![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 840 Gia nhập vào: 5-September 09 Từ: Sài gòn Thành viên thứ.: 4,720 ![]() |
LỜI NÓI ĐẦU Con chiên nhờ ăn cỏ mà được bộ lông mướt đẹp… ta hãy dùng lông nó, không cần phải để ý nó ăn cỏ nơi đâu? Cây cối sởn-sơ bông trái, ta hãy ăn trái ngắm hoa, đừng để ý hỏi ngọn suối nơi đâu đã thấm nhuần nuôi nấng nó. Đọc quyển sách này, các bạn cũng không cần phải để ý đến những lý thuyết tư tưởng nào đã giúp nó đơm hoa kết quả. Những học thuyết tư tưởng đã giúp nó sanh thành đối với tác giả nó, cũng như cỏ đối với chiên, nước đối với cây… đã biến hóa khí chất. Tìm nó, vô ích, vì nó không còn nguyên vẹn bản chất của nó nữa. Quyển sách này, viết cho riêng từng bạn. Bạn đừng lo nghĩ nó có ích lợi gì cho kẻ khác chăng ? Bạn hãy tự hỏi : nó có ích lợi cho bạn chút nào không ? Nếu có. Thế là đủ. Bằng không, bạn hãy dẹp nó lại một bên. Bạn đừng đứng bên phương diện xã hội mà quan sát sự ích lợi của nó. Hãy đứng theo phương diện cá nhân, là bạn sẽ ít thấy sự thất vọng hơn. Đọc quyển sách này, các bạn bớt lo cho đời một chút, để tâm lo cho mình một tí, có lẽ sẽ không uổng công đọc nó. Và nhứt là, phải hết sức thành thực với mình mới đặng. * * * Tìm cái lẽ Sống, cái sống thật của mình không phải cái sống sai lầm của bản ngã, là phận sự duy nhất của mỗi một người của chúng ta. Sống trong quan niệm lạc lầm của bản ngã, ta sống trong nô lệ, trong đau khổ. Sống trong Chân – Thể của ta, mới thật là Sống, sống trong Tự Do … Đường giải thoát, là con đường dẫn ta đi tìm cái lẽ sống chân thật của ta, là con đường duy nhất của những nhận chân đặng cái sống vô cùng đang ẩn núp nơi đáy lòng… Sài thành ngày 22 tháng 5 năm 1960 T.G NGUYỄN DUY CẦN “Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi di… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không…” TAGORE Chân lý cứng như Kim cương mà bở như Hoa đào I CHƯƠNG THỨ NHẤT SỐNG Người ta là con vật thông minh nhất trên đời: chuyện trên trời dưới đất, chuyện bên đông bên tây, chuyện xưa chuyện nay, chuyện ông này bà nọ, chuyện tư chuyện công… không việc nào là không tò mò xem xét đến. Ta khảo cổ luận kim, suốt đời cặm cụi tìm nghĩa lý từng chữ một của cổ nhân, cãi nhau vanh vách… Thật không có một việc gì thoát khỏi sự tò mò của ta. Thế nhưng, cái điều quan trọng nhất của đời ta, cái sống của ta đây, không được mấy ai để ý đến. Ôi! Kẻ nói câu: “người là con vật chí ngu”, không phải là không có lý do vậy. Trang tử nói : “Hạng ta gọi là thông tai, không phải là thông tai nghe rõ cái ngoài đâu, mà là thông tai nghe rõ nơi mình. Hạng ta gọi là sáng mắt không phải sáng mắt thấy cái ngoài mình đâu, mà là sáng mắt thấy cái nơi mình. Kẻ chẳng thấy mình mà thấy cái ngoài mình, chẳng được cái trong mình mà được cái ngoài mình, ấy là kẻ được cái được của người mà chẳng được cái được của mình, thích cái thích của người, mà chẳng thích cái thích của mình… ấy đều là hạng ngu si mê muội cả…” * * * SỐNG! Ai là người không sống? Vậy chớ còn thấy, còn nghe, còn ăn còn uống, còn ham muốn, còn cảm giác… là chết hay sao mà lại bảo… đi tìm cái sống? Hỏi thế là vì ta chưa để ý phân biệt sự “có – đây” và “có sống” là hai lẽ khác xa nhau. “Có đây”, là chỉ có tai, có mắt, có mũi cùng óc suy nghĩ, lòng cảm giác như ai, nhưng có tai mà không biết nghe, chỉ nghe theo cái nghe của người khác, nghe theo thành kiến; có mắt mà không biết xem, chỉ xem theo cái xem của kẻ khác; có mũi mà không biết thở, chỉ thở theo cái thở của kẻ khác; có óc mà không biết suy, chỉ suy theo cái suy của kẻ khác; có tâm mà không