![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,053 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
LỜI TÁC GIẢ
Tiểu Sử của đại đức Mahn Bhūridatta mà các bạn sắp đọc là kết quả của một công trình nghiên cứu lâu dài. Tôi đã tham khảo, đi gặp các vị đại đức đệ tử của ngài. Những người đã từng sống chung với ngài. Tôi đã góp nhặt, ghi lại và soạn ra thiên tiểu sử nầy. Tôi hoàn toàn không vừa ý khi soạn bản tiểu sử nầy, vì thật là rẩt khó để cho các Sư , các vị đã từng sống tiếp xúc với ngài diễn tả được hểt những kinh nghiệm sổng trong cuộc đời tu tập của ngài mà ngài đã nói 1ại cho các vị đó nghe. Nhưng nếu tôi chờ có đầy đủ tẩt cả những chi tiết mà các vị đó nhớ lại, thì không những e rằng thời gian sẻ làm chúng phai nhòa và mất đi, mà hi vọng ghi chép lại tiểu Sử vể ngài cũng không thành tựu được. Rẩt là khó, khi tôi phải cho hoàn thành một công việc mà mình chưa vừa ý, nhưng hi vọng của tôi là tập tiểu sử nầy giúp ích được phần nào các đọc giả quan tâm đến Phật giáo Tôi cố gắng mô tả tất cả những hoạt động của ngài theo thứ tự thời gian, và theo lối hành văn thuật lại đời sống của các vị Thánh Tăng như' đã được ghi trong các kinh điển, đồng thời cố ghi lại những bài pháp mà ngài đã giảng cho các đệ tử, mục đích là cho các thế hệ sau thấy tấm gương đạo hạnh của một bậc chân tu, người đã theo con đường chỉ dạy của đức Phật. Và cho thấy khả năng chứng đạo có thể đạt được như mô tả trong các kinh điển, nếu như có một sự gia sức, một sự nổ lực thành thật trong việc tu hành. Xin các đọc giả tha lổi cho tôi nếu như cách trình bày không có gì thích hợp. Tôi không như ý về tác phẩm nầy, nhưng vẩn xuất bản vì hi vọng các đọc giả Phật giáo có thể tìm thấy một sự lợi lạc trong việc đọc lại cuộc đời của ngài, đại đức Mahn Bhūridatta. Tỳ Khưu Mahā Bowa Ñāṇasampanno Oct, 1971 ![]() ![]() NHÀ XUẤT BẢN GIỚI THIỆU Chúng tôi hân hạnh được trình bày, nơi phụ tnương đặc biệt của tập san nầy, thiên tiểu sử của cố đại đức thiền Sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, bình sanh là vị thiền Sư nổi danh nhầt trong nước Thái, do một số các đệ tử đồng thời với ngài biên soạn. Tác giả là đại đức thiền sư Phra Ācham Boowa Ñāṇasampanno, tịnh cư trong rừng chùa Bahn Tard, thuộc tỉnh Udon , cách xa kinh đô Vọng Các (Thái Lan) lối 600 Km về phía đông bắc. Hiện nay có nhiều vị thiền sư trước đã tững là đệ tử của ngài, như đại đức thiền Sư Phra Ācham Chah đã được nêu tên trong bản của ông Douglax M. Bums nhan đề : chương trình và dự án thành lập Tăng già Mỹ . Đăng nơi trang 56 của tập san nầy, mặc dầu cố đại đức thuộc về phái tiểu thừa cải cách, do đức vua Monkut lừng danh trên thế giới lập nên, nhưng ngài có rất đông đệ tử thuộc cả hai phái, và đại đức thiền sư Phra Ācham Chah có lẻ là vị đệ tử ưu tú trong phái đại thừa vậy. Quí bạn đọc thiên tiểu sử nầy, chắc thế nào cũng quay lại bản kêu gọi kể trên của ông. Như đã nêu trên trong số tân niên của chúng tôi, quyễn sách bằng chử Thái là một đầu đề tranh luận, vừa bị đã đảo, vừa được hoan hô, giữa nhóm trí thức và nhóm bình dân, giữa phái thượng lưu và phái hạ lưu, giữa hàng vương giả và hạng bần cùng và giữa chư Tăng và các thiện tín. Như thế, không phải là vô cớ, bởi vì quyễn sách là một khuyến khích lớn cho hàng Phật tử hành thiền thấy rằng : Ngày nay, đạo quả cũng vẩn còn giác ngộ được, nhưng nó đòi hỏi những nổ lực thích ứng chân thành và mảnh liệt của những bực tu hành già giặn và chính chắn. Đối với những người chỉ thích lăn lóc trong vũng lẫy tuyệt vọng, một bản tuyên ngôn như thế làm cho họ đau khổ vô cũng, và họ ném đá đả đão đại đức tác giả, lại còn mẵng đại đức là kẻ khủng bố, là kẻ phá hoại Phật giáo nữa. Nhưng có vài người lắng tai nghe bản thông điệp của đại đức, tin tưởng rằng nếu tự họ chưa già giặn đủ để giác ngộ đạo quả ngay trong kiếp nầy, thì cũng có thể có những người khác đã đến trình độ đó. Những người nầy sẳn lòng chịu lầm lạc, nếu quả thật họ lầm lạc, chỉ vì tin quá lố – như thế còn tốt hơn phạm nhằm đại tội Ariyūpavāda là mạ lỵ , hay hủy báng một vị thánh thanh văn. Họ đặt tất cả niềm tin của họ trên cái sự kiện hiển nhiên là trong số những kẻ chỉ trích Ngài (Phra Ācham Mahn Bhūridatta) Không ai có tài năng bằng ngài, hoặc bằng phân nửa Ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh, thanh cao, giản dị và thanh khiết. Ký thác đức tin của ta nơi một người sống một đời chơn chánh thánh thiện, thay vì đặt ở nơi những người chỉ hứa giúp đở ngoài môi và còn thụ hưởng đủ thứ khoái cảm nhục lạc, há chẳng đáng khuyên hơn, được lợi ích hơn, và cũng đúng với Phật pháp hơn sao? Chúng ta tôn thờ và tin tưởng ngài, là người không bao giờ khao khát đệ tử, hoặc tìm cầu danh vọng, và làm gương cho bất luận pháp nào của ngài thuyết, há chẵng tốt đẹp nhiều hơn sao ? Chúng tôi tin rằng tác phẩm sau đây sẻ được đón tiếp nồng hậu và sẻ bị chỉ trích kịch liệt, bởi quần chúng độc giả đọc chử anh, không kém nồng hậu và kịch liệt hơn khi còn nguyên văn chử Thái. Và chúng tôi kính cẩn Xin cầu chúc : Mong Sao cho những người hằng miệt thị ngài (đại đức , hay cố đại đức ) cũng như những người hằng tôn kính ngài đều có khả năng làm được như ngài, hoặc bằng phân nửa ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh thanh cao và tinh khiết. Thiên tiểu sử vạch rõ phương pháp tu hành và nếp sống linh động trình bày nơi đây, chính là của cố Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, cung cấp bởi các đệ tử đồng thời với cố đại đức, đả từng tu tập dưới sự hướng dẫn của ngài, trong những thời kỳ khác nhau. Do đó sự chính xác của họ có thể tìn cậy được lắm, dẫu rằng theo lẽ đương nhiên, chúng ta không thể biết chắc là mổi vị đệ tử của ngài có nhớ được từng lời giáo huấn của ngài, và từng địa điểm, từng việc biến chuyễn trong đời ngài hay là không? Nhưng nói đi rồi, còn nói lại, chúng ta không thể chờ đợi cho tới lúc sẻ thành tựu hoàn toàn mỹ mản, chúng ta càng trì hoãn , thì chắc là những chi tiết hay ho, hửu lý càng phai mờ trong ký ức của những đệ tử của ngàì. Và những thế hệ mai sau ắt là thiếu một tấm gương giá trị mà họ có thể soi chung. Vì xét thấy sự kiện nầy mà chúng tôi trình bày. Thiên tiểu sử sau đây, hi vọng rằng thà còn ít còn hơn không có gì hết. Phương pháp trình bày nơi đây, noi theo gương các bậc soạn giả tiền bối đã ghi chép tiểu sử của các vị thánh Thanh Văn, trong nhiều bản kinh, với hi vọng lưu truyền những gương mẩu cho đoàn hậu tấn. Trong trường hợp, có điều gì bất nhả mà chính cố đại đức thiền sư đã tự thuật, thì soạn giả xin cáo lổi với quí độc giả, nơi đây. tác phẩm nầy được soạn ra với mục đích phụng sự những ai lưu tâm tới khía cạnh Phật gíáo. Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, lúc bình sanh là vị thiền Sư danh tiếng nhứt, được tất cả các đệ tử thân cận thật sự tôn kính. Qua các thời thuyết pháp nói đạo và những lời chỉ dạy về Pháp cao siêu của ngài, nhóm đệ tử thân tín tự nhiên thấy rõ là ngài hẳn đã chứng đắc quả vị nào rồi mới gây được cái ấn tượng sâu đậm trong tâm họ ngay từ ban đầu, và về sau luôn luôn dùng để trắc nhiệm sự kiện nầy. Đệ tử của ngài gồm đủ cả cư sĩ và Tỳ Khưu, có lẽ khắp trong nước Thái và luôn cả trong nước Lào, láng giềng. Lịch sử đời sống ngài thật là kỳ diệu, cả trong hai thời : khi còn là cư sĩ và lúc đả tu Tỳ Khưa, từ ngày đầu cho tới ngày cuối. Nó không có chút tỳ vết bợn nhơ, nên dẩu cho ngọc kim cương hoặc thứ trân bảo khác cũng không bì kịp sự hy hữa và tinh khiết của nó. Tháng 6 âm lịch, 1974 (Sư Pháp Minh) ![]() ![]() ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU Tôi có duyên khi đọc được một phần bản thảo tiểu sử của ngài đại đức Mahn Bhūridatta được viết tay trên cuốn vở học trò 100 trang của Cố Tỳ Khưu Pháp Minh. Thiền Sư Pháp Minh là một vị Tỳ Khưu được nhiều người biết tới trong Phật Giáo Nam Tông ở VN, vì là bậc chân tu khả kính. Thiển Sư Pháp Minh sanh năm 15-3-1918 tại làng phước Hải Huyện Long đất, Tỉnh Bà rịa , Vũng Tàu. Thế danh là Nguyễn Văn Long con của cụ Nguyễn Văn Tài và bà Phạm Thị Minh. Xuất gia làm Sa Di vào năm 1965 tại chùa Phổ Minh, Gò Vấp, Gia Định vào ngày 7 thắng 2. Sau đó ngày 6-1-1968, ngài thọ đại giới Tỳ Khưu tại chùa Pháp Bảo ở Mỹ Tho. Thầy Tế độ là Hòa Thượng Giới Nghiêm. Năm 1968, ngài rời chùa Bửu Quang ở Gò Dưa, đến núi nhỏ ở Vũng Tàu tìm nơi độc cư thiền định. Năm 1969 ngài trở lại về Tổ đình Bửu Quang để tiếp tục sự nghiệp tu hành. Tháng 12 năm 1974, ngài theo lời thỉnh cầu của ban trị Sự Thích Ca Phật đài ở Vũng Tàu tới đó để hoằng pháp. Năm 1975-76 ngài du hành xuống Tô Châu, Hà Tiên , Rạch Giá. Năm 1977 - 80, ngài trở lại Tổ Đình Bửu Quang để tu. Sau đó đến lúc mất ngài sống hạnh độc cư, trì bình khất thực tại cốc Bình Thủy, gò Dưa , Thủ Đức. Và ngài an nhiên thị tịch khi ngồi thiền định vào lúc 9 giờ ngày thứ tư, 27 tháng 1 năm 1993 (tức mùng 5 tháng giêng, năm Quí Dậu) Từ khi xuẩt gia ngài luôn thực hành pháp hạnh đầu đà khẩt thực, và nguyện không nằm. Ngài giử hạnh tri túc, thường ít nhận tứ sự cúng dường của chư Tăng và Phật tử. Ngài thông suốt nhiều ngoại ngữ như tiếng Pháp, Anh, Thái, Khơmer, Pali. Ngài Soạn dịch nhiều kinh điển : như bộ chủ giải kinh Pháp cú, Sưu tập kệ Pali. Trước tác nhiểu tác phẩm: Sổ tức quán thực tập, Lâm tuyển pháp, Cổng vào Niểt Bàn, Chiển Sĩ thượng thặng, Ba cách làm phước, Việc tập tâm, Tứ oai nghi, Hạnh nguyện bồ tát, Siêu pháp tiểt chế tình dục, Tùy bút pháp hành, Thiền luận, Kệ kinh Tam Bảo Pali, . . Bản thảo tôi có được của cố thiền sư Pháp Minh do một người bạn đưa thì chỉ có một phần, vì đây là quà tặng của cố thiền sư Pháp Minh cho thân sinh của vị đó – theo lời vị đó nói. Nhân duyên đưa đẩy, nên tôi xin lược dịch tiếp từ bản tiếngAnh, để hoàn thành. Tôi nghĩ cố đại đức thiền sư Pháp Minh khi dịch, thì ngài cũng là muốn cho đọc giả thưởng thức một tác phẩm hay của Phật giáo. Tôi hoàn thành tiếp việc lược dịch, những sai sót chắc là có là vì khả năng hạn hẹp của tôi trong ngôn ngữ , xin người đọc tha thứ. Tôi cũng thành tâm xin sám hối nểu có điều gì không phải thì do vô rninh không biết mà gây, chớ không chủ ý. Nguyện xin Phật Pháp được trường tồn. Chúng Sinh an Iạc Rocky Mountain Thạch Sơn 2004 NHỮNG NĂM ĐẦU Thầy Đại đức (Phra Acharn 1 ) Mahn Bhūridatta, sanh vào trong một gia đình Phật giáo vào thứ năm ngày 20 tháng 1 năm mùi, Phật lịch 2413 (năm 1870), tại làng Ban Khambong, quận KhongJiam thuộc tỉnh Ubon Ratchathani. Cha ngài là ông Khamduang, và mẹ ngài là bà Jun (Dung) họ Kaenkaew. Là anh cả trong 8 người con trong gia đình, tuy nhiên khi ngài khuất bóng thì chỉ có 2 người em còn sống mà thôi. Ngài là con đầu lòng, nhỏ thó , nước da trắng hồng. Ngài nhanh nhẹn và tráng kiện lại vừa thông minh, ngay từ thuở nhỏ. Đến năm 15 tuổi, ngài xuất gia tu Sa di , ở chùa làng Khambong. Nhờ ngài hâm mộ việc học hỏi Dhamma (pháp), cho nên không bao lâu ngài thuộc lầu những bài kinh của thầy ngài dạy. Tánh tình và hạnh kiểm của ngài củng đáng tín nhiệm, không bao giờ gây rắc rối cho bạn bè và bậc trưởng thượng. Nhưng, hai năm sau khi xuất gia tu sa di, ngài phải hoàn tục, để đáp lại lời thỉnh cầu của cha ngài đang cần đến ngài phụ giúp trong gia đình. Nhưng nếp sống thanh bạch đã có ảnh hưởng xâu xa trong tâm hồn ngài. Ngài không bao giờ quên nó được. Cho nên ngài lập chí nguyện sớm muộn gì ngài cũng sẻ trở lại đường tu. Đây rất có thể là mảnh lực của một đức tin bất thối chuyển, hoặc Saddhā (chánh tín) đã được gắn chặt vào tâm tánh ngài. Về sau, khi ngài 22 tuổi, tiếng gọi của đời tu phạm hạnh có vẻ thúc giục thiết tha. Ngài bèn cáo biệt song thân. Hai ông bà cũng sẳn lòng chấp thuận và sốt sắng lo liệu việc ngài xuất gia tu lên Tỳ Khưu. Hai ông bà thỏa thích chuẩn bị nhu dụng của Tỳ Khưu cho ngài, rối đưa ngài đi xuất gia tại chùa Liap trong thành phố của tỉnh Ubon Ratchathani. Có đại đức Phra Ariyakawi là thầy tế độ (Upajjhāya), đại đức Pha Khru Sitha là thầy Kiết ma ( Kammavācariya), và đại đức Phra Khru Prajuk Ubonkhun là thầy chỉ dẩn (anusāsanācariya) vào ngày 12 tháng 6 dương lịch (năm 2436 Phật lịch). Sau lể xuất gia, ngài có pháp danh là Tỳ khưu Bhūridatta 2. Xuất gia rồi ngài chăm lo học thiền Minh sát ( Vipassanā) với đại đức Sao 3 tại chùa Liap. ĐIỀM MỘNG TIÊN TRI Lúc mới khởi sự hành thiền minh sát với Thầy đại đức Sao, ngài Bhūridatta đã chọn pháp môn niệm Phật làm đề mục thiền quán mà ngài thích nhất. Ban đầu, không đem đến cho ngài sự tịnh lạc, an vui theo ý nguyện khiến cho lắm lúc ngài hoài nghi giá trị của nó. Nhưng ngài bền chí gia công niệm mãi, và cuối cùng, ngài đã đạt được một độ nhất tâm và hưởng được sự an vui tịnh lạc quá sức hy vọng của ngài. Thế rồi, một đêm nọ, ngài nằm chiêm bao: Ngài mơ thấy mình đi ra khỏi cổng làng, băng ngang một khu rừng rậm, có nhiều chổ cây cối mọc chi chít, chằng chịt, không chừa một lối đi. Nhưng ngài ráng sức vượt qua tất cả chướng ngại và sau cùng thoát ra khỏi khu rừng, để thấy một cánh đồng không mông quạnh, thẳng tắp tới tận chân trời, ngài lại tiếp tục cuộc hành trình với những nổ lực không ngừng. 1. Phra Acharn : Thầy đại đức ; tiếng Thái, dùng để tôn kính gọi Tăng 2. Bhūridatta : (có nghĩa là nhiều trí tuệ) là tên của vị Bồ tát, tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thực hành hạnh Ba la mật. Vì bồ tát muốn thoát kiếp làm rồng nên lên nhân gian thực hành tu bát quan trai giới, và tu thập thiện giới. Và Ngài đã phát nguyện rằng: "Kẻ nào mong được da, thịt, máu và xương trong thân thể ta, thì tùy sở thích". Do đó, tuy bị thầy rắn làm khổ sở đau đớn, nhưng thay vì dùng oai lực thần thông của mình để bảo vệ mình Ngài lại chấp nhận mọi sự khổ đau để giử lời nguyện, và thực hành được xâu xa pháp nhẩn nhục Ba la mật (Khanti pāramī). 3. Thầy Đại đức Sao Kantasīlo (1859-1942) : là người sanh ở tỉnh Ubon Ratchathani. Là vị thầy hướng dẩn giới thiệu ngài pháp tu thiền đề mục hay thiền nghiệp xứ (kamma-ţţhāna): Dọc đường, ngài gặp một cây đại thọ nằm chắn ngang lối đi. Cây nầy thổ ngử Thái gọi là Jāt 4 (hay cây Sanh). Thân cây rất to lớn, bị hạ đã nhiều năm qua, hiện còn nằm lún dưới đất một phần, vỏ và ruột đã mục nát hiện rõ nên ngoài. Ngài bèn trèo lên đi trên thân cây mục ấy, và quán sát thấy rỏ là nó đã hết phương mọc lại được nữa rồi. Khi ấy, ngài biết rằng sự sanh của ngài trong vòng tử sanh sẻ phải chấm dứt. Thân cây Jāti (sanh) ngã nằm đây ngài xem như những kiếp sanh của ngài trong vòng luân hồi. Thân cây đã hết phương mọc được tượng trưng cho sự sanh của ngài lần này sè là lần cuối, nếu ngài kiên tâm nổ lực không ngừng. Còn cánh đồng bao la, rộng khắp bốn phương trời, tượng trưng cho cái vòng tử sanh bất tận. Ngài còn đang đứng trầm ngâm quán sát những nghĩa lý nầy thì bổng hiện ra một con ngựa kim màu trắng to lớn đi về phía ngài và đứng bên thân cây sanh. Tự nhiên ngài mong muốn cỡi nó. thế là ngài lên ngựa, và nó tức khắc phi nước đại chạy đi. Ngài không có ý quyết định đi đâu hoặc làm gì cả, chỉ biết là mình đã đi được một quãng đường rất xa, trong cánh đồng mênh mông vô cùng tận. Trên đường, ngài nhìn thấy một cái tủ lộng lẩy chạm bạc công phu trong có chứa một bộ Tam tạng kinh. Dường như chiều theo ý ngài, con ngựa đưa ngài đến trước tủ đựng Kinh. Ngài xuống ngựa với mục đích là mở cửa tủ Kinh, thì lập tức con ngựa biến mất. khi ngài bước tới thì lại thấy chổ đang đứng là bìa một khu rừng rậm hoang vu, mịt mù khói tỏa, đầy gai góc, lùm bụi xoắn chặt nhau không thấy lối đi. Khi ấy ngài định mở cửa tủ Kinh để xem thì ngài thức dậy. Điềm tâm ảnh (Nimitta) nầy khiến cho ngài tin chắc rằng ngài sẻ có thể đạt đạo, chứng quả trong hiện kiếp, nếu như ngài không bỏ dở dang những nổ lực của ngài. Từ đó trở đi ngài càng tinh chuyên trì niệm danh hiệu Phật trong mọi lúc. Đồng thời ngài nghiêm trì những hạnh đầu đà mà ngài chấp thọ từ lúc thọ Tỳ Khưu, nghiêm chỉnh thực hành cho đến lúc mất. Đó là những hạnh :1.Mặc y phấn tảo, từ chối những y dâng đến tận tay _ 2. Đi bát hằng ngày không sót, trừ những ngày phát nguyện nhịn ăn _ 3. Không thọ vật thực đem đến sau _4. Chỉ thọ vật thực để trong bát khi ngài đi trì bình _5.Mổi ngày chỉ ăn một bửa, và độ trong bát _6. Chỉ mặc Tam y – ngài có dùng khăn mặt (dùng để lau thân mà đó là điều cần thiết trong thời đại nầy _7. Ngụ trong rừng, có nghĩa sống và ngủ trong rừng hay nơi hoang dã trong hang núi, hoặc dưới hòn đá cheo leo (trừ ra khi có người thỉnh ngài vào tỉnh thành trong một thời gian ngắn). Ngoài ra đôi lúc khi ngài có thể ngài cũng thọ thêm những hạnh khác trong 13 hạnh đầu đà. Tuy nhiên trong suốt cuộc đời ngài đã nghiêm trì 7 hạnh đầu đà trên và đó trở thành nhân cách sinh hoạt thường ngày, và khó có thể tìm được người như vậy. Ngài luôn lôn kiên trì và quả quyết không bao giờ đổi ý trong bất cứ việc gì mà ngài đã quan tâm nghĩ tới, dầu là pháp hành bên ngoài (hạnh đầu đà , v. v..) hoặc hoạt động nội tâm (Minh sát). Đời sống của ngài là sự hoàn toàn dùng cho mục đích giải thoát, với những nổ lực xả ly liên tục trong việc tiêu trừ phiền não bên trong. Có rất ít dịp may cho tánh cống cao ngã mạn lẻn được vào tâm trí ngài, mặc dầu thật tế , lúc bấy giờ ngài vẩn còn là hạng phàm phu như bao nhiêu người khác. Nhưng , ngài khác hẳn họ ở chổ : thay vì để tâm bay nhảy tự do, bị phiền não sai sử thì ngài thường trực ở trong tỉnh thức, phòng ngừa các thứ phiền não, và luôn khởi chiến và tấn công nó một cách can đảm. Điều nầy, về sau , ngài có thuật lại chúng tôi mới biết. Sau đó khi tâm ngài đã được thiết lập vững vàng, tiện dụng cho việc suy tư quán xét, ngài mới hồi tưởng đến điềm chiêm bao khi trước và dần dần hiểu rõ : nếp sống của một gia chủ, là nơi tụ tập của tất cả mọi thứ khổ, giống như khu rừng già là nơi chứa chấp mọi thứ tai nạn. Trái lại , nếp sống phạm hạnh tu theo pháp Phật , chuyễn hóa tâm thức khỏi thế giới độc hại hiểm nguy tới một khoảng không bao la là cảnh giới của sự an lạc, thoát khỏi những sợ hải, đau khổ . 