IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Thực dưỡng đặc trị tiểu đường, Mới hiệu đính lại
Diệu Minh
bài Aug 30 2011, 07:03 PM
Bài viết #1


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,057
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



Ông Phạm Cao Hoàn dịch quyển này, nhưng tôi đọc thấy có chỗ không rõ nghĩa... chị Kiều Thị Thu Hương đã dày công hiệu đính lại (theo ý của chị là hiệu đính - dịch lại tới 80%?). Đây là một quyển sách quí không chỉ với người đang bị bệnh tiểu đường...

Phạm Cao Hoàn dịch
Kiều Thị Thu Hương hiệu đính








PP OHSAWA
ĐẶC TRỊ TIỂU ĐƯỜNG









Nguyên Tác:
Aveline Kushi


























GIỚI THIỆU

Một chế độ dinh dưỡng có thể cung cấp đủ đường và chất ngọt là rất quan trọng. Trong 5 loại mùi vị, ngọt, mặn, chua, cay và đắng - thức ăn có vị ngọt chiếm vị trí trọng yếu, lên tới 60-70% khẩu phần hàng ngày. Những mùi vị khác cũng quan trọng, nhưng chỉ nên dùng chúng 1 cách vừa phải mà thôi. Để có một thể chất quân bình, mạnh khỏe, ta nên chọn ăn các loại ngũ cốc còn nguyên cám, các loại rau củ ngọt (như cà rốt, hành tây, cải bắp, củ cải, bí đỏ, súp lơ…) và những trái cây đúng mùa vì chúng có chứa loại đường tốt nhất cho cơ thể - và các loại đường phức hợp trong tinh bột thì tốt hơn đường đơn trong mật và trái cây.
Bệnh tiểu đường type I (diabetes) và rối loạn đường huyết (hay tiểu đường type II, hypoglycemia) đều do đường tinh chế mà ra. Việc thay nó bằng chất ngọt của gạo lứt, rau – củ - quả sẽ giúp ngăn ngừa các tai biến, và xét tổng thể, chữa trị theo lối tiết thực như vậy kinh tế hơn các biện pháp phòng trị khác rất nhiều.
Sẽ mất một khoảng thời gian để làm quen được với chế độ ăn uống quân bình mới mẻ, và cảm giác thèm khát những thức ăn có đường tinh chế có thể gia tăng. Nhưng hãy quan tâm sâu sát tới thực phẩm hàng ngày bạn ăn, hãy sử dụng mạch nha, siro gạo và những nguồn chất ngọt phức hợp khác để làm dịu nỗi thèm muốn của bạn. Chúng tôi mong rằng cuốn sách này có thể cung cấp cho bạn nhiều hướng dẫn hữu ích.

* Diabetes


























LỜI NÓI ĐẦU

Có một nghịch lý trong nền y học hiện đại. Đó là việc những căn bệnh mãn tính ngày càng phổ biến khắp nơi, mặc dù các hiểu biết về sinh lý học và bệnh lý học về chúng ngày càng tốt hơn và những biện pháp điều trị mới chống lại chúng liên tục được đưa vào áp dụng. Chỉ cần tìm hiểu lịch sử tự nhiên và khoa nghiên cứu bệnh lý học của những bệnh mãn tính, ta sẽ thấy ngay, sự tăng trưởng vững chắc của những căn bệnh này luôn song hành một cách kịch tính với mức độ Âu hóa lối sống ở những đất nước có nền văn hóa truyền thống lâu đời…
Trong tình cảnh như vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi khoa học dành nhiều chú ý tới các nhân tố trong đời sống có ảnh hưởng tới sự tiến triển của bệnh tật. Ví dụ, từ lúc khám phá ra khả năng biến dưỡng insulin bị suy yếu là nguyên nhân hàng đầu của bệnh tiểu đường, chế độ ăn kiêng đã trở thành một nhân tố quan trọng trong nỗ lực kiểm soát đường huyết. Tuy nhiên, việc kiểm soát thực đơn này ban đầu lại nhằm mục đích tránh xa các thức ăn dạng carbohydrat*. Tiếp đó, trong khoảng 10 tới 15 năm gần đây, chế độ ăn kiêng để kiểm soát bệnh tiểu đường đã đổi thành tăng các thực phẩm chứa carbohydrat phức hợp bao gồm cả chất xơ và giảm lượng thực phẩm có nhiều carbohydrat đơn như đường. Hiện nay, vấn đề phẩm chất của các dạng carbohydrat trong thức ăn đã được nhìn nhận là cũng có tác động lớn như số lượng vậy. Hơn nữa, những thực phẩm chứa nguồn carbohydrat chất lượng cao còn đem lại 1 cái lợi khác, đó là hàm lượng chất béo và cholesterol thấp, nên nó cũng giúp phòng ngừa bệnh tim mạch.
Những thay đổi trong việc giới thiệu chế độ ăn kiêng cho bệnh tiểu đường đã nới rộng ý thức cộng đồng về vấn đề thực phầm và dinh dưỡng. Nhưng những chỉ dẫn mới này từ lâu đã là một phần quan trọng của phương pháp Thực dưỡng, trong đó khuyến nghị một chế độ dinh dưỡng bao gồm cốc loại lứt, đậu đỗ, rau - củ - quả… Chắc chắn phần quan trọng nhất của “cái thứ nghe như là hướng dẫn ăn kiêng” này có một nền tảng triết lý và khoa học vững chắc làm căn bản. Sự tương đồng giữa các hướng dẫn của Hiệp Hội Tiểu Đường của Mỹ đưa ra với các hướng dẫn của phương pháp Thực dưỡng –áp dụng chính thức cho bệnh tiểu đường – để ngăn ngừa hay kiểm soát đường huyết là một ví dụ điển hình.
Các hướng dẫn thực hành và công thức nấu nướng trong sách này đều dựa trên các nguyên tắc của Thực dưỡng. Chúng có giá trị với tất cả mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho những ai đang nỗ lực kiểm soát và phòng ngừa bệnh đái đường, miễn đó là những con người tỉnh táo minh mẫn và thích khám phá tìm tòi. Một số kiến thức đưa ra trong sách này có vẻ như thiếu cơ sở khoa học. Nhưng nó không ngăn cản một tâm hồn cởi mở thử khám phá những giá trị thật của nó bằng việc chấp nhận chút mạo hiểm khi làm theo một vài hướng dẫn ăn kiêng trong một thời gian. Với quan điểm thực chứng, cuốn sách này có thể chính là bước đầu tiên đưa bạn tới với một đời sống tốt đẹp hơn.
Theo Laurence Haruo Kushi, Sc.D
Tháng 1, năm 1985






*Macrobiotics: Macro: trường – đại.Biotic : sinh học, sự sống (Trường Sinh).
carbohydrat*: tên gọi chung của một loạt hợp chất hữu cơ có trong nhiều thực phẩm chính của con người, bao gồm chất xơ, các loại tinh bột và đường, có công thức phân tử gồm một, hai hay chuỗi các phân tử đường đơn liên kết với nhau.






Mục Lục

Giới thiệu………………………………………….3
Lời nói đầu……………………………………….. 5
1. Nền tảng vũ trụ học……………………………..9
2. Khẩu phần tiêu chuẩn theo pháp Trường Sinh...33
3. Điều chỉnh thực đơn cho bệnh tiểu đường…….45
4. Bản chất bệnh tiểu đường… (+ ax)……………52
5. Vận dụng thực đơn…………………………….68
6. Đồ nấu bếp…………………………………….75
7. Cung cách nấu ăn ……………………………..85
8. Gạo và chế phẩm của gạo…………………….. 88
Kê……………………………………………... 99
9. Canh xúp……………………………………..117
10. Rau củ - rong – tảo………………………….128
11. Đậu + Sản phẩm…………………………….163
12. Rong/Tảo…………………………………...174
13. Gia vị - Xốt - Dầu Dấm…………………….183
14. Món tráng miệng………………………… 199
15. Cá/Hải sản………………………………….208
16. Nước giải khát……………………………...212
17. Đặc phương………………………………...219