biết cảm; chỉ cảm theo cái cảm của kẻ khác… Thế thì, “có đây” không phải là luôn luôn “có sống”. Phần đông thiên hạ ngày nay, chỉ biết mình “có đây” là đủ, không quan tâm đến coi mình “có sống” hay “chưa có sống”. Sống, có hai nghĩa : Sống cái sống của mình và sống theo cái sống của kẻ khác. Sống theo mình là “có sống” Sống theo kẻ khác, chưa phải sống. * * * Nhưng, sống theo mình, người ta lại sống lầm theo cái không phải mình, mà là sống theo cái “ta” kết tinh của hoàn cảnh xã hội mà mình nhận lầm là Mình. Cái đó, tôi tạm gọi là cái “phi ngã”, nghĩa là cái Ngã ở ngoài ta, cái không phải Ta. Đó là chưa nói đến cái Bản Ngã mà nhà Phật thường gọi là Ngã chấp nghĩa là thấy ta là khác. “Phi Ngã”, không phải là Ta. Nó chỉ là cái sản phẩm của hoàn cảnh mà ta nhận lầm là Ta. Những cảm giác, tư tưởng, dục vọng của ta phần nhiều do mối kích động của giác quan đối với ngoại giới mà có. Thân thể, giác cảm, nhận thức, tư tưởng đến cả ý thức của mình nữa, hợp lại thành Phi Ngã. Phi Ngã chỉ là phản ánh trung thành của ngoại cảnh. Hoàn cảnh thế nào, ta như thế ấy, như bóng với hình. Nó là kết tinh của hoàn cảnh, xã hội, chế độ, luân lý, học thuyết, tôn giáo, dư luận, phong tục, sách vở… Cái “ta” ấy không phải là Ta mà là cái “ta xã hội” nơi ta. Sống theo mình, mà sống theo cái Phi Ngã của ta tức là sống theo kẻ khác, sống theo ngoại vật, cũng chưa phải là “sống” … II CHƯƠNG THỨ HAI ĐI TÌM CÁI SỐNG Những bảng giá trị của ngày nay, bất luận thuộc về giới nào (tôn giáo, triết học, luân lý, xã hội, văn hóa…) đều căn cứ trên quan niệm Nhị - nguyên chia phân cái Sống – Một làm hai phần rất phân biệt: nhĩ và ngã (ta và người), tâm và vật, thánh và phàm, tâm và trí, cá nhân và xã hội, động và tịnh, phúc và họa… Nhân sự phân chia ấy mới có nảy sanh ra những quan niệm sai lầm về sang hèn, vinh nhục, thị phi. Thực sự, những cặp đối đích ấy chỉ là một bề mặt bề trái của một sự Thật mà thôi: Động ở trong Tịnh mà ra, Tịnh nhân Động mà có. Vật nhờ Tâm mà thông, Tâm nhờ Vật mà hiện. Hai thứ đối địch ấy cũng đồng một gốc mà ra: Tuy hai mà là Một. Đó là chỗ mà Lão Tử bảo: “thủ lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh”. Không có Âm thì Dương không nơi nương tựa, mà không có Dương thì Âm không làm sao biến chuyển. Cũng như Yêu là điều kiện của Ghét, mà Ghét là do Yêu mà có. Người ta ở đời, không một sinh vật nào là không thọ của Trời Đất một cái Sống. Cái sống ấy cùng với Trời Đất là Một, một cái mầm toàn năng, toàn lực, toàn thiện, toàn mỹ. Phận sự của ta là phải trở về với cái Sống – Một ấy, để Sống cái “Sống Vô cùng” đồng với Trời Đất đang ẩn núp trong đáy lòng. Một hiền triết Hy lạp nói: “Nơi ta là một nguồn suối trong bất tuyệt, hãy đào sâu mãi sẽ gặp”. (Epictète). Phần đông, chỉ vì không biết trở về “nguồn Sống-Một” ấy của mình, nên không thể nhận thấy được chỗ toàn thiện của mình, mà chỉ thấy toàn là sản vật của hoàn cảnh xã hội mà thôi. Không nhận thấy được sự toàn thiện của mình mới có sanh cái lòng đèo bòng ham muốn cái toàn thiện ngoài mình, bấy giờ mới có lấy sự Phải Quấy của người làm cái Phải Quấy của mình; lấy cái Vinh Nhục của người làm cái Vinh Nhục của mình; lấy cái Lớn Nhỏ của người làm cái Lớn Nhỏ của mình. Đâu có biết rằng cái Phải của người này đâu còn là cái Phải đối với người kia; cái Quấy của người kia đâu còn là cái Quấy của người nọ. Không có cái Phải nào là cái Phải chung cho tất cả mọi người, mà cũng không có cái Quấy nào là cái Quấy chung cho tất cả mọi người được. Vạn vật dưới Trời, không vật nào tự nó là hữu dụng hay vô dụng cả. Những danh