![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,062 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
Ông Phạm Cao Hoàn dịch quyển này, nhưng tôi đọc thấy có chỗ không rõ nghĩa... chị Kiều Thị Thu Hương đã dày công hiệu đính lại (theo ý của chị là hiệu đính - dịch lại tới 80%?). Đây là một quyển sách quí không chỉ với người đang bị bệnh tiểu đường...
Phạm Cao Hoàn dịch Kiều Thị Thu Hương hiệu đính PP OHSAWA ĐẶC TRỊ TIỂU ĐƯỜNG Nguyên Tác: Aveline Kushi GIỚI THIỆU Một chế độ dinh dưỡng có thể cung cấp đủ đường và chất ngọt là rất quan trọng. Trong 5 loại mùi vị, ngọt, mặn, chua, cay và đắng - thức ăn có vị ngọt chiếm vị trí trọng yếu, lên tới 60-70% khẩu phần hàng ngày. Những mùi vị khác cũng quan trọng, nhưng chỉ nên dùng chúng 1 cách vừa phải mà thôi. Để có một thể chất quân bình, mạnh khỏe, ta nên chọn ăn các loại ngũ cốc còn nguyên cám, các loại rau củ ngọt (như cà rốt, hành tây, cải bắp, củ cải, bí đỏ, súp lơ…) và những trái cây đúng mùa vì chúng có chứa loại đường tốt nhất cho cơ thể - và các loại đường phức hợp trong tinh bột thì tốt hơn đường đơn trong mật và trái cây. Bệnh tiểu đường type I (diabetes) và rối loạn đường huyết (hay tiểu đường type II, hypoglycemia) đều do đường tinh chế mà ra. Việc thay nó bằng chất ngọt của gạo lứt, rau – củ - quả sẽ giúp ngăn ngừa các tai biến, và xét tổng thể, chữa trị theo lối tiết thực như vậy kinh tế hơn các biện pháp phòng trị khác rất nhiều. Sẽ mất một khoảng thời gian để làm quen được với chế độ ăn uống quân bình mới mẻ, và cảm giác thèm khát những thức ăn có đường tinh chế có thể gia tăng. Nhưng hãy quan tâm sâu sát tới thực phẩm hàng ngày bạn ăn, hãy sử dụng mạch nha, siro gạo và những nguồn chất ngọt phức hợp khác để làm dịu nỗi thèm muốn của bạn. Chúng tôi mong rằng cuốn sách này có thể cung cấp cho bạn nhiều hướng dẫn hữu ích. * Diabetes LỜI NÓI ĐẦU Có một nghịch lý trong nền y học hiện đại. Đó là việc những căn bệnh mãn tính ngày càng phổ biến khắp nơi, mặc dù các hiểu biết về sinh lý học và bệnh lý học về chúng ngày càng tốt hơn và những biện pháp điều trị mới chống lại chúng liên tục được đưa vào áp dụng. Chỉ cần tìm hiểu lịch sử tự nhiên và khoa nghiên cứu bệnh lý học của những bệnh mãn tính, ta sẽ thấy ngay, sự tăng trưởng vững chắc của những căn bệnh này luôn song hành một cách kịch tính với mức độ Âu hóa lối sống ở những đất nước có nền văn hóa truyền thống lâu đời… Trong tình cảnh như vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi khoa học dành nhiều chú ý tới các nhân tố trong đời sống có ảnh hưởng tới sự tiến triển của bệnh tật. Ví dụ, từ lúc khám phá ra khả năng biến dưỡng insulin bị suy yếu là nguyên nhân hàng đầu của bệnh tiểu đường, chế độ ăn kiêng đã trở thành một nhân tố quan trọng trong nỗ lực kiểm soát đường huyết. Tuy nhiên, việc kiểm soát thực đơn này ban đầu lại nhằm mục đích tránh xa các thức ăn dạng carbohydrat*. Tiếp đó, trong khoảng 10 tới 15 năm gần đây, chế độ ăn kiêng để kiểm soát bệnh tiểu đường đã đổi thành tăng các thực phẩm chứa carbohydrat phức hợp bao gồm cả chất xơ và giảm lượng thực phẩm có nhiều carbohydrat đơn như đường. Hiện nay, vấn đề phẩm chất của các dạng carbohydrat trong thức ăn đã được nhìn nhận là cũng có tác động lớn như số lượng vậy. Hơn nữa, những thực phẩm chứa nguồn carbohydrat chất lượng cao còn đem lại 1 cái lợi khác, đó là hàm lượng chất béo và cholesterol thấp, nên nó cũng giúp phòng ngừa bệnh tim mạch. Những thay đổi trong việc giới thiệu chế độ ăn kiêng cho bệnh tiểu đường đã nới rộng ý thức cộng đồng về vấn đề thực phầm và dinh dưỡng. Nhưng những chỉ dẫn mới này từ lâu đã là một phần quan trọng của phương pháp Thực dưỡng, trong đó khuyến nghị một chế độ dinh dưỡng bao gồm cốc loại lứt, đậu đỗ, rau - củ - quả… Chắc chắn phần quan trọng nhất của “cái thứ nghe như là hướng dẫn ăn kiêng” này có một nền tảng triết lý và khoa học vững chắc làm căn bản. Sự tương đồng giữa các hướng dẫn của Hiệp Hội Tiểu Đường của Mỹ đưa ra với các hướng dẫn của phương pháp Thực dưỡng –áp dụng chính thức cho bệnh tiểu đường – để ngăn ngừa hay kiểm soát đường huyết là một ví dụ điển hình. Các hướng dẫn thực hành và công thức nấu nướng trong sách này đều dựa trên các nguyên tắc của Thực dưỡng. Chúng có giá trị với tất cả mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho những ai đang nỗ lực kiểm soát và phòng ngừa bệnh đái đường, miễn đó là những con người tỉnh táo minh mẫn và thích khám phá tìm tòi. Một số kiến thức đưa ra trong sách này có vẻ như thiếu cơ sở khoa học. Nhưng nó không ngăn cản một tâm hồn cởi mở thử khám phá những giá trị thật của nó bằng việc chấp nhận chút mạo hiểm khi làm theo một vài hướng dẫn ăn kiêng trong một thời gian. Với quan điểm thực chứng, cuốn sách này có thể chính là bước đầu tiên đưa bạn tới với một đời sống tốt đẹp hơn. Theo Laurence Haruo Kushi, Sc.D Tháng 1, năm 1985 *Macrobiotics: Macro: trường – đại.Biotic : sinh học, sự sống (Trường Sinh). carbohydrat*: tên gọi chung của một loạt hợp chất hữu cơ có trong nhiều thực phẩm chính của con người, bao gồm chất xơ, các loại tinh bột và đường, có công thức phân tử gồm một, hai hay chuỗi các phân tử đường đơn liên kết với nhau. Mục Lục Giới thiệu………………………………………….3 Lời nói đầu……………………………………….. 5 1. Nền tảng vũ trụ học……………………………..9 2. Khẩu phần tiêu chuẩn theo pháp Trường Sinh...33 3. Điều chỉnh thực đơn cho bệnh tiểu đường…….45 4. Bản chất bệnh tiểu đường… (+ ax)……………52 5. Vận dụng thực đơn…………………………….68 6. Đồ nấu bếp…………………………………….75 7. Cung cách nấu ăn ……………………………..85 8. Gạo và chế phẩm của gạo…………………….. 88 Kê……………………………………………... 99 9. Canh xúp……………………………………..117 10. Rau củ - rong – tảo………………………….128 11. Đậu + Sản phẩm…………………………….163 12. Rong/Tảo…………………………………...174 13. Gia vị - Xốt - Dầu Dấm…………………….183 14. Món tráng miệng………………………… 199 15. Cá/Hải sản………………………………….208 16. Nước giải khát……………………………...212 17. Đặc phương………………………………...219 1. NỀN TẢNG VŨ TRỤ HỌC Có một nền tảng vũ trụ học ẩn sau những nguyên tắc căn bản của phương pháp Thực dưỡng. Vũ trụ học ấy có đầy đủ cấu trúc để giải thích sự tạo thành và mối liên hệ tương tác của những hiện tượng kì bí nhất trong vũ trụ của chúng ta. Mục đích chân thật của pháp Trường sinh là giúp con người một sức sống dồi dào để thực hiện trọn vẹn khả năng và ước mơ của họ, nhắc chúng ta rằng, chúng ta chính là người bồi đắp và làm chủ đời cuộc đời mình. Nên biết rằng, Thực dưỡng thực sự là một lãnh vực nghiên cứu phong phú và không giới hạn, và vượt xa các giới hạn của cuốn sách này. Nếu bạn quyết định theo đuổi nó, bạn sẽ trở thành người hướng đạo cho chính mình, tự khám phá bản thân, phát hiện ra những việc bạn cần làm để giữ gìn sức khỏe và đạt được những mục tiêu trong đời. Trong chương này là những khái quát ngắn ngọn những nền tảng triết học của phương pháp Thực dưỡng, từ đó giải thích mối liên hệ giữa thức ăn và sức khỏe. Mọi sự vật trong vũ trụ đều biến dịch không ngừng, chúng thay đổi cả về năng lượng, mật độ và tốc độ. Ngay cả những vật tưởng như cứng rắn, ổn định như một tảng đá hay một cái bàn, đều được tạo thành từ những phân tử không ngừng rung động, những nguyên tử, các điện tử âm (electron) và hạt nhân dương (proton) và bản thân chúng xét đến tận cùng chẳng là gì khác ngoài năng lượng. Nguồn gốc mọi hiện tượng trên đời, đều quy về vô biên hay cái không, trong tôn giáo gọi là Thượng Đế, Đấng Tối Cao, ý chí Phổ Quát hay Siêu Ý Thức, vô ngã… Ở cõi Vô Biên, không có không gian, thời gian, quá khứ hay tương lai, ánh sáng hay bóng tối - Chỉ có sự biến dịch bất tận, vận động với tốc độ vô hạn về mọi hướng. Những dòng biến dịch bất tận (biểu diễn trong hình 1) giao thoa và tạo nên những xoắn ốc năng lượng, xoáy vào tâm, tạo nên lực Dương - đặc tính là co rút, tập trung. Ngược lại, những xoắn ốc bung ra từ tâm điểm, tạo lực Âm - Đặc tính nới giãn, ly tâm. Sự định hình của những xoắn năng lượng này là điểm bắt đầu cho mọi sự tồn tại. Trong thực tế, những năng lượng có thuộc tính trái ngược tuyệt vời này đã tạo nên mọi hiện tượng vật chất và phi vật chất nhờ vào những tương tác bất tận của chúng. Hình vẽ dưới đây biểu diễn “Chu trình biến dịch thống nhất và vĩnh hằng” được sao lục lại từ cuốn “Sách về Đạo dẫn, những bài tập luyện để phát triển tinh thần” (Book of Do-in: Exercise for Physical and Spiritual Development) của Michio Kushi (trang 18) Khi chuyển động hướng tâm (Dương: ), năng lượng càng lúc càng định hình rõ rệt theo hướng vật chất hóa. Nói chung, tiến trình này có thể nhận biết từ sự tăng tốc, tăng nhiệt, tăng mật độ và trọng lượng mà kích thước không tăng hoặc co rút, vật chất hơn, nóng hơn, nhanh hơn, nặng hơn và nhỏ hơn. Khi năng lượng chuyển động ly tâm (Âm: ), thì đặc tính của nó ngược lại: tản mát, loãng, lạnh, chậm và nhẹ hơn. Dương cuốn hút Âm và Âm thu hút Dương. Không thể nào có Dương tồn tại mà không có Âm và ngược lại. Mọi hiện tượng trên đời, đều do hai lực đối bổ Âm/Dương tạo ra – Chúng là trưởng thành của điều mà chúng ta gọi là Thượng Đế, Thái cực v.v… Vòng xoắn ốc sau đây, được gọi là “Sự Tạo Thành Vũ Trụ”. “Sách về Đạo dẫn, những bài tập luyện để phát triển tinh thần” (Book of Do-in: Exercise for Physical and Spiritual Development) của Michio Kushi (trang 23) Ngôi thái cực: Cõi tuyệt đối và vô tận, không có gì khác ngoài sự biến dịch