1. NỀN TẢNG VŨ TRỤ HỌC

Có một nền tảng vũ trụ học ẩn sau những nguyên tắc căn bản của phương pháp Thực dưỡng. Vũ trụ học ấy có đầy đủ cấu trúc để giải thích sự tạo thành và mối liên hệ tương tác của những hiện tượng kì bí nhất trong vũ trụ của chúng ta.
Mục đích chân thật của pháp Trường sinh là giúp con người một sức sống dồi dào để thực hiện trọn vẹn khả năng và ước mơ của họ, nhắc chúng ta rằng, chúng ta chính là người bồi đắp và làm chủ đời cuộc đời mình.
Nên biết rằng, Thực dưỡng thực sự là một lãnh vực nghiên cứu phong phú và không giới hạn, và vượt xa các giới hạn của cuốn sách này. Nếu bạn quyết định theo đuổi nó, bạn sẽ trở thành người hướng đạo cho chính mình, tự khám phá bản thân, phát hiện ra những việc bạn cần làm để giữ gìn sức khỏe và đạt được những mục tiêu trong đời. Trong chương này là những khái quát ngắn ngọn những nền tảng triết học của phương pháp Thực dưỡng, từ đó giải thích mối liên hệ giữa thức ăn và sức khỏe.
Mọi sự vật trong vũ trụ đều biến dịch không ngừng, chúng thay đổi cả về năng lượng, mật độ và tốc độ. Ngay cả những vật tưởng như cứng rắn, ổn định như một tảng đá hay một cái bàn, đều được tạo thành từ những phân tử không ngừng rung động, những nguyên tử, các điện tử âm (electron) và hạt nhân dương (proton) và bản thân chúng xét đến tận cùng chẳng là gì khác ngoài năng lượng.
Nguồn gốc mọi hiện tượng trên đời, đều quy về vô biên hay cái không, trong tôn giáo gọi là Thượng Đế, Đấng Tối Cao, ý chí Phổ Quát hay Siêu Ý Thức, vô ngã… Ở cõi Vô Biên, không có không gian, thời gian, quá khứ hay tương lai, ánh sáng hay bóng tối - Chỉ có sự biến dịch bất tận, vận động với tốc độ vô hạn về mọi hướng.
Những dòng biến dịch bất tận (biểu diễn trong hình 1) giao thoa và tạo nên những xoắn ốc năng lượng, xoáy vào tâm, tạo nên lực Dương - đặc tính là co rút, tập trung. Ngược lại, những xoắn ốc bung ra từ tâm điểm, tạo lực Âm - Đặc tính nới giãn, ly tâm. Sự định hình của những xoắn năng lượng này là điểm bắt đầu cho mọi sự tồn tại. Trong thực tế, những năng lượng có thuộc tính trái ngược tuyệt vời này đã tạo nên mọi hiện tượng vật chất và phi vật chất nhờ vào những tương tác bất tận của chúng. Hình vẽ dưới đây biểu diễn “Chu trình biến dịch thống nhất và vĩnh hằng” được sao lục lại từ cuốn “Sách về Đạo dẫn, những bài tập luyện để phát triển tinh thần” (Book of Do-in: Exercise for Physical and Spiritual Development) của Michio Kushi (trang 18)
Khi chuyển động hướng tâm (Dương: ), năng lượng càng lúc càng định hình rõ rệt theo hướng vật chất hóa. Nói chung, tiến trình này có thể nhận biết từ sự tăng tốc, tăng nhiệt, tăng mật độ và trọng lượng mà kích thước không tăng hoặc co rút, vật chất hơn, nóng hơn, nhanh hơn, nặng hơn và nhỏ hơn. Khi năng lượng chuyển động ly tâm (Âm: ), thì đặc tính của nó ngược lại: tản mát, loãng, lạnh, chậm và nhẹ hơn. Dương cuốn hút Âm và Âm thu hút Dương. Không thể nào có Dương tồn tại mà không có Âm và ngược lại.
Mọi hiện tượng trên đời, đều do hai lực đối bổ Âm/Dương tạo ra – Chúng là trưởng thành của điều mà chúng ta gọi là Thượng Đế, Thái cực v.v… Vòng xoắn ốc sau đây, được gọi là “Sự Tạo Thành Vũ Trụ”. “Sách về Đạo dẫn, những bài tập luyện để phát triển tinh thần” (Book of Do-in: Exercise for Physical and Spiritual Development) của Michio Kushi (trang 23)
 Ngôi thái cực: Cõi tuyệt đối và vô tận, không có gì khác ngoài sự biến dịch vô cùng.
 Sự phân cực Âm/Dương /. Điểm khởi nguồn của không gian và thời gian, phương hướng, sự liên hệ, sự khác biệt, và thế giới của những hiện tượng phù du, thoáng qua.
 Rung động sóng và năng lượng : Khởi nguồn của ánh sáng, âm thanh, các sóng điện từ dài, ngắn, tiềm thức, ý thức, các hiện tượng tâm linh và tinh thần.
 Thế giới tiền nguyên tử: Thế giới của các hạt cơ bản: electron, neutron, proton… Điểm khởi đầu của thế giới vật chất…
 Thế giới nguyên tố: Thế giới của các phân tử, nguyên tử ( hydro, heli, oxi, cácbon, lưu huỳnh…). Các dạng vật chất cụ thể như đất, nước, không khí, lửa, thế giới giác quan của chúng ta và là điểm khởi đầu của thế giới hữu hình.
 Thế giới thảo mộc: Bao gồm toàn thể cây cỏ, rong rêu.
 Thế giới động vật – con người: Bao gồm thú vật và con người.
Con người, với tư cách là kết quả cuối cùng của một vòng xoắn hướng tâm dương, đồng thời cũng là điểm khởi nguồn của một vòng xoáy ly tâm âm. Theo chiều hướng dương, chúng ta được tạo nên từ thực phẩm hàng ngày, các nhân tố năng lượng từ mặt trời, nước, gió… những rung động của suy tư trong óc não. Sau khi chúng ta đã được hình thành trong thế giới vật chất, chúng ta vận hành theo chiều hướng Âm ngược lại, và phát triển tính cảm xúc, tinh thần và tâm linh, rồi kết cục, thể xác chúng ta sẽ tan rã và linh hồn chúng ta lại tan nhập vào hư vô vĩnh hằng.
Hình vẽ bên dưới là “Chu trình vĩnh hằng của đời sống”
Như ta thấy trên sơ đồ, điểm dương nhất, có sức co rút mãnh liệt, chỗ hợp nhất của tinh trùng và trứng, ngay lập tức được theo sau bởi lực âm bung nở nhanh chóng (Đây là nguyên lý Dương cực sinh Âm và Âm cực sinh Dương) – Theo sau nó là thời tiền thai sinh (khi hợp tử mới hình thành di chuyển từ vòi dẫn trứng tới làm tổ trong tử cung), rồi tiếp tới là thời kì tối tăm bồng bềnh trong một thế giới ngập nước của bào thai trong tử cung, rồi tiếp đến là thế giới khô ráo trong bầu khí quyển bình thường mà con người mà chúng ta đều biết. Thế giới này luôn có một nửa tối tăm và một nửa sáng sủa. Khi ta qua đời, chúng ta trút đi phần xác thân vật chất và thể nhập vào cõi Trung giới của những bóng ma và hiện tượng linh hồn, nơi không hề tồn tại bóng đêm. Mỗi thế giới kể trên, cái sau rộng lớn hơn cái trước, tự do hơn và bao hàm một chiều kích thời gian dài lâu hơn.
Khi giữ cho tinh thần, thể xác và tâm hồn mình khỏe mạnh, chúng ta có thể bước sang thế giới bên kia một cách êm ả và vui thú. Một người mang thai nên ăn uống cân bằng, vận động vừa sức và nghỉ ngơi đúng cách, lúc rảnh, tránh xa cảnh tượng bạo động trên tivi, trong sách vở và mọi sự tương tự. Cô cũng được khuyên bảo rằng nên truyền cho em bé những tư tưởng lạc quan, tươi đẹp, để khi ra đời, nó sẽ được khoẻ mạnh và sung sướng. Như thế, em bé sinh ra sẽ có cuộc sống bình yên và thuận lợi hơn. Trong đời sống cũng vậy, chúng ta đều có thể quan tâm tới chất lượng của mỗi loại thức ăn ta có, các bài tập và hoạt động thể chất cùng cách nghỉ ngơi hợp lý, khuyến khích các tư tưởng tích cực, sáng tạo và các hoạt động khác, để đời sau của chúng ta được thuận lợi, và cuộc sống của chúng ta ngay tại đây có nhiều vui thú hơn. Linh hồn của những con người bất hạnh đầy ắp sầu muộn và ảo tưởng, và thay vì đi thẳng sang một thế giới tươi sáng và tự do hơn, họ dính mắc vào thế giới vật chất và những con người, những nơi chốn mà họ quen thuộc… Người phương Đông và những con người của những nền văn hóa cổ xưa khác gửi những lời an ủi, tình yêu và ước nguyện tiêu diêu cực lạc cho thân quyến quá cố. Việc này giúp cho những linh hồn được thanh thản và giúp họ dễ siêu thoát tới những cảnh giới tốt đẹp hơn
Tất cả chúng ta đều đang trên con đường quay “trở về nhà” từ trung tâm của vòng xoắn để tìm thấy tự do, sự thanh thản, hạnh phúc, khả năng dang rộng đôi cánh của mình, để cuối cùng thể nhập làm một với Vô Biên. Thậm chí, cả những con người chỉ mê mải chạy theo tiền bạc và các giá trị vật chất, thực ra họ cũng chỉ đang muốn tìm kiếm cùng một cảm giác tự do và hạnh phúc như thế, chỉ là họ tin rằng thứ đó sẽ đến với họ nhờ vào tài sản của thế gian. Mỗi con người đều được tùy ý theo đuổi những gì họ muốn. Đó là tự do của chúng ta.
Thật là ngược đời, chúng ta vốn đã ở ngay nơi ta muốn, vì mỗi chúng ta là 1 tiểu vũ trụ, nằm trong lòng đại vũ trụ, nhưng cùng lúc đó, chúng ta cũng là những cái tôi cá nhân khác biệt. Sâu thẳm trong lòng, mỗi chúng ta biết rằng, có một cái gì đó lớn lao hơn trong mỗi con người, rằng một phần trong ta là bất diệt, là không thể nghĩ bàn. Và khi chúng ta đang thư giãn, khỏe khoắn, tràn trề sinh lực, ta cảm nhận rõ hơn rằng, chúng ta vừa là một, là riêng, nhưng cũng là một phần không thể tách rời của toàn thể. Chúng ta có thể kết nối mình với những tiềm năng đầy sáng tạo và không giới hạn của Đại Tự Nhiên, và nhờ vào nó để định hướng lại cuộc đời mình một cách tỉnh thức hơn, khi chúng ta đang có một thân tâm hài hòa, đồng điệu.
Ý nghĩa sâu xa hơn của sức khoẻ là một trạng thái đồng điệu và hài hòa sẽ khiến dòng năng lượng trong ta trôi chảy, ra vào dễ dàng không bó buộc trong mọi bộ phận của một cơ thể thống nhất. Áp dụng Thực dưỡng để giữ gìn sức khỏe tức là hiểu rằng sự thay đổi trên bất cứ phương diện nào trong cơ thể và tâm trí chúng ta cũng gây ảnh hưởng nhất định lên toàn thể xung quanh. Có một số biện pháp mà mọi người đều có thể áp dụng để tạo ra một trạng thái lưu thông của dòng năng lượng toàn thân:
1. Đổi cách ăn uống: Đây chính là nội dung cơ bản của cuốn sách này. Chính những gì chúng ta ăn vào mỗi ngày đã tạo ra dòng máu, dòng máu nuôi sống và duy trì hình dạng, chức năng của mọi cơ quan, bộ phận trong thân thể. Vì vậy, thật kì quặc khi thức ăn lại không được xem xét nghiêm túc như là một nguyên nhân có thể gây ra bệnh tật. Và mỗi chế độ dinh dưỡng khác nhau cũng làm thay đổi cảm xúc và tinh thần của con người nữa, dễ thấy nhất là chuyện rượu và nhiều loại chất kích thích, chất gây nghiện cả hợp pháp và bất hợp pháp có thể tác động mãnh liệt lên hệ thần kinh của con người như thế nào. Giống như vậy, mọi thực phẩm đều tác động lên chúng ta sau khi được ăn vào, dù rằng sức ảnh hưởng của chúng nhỏ nhiệm hơn nhiều.
2. Khai thác sức mạnh ý chí: Mọi sự tồn tại đều có nguồn gốc của nó trong thế giới vô hình của tâm trí và những rung động sóng. Cũng có nghĩa là niềm tin của chúng ta có thể trở thành hiện thực, và những bộ tịch màu mè hay các suy nghĩ tiêu cực mà chúng ta dính mắc vào có thể ảnh hưởng tới cuộc đời ta. Mỗi người đều có thể tư mình phát triển sự tỉnh thức bằng việc thường xuyên quan sát những suy nghĩ, hành vi và phản ứng của bản thân, xem chúng đang điều khiển cuộc sống của ta như thế nào và từ đó, bỏ dần những thói tật xấu và có những ý tưởng, những giấc mơ tươi sáng, tích cực hơn.
3. Thư giãn: Tâm thần và thể chất không điều hoà, sẽ cản trở dòng năng lượng, hay còn gọi là sinh khí lưu thông. Có thể chọn một kỹ thuật tập luyện nào đó giúp bạn thư giãn toàn bộ cơ thể. Và bạn cũng có thể giúp tâm trí mình thư giãn và gạt sang bên mọi lo âu, phiền muộn hay giận dữ. Hãy hít thở thật chậm và thật sâu.
4. Chưởng liệu pháp, xoa bóp, ấn huyệt, mát xa: Những trị liệu kiểu này có thể sử dụng để kích hoạt và khai thông những luồng sinh khí bị bế nghẽn trong cơ thể.
5. Vận động tâm thân: Ta phải vận động cơ thể bằng các việc làm tay chân như dọn dẹp, lau chùi nhà cửa, ca nhạc, dạy học, bồi bổ tâm hồn bằng đọc sách báo, viết, vẽ… tuỳ thích. Tâm thân đều vận động thường xuyên, sẽ không bị bế tắc và mới có thể làm nên điều ích mình, lợi người.
6. Thay đổi môi trường: Có trường hợp người bệnh cần thay đổi nơi ở. Vì có bệnh hợp với khí hậu ấm, lại có bệnh cần ở nơi núi non mát mẻ mới dễ thuyên giảm. Có người cần tĩnh dưỡng ở một nơi yên tĩnh hơn, ví dụ như vùng đồng quê. Đồng thời, có người thân, bạn bè ở bên quan tâm, chăm sóc cũng là một nhân tố quan trọng. Ngoài ra, nên tích cực tham gia bảo vệ môi trường bằng cách sống tiết kiệm, không dùng nhiều hơn mức ta cần, sử dụng những sản phẩm nguồn gốc thiên nhiên, và rất nên giúp đỡ, hỗ trợ việc bảo vệ những loài thực vật và động vật…
7. Giao hảo tốt với mọi người: Những lời phàn nàn, những mối ác cảm, giận dữ, sợ hãi và căm ghét làm ta trở nên căng thẳng và làm tắc nghẽn năng lượng. Chính chúng ta là người tạo dựng nên tình cảnh riêng của mình, vậy nên thay đổi nó như thế nào hoàn toàn tùy thuộc vào chính chúng ta. Hãy yêu thương, giúp đỡ mọi người, đồng thời, tôn trọng tự do và cá tính riêng của họ.
8. Hãy biết ơn tất cả: chúng ta nên trân trọng mọi điều đẹp đẽ và kì thú trên đời. Hãy coi mọi khó khăn, gian khổ hay sự hắt hủi mà bạn gặp phải như một cơ hội để tự mình phản tỉnh và trưởng thành hơn..
Chỉ cần bạn thực hiện được một trong 8 điểm nêu trên cũng đã có ích cho việc điều trị bệnh tật và tác động tích cực lên cuộc sống hàng ngày. Nhưng một quyết tâm thay đổi toàn diện còn tốt hơn nhiều, và tất cả những liệu pháp kể trên đều hỗ trợ giúp ích cho nhau. Có nhiều người chăm chăm áp dụng một và chỉ một trong các giải pháp một thời gian và bắt đầu cảm thấy mọi sự không thay đổi nhiều như họ mong muốn, sau đó họ từ bỏ hoặc lại thử một giải pháp khác. Xin hãy cảnh giác trước khuynh hướng này.