4. Tương tự trong tiếng Pali là Jati nghĩa là sanh, (gồm luôn sự chết ) Còn con bạch mã cao lớn ngài cỡi chính là đường lối tu theo pháp Phật, là đường đạo giải thoát, nhờ nó mà đưa ngài đến nơi tự tại. Và khi gặp tủ bạc chạm trổ công phu, chứa Tam tạng kinh mà chỉ có thể nhìn, vì lẽ ngài còn bất toàn, nên chưa đủ khả năng học hiểu trọn cả bộ Tam Tạng, do đó ngài không thông suốt về mặt văn hóa của Phật giáo, như vậy ngài không trọn vẹn đạt tuệ thuộc về bốn loại đó là : 4 vô ngại biện tài 5 , cần thiết cho một vị pháp sư biện tài vô ngại, thông suốt nghĩa lý và phương pháp giáo hóa, có trí tuệ cao sâu như trời biển, khả dĩ làm thầy của tất cả chúng sanh trong tam giới 6. Theo lời ngài, thì ngài chưa đầy đủ pháp ba la mật để đạt được mục đích nầy, và đó là lý do khiến cho ngài chỉ được nhìn bên ngoài tủ kinh Tam tạng chứ không mở đọc thông suốt toàn bộ giáo lý bên trong. Ngài tiếp lời rằng : ”Khả năng dạy dỗ người khác của ngài chỉ có thể xem như là sơ đẳng hoặc nhập môn để chuyển tiếp tới những pháp tu cao hơn “. Về sự kiện nầy dầu cho nó hiển nhiên chăng nữa, thì đối với các đệ tử thân tín đã được học hỏi, và tu hành dưới sự hướng dẩn của ngài, thì có một việc rõ ràng là mổi đề tài giảng đạo, thuyết pháp của ngài đều phi thường và cảm kích làm sao, thật không thể dùng lời nào mà tả cho xiết ! Ở thời đại mới, người ta biết tìm đâu ra một lối giảng dạy Dhamma ăn sâu vào tâm thức mà không bao giờ quên được ? LINH ẢNH TRONG THIỀN ĐỊNH Trong thời gian ngài đang tham thiền, với đề mục niệm Phật (Buddho) ở tại chùa Liap. có một hôm tâm ngài lắng dịu và một linh ảnh hiện ra : trước mặt ngài, một tử thi thúi rục, sình chương, bị những con thú ăn dơ như là kên kên, quạ và chó tranh nhau sâu xé . .. và không bao lâu, tử thi ấy bị rứt ra từng mảnh, rải đi khắp cả mặt đất chung quanh, thấy vậy ngài xúc động mảnh liệt, vừa nhờm gớm, vừa mõi mệt. Sau khi tâm ngài rút ra khỏi từng thiền, ngài kềm giử cái linh ảnh trong tuệ nhản của ngài làm đề mục chánh trong mọi lúc cả ngày lẩn đêm, trong bốn oai nghi : đi, đứng, nằm, ngồi . Ngài tiếp tục quán tưởng cho đến một ngày kia, hình ảnh tử thi đó biến thành ra một cái đĩa tròn trong suốt lơ lững trước mặt, quán cái đĩa nầy lâu thì thấy hiện ra đủ thứ cảnh vật khác nhau, những hình ảnh không ngớt thay đổi liền liền, chắc là kết quả của tánh hiếu kỳ của ngài đang khao khát muốn coi thử cái gì sẻ tiếp theo. Có lúc, hình như ngài đang trèo lên những hòn núi cao, kế đó ngài lại thấy mình cầm một thanh kiếm và mang một đôi hia, rồi đi bách bộ trên núi, một lúc khác, trước mặt ngài bổng hiện ra một bức tường cao lớn có một cánh cửa, ngài mở cửa ra nhìn thấy một vài vị Tỳ Khưu đang tham thiền phía bên trong. Kế đó, phong cảnh mở rộng ra cho thấy những sườn núi cheo leo và hang đá gần đâu đó, trong vài cái hang lại có đạo sĩ ẩn cư. Lại một lúc khác nữa, ngài thấy món đồ giống như cái nôi hoặc cái thúng từ sườn núi thòng xuống. 5. Catu Paţisambhidā : Bốn tuệ vô ngại biện tài: 1. Biện tài về nghĩa ( attha-Paţisambhidā) trí về nghĩa: là biện tài giảng dạy minh bạch một giáo lý vắn tắt, có khả năng dự đoán tiên tri những hậu quả, quán thấy chuyện vị lai. Ngài Ca Chiên Diên (Katyayāna) là vị đệ nhất về nghĩa đế. 2. Biện tài về pháp (Dhamma-Patisambhida) trí biết về pháp: là khả năng ngược lại biện tài về nghĩa, có khả năng tóm gọm những chi tiết phức tạp, và mô tả dài dòng, để cho dễ nhắc sơ qua và ghi nhớ, quán thấy chuyện quá khứ. 3.Biện tài về ngôn từ (Nirutti- Paţisambhidā) trí biết về tất cả ngôn ngử , văn tự để trình bày pháp và nghĩa 4. Biện tài về trí (Paṭibhāna- Paţisambhidā) trí biết về các loại trí hoặc biện thuyết vô ngại: là thông suốt cách trình bày và giảng thuyết cho thích ứng với mọi trường hợp.biết áp dụng các phương tiện thiện xảo cho từng trường hợp. có khả năng giải quyết ổn thỏa một tình trạng khủng hoảng hay biến cố bất ngờ. 6. Tam giới : Là ba cõi sinh tữ : 1. Dục (có nam nữ dâm dục), 2. Sắc (không có nam nữ , tâm của chúng sanh nhập định hữu sắc, nghĩa là đề mục thiển định là vật hữu hình) và 3. Vô Sắc giới (không có sắc thân chỉ có thần thức, tâm của những chúng sanh đã nhập định vô sắc : nghĩa là đề mục không phải là vật hữu hình). Ngài thấy mình bước vào trong cái thúng ấy và được nhấc lên khỏi vực thẳm để thấy một chiếc thuyền to trên đó, trong thuyền có cái bàn vuông. Khi ấy, hòn núi bật sáng lên vì có ánh sáng phía sau nó. Và sao đó ngài lại thấy mình độ cơm trên đỉnh núi đó nữa. Đó là cách phong cảnh đổi thay biến hiện liền liền trước mặt ngài, như phim chớp bóng, chứ không dẩn ngài tới đâu cả. Ròng rả ba tháng trường, cứ hể ngồi thiền nhập định là ngài toàn thấy những cảnh tượng không đâu ra đâu, biến hiện không ngừng, không biết đến bao giờ mới dứt. Còn kết quả nội tâm thì chẳng có chi đích đáng cả. Sau những thời tọa thiền kiểu đó, thì tâm ngài trở nên xúc động mạnh đối với hình ảnh và âm thanh bên ngoài. Khiến cho ngài khi vui, khi buồn khi thì thích điều nầy, khi thì ghét điều kia. Hiển nhiên là ngài không thể giử được tâm bình đẳng, điềm tĩnh bằng cách ấy. Bấy giờ ngài tĩnh ngộ, tin chắc rằng đó không phải là chánh đạo đưa đến giải thoát. Nếu nó đúng thì tại sao không thể kiên định giử được trạng thái an nhiên, tự tại của tâm. Ngược lại tâm ngài lại bị phân tán, dao động trước những sắc bên ngoài mà tâm tiếp xúc – cũng giống như người bình thường không có tu tập gì cả . Rồi ngài kết luật rằng : “chắc chắn là việc săn đuổi, hoặc sự chú tâm hướng theo cảnh bên ngoài, là nghịch với nguyên tắc hành thiền, đoạt mất sự an lạc bên trong do hành thiền mang lại”. -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,053 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