vô cùng. Sự phân cực Âm/Dương /. Điểm khởi nguồn của không gian và thời gian, phương hướng, sự liên hệ, sự khác biệt, và thế giới của những hiện tượng phù du, thoáng qua. Rung động sóng và năng lượng : Khởi nguồn của ánh sáng, âm thanh, các sóng điện từ dài, ngắn, tiềm thức, ý thức, các hiện tượng tâm linh và tinh thần. Thế giới tiền nguyên tử: Thế giới của các hạt cơ bản: electron, neutron, proton… Điểm khởi đầu của thế giới vật chất… Thế giới nguyên tố: Thế giới của các phân tử, nguyên tử ( hydro, heli, oxi, cácbon, lưu huỳnh…). Các dạng vật chất cụ thể như đất, nước, không khí, lửa, thế giới giác quan của chúng ta và là điểm khởi đầu của thế giới hữu hình. Thế giới thảo mộc: Bao gồm toàn thể cây cỏ, rong rêu. Thế giới động vật – con người: Bao gồm thú vật và con người. Con người, với tư cách là kết quả cuối cùng của một vòng xoắn hướng tâm dương, đồng thời cũng là điểm khởi nguồn của một vòng xoáy ly tâm âm. Theo chiều hướng dương, chúng ta được tạo nên từ thực phẩm hàng ngày, các nhân tố năng lượng từ mặt trời, nước, gió… những rung động của suy tư trong óc não. Sau khi chúng ta đã được hình thành trong thế giới vật chất, chúng ta vận hành theo chiều hướng Âm ngược lại, và phát triển tính cảm xúc, tinh thần và tâm linh, rồi kết cục, thể xác chúng ta sẽ tan rã và linh hồn chúng ta lại tan nhập vào hư vô vĩnh hằng. Hình vẽ bên dưới là “Chu trình vĩnh hằng của đời sống” Như ta thấy trên sơ đồ, điểm dương nhất, có sức co rút mãnh liệt, chỗ hợp nhất của tinh trùng và trứng, ngay lập tức được theo sau bởi lực âm bung nở nhanh chóng (Đây là nguyên lý Dương cực sinh Âm và Âm cực sinh Dương) – Theo sau nó là thời tiền thai sinh (khi hợp tử mới hình thành di chuyển từ vòi dẫn trứng tới làm tổ trong tử cung), rồi tiếp tới là thời kì tối tăm bồng bềnh trong một thế giới ngập nước của bào thai trong tử cung, rồi tiếp đến là thế giới khô ráo trong bầu khí quyển bình thường mà con người mà chúng ta đều biết. Thế giới này luôn có một nửa tối tăm và một nửa sáng sủa. Khi ta qua đời, chúng ta trút đi phần xác thân vật chất và thể nhập vào cõi Trung giới của những bóng ma và hiện tượng linh hồn, nơi không hề tồn tại bóng đêm. Mỗi thế giới kể trên, cái sau rộng lớn hơn cái trước, tự do hơn và bao hàm một chiều kích thời gian dài lâu hơn. Khi giữ cho tinh thần, thể xác và tâm hồn mình khỏe mạnh, chúng ta có thể bước sang thế giới bên kia một cách êm ả và vui thú. Một người mang thai nên ăn uống cân bằng, vận động vừa sức và nghỉ ngơi đúng cách, lúc rảnh, tránh xa cảnh tượng bạo động trên tivi, trong sách vở và mọi sự tương tự. Cô cũng được khuyên bảo rằng nên truyền cho em bé những tư tưởng lạc quan, tươi đẹp, để khi ra đời, nó sẽ được khoẻ mạnh và sung sướng. Như thế, em bé sinh ra sẽ có cuộc sống bình yên và thuận lợi hơn. Trong đời sống cũng vậy, chúng ta đều có thể quan tâm tới chất lượng của mỗi loại thức ăn ta có, các bài tập và hoạt động thể chất cùng cách nghỉ ngơi hợp lý, khuyến khích các tư tưởng tích cực, sáng tạo và các hoạt động khác, để đời sau của chúng ta được thuận lợi, và cuộc sống của chúng ta ngay tại đây có nhiều vui thú hơn. Linh hồn của những con người bất hạnh đầy ắp sầu muộn và ảo tưởng, và thay vì đi thẳng sang một thế giới tươi sáng và tự do hơn, họ dính mắc vào thế giới vật chất và những con người, những nơi chốn mà họ quen thuộc… Người phương Đông và những con người của những nền văn hóa cổ xưa khác gửi những lời an ủi, tình yêu và ước nguyện tiêu diêu cực lạc cho thân quyến quá cố. Việc này giúp cho những linh hồn được thanh thản và giúp họ dễ siêu thoát tới những cảnh giới tốt đẹp hơn Tất cả chúng ta đều đang trên con đường quay “trở về nhà” từ trung tâm của vòng xoắn để tìm thấy tự do, sự thanh thản, hạnh phúc, khả năng dang rộng đôi cánh của mình, để cuối cùng thể nhập làm một với Vô Biên. Thậm chí, cả những con người chỉ mê mải chạy theo tiền bạc và các giá trị vật chất, thực ra họ cũng chỉ đang muốn tìm kiếm cùng một cảm giác tự do và hạnh phúc như thế, chỉ là họ tin rằng thứ đó sẽ đến với họ nhờ vào tài sản của thế gian. Mỗi con người đều được tùy ý theo đuổi những gì họ muốn. Đó là tự do của chúng ta. Thật là ngược đời, chúng ta vốn đã ở ngay nơi ta muốn, vì mỗi chúng ta là 1 tiểu vũ trụ, nằm trong lòng đại vũ trụ, nhưng cùng lúc đó, chúng ta cũng là những cái tôi cá nhân khác biệt. Sâu thẳm trong lòng, mỗi chúng ta biết rằng, có một cái gì đó lớn lao hơn trong mỗi con người, rằng một phần trong ta là bất diệt, là không thể nghĩ bàn. Và khi chúng ta đang thư giãn, khỏe khoắn, tràn trề sinh lực, ta cảm nhận rõ hơn rằng, chúng ta vừa là một, là riêng, nhưng cũng là một phần không thể tách rời của toàn thể. Chúng ta có thể kết nối mình với những tiềm năng đầy sáng tạo và không giới hạn của Đại Tự Nhiên, và nhờ vào nó để định hướng lại cuộc đời mình một cách tỉnh thức hơn, khi chúng ta đang có một thân tâm hài hòa, đồng điệu. Ý nghĩa sâu xa hơn của sức khoẻ là một trạng thái đồng điệu và hài hòa sẽ khiến dòng năng lượng trong ta trôi chảy, ra vào dễ dàng không bó buộc trong mọi bộ phận của một cơ thể thống nhất. Áp dụng Thực dưỡng để giữ gìn sức khỏe tức là hiểu rằng sự thay đổi trên bất cứ phương diện nào trong cơ thể và tâm trí chúng ta cũng gây ảnh hưởng nhất định lên toàn thể xung quanh. Có một số biện pháp mà mọi người đều có thể áp dụng để tạo ra một trạng thái lưu thông của dòng năng lượng toàn thân: 1. Đổi cách ăn uống: Đây chính là nội dung cơ bản của cuốn sách này. Chính những gì chúng ta ăn vào mỗi ngày đã tạo ra dòng máu, dòng máu nuôi sống và duy trì hình dạng, chức năng của mọi cơ quan, bộ phận trong thân thể. Vì vậy, thật kì quặc khi thức ăn lại không được xem xét nghiêm túc như là một nguyên nhân có thể gây ra bệnh tật. Và mỗi chế độ dinh dưỡng khác nhau cũng làm thay đổi cảm xúc và tinh thần của con người nữa, dễ thấy nhất là chuyện rượu và nhiều loại chất kích thích, chất gây nghiện cả hợp pháp và bất hợp pháp có thể tác động mãnh liệt lên hệ thần kinh của con người như thế nào. Giống như vậy, mọi thực phẩm đều tác động lên chúng ta sau khi được ăn vào, dù rằng sức ảnh hưởng của chúng nhỏ nhiệm hơn nhiều. 2. Khai thác sức mạnh ý chí: Mọi sự tồn tại đều có nguồn gốc của nó trong thế giới vô hình của tâm trí và những rung động sóng. Cũng có nghĩa là niềm tin của chúng ta có thể trở thành hiện thực, và những bộ tịch màu mè hay các suy nghĩ tiêu cực mà chúng ta dính mắc vào có thể ảnh hưởng tới cuộc đời ta. Mỗi người đều có thể tư mình phát triển sự tỉnh thức bằng việc thường xuyên quan sát những suy nghĩ, hành vi và phản ứng của bản thân, xem chúng đang điều khiển cuộc sống của ta như thế nào và từ đó, bỏ dần những thói tật xấu và có những ý tưởng, những giấc mơ tươi sáng, tích cực hơn. 3. Thư giãn: Tâm thần và thể chất không điều hoà, sẽ cản trở dòng năng lượng, hay còn gọi là sinh khí lưu thông. Có thể chọn một kỹ thuật tập luyện nào đó giúp bạn thư giãn toàn bộ cơ thể. Và bạn cũng có thể giúp tâm trí mình thư giãn và gạt sang bên mọi lo âu, phiền muộn hay giận dữ. Hãy hít thở thật chậm và thật sâu. 4. Chưởng liệu pháp, xoa bóp, ấn huyệt, mát xa: Những trị liệu kiểu này có thể sử dụng để kích hoạt và khai thông những luồng sinh khí bị bế nghẽn trong cơ thể. 5. Vận động tâm thân: Ta phải vận động cơ thể bằng các việc làm tay chân như dọn dẹp, lau chùi nhà cửa, ca nhạc, dạy học, bồi bổ tâm hồn bằng đọc sách báo, viết, vẽ… tuỳ thích. Tâm thân đều vận động thường xuyên, sẽ không bị bế tắc và mới có thể làm nên điều ích mình, lợi người. 6. Thay đổi môi trường: Có trường hợp người bệnh cần thay đổi nơi ở. Vì có bệnh hợp với khí hậu ấm, lại có bệnh cần ở nơi núi non mát mẻ mới dễ thuyên giảm. Có người cần tĩnh dưỡng ở một nơi yên tĩnh hơn, ví dụ như vùng đồng quê. Đồng thời, có người thân, bạn bè ở bên quan tâm, chăm sóc cũng là một nhân tố quan trọng. Ngoài ra, nên tích cực tham gia bảo vệ môi trường bằng cách sống tiết kiệm, không dùng nhiều hơn mức ta cần, sử dụng những sản phẩm nguồn gốc thiên nhiên, và rất nên giúp đỡ, hỗ trợ việc bảo vệ những loài thực vật và động vật… 7. Giao hảo tốt với mọi người: Những lời phàn nàn, những mối ác cảm, giận dữ, sợ hãi và căm ghét làm ta trở nên căng thẳng và làm tắc nghẽn năng lượng. Chính chúng ta là người tạo dựng nên tình cảnh riêng của mình, vậy nên thay đổi nó như thế nào hoàn toàn tùy thuộc vào chính chúng ta. Hãy yêu thương, giúp đỡ mọi người, đồng thời, tôn trọng tự do và cá tính riêng của họ. 8. Hãy biết ơn tất cả: chúng ta nên trân trọng mọi điều đẹp đẽ và kì thú trên đời. Hãy coi mọi khó khăn, gian khổ hay sự hắt hủi mà bạn gặp phải như một cơ hội để tự mình phản tỉnh và trưởng thành hơn.. Chỉ cần bạn thực hiện được một trong 8 điểm nêu trên cũng đã có ích cho việc điều trị bệnh tật và tác động tích cực lên cuộc sống hàng ngày. Nhưng một quyết tâm thay đổi toàn diện còn tốt hơn nhiều, và tất cả những liệu pháp kể trên đều hỗ trợ giúp ích cho nhau. Có nhiều người chăm chăm áp dụng một và chỉ một trong các giải pháp một thời gian và bắt đầu cảm thấy mọi sự không thay đổi nhiều như họ mong muốn, sau đó họ từ bỏ hoặc lại thử một giải pháp khác. Xin hãy cảnh giác trước khuynh hướng này. Âm và Dương Tất cả đều được tạo ra và vận hành bởi sự tương tác của âm và dương, hai lực đối lập vĩnh viễn tồn tại. Sau đây là một số ví dụ điển hình: Thuộc tính Âm/Ly tâm () Dương/Hướng tâm () Khuynh hướng Giãn nở Co rút Hoạt động Dị hóa, phân rã Đồng hóa, cơ cấu Chuyển động Lờ đờ, chậm rãi Hoạt bát, nhanh nhẹn Sóng Sóng ngắn cao tần Sóng dài tần số thấp Phương hướng Dọc, đi lên Ngang, đi xuống Vị trí Ra xa, ngoại biên Lại gần, hướng tâm Sức nặng Nhẹ hơn Nặng hơn Nhiệt độ Lạnh hơn Nóng hơn Ánh sáng Tối hơn Sáng hơn Độ ẩm Ẩm ướt hơn Khô ráo hơn Mật độ Mỏng thưa Dày chắc Kích thước Lớn Nhỏ Hình dạng Tỏa rộng, mỏng manh Thu gọn, cứng chắc Độ dài Dài hơn Ngắn hơn Kết cấu Mềm hơn Cứng hơn Điện tử Electron Proton Nguyên tố N, O, K, P, Ca H, C, Na, As, Mg Môi trường Sóng từ → Không khí → Nước →Đất Khí hậu Nhiệt đới Hàn đới Sinh vật Thực vật Động vật Giới tính Cái Đực Nội tạng Rỗng. nhẹ Chắc đặc Hệ thàn kinh Trực giao cảm Đối giao cảm Thái độ Ôn hòa, thụ động Năng nổ, chủ động Công việc Tinh thần và trí óc Thể chất và xã hội Ý thức Khái quát hơn Cục bộ hơn Hoạt động thần kinh Nghĩ ngợi về tương lai Nghĩ ngợi về quá khứ Văn hóa Duy tâm Duy vật Màu sắc Tím→Lơ →Lục →Vàng → Nâu → Cam →Đỏ Mùa Đông Hè Chiều Không gian Thời gian Mùi vị Cay→ Chua → Ngọt → Mặn → Đắng Vi ta min C K, D Xúc tác Nước Lửa Khi đã hiểu rõ các quy luật vận động tương tác của Âm Dương thì bạn sẽ bắt đầu hiểu được mọi vận luật của thế gian. Kinh Dịch, cuốn sách kinh điển của triết học cổ đại Phương Đông được viết dựa trên nền tảng Âm Dương tương tác này. Các nguyên tắc dưỡng sinh của Thực dưỡng cũng vậy. Âm thu hút dương và dương thu hút âm, tạo nên sự quân bình hòa hợp của hai trạng thái đối lập. Ví dụ, đàn ông với đàn bà, điện tử âm và điện tử dương, tinh thần và vật chất… Hoặc, khi một người đã ăn quá nhiều muối (dương), để lấy lại quân bình, anh ta cảm thấy khát nước (âm). Âm đẩy Âm, và Dương đẩy Dương. Ví dụ, nước và dầu (đều âm) không hòa tan được vào nhau. Lực hấp dẫn (hoặc lực đẩy tùy trường hợp) là tỷ lệ với độ khác biệt giữa hai thành tố Âm, Dương. Chúng phối hợp với nhau theo vô vàn tỷ lệ, tạo ra tất cả các dạng năng lượng và hiện tượng, không cái nào giống hệt cái nào. Âm và Dương biến động không ngừng ở nhiều mức độ khác nhau. Âm cực sinh Dương và Dương cực sinh Âm. Không có gì là thường hằng, bất biến, như đêm nối tiếp ngày, ngày nối tiếp đêm, có hoạt động rồi tới nghỉ ngơi, thất bại nối tiếp thành công và thành công đến sau thất bại. Những nền văn minh phát triển rồi lại suy tàn. Cái gì có mở đầu thì có kết thúc. Không có thứ gì thuần Âm hay thuần Dương. Trong mọi sự vật luôn bao hàm cả hai thành tố, nó Âm bao nhiêu thì cũng Dương bấy nhiêu. Ví dụ, có nhiều người bề ngoài rất Dương, họ mạnh mẽ, thô lỗ và cứng rắn, nhưng tấm lòng thì lại mềm yếu dễ tổn thương. Ngược lại, nhiều người khác vẻ ngoài rất Âm, mảnh khảnh, yếu đuối, nhưng hóa ra nội tâm lại hết sức cứng rắn, bảo thủ. Những cơ quan có cấu trúc chắc đặc như Gan, Dương, lại chứa đựng nhiều năng lượng Âm hơn, nó hoạt động một cách khá lặng lẽ. Những cơ quan có cấu trúc âm hơn, như Tim lại bị chi phối bởi một năng lượng Dương tới mức nó đập suốt đêm ngày. Bề mặt càng rộng thì bề lưng càng lớn. Thứ Âm ít có thể bị thứ Âm vượt trội hơn thu hút, thứ Dương ít có thể bị thứ Dương vượt trội hơn thu hút. Vitamin C âm hơn vitamin D, nên nó không tan trong dầu (là Âm) như vitamin D (Âm > Dầu > Vitamin C > Vitamin D), nhưng lại tan được trong nước là thứ âm hơn dầu. (Âm > Nước > Dầu > Vitamin C) Âm sinh ra Dương, và Dương tạo ra Âm. Khí hậu âm, lạnh lẽo hơn sinh ra những loại rau củ thảo mộc chắc đặc hơn và một xã hội năng động, khó chi phối. Trong khi khí hậu dương, ấm áp hơn tạo ra những loại thảo mộc âm, mọng mước, lá to rộng và một xã hội có nhịp điệu chậm chạp, dễ dãi. Mọi thứ trên hành tinh này đều được tạo nên bắt đầu từ hai năng lượng ly tâm và hướng tâm. Lực hấp dẫn của trái đất là năng lượng hướng tâm, còn những loài thảo mộc mọc vươn lên cao là một ví dụ điển hình của năng lượng ly tâm. Âm/Dương Trong Ăn Uống Món ăn Dương làm ấm người, tăng sức lực, sống có kỷ luật và tươi trẻ. Những món thịnh dương như thịt (đỏ), trứng và muối nhiều, sẽ khiến người ta lệch sang thái độ cư xử cứng rắn, ích kỷ, cực đoan, các chứng bệnh co thắt, bệnh mất ngủ kinh niên, bệnh đau khớp, tim mạch, khuynh hướng bạo lực… Thức ăn Âm đem lại cảm giác điềm tĩnh, thanh thản, thư thái, và nuôi dưỡng đức tính kiên nhẫn và biết thông cảm. Các thực phẩm thịnh Âm, như mật ong, đường cát, hoá chất và thuốc men, ma túy… sẽ làm suy yếu toàn bộ các chức năng của cơ thể và tâm thần. Từ đó sinh ra cảm giác sợ hãi, sự cảnh giác quá đáng, ý chí cùn nhụt, mắc bệnh quá sạch sẽ (là nỗi sợ vô lý về nguy cơ nhiễm khuẩn hay virus, vi trùng), bệnh máu trắng do cơ thể sản sinh quá nhiều bạch cầu, chứng trầm cảm hay khuynh hướng tự sát… Người lạm dụng thức ăn thặng dương thường tự động bị thu hút bởi những thức thặng âm để giúp cho cơ thể tạo lập lại sự thăng bằng và ngược lại. Khi điều đó diễn ra thường xuyên, họ tự đẩy mình vào một trạng thái bấp bênh bất ổn ngoài tầm kiểm soát với những triệu chứng được liệt kê ở trên. Thực dưỡng khuyên chúng ta chọn ăn những thực phẩm quân bình. Và cốc loại là dạng thực phầm gần nhất với mức quân bình của cơ thể con người, cho nên chúng dễ chế biến, nấu nướng nhất, chúng là bậc tiến hóa cuối cùng trong thang tiến hóa của thảo mộc trên trái dất, trong khi chúng ta là bậc cuối cùng trong thang tiến hóa của động vật. Đặc biệt gạo lứt là loại thực phẩm gần với mức quân bình Âm/Dương của con người chúng ta nhất, ta nên sử dụng nó làm thức ăn chính. Loài người là giống máu nóng (Dương) nên những dưỡng chất mà cơ thể chúng ta cần đa phần nếu không muốn nói là toàn bộ đều có thể tìm được dễ dàng trong thế giới thảo mộc. Về các thức ăn động vật, tốt hơn ta nên chọn cá thịt trắng và một số động vật giáp xác vì chúng ở xa chúng ta trên thang bậc tiến hóa nên cấu trúc protein đặc thù của chúng không ảnh hưởng quá mạnh tới các mô và tế bào trong cơ thể. Và nhìn vào cấu trúc bộ răng của chúng ta, có thể thấy rõ tổ tiên của chúng ta đã tiến hóa như một loài lấy ngũ cốc làm thực phẩm chính, vì có rất nhiều răng hàm để nhai nghiền và tuyến nước bọt đặc biệt phát triển, trong khi chỉ có 4 chiếc răng nanh để xé thịt và 8 chiếc răng cửa để cắn những thức ăn mềm, cũng vì vậy, ống tiêu hóa của chúng ta tiêu hóa và xử lý chất thịt rất kém, chúng luôn làm quá trình tiêu hóa trở nên trì trệ và thối rữa ra ở bên trong khiến phân rất nặng mùi. Ở những vùng cực bắc lạnh giá, nơi rất hiếm loài thực vật sinh trưởng được, những người dân sống tại đó chỉ có thể dùng động vật làm thức ăn chính, ví dụ như người Eskimo, và đó là giống dân có tuổi thọ trung bình thấp nhất thế giới. Hiển nhiên, khí hậu đóng vai trò chính trong việc quyết định xem chúng ta nên và có thể ăn gì. Nên chọn những thực phẩm tươi, được canh tác tự nhiên ở gần nơi ta sinh sống, vì chúng và chúng ta sinh trưởng trong cùng một môi trường nên chịu những tác động tương tự nhau, do đó giúp ta dễ dàng thích nghi với mọi biến động của tự nhiên. Tuy nhiên, có hai lưu ý, ngay cả những người sinh trưởng ở vùng nhiệt đới cũng đừng vì thế mà lạm dụng trái cây vốn có rất nhiều, chúng quá âm và lạm dụng chúng là mời gọi bệnh hoạn. Và các loại rong biển sử dụng với một tỷ lệ thích hợp cũng tốt cho những người sống ở rất xa biển, vì cũng như muối, chúng được lấy ra từ môi trường nước biển có tỷ lệ các khoáng chất giống nhất với máu người. Ăn thực phẩm thu hoạch đúng mùa cũng là một nguyên tắc dưỡng sinh quan trọng, giúp cho năng lượng trong cơ thể vận hành phù hợp với môi trường xung quanh. Ví dụ mùa xuân chủ về năng lượng vươn lên, toả rộng thì bữa ăn nên có các loại rau xanh, mầm ngọn. Sang đến thu – đông, khi sinh khí thu liễm, các loại bí, rau cải, các thứ rau củ muối hay dầm tương lâu ngày, những thực phẩm khô như rong biển đều trở nên thích hợp. Biểu đồ bên trình bày một cách tổng quát cách phân định các nhóm thức ăn từ dương tới âm và từ âm tới dương. Tuy nhiên, cần nhớ rằng điều kiện tự nhiên đặc thù của từng vùng, môi trường nuôi trồng tự nhiên hay nhân tạo, các loại hóa chất… đều tạo ra những ảnh hưởng, vì vậy, ta cũng nên quan sát kỹ lưỡng ảnh hưởng của từng loại thực phẩm lên thân và tâm. Và hãy nhớ rằng, phương pháp nấu nướng có thể thay đổi phẩm chất của thức ăn từ âm sang dương hay từ dương sang âm. Các phương pháp nấu nướng cũng nên được áp dụng linh hoạt. Vào mùa đông, ta có thể ăn những thức ăn nấu chín kỹ, nhiều muối hơn, các món ninh hầm bằng nồi áp suất và bỏ lò hay nướng, cũng có thể ăn nhiều cá hơn. Thức ăn cho mùa hè nên được nấu chín tới, ít muối hơn, các món luộc, salad, trái cây, các món xào, rán và món ngọt tráng miệng đều có thể dùng. Cùng lúc, nên đa dạng cách thức chế biến và trình bày để có những bữa ăn có màu sắc, hương vị phong phú. Những nhân tố bổ sung giúp phân định âm dương khi chọn lựa thực phẩm để chế biến là (1)phân định theo tốc độ sinh trưởng, loại nào mọc nhanh hơn thì âm hơn, và, (2) phân định theo bộ phận, các loại rễ củ thì dương hơn thân lá, lá thì dương hơn hoa, quả,… Hình 4. Phân loại thực phẩm theo Âm (), Dương () 2. KHẨU PHẦN TIÊU CHUẨN THEO PHÁP TRƯỜNG SINH Chế độ dinh dưỡng đề xuất dưới đây là dành cho những người có sức khỏe tương đối ổn định. Những người đang ở tình trạng trầm trọng cần được điều chỉnh thích đáng. Cũng cần lưu ý, đây chỉ là những hướng dẫn chung nhất, bất kể bạn là ai, hãy cân nhắc điều chỉnh để có một chế độ ăn uống quân bình ứng hợp với điều kiện sống và môi trường sống của mình. Để biết cụ thể hơn về những thực phẩm nên sử dụng, bạn hãy tra cứu danh sách các loại thực phẩm được cung cấp ở phần tiếp theo. 1. Cốc loại lứt: Các loại ngũ cốc lứt được canh tác tự nhiên, mà trọng điểm là gạo lứt nên chiếm 50-60% khẩu phần, và có thể được chế biến theo nhiều cách khác nhau. 2. Canh xúp: Chiếm 5-10% khẩu phần ăn một bữa là vừa phải. Canh súp nên được nấu với tương đặc (miso) hoặc tương nước (tamari). Không nên nêm canh quá mặn, và có thể nấu nó bằng ngũ cốc, đậu hạt, rau củ, rong wakame hoặc kombu. 