý của bài ngụ ngôn trên đây là như thế. Trời là thế nào? “Lẽ Trời, không phải ngũ quan ta thính giác được. Chỉ có Tâm cảm được và Trí suy được mà thôi. Lẽ Trời, đối với hữu hình Vũ trụ cũng như cái hồn đối với cái xác thịt, không hiển lộ ra nhưng mà vẫn dịch sử không ngừng”. “…Trời đã là thế, thì hình như cũng không thể suy trắc được. Nhưng ta có thể lấy cái chỗ hiển hiện của lẽ ấy nơi vạn vật chung quanh ta mà suy, may ra có thấy đặng một vài bản tính của nó, như thế ta có thể lý hội đặng nó”… * * * Lẽ Trời, ta chỉ thấy đặng trong hai bản tính này: Cảm sinh và Dịch hóa. Có cảm hợp nhau mới có sanh ra sự vật. Dù là những vật hữu hình hay vô hình đều do hai lẽ ấy mà sanh ra. Nhờ cái tính ấy mà trong Vũ trụ mọi sự vật mới ràng buộc lấy nhau mà tồn tại, mà sinh hóa bất tận… Đó là cảm sinh. Còn “dịch” là không đứng yên một chỗ, không nhất định trong một bản sắc nào, không câu chấp trong một cách thức nào, là nhờ có “dịch” mới biến đổi luôn luôn. Sở dĩ có dịch hóa là nhờ có cảm sinh. Có cảm thì cái nọ mới dan díu với cái kia, cho nên phải dịch hóa để mà cảm sinh không dừng. Hai bản tánh ấy, tương đương và không bao giờ rời nhau. Vạn sự vạn vật có cảm nhau, có thay đổi luôn mới có thể sinh tồn được trong vũ trụ muôn loài, nếu biết cứ theo hai cái tính ấy mà sinh hoạt sẽ luôn luôn vô sự. Con người cũng một thể. Nếu biết lấy Tâm mà “cảm”, lấy Trí mà “dịch” thì không bao giờ đau khổ. * * * Đời người là hình ảnh của Tâm và Trí. Vậy muốn cho hợp lẽ Trời thì phải biết dưỡng Tâm và dưỡng Trí. Kẻ nào chỉ có Tâm hay cảm mà không có Trí để biết áp dụng cho hợp thời thuận cảnh, thì hành động sẽ nguy hại cho đời không nhỏ. Đừng làm như “anh nông phu nhớm gốc lúa” hay “vua nước Lỗ nuôi chim” đã bàn đến trước đây… Có Tâm mà không Trí, cũng như có Trí mà không Tâm, sẽ không làm gì nên việc cả. Cái sở đắc do Tâm và Trí hỗn hợp mà đúc nên tạo cho ta một hành động hoàn toàn tận thiện đồng với hành động của lẽ Trời. * * * Chân tính như nước, Tâm và Trí như dưỡng khí và khinh khí. Kẻ nào đã sống đặng trong cái sống viên mãn của chân tính rồi, sẽ không còn thấy có Tâm, cũng không còn thấy có Trí nữa. Hành động đã thi vi ra, trong đã có hàm Tâm và Trí một cách rất đầy đủ. * * * Sống đặng trong cái Sống Một của ta đồng với cái Sống Một của Lẽ Trời, chẳng làm cho ta mất cái quan niệm thiên hình vạn trạng của Vũ trụ, trái lại, ta kiêm được vừa cái quan niệm thiên hình vạn trạng của vạn vật. Kẻ đã giải thoát, chẳng những thấy vạn vật là Một với mình, mà họ lại thấy đặng cái chỗ yếu lý vì sao vạn vật khác nhau nghĩa là cái chỗ sai biệt giữa mọi sự vật trong đời một cách thâm viễn. Thấy đặng, vừa cái chỗ sai thù vạn biệt, vừa cái lẽ duy nhất, hai cái lẽ cực đoan của Chân lý mà tinh thần được minh mẫn trung lập giữa hai quan niệm ấy luôn, đó là triệu chứng rằng sự giải thoát của ta đã cận rồi vậy. Làm được hai cử chỉ ấy là nhờ hai bản năng riêng của ta là Lý và Tình hòa hợp nhau là Một nơi Trí và Tâm vậy. VIII CHƯƠNG THỨ TÁM “Muốn có Phải mà không có Quấy, muốn có trị mà không có loạn là chưa rõ cái Lý của Trời Đất, ấy là mơ tưởng Trời mà không có Đất, âm mà không có dương, hai phương diện đồng có của mỗi vật”. Muốn phân biệt hai lẽ tương đối ấy như hai vật khác nhau, thì nếu không phải là ngu thì là điên. Trang tử THU THỦY. VẤN ĐỀ THIỆN ÁC Ta thường quan niệm sự đời theo Nhị nguyên tức là quan niệm phân chia sự vật ra làm hai phần biệt lập: tâm và vật, chủ quan và khách quan, phải và quấy, lành và dữ, tốt và xấu, lợi và hại, tịnh và động. Dù muốn dù không, nhận thức thông thường của con người là nhận thức nhị nguyên. Hai lẽ tương đối ấy luôn luôn tranh đấu nhau và tìm cách tiêu diệt lẫn nhau. Phải là phải mà quấy là quấy, tịnh là tịnh mà động là động; vật là vật mà tâm là tâm,… Người ta không thể hiểu rằng phải và quấy, tĩnh và động, tâm và vật có thể sống chung nhau, có thể dung hòa nhau mà tồn tại. Vì nhận lầm như thế nên người ta mới dám tin tưởng rằng: “đời đục cả, một mình ta trong; đời say cả, một mình ta tỉnh”. Và cũng vì tin tưởng như thế mới có bày ra những lý thuyết “nhất nguyên” về