Âm và Dương

Tất cả đều được tạo ra và vận hành bởi sự tương tác của âm và dương, hai lực đối lập vĩnh viễn tồn tại. Sau đây là một số ví dụ điển hình:

Thuộc tính Âm/Ly tâm () Dương/Hướng tâm ()
Khuynh hướng Giãn nở Co rút
Hoạt động Dị hóa, phân rã Đồng hóa, cơ cấu
Chuyển động Lờ đờ, chậm rãi Hoạt bát, nhanh nhẹn
Sóng Sóng ngắn cao tần Sóng dài tần số thấp
Phương hướng Dọc, đi lên Ngang, đi xuống
Vị trí Ra xa, ngoại biên Lại gần, hướng tâm
Sức nặng Nhẹ hơn Nặng hơn
Nhiệt độ Lạnh hơn Nóng hơn
Ánh sáng Tối hơn Sáng hơn
Độ ẩm Ẩm ướt hơn Khô ráo hơn
Mật độ Mỏng thưa Dày chắc
Kích thước Lớn Nhỏ
Hình dạng Tỏa rộng, mỏng manh Thu gọn, cứng chắc
Độ dài Dài hơn Ngắn hơn
Kết cấu Mềm hơn Cứng hơn
Điện tử Electron Proton
Nguyên tố N, O, K, P, Ca H, C, Na, As, Mg
Môi trường Sóng từ → Không khí → Nước →Đất
Khí hậu Nhiệt đới Hàn đới
Sinh vật Thực vật Động vật
Giới tính Cái Đực
Nội tạng Rỗng. nhẹ Chắc đặc
Hệ thàn kinh Trực giao cảm Đối giao cảm
Thái độ Ôn hòa, thụ động Năng nổ, chủ động
Công việc Tinh thần và trí óc Thể chất và xã hội
Ý thức Khái quát hơn Cục bộ hơn
Hoạt động thần kinh Nghĩ ngợi về tương lai Nghĩ ngợi về quá khứ
Văn hóa Duy tâm Duy vật
Màu sắc Tím→Lơ →Lục →Vàng → Nâu → Cam →Đỏ
Mùa Đông Hè
Chiều Không gian Thời gian
Mùi vị Cay→ Chua → Ngọt → Mặn → Đắng
Vi ta min C K, D
Xúc tác Nước Lửa

Khi đã hiểu rõ các quy luật vận động tương tác của Âm Dương thì bạn sẽ bắt đầu hiểu được mọi vận luật của thế gian. Kinh Dịch, cuốn sách kinh điển của triết học cổ đại Phương Đông được viết dựa trên nền tảng Âm Dương tương tác này. Các nguyên tắc dưỡng sinh của Thực dưỡng cũng vậy.
Âm thu hút dương và dương thu hút âm, tạo nên sự quân bình hòa hợp của hai trạng thái đối lập. Ví dụ, đàn ông với đàn bà, điện tử âm và điện tử dương, tinh thần và vật chất… Hoặc, khi một người đã ăn quá nhiều muối (dương), để lấy lại quân bình, anh ta cảm thấy khát nước (âm). Âm đẩy Âm, và Dương đẩy Dương. Ví dụ, nước và dầu (đều âm) không hòa tan được vào nhau.
Lực hấp dẫn (hoặc lực đẩy tùy trường hợp) là tỷ lệ với độ khác biệt giữa hai thành tố Âm, Dương. Chúng phối hợp với nhau theo vô vàn tỷ lệ, tạo ra tất cả các dạng năng lượng và hiện tượng, không cái nào giống hệt cái nào.
Âm và Dương biến động không ngừng ở nhiều mức độ khác nhau. Âm cực sinh Dương và Dương cực sinh Âm. Không có gì là thường hằng, bất biến, như đêm nối tiếp ngày, ngày nối tiếp đêm, có hoạt động rồi tới nghỉ ngơi, thất bại nối tiếp thành công và thành công đến sau thất bại. Những nền văn minh phát triển rồi lại suy tàn. Cái gì có mở đầu thì có kết thúc.
Không có thứ gì thuần Âm hay thuần Dương. Trong mọi sự vật luôn bao hàm cả hai thành tố, nó Âm bao nhiêu thì cũng Dương bấy nhiêu. Ví dụ, có nhiều người bề ngoài rất Dương, họ mạnh mẽ, thô lỗ và cứng rắn, nhưng tấm lòng thì lại mềm yếu dễ tổn thương. Ngược lại, nhiều người khác vẻ ngoài rất Âm, mảnh khảnh, yếu đuối, nhưng hóa ra nội tâm lại hết sức cứng rắn, bảo thủ. Những cơ quan có cấu trúc chắc đặc như Gan, Dương, lại chứa đựng nhiều năng lượng Âm hơn, nó hoạt động một cách khá lặng lẽ. Những cơ quan có cấu trúc âm hơn, như Tim lại bị chi phối bởi một năng lượng Dương tới mức nó đập suốt đêm ngày. Bề mặt càng rộng thì bề lưng càng lớn.
Thứ Âm ít có thể bị thứ Âm vượt trội hơn thu hút, thứ Dương ít có thể bị thứ Dương vượt trội hơn thu hút. Vitamin C âm hơn vitamin D, nên nó không tan trong dầu (là Âm) như vitamin D (Âm > Dầu > Vitamin C > Vitamin D), nhưng lại tan được trong nước là thứ âm hơn dầu. (Âm > Nước > Dầu > Vitamin C)
Âm sinh ra Dương, và Dương tạo ra Âm. Khí hậu âm, lạnh lẽo hơn sinh ra những loại rau củ thảo mộc chắc đặc hơn và một xã hội năng động, khó chi phối. Trong khi khí hậu dương, ấm áp hơn tạo ra những loại thảo mộc âm, mọng mước, lá to rộng và một xã hội có nhịp điệu chậm chạp, dễ dãi.
Mọi thứ trên hành tinh này đều được tạo nên bắt đầu từ hai năng lượng ly tâm và hướng tâm. Lực hấp dẫn của trái đất là năng lượng hướng tâm, còn những loài thảo mộc mọc vươn lên cao là một ví dụ điển hình của năng lượng ly tâm.

Âm/Dương Trong Ăn Uống

Món ăn Dương làm ấm người, tăng sức lực, sống có kỷ luật và tươi trẻ. Những món thịnh dương như thịt (đỏ), trứng và muối nhiều, sẽ khiến người ta lệch sang thái độ cư xử cứng rắn, ích kỷ, cực đoan, các chứng bệnh co thắt, bệnh mất ngủ kinh niên, bệnh đau khớp, tim mạch, khuynh hướng bạo lực…
Thức ăn Âm đem lại cảm giác điềm tĩnh, thanh thản, thư thái, và nuôi dưỡng đức tính kiên nhẫn và biết thông cảm. Các thực phẩm thịnh Âm, như mật ong, đường cát, hoá chất và thuốc men, ma túy… sẽ làm suy yếu toàn bộ các chức năng của cơ thể và tâm thần. Từ đó sinh ra cảm giác sợ hãi, sự cảnh giác quá đáng, ý chí cùn nhụt, mắc bệnh quá sạch sẽ (là nỗi sợ vô lý về nguy cơ nhiễm khuẩn hay virus, vi trùng), bệnh máu trắng do cơ thể sản sinh quá nhiều bạch cầu, chứng trầm cảm hay khuynh hướng tự sát…
Người lạm dụng thức ăn thặng dương thường tự động bị thu hút bởi những thức thặng âm để giúp cho cơ thể tạo lập lại sự thăng bằng và ngược lại. Khi điều đó diễn ra thường xuyên, họ tự đẩy mình vào một trạng thái bấp bênh bất ổn ngoài tầm kiểm soát với những triệu chứng được liệt kê ở trên. Thực dưỡng khuyên chúng ta chọn ăn những thực phẩm quân bình. Và cốc loại là dạng thực phầm gần nhất với mức quân bình của cơ thể con người, cho nên chúng dễ chế biến, nấu nướng nhất, chúng là bậc tiến hóa cuối cùng trong thang tiến hóa của thảo mộc trên trái dất, trong khi chúng ta là bậc cuối cùng trong thang tiến hóa của động vật. Đặc biệt gạo lứt là loại thực phẩm gần với mức quân bình Âm/Dương của con người chúng ta nhất, ta nên sử dụng nó làm thức ăn chính.
Loài người là giống máu nóng (Dương) nên những dưỡng chất mà cơ thể chúng ta cần đa phần nếu không muốn nói là toàn bộ đều có thể tìm được dễ dàng trong thế giới thảo mộc. Về các thức ăn động vật, tốt hơn ta nên chọn cá thịt trắng và một số động vật giáp xác vì chúng ở xa chúng ta trên thang bậc tiến hóa nên cấu trúc protein đặc thù của chúng không ảnh hưởng quá mạnh tới các mô và tế bào trong cơ thể. Và nhìn vào cấu trúc bộ răng của chúng ta, có thể thấy rõ tổ tiên của chúng ta đã tiến hóa như một loài lấy ngũ cốc làm thực phẩm chính, vì có rất nhiều răng hàm để nhai nghiền và tuyến nước bọt đặc biệt phát triển, trong khi chỉ có 4 chiếc răng nanh để xé thịt và 8 chiếc răng cửa để cắn những thức ăn mềm, cũng vì vậy, ống tiêu hóa của chúng ta tiêu hóa và xử lý chất thịt rất kém, chúng luôn làm quá trình tiêu hóa trở nên trì trệ và thối rữa ra ở bên trong khiến phân rất nặng mùi. Ở những vùng cực bắc lạnh giá, nơi rất hiếm loài thực vật sinh trưởng được, những người dân sống tại đó chỉ có thể dùng động vật làm thức ăn chính, ví dụ như người Eskimo, và đó là giống dân có tuổi thọ trung bình thấp nhất thế giới.
Hiển nhiên, khí hậu đóng vai trò chính trong việc quyết định xem chúng ta nên và có thể ăn gì. Nên chọn những thực phẩm tươi, được canh tác tự nhiên ở gần nơi ta sinh sống, vì chúng và chúng ta sinh trưởng trong cùng một môi trường nên chịu những tác động tương tự nhau, do đó giúp ta dễ dàng thích nghi với mọi biến động của tự nhiên. Tuy nhiên, có hai lưu ý, ngay cả những người sinh trưởng ở vùng nhiệt đới cũng đừng vì thế mà lạm dụng trái cây vốn có rất nhiều, chúng quá âm và lạm dụng chúng là mời gọi bệnh hoạn. Và các loại rong biển sử dụng với một tỷ lệ thích hợp cũng tốt cho những người sống ở rất xa biển, vì cũng như muối, chúng được lấy ra từ môi trường nước biển có tỷ lệ các khoáng chất giống nhất với máu người.
Ăn thực phẩm thu hoạch đúng mùa cũng là một nguyên tắc dưỡng sinh quan trọng, giúp cho năng lượng trong cơ thể vận hành phù hợp với môi trường xung quanh. Ví dụ mùa xuân chủ về năng lượng vươn lên, toả rộng thì bữa ăn nên có các loại rau xanh, mầm ngọn. Sang đến thu – đông, khi sinh khí thu liễm, các loại bí, rau cải, các thứ rau củ muối hay dầm tương lâu ngày, những thực phẩm khô như rong biển đều trở nên thích hợp.
Biểu đồ bên trình bày một cách tổng quát cách phân định các nhóm thức ăn từ dương tới âm và từ âm tới dương. Tuy nhiên, cần nhớ rằng điều kiện tự nhiên đặc thù của từng vùng, môi trường nuôi trồng tự nhiên hay nhân tạo, các loại hóa chất… đều tạo ra những ảnh hưởng, vì vậy, ta cũng nên quan sát kỹ lưỡng ảnh hưởng của từng loại thực phẩm lên thân và tâm. Và hãy nhớ rằng, phương pháp nấu nướng có thể thay đổi phẩm chất của thức ăn từ âm sang dương hay từ dương sang âm.
Các phương pháp nấu nướng cũng nên được áp dụng linh hoạt. Vào mùa đông, ta có thể ăn những thức ăn nấu chín kỹ, nhiều muối hơn, các món ninh hầm bằng nồi áp suất và bỏ lò hay nướng, cũng có thể ăn nhiều cá hơn. Thức ăn cho mùa hè nên được nấu chín tới, ít muối hơn, các món luộc, salad, trái cây, các món xào, rán và món ngọt tráng miệng đều có thể dùng.
Cùng lúc, nên đa dạng cách thức chế biến và trình bày để có những bữa ăn có màu sắc, hương vị phong phú.
Những nhân tố bổ sung giúp phân định âm dương khi chọn lựa thực phẩm để chế biến là (1)phân định theo tốc độ sinh trưởng, loại nào mọc nhanh hơn thì âm hơn, và, (2) phân định theo bộ phận, các loại rễ củ thì dương hơn thân lá, lá thì dương hơn hoa, quả,…

















