3. Rau: Chiếm từ 20-30% khẩu phần ăn. Ăn rau sạch, không bị bón phân hóa học và phun thuốc mới tốt. Có thể nấu rau thành món ăn bằng nhiều cách, nhưng rau sống thì càng ít càng tốt. 4. Đậu đỗ - Rong tảo: Chiếm từ 5-10% khẩu phần, đậu phải chín nhừ, còn rong biển thì có nhiều cách chế biến hơn, có thể nấu súp lẫn với rau và đậu, được nấu và ăn như một món riêng, gia vị bằng tamari, muối biển và dấm gạo hay dấm mơ muối. 5. Các thực phẩm bổ sung khác: Khoảng 5-10% khẩu phần. Có thể ăn chút ít cá thịt trắng một hay hai lần mỗi tuần nếu thấy thèm. Các loại trái cây tráng miệng cũng được tính trong mục này, bao gồm cả loại tươi và khô, nhưng nên là sản vật địa phương, đúng mùa. Không nên dùng sinh tố trái cây. Tuy nhiên, vào mùa hè và ở xứ nóng như nước ta, thì có thể dùng với số lượng hạn chế. Các loại hạt rang có thể dùng để ăn chơi, nhưng chớ có ăn nhiều. Có thể dùng cơm rượu nấu chín hay mạch nha, dấm gạo và dấm mơ làm gia vị để nấu các món ăn vặt cho vị chua, ngọt. 6. Nước giải khát: Các loại trà tự nhiên, không có mùi thơm nồng và làm mất ngủ đều tốt. Một số loại trà dưỡng sinh như trà Bancha, trà trộn, trà gạo rang có thể uống thay nước mỗi ngày. Đơn giản hơn, bạn có thể uống nước lọc. Lưu ý là chỉ uống đủ khát và tránh tuyệt đối không dùng nước đá. 7. Những thực phẩm nên tránh: Để gìn giữ sức khoẻ luôn luôn, ta cần tránh ăn: Thịt, trứng, mỡ, thịt gà vịt, chim, sản phẩm sữa, bơ, sữa chua, kem lạnh, sữa và phô mai. Các loại trái cây nhiệt đới, bán nhiệt đới, sinh tố trái cây, nước giải khát có ga, đóng chai, vô lon, cà phê, chè (trà) nhuộm màu nhân tạo, những thức uống có mùi hăng, mạnh như nước bạc hà, xá xị… Tránh hết các loại thực phẩm nhuộm màu, tẩm chất bảo quản, các hoá chất phụ gia. Các cốc loại xát trắng, bột xát trắng và các thức ăn chế biến sẵn từ chúng. Những thức ăn chế biến công nghiệp, đóng hộp và đông lạnh.. Tránh dùng các gia vị và thức ăn có mùi vị hăng mạnh như tiêu, ớt tỏi, dấm nhân tạo. Các loại thuốc và chất kích thích dù hợp pháp hay bất hợp pháp đều không nên dùng, trừ trường hợp bệnh thái quá nặng, có thể sinh biến chứng nguy hiểm, tạm thời còn cần tới những loại thuốc giúp cắt cơn hay kiểm soát biến chứng do bác sĩ kê toa. 8. Một số đề xuất: Nên dùng dầu thực vật để nấu nướng. Để cải thiện sức khỏe, tốt nhất bạn nên dùng dầu mè (vừng) hoặc dầu ngô ép thô, không tinh chế. Tuy nhiên, cần lưu ý đừng sử dụng nhiều, vì dầu khá âm. Muối để nấu ăn nên là muối biển tự nhiên, không tinh chế. Cũng có thể sử dụng các gia vị có muối như tương đặc, tương nước, tương cổ truyền được chế biến theo phương pháp tự nhiên thay muối để nấu nướng. Bạn có thể ăn ngày 2 đến 3 bữa, có thể ăn bao nhiêu tùy thích, miễn là nhai kĩ, và theo đúng tỷ lệ các thực phẩm ở trên. Không nên ăn thêm bất cứ thứ gì trước khi đi ngủ 3 tiếng. -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,062 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
14
MÓN TRÁNG MIỆNG Ta có thể làm món tráng miệng ngon lành chế bằng bí đỏ, gạo nếp và đậu là chính thay trái cây, bột mì. Những chất làm ngọt tốt cho sức khỏe là: 1. Cơm rượu: nước cốt hoặc cái của gạo nếp hay gạo tẻ lên men rượu. Có thể ăn nó trực tiếp hoặc dùng nấu chung với các món tráng miệng khác. 2. Nha gạo 3. Nha lúa mạch 4. Hạt dẻ. 5. Rượu nếp, một loại rượu để nấu ăn làm từ gạo nếp lên men. Thường dùng khi chế biến các món ăn chính nhiều hơn là nấu món tráng miệng 6. Trái cây khô 7. Trái cây tươi đúng mùa nấu chín. 8. Nước cốt táo tây, rượu táo. Thạch (xu xoa) Aga aga và bột sắn dây là hai chất kết đông tự nhiên, ta dùng thay trứng, gelatin… Để tham khảo các công thức làm bánh, kẹo tráng miệng phong phú hơn, xin xem các sách chỉ dẫn về cách nấu ăn Thực dưỡng. Do đặc thù của cuốn sách là chế độ ăn kiêng trị bệnh nên tôi không đưa vào những món tráng miệng chỉ dành cho người khỏe. Cơm rượu (Có thể được bán sẵn) Nguyên liệu. 4 tách gạo nếp lứt Nửa tách men rượu 8 tách nước lã. Cách làm : Ngâm gạo qua đêm và nấu nồi áp xuất 30 phút. Sau đó, dỡ cơm ra một bát tô, chờ nó nguội đủ để chạm tay vào được thì trộn men, sau đó phủ lên trên một chiếc khăn sạch rồi để vào nơi ấm áp. Để nếp lên men từ 4-8 tiếng. Lại lấy ra, trộn lại cho men ngấm đều. Khi mặt nếp bắt đầu nổi bọt, nếm nếp thấy ngọt là thời gian lên men vừa xong. Vị ngọt tiếp tục tăng lên, tới một điểm thì cơm rượu bắt đầu chua. Khi rượu còn đang ngọt, đem đun sôi nó lên với 1 thìa muối, tắt bếp ngay khi bọt bắt đầu lên. Có thể ăn trực tiếp như vậy hoặc đem xay nhuyễn rồi dùng làm gia vị nấu món khác. Có thể pha một loại nước uống khá ngon bằng cách xay nó ra, sau đó thêm nước và ít gừng mài rồi đun sôi lại. Để giữ cơm rượu được lâu, đun nó nhỏ lửa trên bếp và khuấy đều tay đến khi rượu ngả sang màu nâu như mật. Đó là nha gạo. Bánh pudding cơm rượu 4 tách nước cơm rượu 6 muỗng canh bột sắn dây, hoà ít nước. 2 nhúm muối. ¼ tách nho hay nhãn khô. Bỏ các nguyên liệu kể trên vào nồi vừa nấu, vừa khuấy đều tay bằng cái thìa gỗ để bột khỏi vón, cháy . Rồi để lửa nhỏ cho sôi thêm 3 phút, chế ra chén (bát), để nguội, trang trí mặt bánh rồi dọn món. Khi bánh đã nguội và đông cứng hẳn, có thể cắt nó ra thành miếng nhỏ. Công thức này cho 8 người ăn. Xôi Hạt Dẻ. 2 tách nếp lứt. Nửa tách hạt dẻ khô. 3 tách nước. 2 nhúm muối. Vo sạch, rang khô hạt dẻ trong 5 phút bằng ngọn lửa vừa, rồi cho vào nồi áp xuất với nếp, nấu như nấu cơm. Công thức này cho 4 – 6 người ăn. Đậu đỏ nấu ngọt 1 tách đậu đỏ hạt nhỏ 1 tách hạt dẻ. 1/8 tách nho khô (hoặc ½ tách nha gạo) 5 tách nước. Nửa thìa cà phê muối. Ngâm đậu đỏ và hạt dẻ từ 6 – 8 tiếng hay qua đêm rồi cho cả vào, trừ muối – nấu nồi áp xuất từ 40 – 45 phút. Xong, xả áp xuất, mở vung, thêm muối, rồi nấu sôi lại hạ nhỏ lửa để thêm từ 5 – 10 phút hoặc lâu hơn cho nước cạn hẳn. (Như thế, nó sẽ ngọt hơn nhiều). Công thức này cho 4 – 6 người ăn. Bánh Dầy hạt dẻ 2 tách nếp lứt. 2 tách hạt dẻ. 7 tách nước. 4 nhúm muối biển. Nửa tách mè đen. 1 muỗng canh nước tương. Rang hạt dẻ rồi bỏ vào nồi áp xuất, nấu với 5 tách nước và 2 nhúm muối từ 45 – 50 phút, cho sang máy xay nhuyễn. Rang vừng (mè) cho chín thơm, bỏ vào chén (bát), búng ít tamari lên. Cùng lúc đó, nấu xôi bằng nồi áp xuất với 3 tách nước và 2 nhúm muối từ 40 – 45 phút. Xong, bỏ nếp vào giã mạnh tay trong chừng 15 – 20 phút cho dẻo rồi dùng tay ướt viên thành những viên nhỏ. Lăn một số viên vào vừng rang, phủ kem hạt dẻ lên một số viên khác. Bày ra đĩa cho đẹp rồi dọn món. Cũng có thể bọc bánh dày bằng đậu đỏ nấu theo công thức ở trên, hạt óc chó rang giã vụn búng chút tamari hoặc kem bí đỏ Bánh pudding Bí đỏ 1 quả bí đỏ (ngô). 1 tách cơm lứt. 2 tách nước. 1 tách nha lúa mạch 1/8 thìa con muối 1 muỗng canh bột sắn dây, hoà tí nước. Cho các nguyên liệu vào nồi áp xuất, trừ bột sắn, nấu sôi rồi vặn nhỏ lửa từ 15 – 20 phút. Tắt bếp, xả áp xuất, mở ra hoà bột sắn, mở bếp và khuấy đều cho bột chín trong. Bắc nồi ra, dùng lúc còn nóng. Công thức này cho 4 – 6 người ăn. Chè sắn dây Nửa muỗng canh bột sắn. 1 muỗng nha gạo hay nha lúa mạch 1 tách nước. Trước nhất hoà bột, đổ vào nồi với 1 tách nước và chỗ kẹo mạch nha. Bắc lên bếp, khuấy đều cho sôi, rồi vặn nhỏ lửa, nấu từ 10 → 15 phút và đem dùng lúc còn nóng. Thạch mè và nha gạo 2 tách nước. 2 tách nha gạo Nửa tách mè. 1 nhúm muối bột. 1 thanh thạch (tương đương 6 muỗng canh bột thạch). hạt thạch (xu xoa) aga. Đãi mè, rang thơm, giã thành bột nhuyễn, rồi bỏ tất cả nguyên liệu vào nồi, nấu sôi, khuấy nhỏ lửa chừng 15 phút, làm ướt khuôn rồi đổ hỗn hợp vào, bỏ vào tủ lạnh cho thạch đặc lại (làm ướt khuôn thì thạch sẽ dóc khuôn hơn). Công thức này cho 8 người ăn. Thạch sim 2 tách sim chín 4 tách nước cốt táo tây (hay 2 tách nước cốt táo + 2 tách nước lã). 1 nhúm muối bột. 1 thanh thạch (xu xoa) hay 6 muỗng canh bột thạch. 