từ Phải Quấy, Tốt Xấu, Vinh Nhục, Lớn Nhỏ… chỉ có cái giá trị tương đối mà thôi. Muốn nói cho đúng hơn thì ta nên nói rằng: chỉ có những cái gì có lợi cho cái Sống của mình là Phải, là Tốt, là Vinh, là Lớn… trái lại đều là Quấy, là Xấu, là Nhục, là Nhỏ cả. Người ta sanh ra không phải là một vật Toàn Thiện ngay. Cái “Sống Vô Cùng” nơi ta, không khác nào cái “Sống Toàn Mãn” của một cây kia hàm chứa trong một hột giống. Trong hột giống, đã chứa sẵn cái mầm của tất cả cây sau này: lúc chỉ là một đọt xanh, rồi đến hồi đơm bông kết quả… phải trải qua không biết bao nhiêu giai đoạn mới phát huy được tất cả sức sống của mình. Phận sự của ta, nếu có thể gọi đó là phận sự, là phải thực hiện cái sống ấy đến chỗ chí thiện của nó. Có một cái gì vô cùng mãnh liệt thúc đẩy ta mà ta không làm gì từ chối hay trốn tránh được. Nên nhớ kỹ: tôi nói “đến chỗ chí thiện của mình” chứ không phải “đến chỗ chí thiện của kẻ khác”. Nếu là cây hường thì phải sống cái sống toàn thiện của cây hường mà không đèo bòng ham muốn cái toàn thiện của cây lan. Và trong đời, không có cái toàn thiện nào là cao trọng hơn cái toàn thiện nào cả. Đã là toàn thiện thì đều đồng như nhau cả. Nhận chân đặng cái lý này rồi, người ta sẽ không còn ai xem ai hơn mình cả và mình cũng không tự xem là hơn ai cả. Lão tử nói: “Ta không muốn ai trọng ta như ngọc ngà mà cũng không muốn ai khinh ta như sỏi đá”. Kẻ tự mình khinh mình thì làm gì tránh được kẻ khác khinh mình. Không tự khinh là tự biết chỗ cao trọng của mình và lo trau dồi phát huy cái sống của mình đến chỗ tận thiện của nó, không đèo bòng ham muốn cái tận thiện của kẻ khác. Còn trái lại, nếu mình chỉ thấy cái cao trọng của kẻ khác mà không thấy chỗ cao trọng của mình đó là tự mình, mình tạo ra người bóc lột mình rồi. Kẻ trên bóc lột người dưới, người dưới bóc lột người dưới nữa… và cứ cái đà ấy mà đi, chưa biết đến đâu là cùng. Toàn chỉ vì tất cả chúng ta đều bị tâm cảm tự ti và cái Sợ là đầu mối của biết bao nhiêu tao loạn. Kẻ bóc lột thì sợ bị bóc lột nên bóc lột thẳng tay; người bị bóc lột thì nhẫn nại chịu đựng để hy vọng một ngày gần đây bóc lột lại kẻ khác để trả thù. Vì thế mà đồng lòng cùng nhau lo bảo vệ những bảng giá trị sai lầm. Cuộc đời, rốt cuộc, chỉ là một trường cạnh tranh không ngớt “cá ăn kiến, kiến ăn cá”. Vấn đề nhân sinh không còn ý nghĩa gì nữa cả. Cái Văn minh lấy sự so đo hơn kém với cái ngoài mình làm tôn chỉ là “văn minh tiến bộ” mà loài người đang tranh nhau sùng bái. “Tiến bộ”, theo phần đông, có nghĩa là hơn người… Hơn về của cải, tước quyền, mưu mô, thủ đoạn, chứ không phải hơn về nhân cách. Người mà “tiến bộ” là người có nhiều của cải, địa vị cao, tôi tớ nhiều… Nước mà “tiến bộ” là nước có nhiều lúa gạo, bạc vàng, binh gia và thuộc địa… Mục đích của văn minh tiến bộ là “thành công”, là “đắc thắng”… Rốt lại, chỉ có kẻ nào lòng tham dục mạnh hơn tất cả là tiến bộ cao hơn hết và được thiên hạ tôn thờ, bất luận đã dùng thủ đoạn gian ngoan nào để đắc thắng. Trong cái xã hội tôn thờ “văn minh tiến bộ” thì những chữ nhân nghĩa toàn là giả dối cả. Kẻ mạnh hiếp yếu thì dùng nhân nghĩa bên lêu làm bình phong để che dấu giả tâm mình. Kẻ bị đè đầu cưỡi cổ thì kêu gào nhân nghĩa để được người ta thương hại mà nới tay… đợi một ngày kia quật khởi sẽ đè đầu cưỡi cổ lại. Tựu trung chỉ một trò tuồng trong đó chỉ lấy sự hơn kém nhau về thế lực bên ngoài làm mục tiêu tranh đấu. Thấy kẻ “hơn” mình mà quý trọng, đó là mối loạn đã gieo vào lòng người rồi. Trang Tử cũng có nói: “Nước dựng lên, cá kéo cả bầy lên bãi… Nước rút xuống, trở về