Hình 4. Phân loại thực phẩm theo Âm (), Dương ()


















































2.
KHẨU PHẦN TIÊU CHUẨN THEO PHÁP TRƯỜNG SINH
Chế độ dinh dưỡng đề xuất dưới đây là dành cho những người có sức khỏe tương đối ổn định. Những người đang ở tình trạng trầm trọng cần được điều chỉnh thích đáng. Cũng cần lưu ý, đây chỉ là những hướng dẫn chung nhất, bất kể bạn là ai, hãy cân nhắc điều chỉnh để có một chế độ ăn uống quân bình ứng hợp với điều kiện sống và môi trường sống của mình.
Để biết cụ thể hơn về những thực phẩm nên sử dụng, bạn hãy tra cứu danh sách các loại thực phẩm được cung cấp ở phần tiếp theo.
1. Cốc loại lứt: Các loại ngũ cốc lứt được canh tác tự nhiên, mà trọng điểm là gạo lứt nên chiếm 50-60% khẩu phần, và có thể được chế biến theo nhiều cách khác nhau.
2. Canh xúp: Chiếm 5-10% khẩu phần ăn một bữa là vừa phải. Canh súp nên được nấu với tương đặc (miso) hoặc tương nước (tamari). Không nên nêm canh quá mặn, và có thể nấu nó bằng ngũ cốc, đậu hạt, rau củ, rong wakame hoặc kombu.
3. Rau: Chiếm từ 20-30% khẩu phần ăn. Ăn rau sạch, không bị bón phân hóa học và phun thuốc mới tốt. Có thể nấu rau thành món ăn bằng nhiều cách, nhưng rau sống thì càng ít càng tốt.
4. Đậu đỗ - Rong tảo: Chiếm từ 5-10% khẩu phần, đậu phải chín nhừ, còn rong biển thì có nhiều cách chế biến hơn, có thể nấu súp lẫn với rau và đậu, được nấu và ăn như một món riêng, gia vị bằng tamari, muối biển và dấm gạo hay dấm mơ muối.
5. Các thực phẩm bổ sung khác: Khoảng 5-10% khẩu phần. Có thể ăn chút ít cá thịt trắng một hay hai lần mỗi tuần nếu thấy thèm.
Các loại trái cây tráng miệng cũng được tính trong mục này, bao gồm cả loại tươi và khô, nhưng nên là sản vật địa phương, đúng mùa. Không nên dùng sinh tố trái cây. Tuy nhiên, vào mùa hè và ở xứ nóng như nước ta, thì có thể dùng với số lượng hạn chế.
Các loại hạt rang có thể dùng để ăn chơi, nhưng chớ có ăn nhiều. Có thể dùng cơm rượu nấu chín hay mạch nha, dấm gạo và dấm mơ làm gia vị để nấu các món ăn vặt cho vị chua, ngọt.
6. Nước giải khát: Các loại trà tự nhiên, không có mùi thơm nồng và làm mất ngủ đều tốt. Một số loại trà dưỡng sinh như trà Bancha, trà trộn, trà gạo rang có thể uống thay nước mỗi ngày. Đơn giản hơn, bạn có thể uống nước lọc. Lưu ý là chỉ uống đủ khát và tránh tuyệt đối không dùng nước đá.
7. Những thực phẩm nên tránh: Để gìn giữ sức khoẻ luôn luôn, ta cần tránh ăn: Thịt, trứng, mỡ, thịt gà vịt, chim, sản phẩm sữa, bơ, sữa chua, kem lạnh, sữa và phô mai.
Các loại trái cây nhiệt đới, bán nhiệt đới, sinh tố trái cây, nước giải khát có ga, đóng chai, vô lon, cà phê, chè (trà) nhuộm màu nhân tạo, những thức uống có mùi hăng, mạnh như nước bạc hà, xá xị…
Tránh hết các loại thực phẩm nhuộm màu, tẩm chất bảo quản, các hoá chất phụ gia. Các cốc loại xát trắng, bột xát trắng và các thức ăn chế biến sẵn từ chúng. Những thức ăn chế biến công nghiệp, đóng hộp và đông lạnh..
Tránh dùng các gia vị và thức ăn có mùi vị hăng mạnh như tiêu, ớt tỏi, dấm nhân tạo. Các loại thuốc và chất kích thích dù hợp pháp hay bất hợp pháp đều không nên dùng, trừ trường hợp bệnh thái quá nặng, có thể sinh biến chứng nguy hiểm, tạm thời còn cần tới những loại thuốc giúp cắt cơn hay kiểm soát biến chứng do bác sĩ kê toa.
8. Một số đề xuất: Nên dùng dầu thực vật để nấu nướng. Để cải thiện sức khỏe, tốt nhất bạn nên dùng dầu mè (vừng) hoặc dầu ngô ép thô, không tinh chế. Tuy nhiên, cần lưu ý đừng sử dụng nhiều, vì dầu khá âm.
Muối để nấu ăn nên là muối biển tự nhiên, không tinh chế. Cũng có thể sử dụng các gia vị có muối như tương đặc, tương nước, tương cổ truyền được chế biến theo phương pháp tự nhiên thay muối để nấu nướng.
Bạn có thể ăn ngày 2 đến 3 bữa, có thể ăn bao nhiêu tùy thích, miễn là nhai kĩ, và theo đúng tỷ lệ các thực phẩm ở trên. Không nên ăn thêm bất cứ thứ gì trước khi đi ngủ 3 tiếng.





--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
Diệu Minh
bài Aug 30 2011, 07:04 PM
Bài viết #2


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,057
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



Danh Sách Thực Phẩm Cần Biết
Các thực phẩm có đánh dấu sao (*) là những thực phẩm nên tránh dùng trong thời gian điều trị một số bệnh nhất định. Có thể xem thông tin chi tiết hơn về chúng ở phía dưới danh sách.
Cốc loại lứt: Bột chế biến
Loại thường dùng Đôi khi Đôi khi
Gạo lứt hạt tròn
Gạo lứt hạt ngắn
Lúa mạch
Bo bo (lúa miến)

Ngô hạt
Ngô bắp
Yến mạch lứt
Lúa mì lứt
Kiều mạch *
Hắc mạch Gạo lứt hạt dài
Nếp lứt trắng, đen
Bánh dày
Lúa mì dòn
(bulghur)
Yến mạch xay vỡ *
Bắp xay mảnh *
Bột bắp *
Hắc mạch chà bông
Cháo bột mì
(couscous) Mì, nui lứt *
Mì Udon *
Mì Somen *
Mì Soba
(từ kiều mạch *)
Bánh mì lứt không
men *
Bánh mì đen không men *
Mì căn khô *
Mì căn *

Rau – Củ
Thường dùng Đôi khi dùng Tránh dùng
Bí đỏ (ngô)
Bí mán
Cải chít
Súp lơ xanh
Bắp cải Brussels
Ngưu bàng
Cà rốt cả lá
Súp lơ trắng
Cải bắc thảo
(cải làn)
Cải canh
Củ cải lớn cả lá
Rễ và lá bồ công
anh
Củ mài
Rau diếp xoăn
Tỏi tây
Cần tây
Củ sen
Ngồng cải
Hành tây
Củ cải đường
Củ cải đỏ
Củ cải nhỏ
Cà rốt vàng
Cải cúc
Ngải cứu
Hành lá
Cải xoong
Ngò tây (rau mùi) Cần Đà Lạt *
Hành hoa *
Dưa chuột (leo)*
Cải Bỉ *
Đậu xanh *
Đậu Hà Lan *
Bắp cải Iceberg*
Rau a ti sô *
Xu hào *
Rau chân ngỗng*
Nấm các loại*
Bầu *
Cải Ý *
Diếp củ *
Nấm đông cô*
Đậu xanh (quả)*
Đậu tuyết *
Mầm cải *
Bí *
Đậu vàng (quả)* Hoa + lá atisô
Măng tre
Củ cải đường (đỏ)
Cà tím
Thì là
Măng tây
Củ sâm
Ớt xanh + đỏ
Rau chân vịt
Mướp tây
Khoai tây
Chuối lá
Rau sam
Me đất
Khoai lang
Lá me chua
Cà chua
Khoai sọ
Củ từ
Bí xanh

Đậu các loại:
Thường dùng Đôi khi dùng Thi thoảng dùng thay đậu hạt
Đậu đỏ hạt nhỏ
Đậu lăng (tươi)
Đậu đen
Đậu gà (đậu chích) Đậu trứng cút *
Đậu trứng rùa*
Đậu nành*
Đậu trắng hạt lớn*
Đậu đỏ hạt lớn *
Đậu lima*
Đậu xanh*
Đậu navy*
Đậu pinto* Đậu hũ (phụ) khô
Đậu hũ tươi*
Tương sổi*(natto)
Tương bánh*(Tempeh)

Rong – Tảo:
Tất cả loại rong tảo đều có thể dùng thường xuyên, theo tỷ lệ ở phần trước: phổ tai, tóc tiên (hiziki), Rau câu (xu xoa) Arame, Nori hơ lửa, Wakame, tảo đun,…
Quả (Thường dùng loại khô hay nấu chín).
Đôi khi dùng Tránh dùng
Táo tây *
Mơ*
Sim *
Mâm xôi *
Seri*
Nho *
Dưa tây (mật)*
Lê *
Đào *
Mận *
Nho khô *
Dâu *
Dâu tây*
Dưa hấu*
Dưa bở* Bơ
Chuối
Dừa
Chà là
Vả (xung)
Bưởi
Cam
Trái kiwi
Xoài
Đu đủ
Hồng
Dứa (thơm)
Các trái cây nhiệt đới khác

Thịt Cá
Thỉnh thoảng Tránh dùng
Cá chép *
Trai, sò *
Cá tuyết *
Cá bơn *
Tôm hùm *
Hàu *
Cá hồi *
Cá chỉ vàng *
Các loại cá thịt trắng khác Cá thịt đỏ
Thịt gà
Các loại gia cầm và chim khác
Trứng
Các động vật có vú
Sữa và các chế phẩm từ sữa

Dưa chua, rau củ dầm
Thường dùng Cần tránh
Dưa muối cám
Dưa muối nén
Rau củ dầm tương
Dầm tương +cám
Dưa cải bắp
Rau củ dầm tamari
Củ cải muối Dưa chuột (leo) muối đóng hộp
Tỏi, ớt ngâm dấm
Rau củ dầm dấm táo
Dưa ngRau củ dầm dấm vang
Thảo dược ngâm dấm.