1 muỗng canh bột sắn, hoà chút nước. Cho nước táo, muối, thạch và sắn dây vào đun sôi, hạ nhỏ lửa khuấy đều tới khi sắn dây trong và bột thạch tan hết, sau đó cho sim vào. Làm ướt khay để thạch dễ dóc khay sau này rồi đổ hỗn hợp vào và đợi nó đông lại. Có thể thay sim bằng những loại trái cây khác, trái cây khô nên cho từ đầu. Các loại hạt rang thơm cũng có thể cho vào món này. Công thức trên đủ cho 8 người ăn. Xốt Táo. 8 quả táo tây, gọt vỏ, bỏ hạt xắt thật mỏng Nước đổ ngập khoảng 2cm để ngăn táo cháy khét 2 muỗng canh nha gạo 2 nhúm muối bột. 1 muỗng canh bột sắn dây (cho người âm tạng). Nấu sôi nguyên liệu, rồi hầm nhỏ lửa cho táo nhừ, xay nhuyễn là được. Bánh nướng có vỏ 4 tách bột mì lứt 1 tách dầu bắp (ngô). Đủ nước để nhào bột. 1 thìa cà phê muối bột. Trộn bột với muối, thêm dần dầu vào khi quậy bột thành tảng. Rồi chế dần nước cho thành khối bột nhào trong khi tay vẫn quậy bột bằng cái nỉa. Đánh cho bột không dính và nhão quá. Nhưng nếu bột dính quá, thì rắc thêm bột khô . Xắt khối bột thành hai. Lấy cây lăn bột rồi cán mỏng một trong hai khối bột, được đặt giữa hai tờ giấy nến. Nếu miếng giấy lót dưới trơn quá làm khối bột trượt đi, khó cán thì bôi ít nước xuống mặt dưới của nó để nó dính bàn hơn, có thể phủ ít bột khô hay dầu lên mặt giấy tiếp xúc với bột để giấy và bột không dính chặt vào nhau, dù sao, nếu khối bột vừa đủ nước và không bị dính thì cũng không có vấn đề gì đáng lo. Cán xong cẩn thận tách lớp giấy ở trên, úp mặt bột vào khay nướng bánh, rồi cẩn thận tách lớp giấy còn lại. Có hai cách làm kể từ bước này: 1. Cắt hết mép bột thừa trên miệng khay, dùng cái chĩa nhọc nhiều lỗ trên mặt bột để hơi có lối thoát, nếu không, mặt bánh sẽ đầy bọt. Ấn nhẹ cho lớp bột quanh miệng khay khum vào, chỗ bột còn lại, đem nhồi thêm một cái vỏ bánh nữa. Sau đó cho vào lò nướng, nướng lớp vỏ bánh này trong 10 phút ở 1800C. Lấy ra đổ đầy nhân vào vỏ bánh rồi đem nướng tiếp cho tới khi vỏ bánh vàng nâu. 2. Cán khối bột còn lại để phủ lên nhân bánh. Sau khi đổ nhân vào khay, phủ số bột còn lại lên, cắt đi những mép thừa và miết cho hai khối bột trên dưới dính vào nhau. Rạch vài đường để bột có chỗ thoát hơi. Có thể cắt khối bột thành từng dải rồi tạo thành hình trang trí phủ lên trên lớp nhân, sau đó đem nướng. Với chỗ bột thừa, ta có thể cán ra, làm bánh qui. Bánh dầy nướng Loại bánh này tốt cho sức khỏe hơn so với bánh nướng có vỏ ở trên, nhưng chỉ làm được loại số 1 Nấu nếp và giã như bánh dầy sau đó bôi dầu vào khay nướng bánh, cho xôi vào và ép nặn thành hình vỏ bánh. Cho nhân vào rồi bỏ lò, nướng như bình thường. Không cần phải nướng trước như cách số 1 ở trên. Bánh Bí nướng có vỏ 1 quả bí đỏ (ngô) nhỏ, xắt con cờ. 1 tách mạch nha Nửa thìa cà phê muối bột. Non nửa tách nước lã. Nửa tách đậu phụng (lạc) rang tách đôi. ________ * Gatô. Nấu nồi áp xuất cỡ 15 – 20 phút cho bí muối và nước nhừ, xay nhuyễn, rồi lại bỏ tiếp vào nồi, cho mạch nha, nấu sôi 15 phút nữa. Nếu hỗn hợp quá đặc, thì châm thêm nước, nếu nó quá lỏng thì nấu thêm để nó quánh lại. Nói chung, yêu cầu phần nhân bí phải khá quánh đặc. Lấy vỏ bánh đã nướng trước ra, đổ nhân bí vào, rắc đậu phụng lên. Bỏ lò, nướng ở 180 - 2000 F trong chừng 30 phút cho vỏ bánh vàng sậm. Để thay đổi, có thể dùng hạt dẻ, trái cây và các loại rau củ ngọt khác để làm nhân bánh. 15. CÁ/HẢI SẢN Ta nên ăn cá càng tươi càng tốt. Tốt nhất mua cá còn bơi trong chậu. Chọn loại cá bơi chậm, thịt màu trắng như cá bơn, cá tuyết, cá chép v.v… cần tránh loại cá thịt đỏ, bơi nhanh như cá thu, hồi, cá kiếm... Kiêng không ăn động vật giáp xác như trai, sò, hến, hàu, tôm, tôm hùm, cua... Đặc biệt, người hay bị dị ứng ngoài da, phải kiêng hẳn các loại cá – ít ra vài tháng, cho đến khi sức khoẻ phục hồi. Những ngày ăn cá thì điều chỉnh lượng rau xanh lên nhiều gấp 3 lần vì cá rất dương. Nạo củ cải với vài giọt tamari và ít gừng nạo giúp trung hòa các độc tố trong thịt cá. Có thể thêm vài giọt chanh hay vài khoanh chanh mỏng, bày lên cá, vừa đẹp lại vừa có tác dụng cân bằng. Canh Cá. 1 – 2 miếng thịt cá bơn hay cá tuyết (hay bất cứ loại cá thịt trắng nào khác có khối lượng tương đương) 1 tách wakame, ngâm, xắt miếng 2,5 cm 1 bó cải xoong, trụng tái 1 giây. 3 tai nấm đông cô, ngâm, xắt nhỏ 5 – 6 tách nước canh phổ tai (hoặc nước ngâm nấm) Nước tương, để nêm. Nấu sôi nước canh rong, wakame, nấm, rồi vặn nhỏ lửa, nấu thêm vài phút cho rong, nấm mềm. Xắt lườn cá lát mỏng cỡ 3- 5 cm, cho vào nồi canh, nêm nước tương rồi để thêm 1 – 2 phút cho miếng cá chín – trắng ra . Múc canh ra tô (chén), cuối cùng bày rau chần lên canh. Súp cá 500g cá tuyết (hoặc loại cá thịt trắng khác) 12 khoanh củ sen mỏng 9 khoanh củ cải, xắt cỡ 1,5cm 2 miếng phổ tai, bề dài cỡ 30 cm ngâm mềm 6 tách nước, bao gồm cả nước ngâm phổ tai 4 – 5 thìa cà phê bột sắn dây, hòa ít nước. Nước tương để nêm. 3 cây hành lá, xắt khúc. Xắt phổ tai thành lát, vuông cỡ 3x3 cm2 ngâm nước cho mềm, cho vào nồi với nước ninh mềm, sau đó cho rau củ vào với chỗ nước còn lại nấu mềm. Cắt cá thành những lát mỏng, kích thước cỡ 5 cm, cho vào nước cùng tamari và bột sắn. Khuấy đều trong 3 – 5 phút cho súp cá hơi quánh lại, rắc hành và dọn món. Công thức này cho 6 – 8 người ăn. Cá chép ninh tương (Món canh này rất dương, đem lại nhiều sinh lực. Ở Nhật Bản, nó thường được nấu cho phụ nữ mới sinh. Có thể ăn vào mủa đông, hoặc nấu để tăng sức cho những người quá ốm yếu) 1 cá chép nhỏ, cỡ 1kg. 1kg rễ ngưu bàng xắt lát xéo. 1 tách bã trà cành + lá già Nước đủ ngập nguyên liệu, gồm 1/3 là nước trà, 2/3 là nước. Gừng mài. Miso để nêm. Một vuông vải bông 100%. Ta nên mua cá chép còn sống, nhờ người bán cá làm thịt, hãy tri ân con cá vì mình đã phải nương nhờ tới sinh mạng của nó… moi bỏ mật và móc mang (màu vàng, đắng) là xong. Về nhà, cứ để nguyên thế, xắt khoanh, dày 2,5 cm. Dùng khâu vuông vải thành cái túi, gói bã trà lại, bỏ cùng cá và ngưu bàng vào nồi áp xuất, ninh 1 giờ. Sau đó bắc nồi ra, xả hơi, mở ra , cho gừng và miso vào, nêm vừa ăn, bắc lên nấu thêm 5 phút, rồi rắc hành – đem dùng. Công thức này cho 6 – 8 người ăn. Cá tươi bỏ lò 1 con cá tươi đã làm sạch 3 muỗng canh miso trắng 2 muỗng canh rượu nếp 3 muỗng canh nước dùng phổ tai. Củ cải mài. Cho cá vào đĩa nướng đã thoa dầu rồi khía vài vạch lên lườn cá, nướng trong 7 → 10 phút. Trong khi đó, trộn miso với nước phổ tai và rượu nếp cho đều, khi cá chín khoảng 70% thì quét hỗn hợp lên cá rồi nướng thêm độ 5 phút. Ăn kèm với củ cải mài. Công thức này cho 1 – 2 người ăn. Cá tuyết nướng 1 kg thịt cá tuyết ¼ tách nước. ¼ tách nước tương. 3 muỗng canh rượu nếp. 1 muỗng canh gừng mài. Vài muỗng canh củ cải mài. Vài giọt nước tương. Vài cọng rau mùi. Vài khoanh chanh mỏng. Trộn chung các chất lỏng kể trên với gừng. Rửa cá rồi ướp với hỗn hợp trong 10 – 15 phút. Đặt các miếng cá lên vỉ và nướng mỗi mặt chừng 4 – 5 phút. Lấy ra, bày lên đĩa và trang trí với rau mùi và vài lát chanh, bày chung với 1 đĩa nhỏ củ cải mài có vài giọt tamari. Công thức này cho 4 người ăn. 16 NƯỚC GIẢI KHÁT Tốt nhất, ta chỉ uống khi thấy khát. Đa phần chúng ta chỉ uống nước theo thói quen, dù không có nhu cầu thật sự (và cũng ăn theo nói quen như vậy). Tuy nhiên, nếu bạn cứ khát liên tục thì cần kiềm tra lại chế độ ăn, có thể có một vài nguyên nhân sau: 1) Ăn mặn quá. 2) Ăn nhiều thịt cá. 3) Ăn nhiều bánh bột, bánh qui, bánh nướng. 4) Ăn nhiều gia vị. 5) Ăn nhiều thức ăn nói chung. 6) Ăn vội vã – nhai sơ sài. 7) Ăn thiếu rau – củ - quả, xà lách. 8) Ăn quá nhiều rong tảo. Nước lọc có chất lượng tốt nhất là nước suối hay nước giếng. Tránh nước máy có hóa chất khử trùng. Ngoài ra, cần tránh uống nước đá hay nước ướp lạnh, do nó gây sốc và làm yếu hệ tiêu hóa và làm chai cứng chất béo trong cơ thể. Những loại nước giải khát để dùng hàng ngày tốt nhất không nên chứa cà phê, đường, gaz, chất tạo màu, chất bảo quản, chất kích thích và chất cồn. Nếu bạn đang theo một chế độ ăn tiêu chuẩn, bạn có thể dùng 1 chút những loại thức uống âm hơn một chút như trà xanh, bia, rượu gạo và trà bạc hà. Nhưng khi đang ăn kiêng trị bệnh tiểu đường, cả type I và type II, cần kiêng tuyệt đối các thức uống này. Các công thức pha chế đồ uống trong phần “Đặc phương” chỉ được dùng trong các trường hợp chỉ định cụ thể, và chỉ dùng trong những khoảng thời gian nhất định. Trà cành, trà bancha (Có thể dùng uống thay nước hàng ngày) 1 – 2 muỗng canh trà cành hay trà ban cha 1,5 lít nước. Trà cành hay trà lá thường được sao trước rồi mới đóng túi bán. Cho trà vào nước lạnh rồi đun sôi, sau đó hạ nhỏ lửa nấu khoảng 10 – 15 phút, tùy thuộc bạn muốn uống đậm hay uống nhạt. Trước khi rót trà ra ly/tách, dùng vỉ tre hay thép, vớt xác trà ra. Để dành bã trà, có thể nấu vài lần, chất trà mới ra hết. Trà cành không chứa caffeine, chất tạo màu, thuốc nhuộm hay hương liệu. Nó trợ giúp tiêu hóa, làm dịu cơn đau dạ dày vì bản thân nó rất kiềm. (Đa phần các loại trà trên thị trường tạo axit) Trà cành và trà lá già làm từ cành và lá của cây trà. Phần búp non của cây trà được khai thác thương mại nhiều hơn để làm thức uống. Loại trà này rất được ưa thích nhưng bản thân nó chứa nhiều caffein, và không nên sử dụng nó thường xuyên. Khi búp trà non lớn lên và trở thành lá già, chất caffein trong đó giảm dần và cuối cùng biến mất. Việc thu hoạch các phần khác nhau của cây trà tạo ra những loại đồ uống khác nhau. Trà Ngũ Cốc (Có thể uống hàng ngày) Vo sạch riêng từng loại gạo, nếp, kê, lúa mì…, rồi rang riêng từng thứ cho sậm và thơm, hạ thổ, để nguội rồi cho phần chưa dùng vào một hộp nó nắp kín. Mỗi lần pha, lấy 2 thìa canh cho vào 1,5 lít nước và nấu giống như trà cành. Cà phê Thực dưỡng (yannoh) (Dùng thi thoảng) Còn gọi là cà phê thảo mộc hay cà phê ngũ cốc. Có thể mua cà phê Thực dưỡng tại các cửa hàng dưỡng sinh. Hoặc bạn có thể tự làm, gần giống như cách làm trà ngũ cốc, vo sạch riêng từng loại hạt, rang nhỏ lửa cho sậm và thơm, nhưng rang lâu hơn so với làm trà. Sau đó đem xay bột rồi trộn với nhau. Cà phê thực dưỡng 3 tách gạo lứt 2 tách rưỡi lúa mì 1 tách rưỡi đậu đỏ. 2 tách đậu gà 1 tách rễ diếp xoăn, băm nhỏ. Có thể đựng cà phê Thực dưỡng trong một lọ thủy tinh. Bạn cũng có thể thay đổi công thức phối trộn để tạo ra nhiều loại cà phê khác nhau từ ngũ cốc, đậu các loại và các thứ rễ củ. Loại cà phê 100% rễ bồ công anh có hương vị rất đặc biệt. Trà đậu đỏ (Thỉnh thoảng uống làm thuốc). 