sông biển không kịp, mắc cạn cả bầy trên vũng nước nhỏ. Bây giờ, chen lưng đấu cật, chum nhum xúm xít với nhau, kêu gọi sự hỗ trợ yêu thương nhau và gọi đó là Nhân. Sao không lo trở về vực sâu trước đi, để đến nước bị cạn mà phải đem Nhân Nghĩa giảng dạy nhau chi có ích gì?” Xã hội sở dĩ loạn là vì không ai biết trở về với cái sống thật của mình, mãi đèo bòng ham muốn cái ngoài mình, lấy sự “hơn người” làm tiến bộ để kích thích nhau, đến tàn sát nhau như bầy lang sói. Chừng ấy, dù có đem Nhân Nghĩa mà khuyên bảo nhau cũng bất quá là việc làm tạm bợ cho qua buổi thôi. Cái mầm loạn đã bắt đầu ở chỗ “quên mình” để “chạy theo người” của chúng ta. Hay nói một cách khác, cái mầm loạn là do mỗi người của chúng ta chưa ai biết sống cái sống của mình vậy. * * * Muốn tìm lại cái thuật Sống của mình phải làm thế nào ? Trước hết phải đem những bảng giá trị sai lầm của thời đại mà kiểm soát và phê bình sửa đổi lại. Nhưng cũng chưa đủ. Nếu cần phải hủy phá thì cũng phải có đủ cương quyết mà hủy phá nó, mặc dù làm thế có chạm vào quyền lợi ích kỷ của những kẻ thân yêu mình. * * * Sống, tức là chiến đấu. Chiến đấu với ngoại cảnh, với những gì có thể làm trở ngại cho đời sống tự do theo bản tánh của mình. Chiến đấu với nội tâm để tìm lại cái quân bình của Tâm Trí. Sống tức là tìm kiếm, suy xét cho ra thế nào là cái lẽ sống chân thật của ta, và thế nào là cái chân giá trị của sự vật bên mình. Vậy, bước đầu tiên trên con đường tìm cái sống của mình là phải luôn luôn hữu tâm, thật hữu tâm trong từng mảnh mún hành vi của mình hằng ngày, nghĩa là đừng sống vô tâm như bộ máy nữa. Ôi “thiên hạ đều biết tìm cái mà mình không biết mà chẳng ai biết tìm cái mà mình đã biết; đều biết chê cái điều mà mình cho là không phải, mà chẳng ai biết tìm cái mình đã cho là phải.” Đó là cái khôn của thiên hạ ngày nay. Nhưng đó chỉ là cái khôn vặt, chưa phải là cái thật khôn. Cái khôn ấy là cái khôn đeo đuổi theo cái ngoài mình, cái mình không biết, mà quên mất Mình, tức là cái mà mình đã biết… hay muốn nói cho đúng hơn, cái mà mình tưởng đã biết. -------------------- There is no such thing as a true belief - Không có cái gọi là niềm tin đúng thực.
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 840 Gia nhập vào: 5-September 09 Từ: Sài gòn Thành viên thứ.: 4,720 ![]() |
IX CHƯƠNG THỨ CHÍN ĐẠI GIÁC và TIỂU GIÁC Thường thường người ta hay quan niệm: Hễ mặt là Phàm thì trái là Thánh. Hiểu thế tức là hiểu biết sai lầm, cái đó gọi là Tiểu giác. Sống được trong cái Sống Một của mình rồi, tức là đã thực hiện được sự điều hòa của cặp tương đối nơi lòng mình. Như ta đã thấy, cái mà làm cho cặp tương đối bao giờ cũng giữ được mực “trung”, cái đó gọi là Đạo. Phải Quấy cũng như Tốt Xấu, Lành Dữ, Lợi Hại… cặp mâu thuẫn ấy bao giờ cũng nằm sẵn trong mọi sự mọi vật. Không có sự vật nào thuần Tốt hay thuần Xấu, thuần Phải hay thuần Quấy, cũng như không có vật nào thuần Âm hay thuần Dương. Sở dĩ được gọi là Âm là tại phần Âm lấn phần Dương, được gọi là Dương là tại phần Dương lấn phần Âm. Thực ra không có một sự vật gì là thuần chất cả. Nếu sự lấn ép của một đối phương mà lên đến cực độ, liền bị phản biến tức khắc, tức là Dương cực sinh Âm, Âm cực sinh Dương. Giữa hai lực lượng mâu thuẫn ấy bao giờ cũng có “Một Cái Gì” chủ trương, không cho hai lẽ ấy ly khai với nhau và bó buộc nó phải trở về vị trí điều hòa. Cái Đó, tuy không thể thấy đặng, nhưng bao giờ ta cũng cảm thấy nó luôn luôn hiển hiện trong các cuộc thiên biến của sự vật. Cái Đó, cái nguyên lý độc nhất vô nhị, là cả một cái huyền diệu trong