Món Ngọt
Thường dùng Đôi khi Cần tránh
Bắp cải
Cà rốt
Củ cải lớn
Củ hành tây
Cà rốt vàng
Bí đỏ (ngô)
Bí mán Rượu nếp*
Nha lúa mạch*
Nha gạo *
Hạt dẻ*
Xem phần trái cây *
Rượu táo *
Nước cốt táo* Trái cây nhiệt đới
Đường đen, nâu
Hạt carob
Chocolate
Đường quả
Mật ong
Đường trắng
Si rô

Hạt – Hột
Đôi khi dùng Không nên dùng
Hạt dẻ*
Hạt bí*
Mè (vừng rang) *
Lạc (đậu phộng) *
Hạt hạnh *
Quả óc chó* Hạt phỉ
Hạt điều
Hạt dẻ cười
Hạt anh túc
Lạc tây

Giải khát
Thường dùng Đôi khi Hiếm khi Cần tránh
Trà lá già
Trà cành
Trà lúa mạch rang
Trà gạo rang
Trà trộn
Nước suối
Nước giếng Cà phê ngũ cốc
Trà bồ công anh
Trà phổ tai
Trà mơ muối
Trà Mu Trà xanh *
Bia
Rượu sakê
Nước quả
Các loại sinh tố Nước cất
Cà phê
Nước giải khát ướp lạnh, có đá
Rượu mạnh
Nước khoáng và nước giải khát có ga, có đường
Nước máy
Nước có chất kích thích
Trà mạn (búp)

Gia vị nấu và dầu ăn:
Thường dùng Ít dùng Cần Tránh hẳn
Tương đặc
Tương cổ truyền
Tương nước (xì dầu) tự nhiên
Tamari
Dầu vừng đen
Dầu vừng vàng
Muối biển tự nhiên
Mơ muối
Giấm mơ Dầu ngô *
Gừng*
Cải ngựa*
Rượu nếp*
Giấm gạo *
Dầu olive*
Dầu quỳ (hướng dương)*
Dầu cây rum* Mỡ động vật
Bơ và kem
Dầu dừa
Dầu lanh
Dầu bông
Dầu lạc
Dầu nành
Muối tinh
Tỏi
Bơ thực vật
Sốt Mayonaise
Tương công nghiệp
Thức chấm, thức trộn chế biến công nghiệp
Mù tạt
Tiêu

Thức chấm, trộn
Loại chính Loại phụ
Muối vừng
Bột rong biển
Bột rong trộn vừng rang
Tekka
Ô mai mặn Dấm gạo
Hành tây, hành hoa chưng miso
Bột rong nori
Vừng rang
Tía tô rắc cơm với vừng rang
Ô mai mặn và hành sống
Dấm mơ

Bữa phụ:
Bạn có thể trữ sẵn mì sợi, bỏng ngô, bỏng gạo, bánh đa, phở lứt, bún lứt, cơm nắm, bánh gạo, hạt rang các loại, sushi và bánh mì lứt để chế biến các bữa phụ một cách nhanh chóng.

Các phương pháp nấu nướng
Thường dùng Ít dùng
Nấu áp xuất
Luộc
Hấp
Nấu khô
Canh xúp
Muối chua
Xào không dầu (dùng nước thay thế)
Muối nén
Nồi lõi sứ Áp chảo*
Xào*
Ăn sống*
Rán*
Tẩm bột chiên*
Nướng*

Làm thế nào để có những bữa ăn đa dạng, phong phú:

1. Thay đổi khi chọn lựa những thực phẩm, ngũ cốc, rau củ liệt kê trong các bảng,
2. Thay đổi phương pháp nấu
3. Thay đổi cách cắt thái rau củ
4. Thay đổi lượng nước
5. Thay đổi loại và số lượng giữa các gia vị nấu và các thức chấm, trộn
6. Thay đổi thời gian nấu
7. Điều chỉnh ngọn lửa
8. Đa dạng cách trình bày, phối hợp thực phẩm và món ăn
9. Thay đổi cách nêm nếm.

Gợi ý lối sống
 Hãy trân trọng, gìn giữ những ước nguyện, những hình ảnh về sức khỏe, sự bình yên, thịnh vượng cho bạn, cho mọi người và cho thế giới.
 Hãy sống lạc quan, vui vẻ, đừng nặng lo tình trạng sức khỏe của mình, hãy giữ cho tinh thần và thể xác luôn bén nhạy, linh hoạt.
 Hãy nhìn mọi việc, mọi người mà bạn gặp với lòng biết ơn. Nên bày tỏ lòng biết ơn trước và sau mỗi bữa ăn của bạn
 Ngủ trước nửa đêm, dậy trước mặt trời mọc.
 Không mặc quần áo từ sợi nhân tạo và len ôm sát da, nên chọn mặc đồ từ vải bông nhiều nhất có thể, nhất là quần áo lót. Đừng đeo nhiều trang sức kim loại. Nếu bạn thích, thì nên chọn đeo những trang sức thiết kế đơn giản mà thanh lịch.
 Nếu sức khỏe cho phép, nên đi dạo ngoài trời mỗi ngày nửa tiếng, khi đi dạo, ăn mặc đơn giản, có thể chọn đi trên bãi cỏ, bãi biển hay đường đất.
 Giữ cho mọi ngóc ngách trong nhà gọn gàng, trật tự, ngăn nắp.
 Hãy bắt đầu thực hành, và duy trì việc cầu nguyện, ước mong để những điều tốt đẹp nhất đến với gia đình và bạn bè của bạn. Và hãy cởi mở trong cuộc sống, trân trọng mối quan hệ với mọi người xung quanh.
 Không tắm nước nóng quá lâu, và tránh tắm vòi sen, trừ khi cơ thể bạn đang bị dư muối, ví dụ, do ăn thịt cá nhiều.
 Chà sát da dẻ toàn thân bằng chiếc khăn tắm ẩm và nóng tới khi da ửng đỏ mỗi sáng, hoặc mỗi tối, trước khi đi ngủ. Nếu bạn không có điều kiện làm thế, ít nhất cũng xoa bóp tay, chân và các ngón tay, ngón chân.
 Không dùng nước hoa nhân tạo, các loại hóa mĩ phẩm, nên đánh răng bằng muối, hoặc thuốc đánh răng Ohsawa (có thành phần dentie), dùng các loại xà phòng, dầu gội có nguồn gốc tự nhiên.
 Nếu bạn có điều kiện, nên đều đặn tập luyện thân thể, có thể tập thể dục dưỡng sinh, khiêu vũ, thể thao, thiền hay yoga, hoặc lau chùi, dọn dẹp nhà cửa.
 Tránh nấu ăn bằng lò điện, lò vi ba, nên dùng bếp ga, bếp than hoa hay bếp củi.
 Nên hạn chế tối đa việc ngồi trước màn hình TV hay máy vi tính.
 Chọn trồng những loại cây thích hợp quanh nhà để bầu không khí xung quanh được tươi mát, trong lành.