1 tách đậu đỏ. 3 – 4 tách nước. 1 miếng phổ tai. Bỏ phổ tai vào trước, rồi đến đậu đỏ, chế nước nấu sôi, giảm nhỏ lửa cho đến khi nước đậu đỏ đậm. Uống trà này rất tốt khi thận bị xơ cứng. Mỗi ngày uống một tách và uống liền 3 ngày. Trà Phổ Tai (Đôi khi dùng). 1 miếng phổ tai 6x9 cm2. 2 tách nước. Nấu sôi 2 tách nước với phổ tai, cho cạn một nửa là được. Trà Mu (hay Vô trà). Đôi khi uống. 1 túi trà Mu (bán ở cửa hàng Thực dưỡng) 4 tách nước. Nấu sôi, vặn nhỏ lửa, để thêm 10 phút nữa là được. Trà Mu có thành phần từ 16 thảo dược, đã được Ohsawa tiên sinh chế ra theo nguyên tắc Âm/Dương quân bình Trà Mu rất Dương, bồi bổ cơ thể rất mau. Chữ Mu có nhiều nghĩa, là “không”, là “trống rỗng” và là “đồng nhất”, là duy nhất; trà Mu do tiên sinh Ơhsawa sáng chế trên căn bản y học dược thảo cổ truyền Phương Đông dành cho các bệnh của phụ nữ. Nó gồm 16 cây cỏ hoang thiên nhiên phối hợp, pha trộn tinh tế gồm cả nhân sâm. Việc pha trộn các loại thảo dược đầy tính nghệ thuật đã tạo cho vị nhân sâm trong trà Mu có hiệu quả lớn hơn rất nhiều so với việc chỉ sử dụng nhân sâm đơn thuần. Thực tế, chỉ sử dụng nhân sâm không thôi thì tác dụng quá mạnh.. Trà mu dương hoá cơ thể một cách êm dịu và nhanh chóng, Trà Mu có chứa 16 thứ dược thảo tự nhiên Trà Mu được chế biến từ các thành phần tự nhiên được sấy khô, không có thành phần đường và được coi là dương nhất trong các loại đồ uống Thực dưỡng, do vậy, trà Mu chỉ nên uống trước hoặc sau khi ăn 30 phút. Đây là loại trà thảo dược hấp dẫn, nhất là trẻ con chúng rất thích uống vì nó đặc biệt thơm ngon; hương vị không quá ngọt sắc, hiệu quả kích thích nhẹ nhàng. nó được coi như loại đồ uống giúp cân bằng cơ thể một cách hoàn hảo. • Cho người khoẻ mạnh: nấu 1 gói với 3 tách nước (nửa lít – ¾ lít nước) trong 10 phút. Trà này giúp làm hết mệt mỏi, dương hoá cơ thể hơn và làm giảm cân. • Cho người bệnh: nấu 1 gói với nửa lít nước trong 30 phút (nấu sôi 5 phút, để nhỏ lửa 25 phút) cạn bớt, đủ dùng cho 1 người 1 ngày. Có thể hâm lại trước khi uống hay pha vào ấm ủ. Người âm có thể uống trà này mỗi ngày trong 1 -2 tuần lễ, đặc biệt nhất là khi: • Rối loạn hệ thống tiêu hoá, yếu bao tử. • Rối loạn hệ thống hô hấp, như ho bởi âm. • Rối loạn cơ quan sinh sản, đau bụng kinh hoặc kỳ kinh không đều. • Mắt bị tam bạch (lộ thêm phần trắng phía bên dưới tròng đen – tìm đọc “Thuật dưỡng sinh và đời người qua tướng mắt”) Trà mơ muối (đôi khi uống). 3 – 4 quả mơ muối. 2 lít nước. 1 – 2 lá tía tô (không bắt buộc) Cạo lấy thịt (cơm) mơ, đập vỡ hột rồi bỏ chung tất cả vào ấm, nấu sôi. Vặn nhỏ lửa nấu thêm từ 20 – 30 phút. Đây là một thức uống giải khát tuyệt vời vào mùa hè. Nó vừa giải khát lại bù cho cơ thể những khoáng chất bị mất do ra nhiều mồ hôi. Nước Rau (dùng thi thoảng) Nước luộc rau hay nước còn lại sau khi nấu rau củ trong nồi áp suất, chúng ta có thể uống thay trà . Nhưng phải là nước ít chất muối. Nước ép Rau + Quả (Đôi khi dùng). Nước ép các loại rau quả trong danh sách thường dùng có thể thi thoảng sử dụng. Vào mùa đông, nên đun nóng nước ép này lên rồi mới uống, nhất là những loại nhiều âm tính. Trong vài trường hợp, nó giúp làm giảm nhanh triệu chứng hạ đường huyết, nhất là nước ép đun nóng. 17. ĐẶC PHƯƠNG Cách áp dụng các trợ phương trong đây có thể tham khảo cuốn “Y học thường thức trong gia đình” và phần điều chỉnh chế độ ăn cho người bệnh tiểu đường và tiểu đường type II trong sách này. Thuốc chữa trong: . Thạch + Mạch nha (trị táo bón) 1 muỗng canh mạch nha. 1,5 muỗng canh thạch (xu xoa) Aga. 1 tách nước. 1 nhúm muối. Bỏ chung nguyên liệu, nấu sôi, rồi vặn nhỏ lửa, để từ 5 → 10 phút. Bắc ra, uống lúc còn nóng ấm. Trà Củ Cải A 2 muỗng canh củ cải mài nhuyễn. Vài giọt nước tương. 1 tách trà cành + lá (tươi/khô) nóng Bỏ chung củ cải và nước tương vào tách rồi chế nước trà (chè) nóng vào, quậy đều – uống. Trà củ cải + cà rốt. 1 muỗng canh cà rốt mài. 1 muỗng canh củ cải mài. Vài giọt nước tương. 1 tách trà nóng (cành + lá – tươi/khô). Bỏ chung cà rốt và củ cải mài vào tách, chế trà nóng đầy, khuấy lên – uống nóng. Trà Phổ Tai. 2 tách nước. 1 miếng phổ tai dài 8 – 15 cm Nấu sôi nước + phổ tai, để trên bếp cho cạn một nửa, rồi uống. Trà nước tương* Vài giọt tamari 1 tách trà nóng (cành + lá). Cho nước tương vào tách chè nóng, quậy uống. Trà tương mai (Tăng cường tiêu hoá, bồi bổ sức khoẻ). 1 thìa cà phê đầy bột sắn dây . 1 thìa cà phê nước tương. 1 quả mơ muối. Nửa thìa cà phê gừng mài. 1 tách nước. Mài gừng, trộn với thịt (cơm) mơ để qua 1 bên, hoà bột sắn dây với nước rồi cho vào xoong với 1 tách nước – nấu sôi, quấy đều, khi bột chín trong thì nêm nước tương, mơ và gừng. Uống khi còn nóng. Trà củ cải B. Non nửa tách củ cải xắt miếng (phơi khô). 2 tách nước. 1 nhúm muối. Nấu sôi củ cải khô với 2 tách nước rồi nêm muối khi nước cạn một nửa -uống nóng. Trà Hạt sen và phổ tai Nửa tách hạt sen khô, ngâm qua đêm. Miếng phổ tai dài 7 – 8 cm, ngâm, xắt nhỏ. Nửa thìa cà phê nước tương. Nước sâm sấp hạt sen. Bỏ hạt sen, phổ tai và nước vào xoong nấu sôi, rồi vặn nhỏ lửa, nấu thêm 30 phút nữa cho hỗn hợp chín mềm. Nêm nước tương và để ngấm, nấu thêm 5 phút nữa. Cũng có thể nấu củ sen tươi hay khô. Trợ phương chữa ngoài Gạc gừng (Tăng cường trao đổi chất, thông huyết, tiêu đờm, tan bướu…). 6 muỗng canh gừng, giã nhuyễn. 4,5 lít nước. Vuông vải 20 x 20 cm2. Bao tay cao su. 3 khăn lông 50x50cm2 Một người giúp bạn áp gạc, vì tự mình áp gạc gừng là việc rất không thoải mái. Nấu sôi nước, sau đó tắt bếp, trong khi đó, gói gừng vào vuông vải và cột túm lại, ta vắt mạnh cho nước gừng hoà vào nồi, rồi thả túm gừng vào luôn. Không vắt gừng vào nước sôi, vì tác dụng của gừng sẽ mất. Cho người bệnh ngồi hay nằm thoải mái, rồi xỏ bao tay, nhúng khăn lông vào nước gừng, vắt kiệt, đắp lên ung nhọt hay chỗ đau. Người bệnh càng chịu nóng được càng tốt. Tuy nhiên, đừng để nóng đến phát bỏng. Để khăn đắp giữ nóng lâu, ta phủ ngoài một khăn bông khô. Cho thêm chiếc khăn khác vào nồi sẵn. Khi khăn gần nguội thì liền vắt khăn nóng khác đắp vào tiếp… Khi khối u hay chỗ đau đỏ ửng lên ( sau 20 – 30 phút). Lúc nồi nước nguội dần, thì hâm lên cho nóng (nhưng không để sôi) và đắp tiếp. Đắp nước gừng làm mềm ung nhọt, đờm dãi đóng khối trong cơ thể… Sau đó, nếu cần, có thể đắp một loại cao thích hợp để rút máu mủ từ ung nhọt ra… Cao kiều mạch (Giúp rút mủ ra khỏi chỗ sưng) Bột kiều mạch Đủ nước nóng để nặn bột thành 1 bánh dẻo, chắc 5 – 10 % gừng nạo Khăn bông sạch Áp nước gừng trước 5 phút rồi mới áp cao này lên vùng sưng tấy. Nặn một bánh bột bằng các nguyên liệu kể trên, đắp một lớp dày cỡ 6 – 7 mm trên vùng sưng. Bọc nó lại và buộc cố định. Thay cao sau khoảng 4 giờ. Chỗ sưng tấy sẽ xẹp dần sau vài lần áp cao, và khỏi trong tối đa là 2 – 3 ngày. Cao Củ Sen (Đánh tan, rút đờm dãi trong phổi, xoang mũi và cuống phổi…) 75 → 85% củ sen tưoi mài. 10 → 15% bột nhão 5 → 10% gừng giã hay mài. Vuông khăn vải bông. Trộn tất cả thành cao củ sen, rồi dàn thành một lớp cao dầy 2 cm lên vải và đắp vào da, băng lại từ 3 → 5 tiếng hay để qua đêm. Đắp thay đổi trong vài ngày. Trước khi áp cao, nên đắp nước gừng nóng trước thì mới phát huy hiệu quả cao. Ngâm Mông Lá Củ Cải. ( Trị bệnh bộ sinh dục cho phụ nữ). 4 → 5 bó lá củ cải phơi âm can 25 lít nước. 1 vốc đầy muối hột. 1 chậu nước nóng, ngồi vào ngâm tới thắt lưng. 1 khăn lông 60 x 100 cm. Phơi lá củ cải trong râm cho khô giòn, lá củ cải lớn hay nhỏ đều được. Nấu lá cải khô với một vốc muối hột và 4 – 5 lít nước, chờ nước hoá nâu, mới vớt lá, chế vào chậu tắm. Pha cho nước nóng già nhưng nhúng tay thấy chịu được là đạt yêu cầu. Khi ngâm mông, nước ngập tới rốn là vừa – phủ khăn lên mình và luôn cả chậu cho nóng đến đổ mồ hôi (trong 10 phút) . Sau khi ngâm, hãy thụt nước trà lá + cành vào cửa mình. Thụt Cửa mình. Nấu nước trà (chè) để thụt cửa mình. Nửa thìa cà phê muối biển. Vắt nước nửa quả chanh hay chừng ấy dấm gạo. Hoà chung các nguyên liệu trên, thụt cửa mình sau khi đã ngâm mông. Cao diệp lục và cám. Giảm sưng tấy, mẩn ngứa da. + 50% cám gạo. + 50% lá hay rau xanh băm giã nhuyễn. + Chút nước. + Khăn vải bông. Băm, giã lá rau như cải quăn, cải xoong, cải bắp… cho nhuyễn rồi trộn thêm nước và cám cho đặc sệt, dàn vào khăn, đắp lên chỗ đau và để đó. Lúc cao nóng lên mới lấy ra. Cao diệp lục với nori Giảm sưng tấy, mẩn ngứa da. Băm, giã nhuyễn rau xanh. Vài lá rong nori. Băm giã nhuyễn lá rau như cao kể trên, trộn với rong cho đặc sệt như cao, rồi đắp lên chỗ sưng đau. Lúc cao nóng ấm, mới gỡ ra. Cao đậu phụ 1 miếng đậu phụ Bắp cải cắt nhỏ Bột mì lứt để tạo độ kết dính, chiếm 10 – 20 % miếng cao 1 thìa cà phê gừng nạo Nghiền đậu phụ và cải bắp bằng chày và cối, thêm gừng và bột trộn đều rồi rải hết lên chiếc khăn vải bông, gói nó lại rồi đặt lên trán. Cao này có tác dụng hạ sốt. Khi miếng đắp nóng lên, thường sau 2 – 3 giờ, thay một miếng cao mới. Túi cám để tắm Cho 2 vốc cám vào 1 túi vải dày hoặc túi vải thưa may nhiều lớp. Buộc chặt lại. Dùng nó làm miếng kì khi tắm. Có thể dùng đi dùng tại túi cám này vài lần cho đến khi nó xơ cứng. Tắm