những huyền diệu trong Vũ Trụ. Bất kỳ ta thấy hiện ra một cặp mâu thuẫn nào, phải để ý ngay đến cái lẽ huyền diệu ấy, tức là cái chỗ quan hệ giữa cặp mâu thuẫn đó. Cái gì làm cho lực lượng đối phương trong cặp mâu thuẫn không được vượt quá cái chừng của nó? Cái gì bắt buộc sự vật không được đi đến chỗ thái quá của nó? Cái gì hễ dư thì làm cho bớt đi, thiếu thì bù vào? Cứ bình tĩnh mà quan sát sự vật trên đời, sẽ thấy rõ cái luật quân bình ấy. Đối với phần đông, hễ không Thiện là Ác, không Ác là Thiện, thật không gì thô sơ giản ước bằng! Trong đời không có một sự gì vật gì có thể xem là toàn Thiện hay toàn Ác. Thiện mà đi quá cái mực Trung của nó cũng thành ra Ác, mà Ác đi quá cái mực Trung của nó cũng có khi là một sự Thiện. Có người cắt nghĩa chữ Trung nầy bằng chữ Thời. Hễ đúng Thời thì hay, sái Thời thì dở. Bàn về Thiện Ác, Tốt Xấu, Phải Quấy mà không biết nắm giữ cái cốt của nó ở mực Trung là đặt sai vấn đề, không làm sao giải quyết được. Cố chấp trong một cái Thiện, một cái Phải có khi là một việc làm hết sức nguy hiểm. Nắm cái cốt của Thiện Ác, không phải là “đi hàng hai” như phần đông đã hiểu và vì vậy mới có người dám gán cho cái đạo Trung dung của Khổng tử là cái “ổ chứa gian tà”. Đạo đức cao nhất là đến được cái đạo Trung. Nơi “đó” không còn thấy chi là Phải Quấy, Thiện Ác nữa. Ở “đó” người ta chỉ còn thấy có cái Đạo, tức là cái cốt của cái đòn cân Thiện Ác của Lợi Hại, không thái quá, không bất cập. Phần đông người trong thiên hạ hay lấy cái Thiện trừ cái Ác, lấy cái Phải trừ cái Quấy… Như thế, người ta chỉ loay quay trong cái vòng Thiện Ác Phải Quấy, người ta chỉ lo phản động với cái mà mình cho là sai lầm bằng sự phản động thôi. Phản động với một sự lầm để tìm sự thật, là sai. Lấy cái Phải trừ cái Quấy cũng không đúng với Chân Lý. Sở dĩ gọi là Quấy vì nó đã bị mất đi cái đạo Trung của nó, nghĩa là hoặc đã phạm vào sự thái quá, hoặc sa vào lỗi bất cập. Bởi vậy, họ chỉ lo tìm chỗ thái quá hay bất cập của cái mà ta gọi là Quấy đó, để tìm cách lập lại cái quân bình, cái điều hòa của nó. Liền khi đó, cái mà ta gọi là Quấy đã hết Quấy, mà Phải cũng hết Phải lập tức. Nói cho đúng, không có cái gì là Thiện, cái gì là Ác, cái gì là Phải, cái gì là Quấy. Thiện, thực ra, là cái gì đã giữ được đạo Trung; Ác là cái gì đã mất đạo Trung. Bởi vậy, quyển sách triết học cao nhất của Á Đông là Dịch kinh không bao giờ bàn đến Phải Quấy Thiện Ác, mà chỉ nói ròng đến hai chữ Lợi Hại mà thôi. * * * Tóm lại, hiểu biết không phải là phản động. Phản động với một cái lầm vẫn là lầm. Triệt để theo cái Phải để trừ cái Quấy, theo cái Thiện để trừ cái Ác đều là sai lầm cả. Trong cái Thiện bao giờ cũng có chữa ngầm cái Ác, trong cái Phải bao giờ cũng có chứa ngầm cái Quấy. Trang tử cho rằng: “…muốn có Phải mà không có Quấy, có Nên mà không có Hư …là mơ Trời mà không có Đất, mơ Dương mà không có Âm… thật là mê loạn thái quá”. Hành động của bậc Đại giác bao giờ cũng thể theo hành động của Đạo, tức là hễ “cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi”, chứ không bao giờ thiên về một bảng giá trị nào, cũng không cho cái lẽ Phải nào là tuyệt đối cả. Liệt tử ở trong thiên Trọng Ni có câu chuyện ngụ ngôn này rất tiêu biểu cái ý nghĩa nói trên: “Tử Hạ hỏi Khổng tử: Nhan hồi là người thế nào? Khổng tử nói: cái Nhân của Hồi hơn ta. - Còn Tử cống là người thế nào? - Cái óc phân biệt của Tứ hơn ta. - Tử Lộ là người thế nào? - Cái Dũng của Do hơn ta. - Tử Trương là người thế nào? - Cái nghiêm của sư hơn ta. Tử Hạ bèn tránh chiếu thưa rằng: - Thế sao bốn người ấy còn theo học