3.
ĐIỀU CHỈNH THỰC ĐƠN CHO BỆNH TIỂU ĐƯỜNG VÀ MÁU THIẾU ĐƯỜNG

Đến đây, chúng ta đã có một hình dung cụ thể về đồ Thực dưỡng tiêu chuẩn; một chế độ như vậy đủ để ngăn ngừa các vấn đề về đường huyết đồng thời vẫn đảm bảo sức khỏe ổn định. Nhưng trong trường hợp bệnh đã tiến triển từ trước khi áp dụng, ta cần có thêm những điều chỉnh linh hoạt trong vài tháng, hoặc tới khi bệnh trạng có biến chuyển mới khả quan, và có thể bắt đầu áp dụng chế độ tiêu chuẩn.
Cả hai dạng bệnh đều bắt nguồn từ sự mất quân bình trong cơ thể, vậy nên quan trọng nhất là bảo đảm một chế độ dinh dưỡng quân bình âm dương, và cố gắng phát triển cảm nhận về sự quân bình trong lúc chế biến và nấu nướng, từ việc phối trộn, gia giảm, nêm nếm, bày biện… Cũng không nên phân chia bữa ăn một cách cứng nhắc, ví dụ, cố chịu đói vì mỗi bữa không ăn được nhiều, hoặc ăn quá nhiều so với sức tải của dạ dày khi đến bữa. Trong trường hợp bạn không thể ăn nhiều nhưng lại nhanh đói, hãy chia ra ăn mỗi ngày năm đến sáu bữa nhỏ, quan trọng nhất là nhai thật kỹ và không ăn quá no, để hệ tiêu hóa của bạn làm việc thuận lợi và không làm trầm trọng thêm sự yếu kém sẵn có của nó trong việc kiểm soát đường huyết.
Thực phẩm quan trọng nhất trong mỗi bữa ăn là thực phẩm nhiều tinh bột và gần với mức quân bình như cốc loại lứt, kế đến là các loại rau củ có nhiều vị ngọt. Những loại rau củ nên có thường xuyên là bí đỏ, hành tây, bắp cải, cà rốt, củ cải, bông cải (hoa lơ), tỏi tây. Về cốc loại, thì gạo lứt hạt tròn, gạo nếp lứt và kê là tốt nhất, trong các loại đậu và hạt thì đậu đỏ hạt nhỏ, đậu lăng, vừng và hạt bí đỏ là tốt nhất. Tuy trái cây cũng ngọt, nhưng chúng quá âm so với cơ thể nên sẽ tạo ra trạng thái mất quân bình.
Bạn cần nhớ để chế hộ ăn hơi nghiêng về âm cho bệnh tiểu đường type II, chế độ ăn hơi nghiêng về dương dành cho bệnh tiểu đường. Cơ thể cần sự quân bình, vì vậy, việc ăn uống không thể nghiêng lệch hoàn toàn về một phía.
.1. Cốc loại lứt:
A. Tiểu đường: Nên dùng nhiều gạo lứt hạt tròn ngắn, kê và nếp lứt, thỉnh thoảng có thể ăn kiều mạch và các loại ngũ cốc khác. Tránh hẳn các món bánh bột nướng hay xát trắng. Nhưng thỉnh thoảng có thể ăn bánh mì lứt, nui lứt, mì lứt hay mì căn (mì căn ở các cở sở Thực dưỡng thường có - đây là loại protein từ bột mì, ăn khá ngon dai như ăn thịt…).
B. Tiểu đường type II:.Dùng nhiều ngũ cốc lứt phối trộn thay đổi để phần chính của bữa ăn phong phú, như gạo lứt hạt tròn, hạt dài, nếp lứt, kê, lúa mạch, bo bo,… Nên tránh ăn các loại bánh bột nướng và bánh mì. Các loại mì, nui, cháo bột, ngũ cốc lứt ăn liền, mì căn đều có thể ăn thường xuyên.
2. Canh Xúp.
Thường sử dụng các loại rau củ ngọt.
A. Tiểu đường: Mỗi ngày chỉ nên ăn từ một tới hai chén (bát con) canh súp. Nhớ thêm chút rong phổ tai vào canh. Để tăng sức, hãy bỏ vài miếng bánh dầy (xắt con cờ), và nêm canh bằng tương miso.
B. Tiểu đường type II: Không nên nêm canh mặn và tránh loại miso hay tamari lâu năm. Ngoài rau củ ngọt, thỉnh thoảng cho thêm nấm đông cô vào canh để khử mỡ thừa trong cơ thể. Món súp nấu từ đại mạch và nấm khuy cũng có công dụng tương tự.
3. Rau – Củ
Trong cả hai trường hợp, ta nên nấu canh với bí đỏ, cà rốt, hành tây, củ cải là loại rau củ có vị ngọt.
A. Tiểu đường: Dùng nhiều rễ củ hơn, nên chọn những loại rau có cấu trúc lá co thắt mạnh, nhiều thùy (như cải xoăn, cải xoong...) Có thể ăn các rau củ ngọt, nhưng tránh cả các loại đánh dấu * trong danh sách rau củ. Thỉnh thoảng có thể ăn món rau củ xào hoặc cơm rang với rau củ. Giới hạn tối đa việc ăn rau sống, nhất là vào mùa đông.
B. Tiểu đường type II: Chú trọng những loại rau, củ tròn, vị ngọt (như bí đỏ, cải bắp, hành tây,…) và các loại rau ăn lá. Có thể ăn thường xuyên món rau củ ngọt kho hoặc hầm chung với đậu đỏ hạt nhỏ. Thỉnh thoảng có thể ăn các thứ rau trong danh sách hạn chế sử dụng. Nên ăn loại salad từ rau luộc, chần hay ép. Hạn chế tối đa việc ăn salad từ rau sống.
4. Đậu và chế phẩm:
Trong cả hai trường hợp, mỗi ngày có thể dùng một chút món đậu đỏ hạt nhỏ nấu với bí đỏ và phổ tai. Nấu kỹ và nêm tamari hoặc tương cổ truyền (nêm nhạt với bệnh tiểu đường type II, nêm mặn cho bệnh tiểu đường)– có thể dùng hành tây, cà rốt, củ cải thay thế cho bí đỏ. Có thể rắc lên món này chút hành hoa, cần tây hay rau mùi trước khi dọn ra.
A. Tiểu đường: Tốt hơn là nên giới hạn việc dùng đậu đỏ hạt nhỏ và đậu lăng (lentil) trong 3 tới 6 tháng đầu tiên áp dụng. Dùng đậu phụ khô tốt hơn là đậu phụ tươi.
B. Tiểu đường type II: Chú trọng đậu đỏ hạt nhỏ và đậu lăng. Thi thoảng đổi các loại đậu trong danh sách ít dùng vào cho bữa ăn được phong phú. Nhưng cần nhớ là không nên lạm dụng đậu hạt, vì quá nhiều chất béo có thể gây hạ đường huyết. Đôi khi có thể dùng dấm gạo làm gia vị khi nấu nướng.
5. Rong – tảo:
A. Tiểu đường: Các loại rong đều tốt, đặc biệt là phổ tai, tóc tiên và arame. Các món rong nấu với rau củ ngọt, vài giọt dầu ăn và nêm tương nước có thể ăn mỗi tuần 2-3 lần.
B. Tiểu đường type II: Các loại rong đều được, nhưng chú trọng phổ tai, arame, wakame và nori. Món rong nấu với rau củ ngọt, nêm nhạt với tamari có thể ăn tuần 2-3 lần. Thi thoảng có thể nêm vài giọt dấm gạo.
6. Hột –hạt và các thức ăn cho bữa phụ:
A. Tiểu đường: Vừng vàng, vừng đen, hạt bí rang búng thêm muối hoặc tamari. Các loại hạt khác như lạc, hạnh đào có thể dùng làm đồ ăn vặt, các loại bánh làm từ gạo lứt và bỏng gạo, bỏng ngô không bị thêm đường cũng vậy
B. Tiểu đường type II: Các loại hạt rang chín, búng thêm ít muối hoặc không muối đều có thể ăn, miễn sao mỗi lần không ăn nhiều. Hạt rang vừa chín tới là đủ. Có thể ăn riêng lạc và hạnh đào hoặc ăn chung với những loại trái cây khô sinh trưởng ở vùng lạnh như táo tây, dâu tây… Nhưng không nên ăn thường xuyên.
7. Hải sản:
A. Tiểu đường: Có thể ăn 1 chút cá (thịt trắng) 1, 2 lần một tuần nếu quá thèm hoặc vì cần tăng sức. Cá nên ăn kèm củ cải bào, nêm nước tương - trên rắc củ hành tây băm hay hành lá.
B. Tiểu đường type II: Trong vài tháng đầu trị bệnh, tốt nhất nên hạn chế ăn cá và hải sản. Nên dùng mì căn hay đậu nấu nhừ, nêm miso để giải quyết tình trạng thèm thịt cá. Nhưng nếu bạn quá thèm, có thể ăn một chút cá thịt trắng, tuyệt đối không nên ăn cá thịt đỏ.
8. Tráng miệng:
Phần tráng miệng dùng thức ngọt chế biến tự nhiên từ ngũ cốc và rau củ, và chỉ dùng vài lần mỗi tuần để làm dịu cảm giác thèm ngọt. Hạn chế tối đa việc ăn các loại trái cây khô hoặc trái cây nấu chín.
9. Nêm nếm:
A. Tiểu đường: Có thể dùng muối biển, miso, nước tương và mơ muối để nêm cho thức ăn đậm đà. Tuy nhiên, nếu quá tay thì người ăn sẽ khát và khó mà giữ việc uống ít nước được, vậy nên bạn phải cân nhắc phân lượng cho tốt, vì muối là cần thiết để cải thiện tình trạng của người bệnh. Có thể dùng ít vừng rang để rắc lên món ăn, hoặc dùng một chút dầu vừng để xào nấu, nhưng tuyệt đối tránh rưới dầu lên các món đã nấu xong. Nên chọn loại dầu tốt nhất có thể. Các gia vị khác như gừng, dấm gạo… có thể dùng đôi khi.
B. Tiểu đường type II: Với bệnh này, món nào cũng nêm nhạt, trong một số món, ví dụ rau củ kho, có thể dùng một miếng phổ tai để thay cho muối. Hạn chế tối đa việc sử dụng dầu ăn cho tới khi đường huyết tăng thêm. Các loại gia vị khác có thể thỉnh thoảng dùng, với lượng vừa phải.
10. Các thức chấm, trộn và dưa muối, rau củ dầm:
A. Tiểu đường: Có thể dùng muối vừng hàng ngày, tỷ lệ từ 12 → 14 phần vừng rang với 1 phần muối. Tốt nhất là dùng loại muối vừng giã tay. Có thể nướng rồi tán bột riêng phổ tai hoặc rong wakame, hoặc đem xay chung với vừng rang. Hạt bí rang tróc vỏ và rong nori hơ lửa (hoặc dùng loại màu xanh bán sẵn) cũng có thể xay chung để sử dụng tương tự. Thi thoảng có thể dùng tekka hoặc Phổ tai rắc cơm (rong phổ tai ninh nhỏ lửa trong nồi đế dày với tương và nước, sấy ẩm rồi thái vụn) Thường xuyên sử dụng dưa muối từ các loại củ, các loại rau có lá dày như cải bắp, cải xoắn, loại muối càng lâu thì càng tốt, có thể muối cám, muối nén, dầm tương. Loại rau củ muối cám hoặc dầm tương trên 3 tháng sẽ làm mạnh hệ tiêu hóa và cải thiện bệnh trạng (ví dụ như là ca la thầu…). Tuy nhiên, chỉ nên dùng mỗi ngày một ít.
B. Tiểu đường type II: Cũng dùng muối vừng hàng ngày, nhưng nhạt hơn, trộn từ 14 → 16 mè với 1 phần muối. Các loại bột rong biển trộn hạt rang như trên, bột tía tô rắc cơm, bột rong nori hoặc phổ tai rắc cơm với vài giọt dấm gạo, các loại dưa muối như trên. Chỉ lưu ý là nếu thấy mặn thì không nên cố dùng nhiều.
11. Nước uống:
A. Tiểu đường: Nói chung, lượng chất lỏng nên được sử dụng vừa phải, tốt hơn nên uống trà cành, trà bancha, trà trộn, trà gạo rang hay ngũ cốc rang, hoặc trà hay cà phê chế bằng các loại rễ tán bột. Đồng thời, cố gắng hạn chế nước sinh tố, nước khoáng và các loại nước giải khát khác.
B. Tiểu đường type II: Lượng nước uống cho phép thoải mái hơn, nhưng phải tránh các loại nước lạnh, nước đường, nước có ga, nước tăng lực, nước pha hương liệu, kể cả cà phê.