bằng túi cám làm đẹp da và giúp trị chứng phát ban, mẩn ngứa. Phụ lục Sưu tầm…. Tổng quát Bệnh tiểu đường, là bệnh do đường glucose của máu (đường huyết) lọt ra trong nước tiểu. Thành phần đường (chỉ số đường huyết) trong máu người bình thường lúc nào cũng ở mức xấp xỉ 100mg/dl. Chất hormon gọi là insuline được tiết ra từ tuỵ tạng (nằm ngang phiá dưới dạ dày) đốt cháy đường glucoza trong máu, làm hạ chỉ số đường huyết. Do vì hoạt động của tuỵ tạng yếu, chỉ số đường huyết tăng lên khác thường, tới 200-300mg/dl. Đại khái nếu đường glucoza lọt ra nước tiểu khoảng 150mg/dl thì nứơc tiểu có mùi hăng, rất khó chịu. Đường glucoza là một trong những thành phần tổng hợp của tế bào. Nó tạo ra năng lượng và là chất cơ bản không thể vắng mặt trong việc trao đổi chất. Nếu nó cứ lọt ra mãi thì thành phần đường trong tế bào sẽ thiếu hụt và xuất hiện các triệu chứng sau đây: Khát nước là triệu chứng đặc trưng nhất, ngừơi bệnh lúc nào cũng thèm uống nước. Tiểu gắt : cần nước để bài xuất đường glucoza nên ngừơi bệnh phải đi tiểu nhiều lần. Có cảm giác đói: ăn rất nhiều để bù lại năng lượng đã mất mát. Đặc biệt người bệnh thèm ăn thức ngọt nóng, dù là thức nóng đến bỏng miệng. Rối loạn thị giác: mỏi mắt, mờ mắt Tăng số răng sâu, ổ răng nung mủ: dễ rụng răng vì tế bào nhão nát. Ổ răng dễ nung mủ. Phát cước, sần ngứa: do sức đề kháng của da yếu, nữ giới thì mọc nhọt ở cửa mình. Tình dục giảm, cảm giác mệt: ngừơi bệnh cảm thấy mệt lã nên thờ ơ về mặt tình dục, lười suy nghĩ khó tập trung vào công việc. Kinh nguyệt không đều: không đều, thậm chí có tháng tắt kinh. Sinh chứng “ đừơng huyết thấp”: trước khi sinh chứng huyết áp cao, ở nhiều người bệnh bị bệnh “đường huyết thấp”. Đó là chất insuline bị bài xuất quá nhiều. Tăng giảm thể trọng: ban đầu lên cân nhưng khi bệnh nặng bệnh nhân có chiều hướng sút cân. Song những triệu chứng trên không kèm theo sốt, đau nhức; nên có nhiều trừơng hợp bệnh nhân xem thường cho đến khi bệnh nặng. Dù đến khi bệnh đã đựơc chẩn đoán mà vẫn có bệnh nhân xem nhẹ bệnh trạng của mình và cứ nghĩ là “bớt ăn thức ngọt khắc khỏi!”. Thế rồi bệnh tiến triển thêm làm cho mạch máu già cổi, mất tính mền mại, xơ cứng động mạch xuất hiện. Ngoài chất insulin tiết ra từ tuỵ tạng, trong tế bào cũng có ít insulin. Nếu lượng insulin tiết từ tuỵ tạng ít thì insulin trong động mạch lập tức được huy động để xữ lý đường huyết thừa. Do đó động mạch xơ cứng lại. Thực tế là chất béo trong tế bào thành động mạch thoái hoá, biểu hiện dưới hình thức phần lớn chất béo trầm lắng không thấy khi bình thường. Tế bào thành mạch yếu dần sinh xơ cứng động mạch. Một khi động mạch xơ cứng, tất nhiên là huyết áp tăng lên. Do đó, xơ cứng động mạch càng nặng thêm. Nhất là các bộ phận não, tim, thận . . . có liên quan chặt chẽ với động mạch cũng bị rối loạn trầm trọng. Nếu cứ xem thường không chữa bệnh tiểu đường, bệnh nhân có lúc sẽ hôn mê gây nguy hiểm cho tính mạng. Nhưng cũng có ít “ca” bệnh nhân chết do bệnh tiểu đường hoặc xơ cứng động mạch. Vì bệnh nhân tiểu đường thường mắc các bệnh kèm theo tim mạch, như ngập máu não, hiệp tâm thu, nhồi máu cơ tim . . . Phần lớn bệnh nhân chết vì các bệnh này. Bệnh tiểu đường còn là biểu hịên của thể chất ung thư. Từ tình trạng cơ thể không xử lý nhanh hiện tượng đường huyết dư thừa, cũng như máu bị ô nhiễm thì dễ phát sinh bệnh ung thư. Thức ăn đặc hiệu và cách chữa trị: Cơm: gạo lứt trộn tạp cốc. Thức ăn: rau, rong biển, cá nhỏ, trai hến. Bổ sung: thức ăn có mầm, chất diệp lục tố, men để nhanh chóng phục hồi sức khoẻ ban đầu. Bí đỏ có tác dụng tăng cường hoạt động của tuỵ tạng, thúc đẩy sinh sản insulin. Tỏi tây, tỏi, hành, giúp hoạt động chuyển hoá đường bình thường. Ngưu bàng, cà rốt, ngó sen ngăn chận chỉ số đường huyết. (nấu canh, hay xào rán) Nấm hương, mộc nhĩ có tác dụng phân giải, xử lý đường dư thừa. Sâm triều tiên chống khô cổ, xìu người, tiểu nhiều, ngứa sần . . .Chất Panakiron trong sâm có tác dụng hạ chỉ số đường huyết và loại trừ triệu chứng này. Thiếu chất khoáng thì chỉ số đường huyết tăng nhanh, do đó nên ăn nhiều cá nhỏ, trai sò. Ngoài ra thường xuyên ăn ô mai muối, củ cải,cần tây, cúc, măng tây xanh, ngò, mùi tây, tía tô. Thức uống: Cách tốt nhất là dùng canh dưỡng sinh, một loại nước có tính chất trị liệu và tăng cường sức khoẻ đã nổi tiếng toàn cầu. Lưu ý: dùng loại canh dưỡng sinh sạch, tức là loại không dùng phân hoá học và thuốc trừ sâu khi trồng các nguyên liệu để nấu, như loại canh dưỡng sinh uống liền của của Đài Loan. Loại này chúng tôi đã làm thực nghiệm thử độ kiềm của nó, mầu sắc kiềm tính của Canh dưỡng sinh hiện lên rất đẹp. Bạn có thể tự làm lấy thực nghiệm này. Nếu không thể có được thứ thức uống này thì bạn có thể dùng: Uống nước sắc dây thường xuân, cam thảo, kiều mạch, ba bố thảo. Uống nước ép các loại tía tô, lá củ cải, cà rốt, cần tây, mùi tây, cải bắp. Dùng thêm chút sữa đậu. Trọng điểm điều trị: Nguyên nhân bệnh này do ăn thường xuyên và ăn quá nhiều các loại thức ăn tinh chế trắng và đạm động vật. Tuỵ tạng không chỉ tiết insulin mà còn tiết dịch tiêu hoá (dịch tuỵ) để phân giải chất đạm. Vì vậy ăn những thức ăn nói trên, tuỵ tạng sẽ làm việc quá sức và khả năng bài tiết insulin giảm sút. Do lẽ đó, phải chuyên ăn gạo lứt, rau để chữa bệnh tận gốc. Dùng liệu pháp hoá chất như tiêm insulin, uống thuốc hạ đường huyết thì một thời gian sau phải “đánh bạn” với chúng. Đưa chất lạ vào cơ thể không những làm cho hoạt động của tuỵ thoái hoá mà còn làm rối loạn chức năng sinh lý bình thường của cơ thể. Phân loại bệnh tiểu đường: Có thể phân ra làm hai loại: Bệnh tiểu đường lệ thuộc insulin: Bệnh tiểu đường “lệ thuộc insulin” là một bệnh mãn tính của tạng tuỵ, do tuỵ không sản xuất đủ insulin để đủ hiệu quả trong quá trình biến dưỡng carbô hydrat, mỡ và protêin. Thường bệnh tiểu đường lệ thuộc insulin bắt đầu trước lúc tuổi 30, nhưng nó cũng có thể xuất hiện ở bất cứ độ tuổi nào ngay cả lúc còn thơ ấu. Các triệu chứng biểu lộ như sau: mệt nhọc, rất khát nước, tiểu nhiều, đường được thải ra trong nước tiểu, đói ăn liên tục và ăn rất nhiều mà vẫn mất cân, dễ viêm nhiễm các bệnh khác, nhất là bị nhiễm độc qua đường tiểu, âm đạo, da, miệng và giảm thị lực ở các giai đoạn tiến triển của bệnh. Y khoa chỉ cho biết bệnh do tuỵ không sản sinh đủ insulin mà nguyên nhân chính thì hoàn toàn mù tịt. Khi tuỵ tạng bị nhiễm virus có thể đưa đến những triệu chứng của bệnh tiểu đường. Liệu pháp y khoa là tiêm insulin và kiểm soát cẩn thận các khẩu phần ăn kiêng đặt biệt, đó là cách kiểm soát trịêu chứng và tiến trình bệnh tiểu đường mà không chữa trị các nguyên nhân sâu xa của nó. Tiểu đường là một trong ba bệnh lớn đem lại cái chết cho bệnh nhân tại Hiệp chủng Quốc Hoa kỳ và biến chứng của nó đã đe doạ đến nhiều đời sống tại đây, như biến chứng qua hệ tuần hoàn máu, thận bị suy yếu, đường huyết giảm hoặc ngược lại quá cao lượng đường trong máu ( ketoacidosis). Theo sự hiểu biết của PP Thực dưỡng, bệnh tiểu đường lệ thuộc insulin là kết quả sau thời gian dài tiêu thụ quá nhiều thức ăn chứa đường (đường đơn) và thực phẩm có nhiều mỡ. Thêm vào đó là sự sử dụng cat bô hydrat tinh chế trắng thay vì catbô hydrat toàn phần như ngủ cốc lứt gây nên sự hỗn loạn đường huyết làm suy yếu khả năng sản xuất insulin của tuỵ tạng K không có insulin, cơ thể không thể sử dụng đường gluscose đúng cách, và kết quả là mức đường glucose lên quá cao trong máu vàmức hấp thu glucose trong các mô lại quá thấp. Cũng thế sự tiêu thụ quá nhiều thức ăn có mỡ làm cho dòng máu nhiễm mỡ, và trong trường hợp này dù tuỵ có sản xuất đủ insulin, nhưng đường glucose lại bị bao bọc bởi mỡ thừa và không thể đi qua màng của mạch máu và của tế bào. Giới thiệu thức ăn kiêng : Khoa thực dưỡng chữa trị nhằm một pháp ăn kiêng có ít mỡ, thịt và tránh các loại cát bô hy drát tinh chế thay vào đó các loại cátbô hydrat toàn phần. Các thức ăn kiêng sau đây được khuyên dùng cho đến khi các triệu chứng được cải thiện hoặc ít nhất là trong một tháng. Sau đó thực đơn có thể nới rộng ra trên cơ bản thực dưỡng. Thức ăn chính: Gạo lứt, lúa mì lứt, cơm trộn xích tiểu đậu và muối mè là thức ăn chính trong mỗi bửa ăn. Nhai kỷ 200 lần mỗi bụm cơm mới nuốt. Thức ăn phụ: (1/3 lượng so với thức ăn chính): Tekka miso, hành miso, phổ tai tương, rong Hijiki nitsuke, súp cá chép, rau củ hầm với cá, cá thịt trắng nướng, cá kho, Xích tiểu đậu nấu với phổ tai và bí đông, tempura rau củ, Ngưu bàng cà rốt, cải dầm miso. Súp miso: rong wakame, rong phổ tai kombu, hành tây, củ hành, củ cải muối khô. Thức uống: Cách tốt nhất là dùng canh dưỡng sinh, mộ loại nước có tính chất trị liệu và tăng cường sức khoẻ đã nổi tiếng toàn cầu. Sau đây là hình ảnh về hộp canh dưỡng sinh đã có uy tín trên thị trường, bạn có thể tìm mua ở bất cứ nơi nào nhất là tại các cửa hàng dưỡng sinh tin cậy của bạn. Nếu không thể có được thứ thức uống này thì bạn có thể dùng: Trà gạo lứt rang, trà bancha+gạo rang, trà già bancha trà phổ tai, trà Mu. Tối đa dùng hai tách thức uống mỗi ngày. Tránh dùng triệt để:Tất cả những thức ăn động vật, trai sò, thịt cá có sắc đỏ, tất cả thức chế biến từ sữa (gồm cả kem lạnh), các thức uống ngọt có đường, tất cả trái cây, dấm, gia vị cay nóng, cà chua, khoai tây, cà tím, cà dái dê, dưa, tất cả các loại nấm. Nhớ kỷ là tránh dùng dấm và sà lách