với Thầy? Thế nghĩa làm sao? Khổng Tử nói: - Ở đây ta bảo: Hồi chỉ biết nhân mà không biết lúc bất nhân; Tứ chỉ biết mau mắn mà không biết lúc chậm chạp; Do chỉ biết hung dũng mà không biết lúc nên nhút nhát; Sư chỉ biết trang nghiêm mà không biết lúc ung dung để hòa đồng với mọi người. Nay gồm tất cả cái hay của bốn người ấy có mà đổi với cái ta có, ta không đổi. Bởi vậy, họ phải thờ ta làm Thầy mà không dám hai lòng”. Trang tử bảo phải xử với vấn đề Thiện Ác, Phải Quấy như nhà nuôi khỉ: “…Người ấy nói với khỉ “sớm cho ba củ, chiều bốn củ”. Khỉ đều giận – Người ấy nói: Thôi “sớm bốn chiều ba”. Khỉ đều mừng. Số cho mỗi ngày không thêm không bớt, nhưng tại cách cho mà có giận có mừng. Ấy nên thánh nhân vì chỗ hòa mà nói thị nói phi, rồi đứng yên trong Thiên quân (cái cốt của bánh xe luân chuyển của tạo hóa). Đó gọi là lưỡng hành”. Ông lại cũng nói: “Tri vong thị phi, tâm chi thích dã”. (Biết quên thị phi, thì Tâm mới thuận với Đạo vậy). Aaurobindo Ghose, nhà đạo học trứ danh Ấn độ hiện thời có nói: “Sự tranh đấu giữa hai lực lượng Sáng và Tối là cái chân lý (tương đối) của cõi đời hiện thời. Ta càng lên cao chừng nào, đối với ta, những sự khác biệt nhau ấy càng không còn nghĩa lý gì nữa cả”. “…Nếu anh đạp phải gai nhọn thì hãy lấy gai nhọn mà lể nó ra. Nhưng rồi, cũng như khi anh bị cái gai nhọn của Vô Minh (cùng một nghĩa với chữ Ác) thì anh dùng cái gai nhọn của Tri thức (đồng nghĩa với chữ Thiện) mà lể nó ra. Nhưng rồi anh cũng phải vứt cả hai, cả cái gai Vô Minh cũng như cái gai Tri thức để mà thực hiện cái Đạo nơi lòng anh, bởi nó ở trên tất cả Vô Minh và Tri thức”. Còn bàn đến Thị Phi, Thiện Ác, còn dùng đến phương pháp lấy cái Phải trừ cái Quấy, lấy cái Thiện trị cái Ác… thì có khác gì anh dùng y trị bệnh mất ngủ bằng cách cho uống thuốc ngủ. Họ đâu có dè, mất ngủ cũng như ngủ ly bỳ đều là những trạng thái bệnh hoạn, mất điều hòa. Cần yếu là sửa lại Âm Dương khí huyết cho điều hòa thì tự nhiên sự thức ngủ sẽ được điều hòa, đâu phải cần lấy cái ngủ để trị cái mất ngủ. Đó cũng là cái nghĩa của câu: “lấy cái trị mà trị thiên hạ thì thiên hạ loạn, bằng lấy cái không trị mà trị thiên hạ thì thiên hạ hòa bình”. Điều mà ta cần nhớ kỹ, là cặp mâu thuẫn ấy không phải nằm ở ngoài ta, mà nó nằm ở trong ta. Kẻ nào chưa thực hiện được cái sống đầy đủ, cái sống một nơi mình sẽ luôn luôn sống trong tình trạng nội chiến. Và sự mâu thuẫn nội chiến ấy sẽ ảnh hưởng tai hại chẳng những cho xã hội chung quanh mà cho cả chính cái hạnh phúc của mình nữa. Lo mà giải quyết mâu thuẫn của xã hội chung quanh ta sẽ không lợi gì cả nếu tự mỗi người không ai chịu giải quyết cái mâu thuẫn khổng lồ đang nằm trong đáy lòng của cái người của mình trước. Cũng không có một lực lượng gì ngoài ta (như tôn giáo, luân lý, chế độ,…) có thể giải quyết được cái mâu thuẫn ấy của nội tâm. Con người sở dĩ được xem là cao trọng nhất trong tất cả mọi vật trong đời, là trừ mình ra không ai giải thoát cho mình được cả. Một hiền giả Đông phương nói rất chí lý: “Thấy đặng cái Chân trong cái Giả là đã giải thoát cho ta khỏi cái Giả rồi vậy”. Chân lý là một cái gì Toàn Mãn, là cái Sống Một, không phải là một danh từ đối đích, có cái nghĩa nghịch lại với sự giả dối như ta đã thường hiểu. Ta không nên hiểu chữ Chân lý như là một danh từ tương quan như hai chữ chân và giả thường dùng trong giới Nhị nguyên, như một cái Sáng một cái Tối. Cái gì còn có một đối đích của nó, không còn phải là Chân lý nữa. * * * Có tiêu trừ được cái ác tập nhị nguyên, người ta mới có thể đi đến Chánh giác được, ta người mới