Khi đại đức dứt thời pháp, thì nó chịu phép đầu hàng, và vứt bỏ cây côn vác trên vai xuống. Rồi nó biến hình thành ra một thiện nam nhu mì mến đạo. Nó hạ mình xin đại đức hoan hỉ miển thứ những cử chỉ thô bạo và ý định xấu xa của nó. Và sau đây là lời tự thú tội của nó, chứng tõ rằng nó đã có đức tin và đã cải tà qui chánh nhờ nghe thời pháp cảnh tỉnh của ngài.
“Con thật hết sức kinh ngạc, ngay lúc gặp đại đức , những ngày trước đây. Hình như là có một đạo hào quang mạnh mẽ phi thường từ nơi đại đức phóng ra và chiếu thẳng vào con, làm tay chân con rủ liệt. Con cảm thấy chán nản một cách lạ kỳ, không muốn làm hại đại đức một chút nào cả. Lúc con bị chụp trong cái vùng hào quang mãnh liệt ấy. Việc nầy, thật con không biết được nguyên nhân , bỡi vì con chưa từng thấy bao giờ. Nhưng đại đức có thể tin chắc rằng : những cách hăm dọa của con dầu bằng cữ chỉ hay ngôn ngữ cũng chỉ là giả đò, chứ không thật sự. Con đã hăm dọa đại đức như thế, chẳng qua là vì mặc cảm tự tôn, là vì con đã được các quỉ thần chung quanh vùng nầy qui phục, coi con như là vị chúa tướng. Chúng con đã quen xử dụng quyền lực của mình một cách thô bạo, và con nhân danh quỉ chúa, con bị bắt buộc phải làm một việc ngoài ý muốn của con, để mà bảo toàn danh vị. Con không hề có ý định nào thật sự muốn làm hại, chỉ vì thói quen muốn bắt nạt kẻ khác khi mình nghỉ mình có quyền lực trong tay. Đó là điều mà ai cũng phạm phải khi mình có chút quyền lực trong tay. Cầu xin đại đức hoan hỉ từ bi cho con sám hối những nghiệp chẳng lành, là việc xúc phạm đến đại đức trong ngày hôm nay. Xin cho nghiệp ấy tiêu tan và không bao giờ còn đè nặng oằn vai con nữa. Ngay từ bây giờ, sự khổ của con đã thấy hầu như quá sức của con rồi”. Đại đức bèn hỏi con quỉ chúa , lúc bấy giờ đã biến thành một thiện nam tử, tại sao nó lại nói nó khổ, trong khi nó có một xác thân bằng thanh khí không cồng càng , nặng nề như thân người. Ngoài ra, nó không phải nặng lo vì kế sinh nhai, hoặc khổ vì phải kiếm chổ tránh mưa nắng như trong hoàn cảnh của con người. Nó đáp rằng :” Nhìn bề ngoài, thì loài thần, trời, với thân thể trong sáng có vẻ sung sướng hơn loài người với xác thân thô kệch . Nhưng chúng con cũng có nổi khổ, sự sai biệt phần nhiều là ở mức độ hơn là chủng loại”. Cuộc đối thoại giữa đại đức và quỉ chúa về vấn đề huyền bí nầy rất sâu xa khó hiểu, đến nổi tôi, tác giả , không thể ghi lại chi tiết nơi đây xin đọc giả thông cảm về chổ thiếu xót nầy. Khi cuộc thảo luận chấm dứt, vị nam tử, trước kia là đại ác quỉ, đã được thấm nhuần Phật pháp, bèn quy y Tam bảo: Phật Pháp Tăng, và cầu xin đại đức làm giới sư . Vị ấy phát nguyện làm hộ pháp và thỉnh cầu ngài ở mãi luôn ở thạch động. Và sẻ bảo vệ ngài không cho bất cứ ai quấy rầy sự tịnh tu của đại đức, Thật sự thì vị ấy không phải là hắc quỉ như đã xuất hiện đó chỉ là hình dáng giả tạo mà thôi. Vị ấy chính là chúa của những thọ thần . Vị ấy có một đoàn tùy tùng rất đông, trong cả vùng rừng núi Nakhon Nayok và bao gồm nhiều tỉnh khác nữa. Ngài an trụ trong cận hành định và đàm thoại với vị khách thần cho tới 4 giờ khuy, ngài mới xuất định. Chứng bịnh hoành hoành, lúc đại đức khởi sự tham thiền, bây giờ đã dứt hẵn. Hoàn toàn nhờ pháp dược, đây là kinh nghiệm quý báu mà ngài gặt hái. Thay vì nghỉ mệt, ngài lại gia công gắng sức tham thiền cho tới sáng, mà thân thể không thấy gì mõi mệt, trái lại tràn đầy sinh lực, sau một đêm nhiều biến cố: Ngài đã thấy pháp Phật cảm hóa được một thần hữu tình thô bạo, kiêu ngạo thành một hữa tình có tín tâm vào Tam bảo. Ngài đã an trụ trong đại định hàng giờ, trạng thái tịnh lạc cao siêu mà ngài kinh nghiệm được từ đại định, chứng bịnh kinh niên nay hoàn toàn khỏi hẳn, giờ đây tâm ngài đã có sự vững chắc, mà ngài có thể tin tưởng vào để biết đâu là pháp đúng đâu là pháp sai, và nhìn thấu rõ sự Thật của mọi việc, mà lúc trước chưa đạt tới. Nhờ đó mà trừ được cấu uế của tâm và đạt được những phẩm chất cao quí mà tạo cho ngài một cá tánh đặc biệt. Trong những tháng kế, việc tham thiền của ngài tiến triển một cách dể dàng và không còn trở ngại, và sự tịnh lạc có được thì không lời nào có thể diển tả được điều an lạc đó. Thỉnh thoảng , về đêm ngài tiếp kiến các vị thọ thần, thổ địa, từ các vùng chung quanh, họ đến viếng thăm ngài do vị chủ thần vùng đó hướng dẩn. Khi không tiếp khách thì ngài an vui trong thiền định. CHẠM MẶT VỚI BẦY KHỈ Một buổi quá giờ trưa, ngài ra ngoài động hít thở không khí ngoài trời và tọa thiền gần của hang. Ngài quán về Pháp mà đức Thế tôn Thích Ca Mâu Ni đã từ bi chỉ dạy chúng sanh, Pháp Phật thật quá cao siêu để chúng ta hoàn toàn hiểu biết một cách đúng đắn chân thật. Ngài tự nhủ : mình là người có duyên và phước lớn, cho nên mới tin theo pháp Phật và hành đúng theo nhờ vậy mà giác ngộ được nhiều chân lý trong Pháp. Sự thành đạt của đại đức chưa hoàn toàn như ý nguyện của ngài, nhưng đại đức tin rằng mục tiêu tối hậu là giải thoát mọi đau khổ sẻ đạt được, một ngày nào đó không lâu miễn là mạng sống của đại đức đừng kết liểu sớm. Đại đức còn đang quán các khía cạnh của Pháp là đạo quả và sự tận diệt khổ , thì bổng nhiên có một bầy khỉ rất đông, kéo nhau đi ngang qua lối ấy. Con khỉ đầu đàn đi trước dẫn đường, bầy khỉ đi theo sau, cách một khoảng xa. Bầy khỉ bất ngờ khi gặp đại đức ngồi im nơi đó, nhưng không nhắm mắt. Đại đức cũng liếc thấy bầy khỉ. Có lẽ con khỉ chúa kinh nghi : “Không biết cái thứ gì ngồi trơ ra đó”. Lo sợ cho đoàn của nó, nó đão vòng quanh nhảy tới, nhảy lui trên các nhánh cây. Đại đức hiểu được cảm nghĩ của con khỉ chúa trong lúc ấy, và lấy làm tội nghiệp cho sự sợ hải của nó. Đại đức rãi tâm từ (mettā ) đến nó, và ngầm bảo với nó rằng: đại đức đang hành theo pháp Phật , và không có ý làm hại ai cả. Đoàn của nó chớ sợ, hảy tự do tìm kiếp thức ăn, và tùy ý nếu muốn thì sinh sống chung quanh đây. Trong phút chốc, con khỉ đầu đàn phóng trở lại bầy khỉ, đại đức mục kích những gì xảy kế trong chuyện nầy vừa bi thảm , vừa khôi hài. Nó thét lên một tiếng cảnh cáo : Goke và những tiếng khọt khẹt nghĩa là “Coi chừng nghe ! có cái gì phía trước, có thể là nguy hiểm” Bầy khỉ chưa nhìn thấy vật gì , thét lên một câu hỏi “Goke, goke” , “ Ở đâu, ở đâu vậy?” Con khỉ chúa quay đầu về phía đại đức nói “Ở đó, thấy chưa ?” Cố nhiên là ngôn ngữ của loài thú rất kỳ bí đối với người thường, nhưng đại đức thì hiểu rõ từng câu nói của chúng. Sau khi báo động, con khỉ chúa dặn bầy khỉ đừng hấp tấp vội vàng, mà hảy cẩn thận tiến tới. Xong nó đi về phía cửa động nơi đại đức đang ngồi, Tâm nó bấn loạn , vừa sợ lại vừa tò mò, lo ngại cho sự an toàn của bầy tôi của nó đang ngóng trông phía sau, nhiều phút trôi qua . . . Nó cử nhảy truyền lên xuống mấy nhánh cây , theo lối của khỉ thường làm, trong khi đó đại đức dùng tâm quán sát hành uẩn tư tưởng của nó. Sau cùng nó trở lại bầy để báo tin an toàn, và thét lên tiếng “Goke” Tiến lên ! Không có gì nguya hiểm cả “ Theo lời đại đức thì cảnh tượng nầy vừa buồn cười lại vừa bi thảm, nếu chúng ta thấu hiểu ngôn ngữ của loài khỉ. Đối với người thường, tiếng thét của mổi con và của cả bầy khỉ, dầu ở giọng điệu nào cũng không có vẽ gí khác nhau , và do đó chẳng có nghĩa gì cả. Nhưng đối với đại đức , ngôn ngữ của loài khỉ phận biệt rõ ràng đích xác như ngôn ngữ loài người. Có sự khác nhau rõ rệt trong thinh âm phát ra, từ khi con khỉ đầu đàn nhận thấy đại đức ngồi và báo tin cho bầy bằng những tiếng kêu khọt khẹt của loài khỉ, nhưng đều có ý nghĩa Như : dừng lại, coi chừng nghe ! kế đó lại tiếng kêu khọt khẹt của bầy khỉ “cái gì đó ? “, “ Ở đâu vậy”. Con khỉ chúa đã trả lời : “có cái gì đằng đó có vẻ nguy hiểm “, Cả bầy khỉ thông tin chuyền với nhau rằng : “Có sự nguy hiểm đàng trước “. Khi ấy tiếng ồn ào vang dội chứng tỏ sự xúc động mạnh, con hỏi , con trả lời liền miệng, tiếng la hú inh õi, chẳng khác nào một nhóm người kinh nghi bị nạn, sợ diếng hồn. Con khỉ chúa bèn trấn an bầy khỉ bằng tiếng “Goke Gake, để ta đi xem lại lần nữa “ Sau khi trở lại, cẩn thận rình theo dõi con người và cử động của đại đức, nó chắc ý an toàn bèn gọi cả bầy khỉ : “Goke, goke, không nguy hiểm , tiến lên” . Rồi thì các con khỉ phía sau đều đổ xô một lượt tới chổ đại đức đang ngồi. Chúng nó nhảy lên nhảy xuống, nhìn đại đức một cách ngờ vực và hỏi lẩn nhau coi “nó “ là cái gì và tại sao “nó” lại ngồi nơi đây ? Phần nầy của câu chuyện được lập lại y theo lời kể của đại đức cho các đệ tử nghe, để cho đọc giả có một ý niệm xác đáng về mổi câu vấn đáp mổi lần của loài khỉ đều có ý nghĩa phân biệt rõ ràng. Và để nhấn mạnh rằng loài khỉ ngờ vực loài người đến bực nào, bởi vì chúng nó thường bị con người gài bẩy và ngược đãi từ bao lâu rồi. Dòng tư tưởng tác động lên âm thanh mà loài thú phát ra để diển tả tư tưởng của nó, giống như ngôn ngữ của loài người thành lập do dòng ý thức, Những tiếng khọt khẹt chuyện trò, tiếng hét kinh hoàng và tiếng hú thê lương của chúng nó đều có ý nghĩa xác định, như những ngôn từ mà tất cả chúng nó hiểu biết rõ ràng, bởi vì chúng nó có thứ tiếng nói riêng của chúng nó, y như mổi quốc gia, dân tộc đều có thứ tiếng nói riêng của mình. Không bao lâu lũ khỉ đi lại tự do, và không lưu ý tới “vật” mà chúng nó biết rằng sẻ không làm gì để hại chúng. Từ đó về sau chúng nó lẩn quẩn chung quanh vùng ấy rất tự nhiên. Và đại đức cũng không quan tâm mấy đến chúng , ai nấy đều có phận sự làm , không ai quấy nhiểu ai. Quả thật, một kiểu “đồng sinh cộng tồn” như thế, tự nó là một nguồn tịnh lạc, khi mà mổi cá thể đều có quyền sống trật tự điều hòa với toàn thể còn lại, không mảy may ngò vực thù hằn. Thường thường thì người ta thấy rằng, trong khu rừng nào có vị Tỳ Khưu đầu đà cư ngụ , thì loài dã thú, lớn có nhỏ có, vẩn hay tập trung đông đảo chung quanh. Hình như chúng nó bị ánh sáng từ bi của vị ấy thâu hút, và giống như người chúng cũng mong có chổ nương tựa an toàn, chúng nó khác con người ở chổ còn khiếm khuyết một trí khôn tròn đủ, và do đó chỉ biết chiều theo cái bản năng sinh tồn, với cái tư tưởng kiếm vật thực và chổ trú ngụ thôi. Vào một đêm, tự nhiên trong tâm đại đức phát sinh sự kinh cảm 14 mạnh mẽ phi thường, dến nổi đại đức xúc động rơi nước mắt. Khi ấy đại đức đang quán thân và tâm ngài rút vào trạng thái nhất điểm hoàn toàn. Lúc bấy giờ mức sâu của sự xả ly đã đạt đến, và tâm an trụ trong trạng thái thanh tịnh vắng lặng gọi là “tánh không” 15 . Đối với cái tâm của đại đức lúc bấy giờ , tất cả thế giới đều tan biến mất hết. Sau đó đại đức xuất đại định và minh sát giáo pháp của đức Phật đã tuyên dương, giáo pháp giúp nhân loại tẩy trừ cấu uế phiền não khỏi tâm trong sáng thanh tịnh mà bị vô minh che lấp. Càng quán pháp Phật , càng thấy chổ cao sâu vi diệu của nó, và càng thấy sự vô minh của mình. Những hoạt động thân thể như cách ăn uống, cách vệ sinh cũng phải dạy cho chúng ta khi còn nhỏ, chúng ta học và tập làm cho đúng, kể cả việc tắm rửa, ăn mặc và các việc sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng phải học để làm cho đúng, nếu không thì hậu quả không tốt sẻ xảy ra. Cũng như vậy , rất cần thiết trong việc chăm sóc tâm của chúng ta, chúng ta cần phải được chỉ dẩn đúng đắn. Nếu tâm chúng ta không được tập luyện, học hỏi một cách đúng đắn thì chúng ta chắc chắn sẻ tạo những việc sai quấy, điều nầy đúng cho mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi , mọi dân tộc. Người bình thường trong thế giới này giống như một đứa bé con, cần được dạy dổ chăm sóc dìu dắt , trước khi chúng có thể hi vọng phát triển đến mức trưởng thành. Phần lớn trong chúng ta chỉ trưởng thành về hình dáng bề ngoài, địa vị, tiền bạc, và tự ngã nhưng trí tuệ về con đường đúng đắn để mang lại hòa bình hạnh phúc thì chúng ta không trưởng thành chút nào, mà dường như chúng ta còn không thiết tha muốn học hỏi, truy tìm. Chính vì vậy mà chúng ta ở chổ nào, đi đâu củng gặp sự đau khổ. Đó là sự kinh cảm to tát đã phát sanh nơi đại đức một cách bất ngờ trong đêm ấy. 14. Saṃvega : có nghĩa là sự hòa lẩn nhiều cảm giác như sự tỉnh ngộ, nhận thức được sự khò dại của mình hoặc của người khác, sự vô vọng chán chường hoàn cảnh hiện tại, thỉnh thoảng đi đôi với sự thương xót kẻ khác. Cái Saṃvega nầy luôn luôn có đặc sắc làm phát triển trí tuệ không nhiều thì ít và phải nên phân biệt với sự sân hận hoặc thất vọng chán chường. 