trộn dấm, nó sẽ làm cho tình trạng tồi tệ hơn. Bệnh tiểu đường không lệ thuộc insulin: Bệnh tiểu đường không lệ thuộc insulin cũng có tính chất do sự bất túc của cơ thể trong sự sản xuất insulin. Triệu chứng của bệnh này cũng tương tự như bệnh tiểu đường lệ thuộc insulin; sự khác nhau giữa hai loại là loại không lệ thuộc insulin thì bắt đầu khi đã lớn tuổi, phần lớn xuất hiện ở ngừơi béo mập và đôi khi việc chữa trị không cần đến insulin liệu pháp. Làm giảm cân và tập luyện có thể lợi ích cho loại bệnh này, tuy nhiên thường rất khó thực hiện do bệnh nhân luôn thèm ăn và ăn rất ngon miệng. Thức ăn kiêng khuyên dùng : Thức ăn sau đây được khuyên dùng cho đến khi bệnh tình được cải thiện hoặc ít nhất là dùng trong một tháng, sau đó nới rộng ra trên căn bản phương pháp thực dưỡng. Các bạn sẽ làm chủ được trọng lượng cơ thể cuả mình. Nếu muốn nhanh hơn các bạn có thể tìm một loại luyện tập và thay đổi lối sống để kiểm soát được trọng lượng của bạn. Thức ăn chính: gạo lứt, xích tiểu đậu, mì Udon, gạo lứt trộn luá mạch. Nhai mỗi miếng cơm ít nhất là 200 lần mới nuốt. Thức ăn phụ: (1/4 lượng so với thức ăn chính với ít muối hơn bình thường): Muối mè, miso, miso gừng, súp đậu nành, súp cá chép, Hijiki ngưu bàng nitsuke, Nisuke ngưu bàng cà rốt, xích tiểu đậu với rong kombu và bí đông (Winter squash) Tempura rau củ, Nisuke cà tím với miso, nisuke nấm shiitake. Súp miso: củ cải trắng, bí đỏ, bí xanh , đậu phụ, cà tím. Thức uống: Cách tốt nhất là dùng canh dưỡng sinh, một loại nước có tính chất trị liệu và tăng cường sức khoẻ đã nổi tiếng toàn cầu. Sau đây là hình ảnh về hộp canh dưỡng sinh đã có uy tín trên thị trường, bạn có thể tìm mua ở bất cứ nơi nào, nhất là tại các cửa hàng dưỡng sinh tin cậy của bạn. Nếu không thể có được thứ thức uống này thì bạn có thể dùng: Nước nấu rau củ, nước nấu gạo lứt, trà gạo lứt + bancha, trà bancha, cà phê ngũ cốc, mỗi ngày chỉ dùng độ 2 ½ tách nước uống là vừa. Triệt để tránh dùng: tất cả các loại thịt động vật gồm cả cá, trai sò, thức ăn chế biến từ sữa (gồm cả kem lạnh), trứng, nước súp thịt, tất cả các loại rượu, thức ăn và thức uống ngọt, dấm, trà đen, cà phê. Bệnh tiểu đường trên trang Thực dưỡng của Nhật Bản: Bệnh tiểu đường là do tình trạng trao đổi đường dị thường tạo nên. Nó đặc biệt liên quan đến thức ăn hàng ngày của chúng ta.Không ăn nhiều các thức ăn có phẩm chất xấu từ dầu mỡ, thức ăn động vật, các chất có chứa nhiều đường, vận động thích hợp, giữ tâm bình an, thì có thể làm giảm lượng đường huyết xuống được. Cách chữa bệnh tiểu đường bằng liệu pháp thức ăn Bệnh tiểu đường ngày nay là bệnh của toàn dân. Số lượng bệnh nhân cả nước Nhật lên đến 7.500.000 người, nếu tính luôn những người chớm bệnh thì con số này tăng lên gấp đôi. Sau chiến tranh con số bệnh nhân là zero, 10 năm sau nó tăng lên một cách dị thường, và ngày nay được dự đoán là ngày càng tăng. Bệnh tiểu đường thường được cho là bệnh của sự xa xỉ, tuy nhiên hiện nay nó đã lan rộng tới cả những người bình thường, kể cả trẻ em. Tiểu đường là một bệnh đáng sợ. Một khi đã mắc bệnh thì nó gây hại đến toàn thân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống hàng ngày. Thời kỳ đầu thì lượng nước tiểu nhiều, khô cổ, thèm ăn nhiều, mệt mỏi, xuất hiện cảm giác rối loạn khu vực xương bả vai trái. Sau khi bệnh tiến triển thêm, xuất hiện triệu chứng da bị ngứa, thị lực giảm, tê tay chân, càng mệt mỏi hơn. Giảm hăng say trong công việc, chất chứa mệt mỏi, mắc lỗi trong công việc tăng rõ rệt. Nếu bệnh tiến triển nặng hơn nữa, có thể đánh mất cả thị lực, tứ chi, tổn hại nghiêm trọng đến huyết quản, thận và có thể đánh mất tính mạng. Trong suốt quá trình gây hại toàn thân của bệnh tiểu đường, nó làm cho cuộc sống của bệnh nhân chồng chất mỏi mệt. Ăn quá nhiều chất dầu mỡ xấu, thực phẩm động vật, đường, đưa vào miệng quá nhiều chất hóa học, những hóa chất trong môi trường sống, thuốc lá, rượu bia, cộng thêm việc ăn quá nhiều sẽ dẫn đến cơ quan tiêu hóa đầu tiên bị yếu đi đó là ruột. Ngoài ra stress chồng chất, làm cho công năng hoạt động của gan, thận – hai cơ quan trọng yếu control môi trường hoạt động của cơ thể bị yếu đi. Cứ như thế sẽ dẫn đến chất thải sẽ bắt đầu tồn đọng trong cơ thể. Thêm vào đó việc ít vận động sẽ dẫn đến lượng calori thừa tích trữ càng nhiều, làm tăng thêm gánh nặng cho tuyến tụy. Cứ tiếp tục như thế làm cho việc bài tiết insulin quá nhiều. Một khi insulin tiết ra quá nhiều trong thời gian dài sẽ làm cho tuyến tụy mệt mõi và cơ năng suy yếu và điều ngược lại xảy ra là lượng insulin tiết ra sẽ giãm thiểu. Hậu quả là lượng đường huyết sẽ tăng lên. Từ đó việc đốt cháy đường glucose sẽ trở nên không trơn tru nữa. Việc đốt cháy chất dầu mỡ, đạm cũng không thuận lợi, từ đó làm phát sinh số lượng nhiều chất thải như: acid lactic, acid uric, ammonia, acid ketonic, creatinine,… Như vậy thì chất thải gia tăng trong máu, trong bạch huyết và nó sẽ tích trử lại tại các cơ quan khác toàn cơ thể, gây tổn hại đến tất cả các tế bào toàn thân. Bằng cách này thì bệnh tiểu đường không chỉ là bệnh ở tuyến tụy mà thôi mà lúc khởi điểm nó đã là một loại bệnh tiến triển trên khắp cơ thể rồi. Theo đó, nếu như không vừa điều chỉnh lại toàn bộ các cơ quan trong cơ thể vừa cải thiện tuyến tụy thì không thể chữa được bệnh tiểu đường. Tuyến tụy đặc biệt có ảnh hưởng rất lớn đến ruột non, gan, thận và lá lách. Cùng với cơ năng của tuyến tụy, nếu nâng cao cơ năng của các cơ quan này thì sẽ bình thường hóa được cơ năng của tuyến tụy. Để bình thường hóa toàn bộ tế bào của cơ thể thì điều cốt lõi là nâng cao chất lượng máu bằng cách ăn uống đúng. Cách cải thiện bệnh tiểu đường bằng ăn uống: Món ăn chính: 1, Cơm gạo lứt ( gạo lứt nảy mầm là tốt nhất )…1 phần gạo lứt cho thêm 0.5g muối, 5g hạt kê, lúa mì lứt 5~10 g, 2g mè vào nấu chung. 2, Sắn dây…nêm nước tương, miso, bột rong biển, mơ muối… 3,Cháo lúa mạch. 4, Cơm lúa mạch …..gạo pha 30~50% lúa mạch. Món ăn phụ: Rau cải, rong biển, đậu, hạt… Gia vị: Muối, miso, tương , tamari, mirin, la hán quả. Thức uống: Nước trắng, trà xanh, trà Matcha, trà bancha, trà ngải cứu, mận khô, la hán quả, trà bồ công anh. Các loại thức ăn nâng cao cơ năng của tuyến tụy: 1, Lúa mì, lúa mạch, kikuimo, củ cúc vu (?) hành, bí đỏ, hạt kê, hạt bí đỏ, trái thông. 2, Nhân sâm, lá nhân sâm, hẹ, hành, hạt dẻ, khoai thiên nhiên, củ cải trắng, lá củ cải trắng, tần ô, mộc nhĩ, mè, táo tàu, củ sen, cần tây, bắp cải, hành tây, mì soba, giá, đậu nành, mơ muối, bồ công anh, tảo nori, ninniaku http://ja.wikipedia.org/wiki/%E3%82%B3%E3%...83%A3%E3%82%AF) 3, Đậu đỏ bí đỏ ( đậu đỏ, bí đỏ, phổ tai, nước tương …nấu ) mỗi ngày ăn 50~80g. Các thức ăn nên tránh: Các thức ăn động vật : thịt, thủy hải sản, sữa, trứng Dầu mỡ: dầu động vật, dầu thực vật Đường: đường trắng, đường kết tinh, …. Các thức ăn công nghiệp: thức ăn nhanh, các loại thức ăn dinh dưỡng cô đặc, retort-packed food( các loại thức ăn đóng gói đã được dùng cao nhiệt cao áp sát khuẩn đựng trong các túi nilon, giấy nhôm…) Các loại đồ uống lạnh:juice, cola, sport drink, thức uống dạng bột, thức uống có cồn. Ngày xưa người bệnh tiểu đường thường phát bệnh sau 35 tuổi, tuy nhiên ngày nay bệnh được phát hiện cả trong thế hệ trẻ còn được gọi là bệnh tiểu đường trẻ tuổi, tình hình thậm chí còn phát bệnh ở cả giới học sinh. Có lẽ là do thói quen ăn uống và sự di truyển, xu hướng ăn uống sành điệu, bạo ăn bạo uống, trường hợp trẻ em thì do trong quá trình mang thai người mẹ ăn uống các thực phẩm chất lượng không tốt ảnh hưởng rất lớn đến con. Đa số sinh hoạt ăn uống của người Nhật khoảng 30 năm gần đây trở nên xấu đi một cách đáng kể, do đó sinh ra những trẻ nhỏ có thể chất yếu, nên dễ bị bệnh tiểu đường. Bởi vì người ta cho rằng người dưới 20 tuổi phát bệnh thi khó trị hết, cho nên để bảo vệ trẻ em thì chúng ta nên lưu ý thói quen ăn uống của phái nữ. Nguyên nhân của bệnh tiểu đường thì theo tây y có vẽ như không hiểu rõ vấn đề là “đảo Langerhans” trong tuyến tụy ( bộ phận tiết tuyến do nhà bệnh lý học người Đức P. Langerhans tìm ra )sản sinh ra insulin và tế bào β bị phình đại (âm tính hóa). Việc hấp thu quá nhiều đường trắng, mật ong, trái cây và juice, các loại thức uống ngọt, các loại bánh kem, bánh kẹo, các lọai snack, các chế phẩm từ sữa, phụ gia, chất bảo quản, thuốc trừ sâu, các chất bột chiết xuất, thức uống bột, thuốc Tây, các chất hóa học khác , các loại rượu,… làm cho tế bào trong cơ thể bị nới lỏng . Hơn nữa các loại thức ăn làm từ ngũ cốc chà trắng, thịt, thủy hải sản, trứng các loại, các loại phômai cứng, các loại chế phẩm từ sữa không chỉ làm cho nội dịch của cơ thể có khuynh hướng acid hóa mà còn tích chứa quá nhiểu chất thải trong cơ thể. Từ đó làm cho cơ năng của tuyến tụy suy yếu, gây trở ngại cho việc bài tiết insulin dẫn đến tình trạng đường huyết tăng lên bất thường. Đồng thời vì thức ăn nguồn gốc động vật đa số là cực dương cho nên để lấy lại cân bằng ta sẽ thèm ăn những món cực âm. Từ đó sẽ khởi sinh vòng lẩn quẩn xấu. Vì một trong những nguyên do của bệnh tiểu đường được cho rằng bởi hấp thu quá nhiều các thức ăn cực âm và cực dương, cho nên cho đến khi bệnh trạng được cải thiện hoặc để phòng ngừa bệnh thì thiết nghĩ chúng ta cần chú ý đến sự điều độ. -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 18th June 2025 - 07:23 AM |