giải quyết được vấn đề hạnh phúc của mình, mới giải thoát được cõi lòng vô minh đau khổ. Người Đại giác là người đã giải thoát, không còn nô lệ lấy một bảng giá trị nào nữa cả, không nô lệ lấy một cái Phải hay một cái Quấy nào… Tốt Xấu, Vinh Nhục, Sanh Tử… đều được họ nhìn với một cặp mắt lạnh lùng điềm tĩnh. X CHƯƠNG THỨ MƯỜI HÀNH ĐỘNG CỦA KẺ GIẢI THOÁT Như ta đã thấy trước đây thì hành động viên mãn phải là hành động của một người viên giác, tức là người đã giải quyết được cái mâu thuẫn khổng lồ ở nội tâm. Ít ra phải là con người có được cái nhãn quang “Tề vật” của Trang tử, “Huyền đồng” của Lão tử, hay “bát nhã bình đẳng” của Phật gia mới có được những hành động hoàn toàn viên giác. * * * Pháp bửu nghĩa lâm bàn về “Bát nhã bình đẳng” có nói “Một trong những điều kiện cần thiết để giải thoát là thực hiện được sự Đồng Nhất của các cặp mâu thuẫn, không còn thấy sự sai biệt nữa như kẻ thường nhơn nhận thấy. “Bình đẳng” đối với các giáo Đại thừa thì đồng nghĩa với chữ “Không” Đứng về phương diện sinh lý và tâm lý mà xem thì “Bình đẳng” tức là trạng thái Quân bình giữa thể chất và nhận thức chủ quan và khách quan mà nhà tu sĩ thực hiện được bằng sự Thiền định. Đứng về phương diện luân lý đạo đức, thì “Bình đẳng” tức là trạng thái thản nhiên điềm đạm của bực Đại giác trước vấn đề Thiện Ác, Thị Phi, Vinh Nhục, Khen Chê, Yêu Ghét. Thái độ bình đẳng ấy gọi là Xả. Những cặp mâu thuẫn, không có nghĩa lý gì cả, vì giữa Tôi và Anh, thực ra, đâu có gì khác nhau, vì cùng đồng một Chân tánh. Phật tổ nói: “Nếu có kẻ chặt ta một cánh tay và một kẻ khác ướp hương và săn sóc cánh tay ấy của ta, đối với họ, ta vẫn xem đồng với nhau cả, không ai là bạn, không ai là thù… Các vị Bồ Tát đều có cái tánh chung là vô lượng xả: nếu có ai tôn quý họ, họ cũng không vui, có ai khinh thường họ, họ cũng không buồn; họ không quý bực hiền, cũng không xem thường người ngu dốt; được không mừng, mất không buồn; đối với bạn thân cũng như với kẻ thù, tâm hồn vẫn luôn luôn trung lập bởi vì họ không phân biệt kẻ Thiện người Ác, người thân kẻ sơ… Bát Nhã bình đẳng là một trong bốn cái Đại thức của Bồ Tát, tiếp theo cái hạnh Đại Từ, Đại Bi của Bồ tát. Theo Phật giáo đại thừa thì Niết bàn có nghĩa là tuyệt diệt, diệt hẳn cái quan niệm sai lầm của nhị nguyên, hay muốn nói cho đúng hơn, vượt hẳn lên trên cặp mâu thuẫn mà đầu óc nông cạn hẹp hòi của ta nhận thấy là hai thế giới riêng biệt. Tất cả quan năng trong con người của chúng ta, phải biết “thống nhất” lại, thì hành vi ta mới được gọi là toàn mãn và hoàn toàn nếu ngũ quan lục giác đều được tổng động viên trong mỗi hành vi hằng ngày của ta, đó là điềm ta đã đắc Đạo rồi vậy, dù là trong một nghệ thuật nào: vẽ vời, đánh kiếm hay bắn cung… “Thuật đánh kiếm” đã được E.Herrigel miêu tả rất sâu sắc trong quyển “Le Zen dans l’art che – valeresque du tir à l’arc” như vầy : “…sự hoàn thiện trong nghệ thuật đánh kiếm là cái tâm của nhà đánh kiếm phải đừng bị náo động vì ý niệm phân biệt nhĩ ngã, đừng thấy có Ta có Người, về địch thủ với ngọn kiếm của nó, đừng nghĩ đến cây kiếm của mình và cách sử dụng nó nữa, cũng đừng bận gì đến vấn đề sanh tử…” “Giải thoát được cái ý niệm ham sống và sợ chết, tức là cặp mâu thuẫn Sanh và Tử, đó là đã đạt được cái nghệ thuật cao nhất của “thuật đánh kiếm” vậy” Bàn về cái Đạo bắn cung của Liệt tử cũng nói một thế: “Liệt ngự Khấu cùng với Bá Hôn Vô Nhân bắn cung. Liệt ngự Khấu tay cầm cung, chỗ cùi chỏ để một chung nước. Bắn liên tiếp mấy phát mà mặt nước không chao động. Bá Hôn Vô Nhân nói: “Cái cách bắn ấy là cách bắn