15. Tánh không Suññata : cái ý nghĩa hay đúng hơn cái nghĩa lý mà nó gợi ra trong trí của một người rán tìm hiểu nó bằng thuần lý hay đúng hơn bằng cách suy luận, và nó gọi ra trong tâm của một người khác đã chúng nghiệm được nó thì khác xa một trời một vực, đôi khi còn mâu thuẩn nhau nữa. Chúng tôi mong rằng đọc giả sẽ không phán đoán ý nghĩa của từ ngữ nầy, hoặc trên thật tế nhiều từ ngữ khác, chỉ tên căn bản biện chứng pháp và tự nghĩa pháp mà thôi. Vì thế sẻ bất lợi cho quí vị chớ phần tác giả hoặc dịch giả không thiệt thòi chi cả. VỊ THIỀN SƯ CAO NIÊN TU THIỀN QUÁN Dưới chân núi, ngay đường đi lên hang động Sarika, có một ngôi nhà biệt lập. có bảng đề là trung tâm Vipassanā (thiền minh sát ) , với một Tỳ khưu cao niên đang ở một mình trong đó. Một đêm nọ, chợt nghĩ về vị sư nầy, đại đức muốn biết vị Tỳ khưu ấy đang làm gì, ngài bèn hướng tâm mình đến vị ấy, tức khắc ngạc nghiên vì biết rằng : vị Ty khưu cao niên ấy đang sắp xếp chuyện nhà cho gia đình vị ấy, mãi lo âu về những biến cố đã xảy ra trong cái gia đình mà vị ấy từ bỏ khi xuất gia di tu. Đến khuya đại đức lại hướng dòng tâm thức của mình đến vị Tỳ khưu già ấy, và một lần nữa được biết rằng vị Tỳ Khưu ấy vẫn còn mãi mê toan tính việc gia đình. Đến sáng sớm hôm sau đại đức lại thử đọc tư tưởng của vị ấy thì cũng như lần trước vị ấy không ngừng lo lắng về việc vị ấy có nên và không nên làm cho đám con, cháu. Tất cả đều là những phần việc của gia chủ trong thế tục không liên quan gì tới việc tu hành và phát triển thiền Minh sát. Sáng hôm ấy , đại đức từ thạch đông xuống núi, đi vào làng khuất thực, và trên đường về ghé thăm vị sư già ấy. Và ngay lập tức đại đức hỏi vị sư ấy : “ Sư vẩn khẻo ? thầy đã tiến tới đâu trong cái chương trình xây cất một ngôi nhà mới và sắp đặt đồ đạt cho người vợ cũ và các con. Hình như có quá nhiều việc để cần tính toán và lo lắng, cho nên đêm qua ngài không ngủ nghỉ chút ít nào thì phải không ?". Ngạc nhiên, vị sư già ấy với nụ cười gượng gạo hỏi “ Làm sao đại đức biết được như vậy ?”. Đại đức đáp lại rằng :” Làm sao cũng chẳng làm sao, khi ngài biết rõ chuyện nầy hơn ai hết, bỡi vì ngài đã chú tâm vào đó suốt đêm qua , không có lúc nào nghỉ ngơi, ngay cả hiện giờ sư củng thích thú nghĩ về chuyện ấy, mà không có chánh niệm từ bỏ những ý nghĩ như vậy, phải không ? ” Nghe nói trúng ngay tim đen của mình vì Tỳ Khưu tái mặt vừa thẹn, vừa sợ, vị ấy ấp a, ấp úng nói lầm thầm không rõ tiếng, như người bị mất hồn và có vẻ như sắp muốn xỉu. Thấy rằng mình vô tình đã làm tổn thương vị sư già ấy quá nhiều, đại đức bèn thay đổi đề tài trấn an vị ấy, và không bao lâu bèn từ già về thạch động. Ba ngày sau, một thiện nam là người hộ độ thường xuyên của vị tỳ khưu cao niên lên đến thạch động, và đại đức hỏi thăm tin tức của vị sư ấy. Vị thiện nam ấy trả lời : ”Ngài ấy đã bỏ đi từ sáng hôm trước”. Ông ta nói mình có hỏi vị Tỳ Khưu ấy tại sao phải bỏ đi , thì vị ấy có trả lời rằng : “Đại đức Mân có thuyết cho ta nghe một thời pháp nghiêm trọng đến nổi ta muốn xỉu liền tại chổ. Nếu đại đức Mân còn thuyết nửa thì chắc có lẽ ta đã chết ngay chổ ấy rồi, như vậy thì còn gi nữa để ta ở chổ này, ta phải đi nơi khác “.Ông ta có hỏi bộ đại đức khiển trách ngài nặng nề lắm đến nổi ngài phải bỏ đi, thì vị ấy đáp rằng :" Không phải lời trách cứ nặng nề, nhưng những câu hỏi của đại đức còn hơn thế nửa" Ông ta có yêu cầu ngài cho biết Đại đức Mahn hỏi những gì mà nghiêm trọng như vậy, thì được đáp rằng " Xin đừng hỏi nữa, Ta thật sự rất xấu hổ, nếu kẻ khác biết được chắc ta chui xuống đất thôi, nhưng ta cho thí chủ biết một điều là : đại đức biết rõ những gì chúng ta nghĩ, người đời ai cũng có tư tưởng tốt xấu, ai mà kiểm soát nổi, nhưng khi ta biết đại đức Mân biết rõ tư tưởng người khác, thì làm sao ta ở chổ nầy nữa để làm phiền ngài với những tư tưởng không đúng pháp của ta? Ta phải đi đây”. Vị thí chủ có nói :”Tại sao Đại đức Mân phải phiền vì những tư tưởng của người khác, lổi là người có tư tưởng không đúng pháp, nếu thế thì người đó nên thành tâm sửa đổi, đó là điều đại đức Mân mong muốn, ngài nên ở lại, vì những lời khuyên nhủ của đại đức rất có lợi, vì ngài sẻ phát triển được chánh niệm để mà giải quyết những vấn đề đó, ngài nghĩ thế nào?” Vị ấy đáp:” Chánh niệm của ta giờ không đủ để lấn át nổi sợ khi nghĩ về Đại đức Mân , người biết rõ tư tưởng người khác, chẳng khác nào châu chấu đá xe, làm thế nào mà ta giữ được chánh niệm , ta phải rời khỏi chổ nầy “ Người cư sĩ nói với đại đức ông ta rất buồn lo cho vị sư già, và không cách nào giử vị sư ấy ở lại được, Vị sư đó có vẻ rất sợ. Cho đến người ta hỏi vị ấy định đi đâu, vị ấy trả lời là mình chỉ nghĩ đến việc rời bỏ chổ nầy mà thôi, còn việc sẻ tới đâu thì hiện giờ chưa biết trước được. Ông thiện nam nói mình có mượn một đứa bé tiển chân vị Tỳ Khưa trưởng lảo một quãng đường, nhưng cậu bé cũng chẳng biết vị Tỳ Khưu định đến nơi nào vì vị ấy từ chối không nói năng gì cả. Nghe đến đây đại đức sanh lòng bất nhẫn, không dè rằng việc mình làm với thiện chí đã gây ra một ảnh hưởng trái ngược. Lúc đầu khi thấy tình trạng hoảng hốt của vị ấy ngài đã biết rằng hậu quả không tốt sẻ xảy ra, cho nên về sau đại đức không hướng tâm quán sát tâm của vị sư già ấy nữa, giờ thì đúng như vậy. Đại đức nói rằng ngài chuyện trò với vị sư ấy như người bạn đạo: có lúc vui vẻ, lúc nghiêm trang, không dè câu chuyện đó trở thành một vấn đề. thành ra giờ cái thiền viện không có sư trụ trì. Trường hợp của vị Tỳ Khưu cao niên nầy đã dạy cho đại đức một bài học về cách tiếp xúc với những người mà đại đức gặp trong cuộc sống. Từ đó trở đi, đại