duy tâm hay duy vật. Bởi vậy người ta mới nghĩ đến cách đem cái Phải mà trừ cái Quấy, đem cái Thiện mà trừ cái Ác. Và mỗi một người của chúng ta không thể tư tưởng được nếu không chống đối lại với một cái gì: kẻ nào nghĩ như ta là bạn của ta, kẻ nào nghĩ khác ta là kẻ thù của ta. Tư tưởng theo Nhị Nguyên rốt cục lại đi về Nhất Nguyên, và chủ nghĩa của họ luôn luôn có chữ “duy” đứng đầu, duy tâm hay duy vật, tư tưởng của họ là tư tưởng chỉ có một chiều mà thôi, một thứ tư tưởng độc đoán và độc tài, rất sai lầm và nguy hiểm. Sư Tăng Xán nói: “Đem cái điều mình ưa thích để chống lại cái điều mình không ưa thích, đấy là căn bịnh trầm trọng nhất của tâm hồn”. Và chính đó cũng là thông bệnh của phần đông con người hiện thời vậy. * * * Theo Tam nguyên, thì tạo vật có ra và sinh tồn đều do hai lực lượng sau đây: một lực lượng tích cực, một lực lượng tiêu cực và một lực lượng thứ ba chi phối hai lực lượng kia, bắt chúng phải điều hòa để mà sinh tồn. Luật Tam nguyên có thể tượng trưng bằng một hình tam giác như sau đây : Nguyên lý tối cao dung hòa và chi phối A Nguyên lý nguyên lý tích cực tiêu cực (+) B C (–) Quan niệm Tam nguyên này cũng thấy xuất hiện trong những đạo học cổ truyền Á Đông, như bên Ai cập thì Tam nguyên được tượng trưng bằng vị thần Shou (Khí), vị thần Tefnet (hư không) và vị thần Atoum tối cao và chỉ huy điều hòa hai vị thần kia. Trong xứ Sumer thì Tam nguyên được tượng trưng bằng vị thần Anou, vị vua cõi Trời; Enlil, vua cõi Đất, và Ea, vị chúa tể chi phối cả hai vị thần kia. Bên Batư thì Tam nguyên cũng được tượng trưng bằng Ormuzd vị thần Thiện; Aribmane, vị thần ác, và Mithra vị thần thứ ba chỉ huy và dung hòa đôi bên Thiện Ác. Ấn độ cũng có Tam nguyên tượng trưng bằng vị thần Vishnou, vị thần phù hộ giữ gìn vạn vật; Shiva, vị thần tàn phá và tiêu diệt, và trên hết là Brahma, vị thần chúa tể chỉ huy hai vị kia. Nhưng trong tất cả các hệ thống tư tưởng Đông phương không có đâu biểu diễn rõ ràng cái ý niệm về Tam nguyên bằng cái đồ Thái cực. Trong đồ Thái Cực có hai phần bằng nhau : một phần Âm (mầu đen) và một phần Dương (màu trắng) bao trong một cái vòng tròn gọi là Đạo (nguyên lý điều hòa và chỉ huy hai lực lượng mâu thuẫn kia). Trong phần Dương lại có ẩn một điểm Âm, phần Âm có ẩn một điểm Dương, tức là trong Trời đất không có một yếu tố nào hoàn toàn thuộc Dương hay hoàn toàn thuộc Âm cả. Cũng chính do nguyên lý “âm trung chi dương, dương trung chi âm” mà Lão tử mới nói : “Trong Phúc, Họa thường mọc sẵn; Trong Họa, Phúc thường núp sẵn”. Cặp tương đối mâu thuẫn nguyên thủy là Âm Dương ám chỉ tất cả mọi lẽ tương đối trên đời: ngày đêm, sáng tối, nóng lạnh, động tịnh, phải quấy, lành dữ, sanh tử, phúc họa… Hai nguyên lý mâu thuẫn Âm Dương có giá trị tương đồng, không cái nào phụ thuộc cái nào cả, tự nó không có nguyên lý nào cần thiết hơn nguyên lý nào, sự cộng tác chặt chẽ và điều hòa giữa hai lực lượng nầy rất cần thiết để phát sinh bất kì là hiện tượng nào trong Vũ Trụ, dù nhỏ đến đâu. Trên hai lẽ Âm Dương ấy, có một cái gì gọi là lực lượng thứ ba nắm giềng mối của hai bên, bắt buộc nó không thể rời nhau. Nguyên lý tối cao hợp nhất, điều hòa và chi phối hai lực lượng kia gọi nó là Đạo. Nguyên lý thứ ba này mà vắng mặt thì sự vật rời rã, tiêu tan tất cả. Con người là một “tiểu càn khôn” cấu tạo như “đại càn khôn”. Cái thực thể con người là sản vật của hai nguyên lý Âm Dương mâu thuẫn ấy, thuộc về giới hữu hình; còn nguyên lý thứ ba thì thiêng liêng vô hình và ở ngoài thời gian. Muốn thực hiện được cái Đạo nơi ta, thì điều kiện đầu tiên là phải từ bỏ một cách dứt khoát óc phân biệt Thiện Ác. Người đã đạt đến tâm trạng tự do tuyệt đối là người đã vượt lên trên quan nệm nhị nguyên, chẳng những không còn bị nô lệ trong vòng Tội Ác mà cũng đã không còn nô lệ óc phân chia Thiện Ác, nghĩa là không còn nô lệ bất cứ bảng giá trị nào của cặp mâu thuẫn Thiện Ác nữa. -------------------- There is no such thing as a true belief - Không có cái gọi là niềm tin đúng thực.
|
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 27th July 2025 - 03:15 AM |