4.
BẢN CHẤT BỆNH TIỂU ĐƯỜNG (type I) VÀ RỐI LOẠN ĐƯỜNG HUYẾT (tiểu đường type II)
Như chúng ta đã tìm hiểu ở những phần trước, cuộc sống của con người không phải một tồn tại cá biệt, độc lập mà là kết quả cuối cùng của một xoắn ốc sáng tạo tự nhiên, lâu dài. Xoắn ốc sáng tạo ấy không phải một dạng tồn tại hữu hạn, cá biệt đã được tạo ra vào một thời điểm xa xưa nào đó, nó là liên tục, vô thủy vô chung và đang biến dịch trong từng khoảnh khắc.
Chúng ta vĩnh viễn gắn kết với vũ trụ vô tận, được sinh thành và nuôi dưỡng thông qua thức ăn, nước uống, không khí, ánh sáng, những tư tưởng, năng lượng âm dương (ví dụ, nó biểu lộ ở sự co dãn trong hoạt động hô hấp của 2 lá phổi, sự co bóp của trái tim, các phản ứng sinh insulin và phản insulin,…) và dòng chảy trực tiếp của một tri kiến vô hạn, khiến cho ta có trực cảm về sự tồn tại của một Nhất thể, chúa trời hay là sự thật tuyệt đối.
Sức khoẻ tuỳ thuộc vào sự duy trì một dòng sinh khí luôn trôi chảy tự do, kết nối những nguồn dưỡng chất đến từ tất cả các thế giới từ trọng trược tới thanh nhẹ. Và nếu xét riêng một chiều kích tuy nhỏ bé nhưng mang ảnh hưởng lớn lao, đó là thể xác vật lý với các thực phẩm nuôi sống nó, sức khỏe tùy thuộc vào việc sử dụng hiệu quả năng lượng chuyển hóa từ chất đường mà chúng ta ăn vào mỗi ngày. Phần cốt lõi của đời sống thực vật và các dạng thực phẩm là chất đường, và đường cũng là phần cốt lõi trong chế độ dinh dưỡng của con người, nó có thể là các loại đường phức hợp có trong rau, đậu, cốc loại lứt hay những dạng đường đơn giản trong bánh mì trắng, gạo và bột xát trắng, bánh ngọt và kẹo. Chọn ăn loại đường nào chính là nhân tố quan trọng nhất quyết định sức khỏe của chúng ta.
Nếu chế độ dinh dưỡng của ta thiếu quân bình, khả năng khai thác nguồn đường trong cơ thể cho hiệu quả sẽ mất. Ví dụ, nếu bạn ăn quá nhiều thức ăn thặng dương, như trứng, thịt, pho mát, chứng tiểu đường type II sẽ phát triển (là hiện tượng đường huyết bị thấp hay mất ổn định mãn tính); còn nếu chúng ta dùng quá nhiều thức ăn âm tính, như sữa, bột xát trắng, đường, mật và các loại nước có gaz… bệnh tiểu đường sẽ ngày càng trầm trọng. Trong nhiều trường hợp, cả hai chứng bệnh phát triển song hành một lúc. Nguyên nhân cơ bản là do chúng ta bị thiếu nguồn năng lượng ổn định từ các loại đường phức hợp từ cốc loại nguyên cám.
Không giống như đường đơn luôn đi thẳng vào máu qua thành ruột, khiến đường huyết tăng cao đột ngột, gây ra những phản ứng tạo axit mạnh mẽ, gây chua máu, đòi hỏi tuyến tụy phải ra sức sản xuất nhiều insulin hơn để tái lập thăng bằng, đường phức hợp cần thời gian để các men tiêu hóa trong ruột non phân giải nó thành đường đơn, do đó nó được hấp thụ từ từ vào cơ thể trong lúc di chuyển theo nhu động của đường ruột dài, ngoằn ngoèo. Ngoài ra, lớp vỏ của cốc loại lứt có nhiều vitamin và khoáng chất, giúp chuyển hóa chính nó, cân bằng các phản ứng tạo axit trong máu, nhờ đó, bảo vệ luôn kho dự trữ khoáng chất của cơ thể, chính là bộ xương. (Ví dụ dễ thấy nhất là những người ăn quá nhiều những đồ ngọt có nhiều đường đơn như kem, chè, bánh kẹo,… có mùi mồ hôi chua chua, khi họ bị thương thì tổn thương dù nhỏ cũng rất lâu lành, luôn bị mưng mủ hay sưng tấy, răng và xương hay bị giòn, dễ gãy, vỡ.)
Một số biện pháp phòng trị của Tây Y hiện đại tỏ ra cực kỳ thiếu hiệu quả. Ví dụ, một chế độ ăn kiêng đường, tăng cường các dưỡng chất thay thế là đạm và chất béo thường được bác sĩ kê cho các bệnh nhân tiểu đường type II. Nhưng một chế độ ăn như vậy sẽ đưa vào người rất nhiều đạm và chất béo gốc động vật, là những thực phẩm làm lá lách suy yếu, và dẫn tới sự mất kiểm soát lớn hơn trong việc điều tiết insulin và phản insulin của tuyến tụy, kết quả là chứng rối loạn đường huyết càng thêm trầm trọng. Cách chữa trị này xuất phát từ một tư duy thiếu tính tổng thể đã không xem xét toàn bộ cơ thể với các quan hệ tương tác qua lại giữa các cơ quan bộ phận, cũng chẳng có sự chú trọng đến vấn đề quân bình Âm Dương.
Cách chữa trị của Thực dưỡng cho hai căn bệnh này là tái lập sự cân bằng trong hoạt động biến dưỡng đường của cơ thể và kiêng hẳn những thực phẩm thặng âm hay thặng dương. Đối với bệnh tiểu đường hay tiểu đường type II, ta cần một số điều chỉnh so với thực đơn chung dành riêng cho từng cá nhân, tùy theo tình hình cụ thể của họ trong một vài tháng. Tất nhiên nếu bạn có được một người giàu kinh nghiệm kèm cặp và tư vấn cách thức điều chỉnh thực đơn thì quá tuyệt, nhưng những chỉ dẫn cụ thể trong cuốn sách này đã là đầy đủ và cơ bản để bạn có thể tự mình bắt đầu thực hành. Về cơ bản, ta áp dụng một thực đơn hơi âm dành cho bệnh rối loạn đường huyết (tiểu đường type II), và một thực đơn hơi dương so với mức quân bình cho bệnh nhân tiểu đường type I. Trong cả hai trường hợp, ta đều lấy trọng điểm là gạo lứt và các loại rau củ có hình tròn và nhiều vị ngọt.
Bệnh trạng cải thiện nhanh đến đâu cũng tùy thuộc vào từng ca cụ thể. Nhưng nhìn chung, đa phần bệnh nhân áp dụng lấy lại mức đường huyết cân bằng và tình trạng sức khỏe ổn định sau ba tới sáu tháng áp dụng. Những ca bệnh đã quá trầm trọng có thể đòi hỏi nhiều thời gian hơn.
Và mặc dù ăn kiêng là vấn đề trọng điểm trong cuốn sách này, hy vọng bạn không máy móc tới mức cho rằng chỉ mình thực phẩm quyết định tất cả mọi vấn đề. Hãy giữ tinh thần bạn lạc quan, tích cực và duy trì quan hệ tốt lành với mọi người và với thế giới xung quanh.
Đây là loại bệnh rối loạn chuyển hoá đường. Thời nay, bệnh này đang là một trong những bệnh đe doạ sức khoẻ mọi người sau bệnh tim mạch, ung thư, HIV…
Bệnh không gây ra cái chết nhanh như đột quị và đau đớn kinh hoàng như các bệnh ung thư nhưng biến chứng của bệnh lại gây chết người khi nó làm xơ vữa động mạch, suy mạch vành, cao huyết áp, thong manh, hư võng mô – mù loà… Người bệnh nếu lỡ bị thương thì vết thương không lành, dễ nhiễm trùng để cuối đường, có tử thần lôi đi.
Ngày nay (2010) y học tân tiến đã chịu bó tay với bệnh này và đành tuyên bố chung sống với tiểu đường mãn đời, mặc nhiên xếp bệnh vào loại nan trị như tim mạch, ung thư, cùi hủi… Theo phương pháp Ohsawa thì ai bị tiểu đường dưới sáu năm , chỉ cần ăn uống đúng theo nguyên lý quân bình âm dương , thì sẽ lành bệnh sau chín mươi ngày hay còn có thể sớm hơn vài tuần!
Bệnh này rất mau lành, nếu người bệnh trong ngày hôm nay quyết định không đụng tới các thực phẩm độc hại gây bệnh, và ăn theo pháp Ohsawa thì ngày hôm sau, gốc bệnh đã bắt đầu một ngày một lành và cứ thế mà giảm dần, có thể “thấy bệnh lùi đi” bằng cách đo đường trong máu.
Chất đường độc hại xâm nhập vào dòng máu người bệnh nhiều nhất thường là đường từ cơm cháo nấu từ gạo đã xát trắng hoặc các sản phẩm của gạo xát trắng như phở, nui mì hay bánh mì nướng bằng bột mì sau khi đã chà trắng. Sau đó tới bánh, kẹo, chè ngọt, nước ngọt các loại. Dân hảo ngọt còn mê ăn vặt trái cây ngọt lịm như na (mãng cầu), mít, xoài, chuối, nhãn, vải, sầu riêng. Ngoài cây quả còn có các loại củ nhiều tinh bột như củ mì (sắn) khoai môn, khoai sọ, khoai tây, khoai lang . Nhất là khoai lang đỏ. Người bệnh tiểu đường còn cõng thêm chứng táo bón, vì thế họ nghĩ ăn khoai dễ đi tiêu mà không biết họ đã tiếp tay, làm bệnh càng nặng hơn. Mặt khác ta có các món ăn lành như bí đỏ, khổ qua - mướp đắng, đọt rau lang, đều là những thứ trị bệnh tiểu đường và táo bón. Trong pháp Ohsawa, ta thường dùng muối mè (vừng), dầu mè, đậu đen hầm nhừ nêm tương đậu nành. Ai bị táo bón vì thiếu men tiêu hoá, hãy ăn bột sắn dây, khuấy còn hơi đục, nêm nước tương cổ truyền hoặc yaourt không đường, đều hoá giải được táo bón.
Sức khoẻ toàn vẹn tuỳ vào sự quân bình giữa lượng đường và oxy có trong dòng máu. Ngược lại, cơ thể uể oải và đầu óc mơ hồ đều do “thủ phạm đường” gây ra.
Ai cũng có thể sự cải tiến sức khoẻ nếu biết “tránh ăn đường đơn” làm từ mía và tẩy trắng như cát mà hiện nay được pha chế tràn lan trong các thực phẩm chế biến sẵn.
Thông điệp bảo vệ sức khoẻ minh triết của phương Đông đã nhận ra đường mía tẩy trắng, là nguyên nhân số một gây đủ thứ bệnh cho cộng đồng thời nay trên khắp thế giới (tìm đọc mục “Đường trắng - chất độc trắng” trong “Khoa học ăn chay”) :
___________
* Prana hay khí hạo nhiên rất cương mãnh.
* Glucose
“Đường” đặc biệt nguy hại cho người ăn cơm gạo đã chà trắng làm thực phẩm chính. Đã vậy họ còn đem nhiều bánh kẹo, trái cây ngọt về cho người nhà ăn, sẽ phải chịu trách nhiệm nặng và phải đối mặt với sự kinh hoàng do bệnh tật họ vô tình gây ra – Tiên sinh G. Ohsawa.
Bệnh tiểu đường loại I, do tuyến tuỵ không đủ sức tạo Hocmon insulin hay tiểu đường phụ thuộc insulin. Còn tiểu đường loại II, do cơ thể không tạo đủ insulin, hay có đủ insulin nhưng không đưa phân tử đường vào dòng máu nên còn gọi là bệnh rối loạn đường huyết (hypoglycemia) hay bệnh tiểu đường không phụ thuộc insulin.
Nguyên nhân chính gây bệnh tiểu đường típ I và II là thực phẩm – chất nuôi cơ thể còn thiếu quá nhiều dưỡng chất nằm trong 7 lớp cám và mầm gạo, chúng có tác dụng bảo vệ cơ thể, hoá giải mọi bệnh tật, mà hai típ tiểu đường cũng gồm trong đó.
Ngày nay khoa dinh dưỡng học đã nghiên cứu và phân tích ra rằng trong thành phần gạo lứt, có gần 2000 dưỡng chất có công dụng trị đủ loại bệnh. Cho nên chỉ cần ăn cơm gạo lứt 100%, kèm với sự nhai kỹ từng miếng cơm, ít nhất từ 50 đến 200 lần nhai, là điều kiện tối ưu để chữa trị nhanh chóng đủ thứ bệnh trong thời gian từ ba tuần đến ba tháng. Sau khi trị bệnh rồi, ta ăn cơm gạo lứt muối mè hàng ngày, được coi là thực phẩm bổ dưỡng vô song. Có thể nói “gạo lứt là thuốc, thuốc là gạo lứt”.
Chất bột trong cơm gạo chà trắng, khi ăn vào, nó chuyển hoá thành “đường đơn”* và xâm nhập ngay vào dòng máu, làm chỉ số đường trong máu tăng đột biến – khiến tuỵ tạng phải tiết nhiều chất insulin ra, để tái tạo mức quân bình cho lượng đường và lương oxy đang vận chuyển trong máu. Nhưng không phải lúc nào insulin tiết ra cũng vừa đủ để quân bình, mà thường quá nhiều, làm đường trong máu bị tụt xuống, làm cho cơ thể lại phải tự điều chỉnh để đẩy lượng đường lên. Dù được điều chỉnh nhưng lượng đường vẫn lệch lạc… Việc này lập lại quá nhiều qua tháng năm, đã làm cơ thể mỏi mệt, suy yếu và biến thành rối loạn chuyển hoá và sinh bệnh tiểu đường hay là “rối loạn chuyển hoá đường”.
Như trên đã nói, chất bột trong cơm gạo lứt gồm bảy lớp cám, được gọi là bột phức hợp*, chất phức hợp này có sự chuyển hoá đường nên còn gọi là đường phức hợp (complex sugar) hay đường đa. Đây là thứ đường quân bình Âm/Dương, không khiến đường trong máu tăng lên gấp rút, nên không làm rối loạn dòng máu lưu thông trong thân mà còn giúp cơ thể khoẻ lên, tăng sức dẻo dai, nên mới có công năng trị “mọi bệnh”. Tóm lại muốn nhanh chóng hết bệnh tiểu đường, chúng ta cần phải:
1- Ăn cơm gạo lứt tỷ lệ 95% cơm+ 5% muối mè hoặc rau củ (hấp hay xào khô) 5%.
2- Uống ít nước, mỗi ngụm nước ngậm ba phút trước khi nuốt để nước bọt tiết ra, đỡ khát nước rất nhiều. Uống nhiều, người bị âm hoá, bệnh lâu lành.
3- Bí quyết trị bệnh nặng, ta xen kẽ ăn theo số 7 một tuần, rồi nhịn ăn từ 1 đến 2 ngày ( uống nước gạo lứt rang hoặc nhịn uống được, càng tốt).
4- Bí đỏ hấp hoặc nấu canh ăn rất tốt vì có tác dụng làm giảm đường (nếu không kèm những biến chứng như suy thận, viêm khớp…) Khổ qua (mướp đắng) ép hoặc xay uống rất hay, còn có thể nấu canh ăn, nếu không có bệnh khác kèm theo . Xích tiểu đậu – đậu đỏ nhỏ hạt, đậu lăng, đậu hoà lan, có thể hầm nhừ ăn kèm tương nước hoặc rắc muối mè, nhai kỹ cũng là loại thức ăn nên dùng.
5- Thực phẩm chức năng có công dụng trừ tiểu đường là tỏi, tảo spirulina. Đặc biệt là giảo cổ lam, làm hạ đường máu đến 36%, và ức chế tăng đường đến 63%.
6- Nước uống:
Nên uống trà gạo lứt, rang chung với đậu đỏ, ngoài tác dụng trị bệnh, loại nước này còn điều hoà thân nhiệt, giúp sự tiêu hoá, trừ tiêu chảy (bỏ thêm ít muối) trị đau khớp, tiểu đêm, chống mất ngủ, viêm thận và nhất là bồi bổ cho thận.
Uống kèm canh dưỡng sinh, mỗi lần cách nhau một giờ, để đẩy mạnh công dụng trị tiểu đường và còn làm giảm các biến chứng của tiểu đường như xơ vữa động mạch, suy thận, viêm khớp.
7- Vận động nên đi bộ mỗi sáng hoặc sau bữa cơm chiều – hay môn thể thao nào bạn vẫn hay tập luyện.
8- Mỗi bữa ăn, cần nhai thật kỹ, càng nhai kỹ, càng mau lành bệnh (nhai thức ăn thành chất lỏng rồi mới nuốt. Mỗi miếng, nhai từ 60 lần trở lên, lý tưởng nhất, là 100 đến 200 lần.
9- Điểm tâm: Dùng bột ngũ cốc khuấy với bột sắn dây, bột đậu đỏ, thêm bơ mè, miso - tương đặc, hay nước tương cổ truyền. Hay có thể ăn các loại bánh gạo lứt như bánh đa, cháo, phở, bắp luộc “tại nhà”…
Tiểu đường kèm tim mạch: Dùng 500g cần tây chia đôi sáng chiều, vắt, ép nước uống sống, uống nhấp từ từ, mỗi đợt liên tục 5 ngày.
Nếu tiểu đường kèm suy thận (đau lưng, tiểu nhiều, tiểu đêm) thì cần đắp nước gừng nóng ở vùng thận ngày 3 lần, mỗi lần 25-30 phút.