của người quá lo trong việc bắn, chưa phải là cách bắn của người thản nhiên đến việc bắn. Anh hãy đi với tôi lên núi cao kia, kiếm chỗ gần hố sâu thăm thẳm mà bắn, chừng ấy, sẽ biết anh còn giữ đặng cái vẻ điềm tĩnh ấy nữa không?” Hai người cùng đi. Bá Hôn Vô Nhân đứng tận bên mé hố, chân đứng nửa trên mặt đất, nửa ngoài không không, nghiêng đầu ra sau và giương cung lên…, Liệt ngự Khấu thấy vậy mồ hôi toát áo, sợ quá té xỉu trên mặt đất. Bá Hôn Vô Nhân cười: “Bậc Chí nhân, con mắt trên ngó tận mây xanh, dưới xem tận đáy đất, ngoài xem tận chân trời mà lòng vẫn không biết nao núng. Cho có như thế thời mới bắn được cái bắn thản nhiên… Chí như anh, chưa gì cặp mắt đã hoảng hốt, lo sợ… thì có bắn, làm gì mà bắn cho trúng đặng.” (Liệt tử). Lòng người mà còn ham sống sợ chết, còn nghĩ đến mình thì hành động chưa thể hoàn toàn được, vì đã xa Đạo vậy. Chí như trong cái đạo vẽ cũng vậy, vấn đề chủ quan và khách quan cũng phải được đồng hóa thì hành động ta mới gọi được là hoàn toàn tuyệt diệu. Một bậc thầy Đông phương khuyên đệ tử mình như vầy: “Hãy quan sát cây tre trong mười năm, hãy chính mình đồng hóa với cây tre ấy, rồi hãy quên hết đi, và vẽ nó đi!” (Observe du bamboo pendant dix ans, deviens bamboo toi-même, puis, oublie tout et peins!) * * * “Khổng tử đứng xem thác nước Lũ lương. Thác ấy cao độ ba bốn chục lần bề cao con người. Nước đổ xuống thành ra một dòng sôi bọt, chảy cuồn cuộn trong một cái lạch dài hơn bốn mươi dặm. Dòng nước lộn nhào đến đỗi rùa cá cũng không ở đặng. Bỗng Khổng tử thấy một người đang vận chuyển trong nước xoáy. Cho là một người thất chí muốn tự vẫn nên bảo đệ tử đi theo bực hẳm đặng coi có thế nào cứu vớt nó. Cách chừng ít trăm bước dưới nguồn, người ấy bèn lên khỏi nước, xổ đầu tóc ra phơi vừa đi vừa ca hát… Khổng tử theo kịp nói: “Tôi hòng cho Ngài là Thần thánh chi, mà bây giờ tôi thấy rõ ngài là người. Làm sao mà vận chuyển được trong nước dễ dàng như thế? Xin cho tôi biết cái pháp của Ngài.” Người đó nói: “Tôi không có pháp gì hết. Ban đầu tôi khởi sự lội theo nề nếp, rồi sự lội ấy thành ra tự nhiên cho tôi: bây giờ tôi linh đinh như một loài thủy tộc kia, bởi tôi đã đồng làm một cùng tánh nước, không còn thấy tôi riêng với nước nữa. Tôi xuống với nước xoáy, tôi lên với nước vận, tôi luân chuyển theo sự luân chuyển của nước chứ không luân chuyển theo ý riêng tôi nữa… Tôi ở trong nước như ở trong chỗ tự nhiên của tôi. Nước gánh lấy tôi vì tôi cùng với nó là Một” (Trang tử). * * * Người thợ lặn giỏi là người không còn thấy mình khác với nước nữa; người bắn hay không thấy mình khác với cái đích của mình bắn; người thợ vẽ hay không nhìn thấy mình khác với vật mình vẽ…nghĩa là không còn để ý đến ngoại vật, đến việc làm của mình nữa… Đó là đã đến mực Huyền đồng. Người đạt Đạo là người: Biết nghĩ bằng con tim Và Biết yêu bằng khối óc. Hai quan năng ấy không còn cách biệt nhau nữa. Muốn đi đến một hành vi toàn mãn không phải tìm cách để dung hòa những điều sai biệt, mà là phải biết quên mất cái ý niệm chia phân. Tâm và Trí, Lý và Tình đã hỗn hợp làm Một rồi, nơi tâm hồn của người Đại Giác. Sư Đạo Tín phái Thiền tông có nói: “Con đường Chân Đạo sẽ không có gì khó khăn cả, nếu lòng ta đừng thiên về bên nào cả: Thiện hay Ác, Phải hay Quấy, Sanh hay Tử, Vinh hay Nhục… Dù chỉ thiên có một phần mười của một ly thôi, cũng đủ làm cho Trời Đất chia phân”. -------------------- There is no such thing as a true belief - Không có cái gọi là niềm tin đúng thực.
|
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 27th July 2025 - 03:08 AM |