Thực Chứng Trị Liệu Theo Pháp
Ohsawa
Trong phần Chứng Thực Trị Liệu, Tiên sinh Ohsawa tự thân làm thực chứng, tự trị cho ngài chứng bệnh “ung sang nhiệt đới”, một bệnh được bác sĩ Albert S. cho là một bệnh bất trị, nó hoành hành ở Nam Phi (Lambaréné) như vào chốn không người. Ai mắc phải ung sang này thì chỉ còn một đường duy nhất, ấy là cái chết chắc! Căn bệnh này reo rắc kinh hoàng khắp lục địa Châu Phi…
Ngài Ohsawa biết sự hung hãn của bệnh ấy tới mức tuyệt đỉnh, lại nghe ở đó đang có vị thánh nhân, xả thân chăm sóc cho bao người bản xứ đang rên xiết trong địa ngục trần gian. Bác sĩ đó là Albert Schweitzer, nguyên ông còn kiêm nghiệp nghệ sĩ piano có đôi tay vàng, thỉnh thoảng xuất hiện trước công chúng Âu Châu, biểu diễn trong đại nhạc hội, tiền thu được bao nhiêu, ông đem về bệnh viện ở Nam Phi giúp cho những bệnh nhân da đen khốn khổ vì bệnh tật. Thời đó, bác sĩ Albert được thế giới biết đến và ngưỡng mộ ông gần như ngày nay người ta tôn sùng Mẹ Maria Calcutta vậy. Tiên sinh Ohsawa từ Nhật, lặn lội với phu nhân đến Lambanéré năm 1956. Ngài muốn nếm thử mùi vị ung sang nhiệt đới xem thế nào, và quả thật ngài đã vướng bệnh ung sang kinh hãi kia: Ngài để chứng bệnh này đục khoét thân, mình lỗ chỗ như một cái bia cho lính mới tập bắn. Vướng bệnh, ngài đã biết, đã thực chứng những triệu chứng và bệnh trạng trong bốn tuần rồi, ngài bắt đầu tự chữa bệnh nếu không chỉ vài ba tuần nữa là cái chết không thể nào tránh khỏi!
Thế là ngài bắt đầu trị bệnh bằng cách mỗi ngày ăn chừng 100g gạo lứt rang thành cốm và một quả mơ muối. Tối ngậm và nuốt vài chục gam muối bột và tuyệt nhiên không uống, “dù chỉ một giọt nước lã!”
Sau mười ngày, ngài hết bệnh hoàn toàn đây hẳn là một bệnh cực âm, vô cùng nguy hiểm, tỷ lệ tử vong 100%... Thế nhưng ngài đã chiến thắng thần chết trong những ngày ngài sắp rơi vào hố tử thần – Trước sự chứng kiến của bác sĩ Albert!
Đến năm 1958, ngài lại bị đau bao tử trong khoảng thời gian 101 ngày, ngài nuốt bột than cà (dentie) nhưng cơn đau không lùi. Có khi cơn đau nổi lên lúc đang diễn thuyết, ngài phải dùng tay ép mạnh vào chỗ ấy cho bớt đau. Đặc biệt ngày 8-9-1958, ngài bị đau bụng ghê gớm, cơn đau ấy kéo dài 20 tiếng đồng hồ, tưởng chừng không thể qua nổi. Sau cùng, ngài phát giác mình bị đau dạ dày vì quá thặng dương tính, nên ngài quyết định uống một thang thuốc dược thảo rất âm, liều lượng gấp mười lần bình thường do bác sĩ Kawachi kê toa, rồi chiêu nửa chai whisky Scotch Black and White nguyên chất, thì chứng đau quặn mới ngừng hẳn.
Ngài nói cách trị liệu này do bệnh quá dương gây ra. Ngài cảnh báo sẽ có người bắt chước kinh nghiệm của ngài một cách máy móc để mặc sức uống bia, rượu và sẽ chết vì lạm dụng.

Thực chứng Tiểu Đường 1
Nguyên chị Trần Thị Liễu* bị tiểu đường đã mười năm, chị dùng thuốc tây, thuốc bắc ngày qua ngày, mong trị hết bệnh nhưng niềm hy vọng của chị bị mòn mỏi dần theo năm tháng, tiền mất tật mang… Năm 2003 sức chị suy yếu vì căn bệnh ngày càng nặng hơn cho đến một lần, chị quá mệt mỏi, bị hôn mê suốt năm ngày, sau đó vào bệnh viện C ở Đà Nẵng, nằm suốt một tháng. Mỗi ngày chích 3 mũi insulin…
Sau đó, chị Liễu về nhà, rồi có người chỉ chị phương pháp tuyệt thực, chị nghe theo, nhịn ăn trong 10 ngày, lúc khát chị chỉ uống nước đun sôi để nguội. Trường hợp này, nên uống nước gạo lứt rang thì tốt hơn. Rồi chị theo pháp Ohsawa, ăn theo số 7 đang hai tháng, thì bệnh tiểu đường của chị đã khỏi dứt điểm. Tính ra bệnh của chị Liễu bắt đầu phát từ năm 1993, đến năm 2003 mới lành… Sau 2 tháng theo pháp “Ohsawa Cứu Mạng”.

Thực Chứng Tiểu Đường 2
Chị Khâu Kim Anh , (08-37515424).
Chị bị tiểu đường 6 năm, thường bị nhức mỏi toàn thân, hơn nữa, chị còn bị gan nhiễm mỡ. Nhờ chị Trần Thị Năm chỉ cho pháp Ohsawa, chị Kim Anh ăn cơm gạo lứt 95% và 5% muối mè hay rau củ xào khô (số 7). Chị lên chùa Long Hương, được thầy Tuệ Hải chỉ thêm bí quyết trị bệnh mau lành, thầy nhấn mạnh muốn mau lành bệnh, phải nhai mỗi miếng cơm 200 lần. Xét ra, đây là một loại “thiền nhai”, có tác dụng trừ bệnh tốc hành, nhất là giúp trí nảo rất bén nhạy. Nhờ đó bộ ba “tai – mũi –họng” có bệnh nặng hay nhẹ cũng sớm phục hồi: - một là lãng tai, hai là viêm mũi, ba là sưng họng (Amidal) và chuỗi bệnh có liên hệ… đều được trị lành.
Chị Kim Anh theo sát chỉ dẫn của các người đi trước và sách vở, chị thấy bệnh lui quả là nhanh chóng, sau 40 ngày triệu chứng của tiểu đường không còn nữa, từ đó trở đi chị ăn uống khá thoải mái và một thời gian sau, bệnh gan nhiễm mỡ cũng đội nón ra đi. Có điều chị sụt từ 56 xuống 48 ký. Trước thời vướng bệnh, chị có thói quen uống cà phê đá đã lâu, nên khi ăn kiêng phải bỏ cà phê, chị bị “nó vật” khoảng 20 ngày. Xét ra việc ăn kiêng lúc đầu tuy có “gay thực” nhưng bù lại công khó, người bệnh đổi lấy sức khoẻ lâng lâng, có tiền khó mua. Ấy là chưa kể đến ai chịu đem thân mình làm bãi chiến trường, thử nghiệm đủ loại thuốc đông – tây y công phạt… mà còn nơm nớp với các biến chứng của tiểu đường như : xơ vữa động mạch, suy mạch vành, cao huyết áp, thong manh hay hư võng mô (mù loà). Người bệnh này, nếu lỡ bị vết thương vào thì rất khó lành, dễ nhiễm trùng như ta đã biết.

Thực Chứng Thứ 3
Anh Dương Văn Nghĩa (DĐ: 0903826034 – Bàn 08.38151073).
Từ năm 1991 anh Nghĩa vướng bệnh tiểu đường thuộc type 2, hàng ngày, bác sĩ cho anh chích 40 đơn vị /ngày. Qua thời gian 17 năm, anh đã nghe lời khuyên phải sống chung với bệnh này mãn đời, nên trong lòng, lúc nào cũng băn khoăn lo lắng, không biết bệnh nó có “cho mình sống chung”, êm ả, hay có một ngày đen tối nào đó nó giở chứng, ra tay hạ anh đo ván?!
Nỗi lo của anh quả không vu vơ, nên 15 năm sau, bệnh lâu ngày, ắt bị biến chứng. Việc phải đến ắt đến, anh bị chảy máu mắt, lại thêm đục thuỷ tinh thể. Đi khám mắt, bác sĩ cho biết trường hợp của anh phải “hàn đáy mắt, thay thuỷ tinh thể!” Việc đã đến nước này, anh phải gấp rút chạy đôn chạy đáo lo tiền cứu mạng mình để còn thấy đường xá mà lái xe ra Bắc, vào Nam nuôi vợ con!
Vừa lo mổ mắt xong năm 2006 thì qua năm 2007, con tim lại có vấn đề, đi khám tim, bác sĩ tìm ra tim hở van hai lá một phần tư, máu vận chuyển chậm, tâm thất dầy nên chức năng tâm trương bị hạn chế… Tim mạch bị quá nhiều trở ngại, đã ảnh hưởng mạnh, gây xơ vữa tĩnh mạch dưới đôi chân, làm anh không thể ngồi xổm, không ngồi bắt chéo chân được như trước kia! Đang hồi khốn đốn, cũng khổ thì có anh Huệ cho anh mượn đã tự trị bệnh theo phương pháp Ohsawa, từ lúc xem đĩa, anh khởi phát niềm hy vọng vào cách trị bệnh đơn giản này, nên anh mua thêm các sách Ohsawa mong nắm vững kiến thức Âm /Dương trong thực phẩm, tìm hiểu thế nào là bệnh tật, thế nào là Trật Tự Vũ Trụ, xem trật tự này có gì giống luật Nhân Quả chăng. Chẳng phải Ohsawa có nói: “Bề mặt càng lớn thì bề lưng càng rộng”… ý nói bệnh tật càng nhiều thì sức khoẻ càng vững đó sao? Một khi lý thuyết đã tàm tạm, ngày 15-7-2008, anh theo cách ăn số 7, nấu cơm gạo lứt ăn với chút ít muối mè được 49 ngày (7x7), anh tìm thầy Tuệ Hải, thầy khuyên anh nên ăn cơm lứt với tương dầm tỏi… Trở về, anh ăn tiếp số 7 được 60 ngày, kết quả: các bệnh tim mạch, hở van tim, xơ vữa tĩnh mạch chân, đã khôn hồn ra đi trước ý chí vững mạnh của anh Nghĩa… Nhưng căn bệnh đầu xỏ là tiểu đường đang còn muốn sống chung với anh cho đỡ buồn! Vậy anh Nghĩa phải làm sao đây? Anh nhớ đinh ninh là Trật Tự Vũ Trụ nào có khác gì luật Nhân Quả? Nếu cơm gạo lứt đã trị được các biến chứng tai hại của tiểu đường, thì đầu xỏ này đâu thể tồn tại mãi? Vấn đề còn lại là phải rà soát lại cách ăn uống và thêm quĩ thời gian, xem hai bên, “ai” ra tuyệt chiêu và chiếm thượng phong?... Bình thường trong trường hợp này, người bệnh cần áp dụng cách ăn số 7, là biện pháp tối ưu!!

Thực chứng thứ 4
Anh Sơn ở Hà Nội, số di động: 0913284597,
Email: tiv.hanoi@gmail.com
Muốn biết thêm thông tin: mời vào:
website:thucduong.vn


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 16th June 2025 - 05:27 PM