đức không bao giờ trực tiếp phê bình tư tưởng của người khác, mà chỉ nêu lên một cách trung trung để cho đương sự tự mình sẻ nhận thức ẩn ý của đại đức và như thế , họ sẽ không bị tổn thương quá nặng. Cái tâm của người thường, không tu luyện, giống như một đứa bé mới tập đi. Chắc chắn là nó ngã tới ngã lui, xiêng qua xẹo lại. Người lớn phải giữ nó, chỉ phải canh chừng, đừng để nó bị tổn thương mà thôi, chớ không cấm dáng đi loạng choạng của nó bao giờ. Đối với một cái tâm kém mở mang thì cũng y như vậy, nó không thể nào không có lúc nghiêng ngữa giữa tư tưởng tốt và xấu. Đó là điều tự nhiên, do tập khí lâu đời. Đại đức đã giác ngộ thêm nhiều chân lý mới trong khi trú ngụ tại thách động nầy, về cả hai mặt : chân lý về mặt trong và những chân lý ngoại diện vô giới hạn . Ngài thấy phấn khởi và thỏa thích trong việc tu hành , phó mặc thời gian trôi qua. Càng ngày càng thêm nhiều chân lý nội diện phát sinh lên cho đại đức, như mạch nước trên núi trong mùa mưa. Những buổi xế chiều quang tạnh, đại đức thung dung bách bộ trên con đường mòn quanh co, dưới những tàn cây mát rượi, một mình vui thú với phong cảnh tĩnh mịch hoang vu, đồng thời phát triển pháp thiền nội quán. Chiều mát, đại đức quay về thạch động, chung vui hội ngộ với các giống thú rừng tự do qua lại trong vùng đất phì nhiêu ấy. Trong bầu không khí thuận hòa, kỳ diệu, đường ai nấy đi, việc ai nấy lo, không có sự lo sợ nghi nan, nhìn nhau như thù địch, bởi vì mổi bên đều mặc ước chấp nhận điều kiện bất tương xâm phạm, không bên nào cố ý làm hại bên nào. Đại đức bảo rằng ngài rất hài lòng sống gần gũi giữa các thú rừng, ngài luôn luôn rãi tâm từ cho chúng nó. Chúng nó cũng đồng chung một cảnh ngộ thọ khổ sanh , già, bệnh, chết. Đại đức nghĩ như thế không mạng nào ưu đãi hơn mạng nào về phương diện nầy. Nhưng pháp Ba la mật thì khác nhau giữa người và thú, khác nhau giữa phước báo và tánh thiện. Và mức độ phước báo cũng sai biệt khác nhau trong loài người cũng như loài thú. Trong vài trường hợp, sự khác biệt nầy có thể phô bày ra một cách mâu thuẩn, trái ngược, có một số thú có nhiều phước báo hơn một số người. Nhưng do nơi quả báo tiền khiên mà chúng nó phải chịu một chướng nghiệp mà chúng nó phải tạm thời đau khổ chịu đội lốt súc sanh như vậy. Loài người cũng thế, tuy sanh làm người cao quí hơn nhưng họ sống một cách vất vả lầm than (không có thì giờ tu tập chân thiện mỹ, chẵng khác đời sống thú vậy bao nhiêu ). Đó là do nghiệp lực (Karma) mà người ấy đã tạo. Trong cách nầy, nghiệp lực xoay vần, không bao giờ chấm dứt, người thành thú, thú thành người là do những nghiệp chúng sanh ấy tác tạo ra. Do đó đại đức thường dạy chúng tôi rằng, chúng sanh, người hay thú, chỉ mang theo cái nghiệp thiện hay ác theo tâm mà thôi. Cứ mổi xế trưa, đại đức quét sạch khoảng trống trước thạch động, và sau đó suốt buổi chiều tối ngài tiếp tục những nỗ lực trong việc thiền quán, ngài xen kẽ tọa thiền và đi kinh hành. Nhờ vậy đại đức đạt được một mức tiến vững chắc trong sự định tâm và mở trí, minh sát ngũ uẩn (Khandha) phân tích , dùng tuệ giải phẩu, phân tích , chứng thực ngũ uẩn trên căn bản của tam tướng của vạn pháp : Vô thường, Khổ , Vô ngã. Trong cách nầy Minh sát tuệ của đại đức ngày càng tiền triễn vững chắc. CÁC THANH VĂN A LA HÁN THUYẾT PHÁP Thỉnh thoảng, có những vị A la hán đệ tử của Phật dến thuyết pháp cho đại đức cái trong linh ảnh đại đức thấy trong khi tham thiền. Sau đây là đại ý của một huấn từ của một vị thanh văn A la hán: Pháp đi kinh hành cần phải được gìn giữ cẩn thận bằng thân và ý. Chánh niệm cần phải được gắn chặt lên cái đề mục đã chọn. Nếu như quán bản chất của các uẩn (Khandhas) hay quán thân , hay chỉ đơn giản tập trung ý niệm vào một đề tài Phật pháp, thì đừng để tâm xao lãng, phóng tâm vì như thế chứng tõ thiếu khả năng tu tập, và không có khả năng tự quy hướng vào chính mình. Mổi cữ động trong sinh hoạt hằng ngày phải có chánh niệm, đừng để nó tiếp diễn như cử động của người mộng du, nghĩa là không có chánh niệm gìn giữ. Công việc trì bình khuất thực, thọ thực, hay việc đi vệ sinh : tất cả các việc bình thường đơn giản cũng phải noi theo nề nếp của bực thánh nhân đệ tử của Phật. Đừng để buông tuồng như một phàm nhân không tu luyện. Luôn luôn noi theo phẩm hạnh của bậc sa môn (samaņa) sống với tâm bình đẳng, hiền hòa và yên tịnh. Trong mổi oai nghi của thân thể, đừng quên phát triển niệm và tuệ để phác giác tội lổi bị khuất lấp. Trong lúc thọ thực luôn quán xét tính bất tịnh của vật thực, đừng bao giờ để vị ngon của thức ăn hóa ra một thứ thuốc độc giết mòn tâm trí. Xác thân có thể mạnh mẻ do vật thực nuốt vào mà không quán tưởng, nhưng tâm thì đã bị nó làm suy yếu. Như vậy là tự hủy mình bằng cách làm giảm sự sống của tâm thức bằng việc nuôi thân có hại. Tất cả tai họa xảy ra là vì chánh niệm vắng mặt. Một vị Sa môn thì không bao giờ làm tổn hại mình và người khác bằng những chất chứa phiền não (Kilesa). Bởi vì phiền não không những hại mình mà nó còn sanh sôi, lan rộng làm hại đến kẻ khác. Trên căn bản của pháp hành phạm hạnh tất cả tâm ô trược đều bị coi như là một hiểm họa thật tế. Nó như một ngọn lửa lớn thiêu rụi mọi thứ nó gặp. Đi, đứng, ngồi, nằm, cử động nói năng, sư chớ nên để thiếu sự kiểm soát của chánh niệm. Đây là thánh pháp, con đường mà tất cả các bực thánh nhân đã đi qua. Thiếu chánh niệm, hoặc sự tự chủ là thói quen do phiền não gây ra, mà từ đó tâm ý bất thiện nẩy sinh, tạo nghiệp , để mà ở mãi trong vòng tử sanh. Người có chí nguyện thoát khỏi vòng luân hồi thì phải xa lánh những điều tệ hại ấy, nó chỉ dẩn dắt sư đến vực sâu không đáy. Biến sư thành một kẻ không ai ưa thích đó là nhà sư xấu. Một vật thực xấu không ai thèm ăn, một cái nhà tồi tệ không ai muốn ở, một cái áo xấu xí không ai muốn mặc, ngay cả nhìn cũng không muốn. Mọi vật xấu đều bị mọi người chán ghét. Còn gì xấu hơn là một tâm xấu. Nhưng điều tệ hại hơn nhất là một vị sa môn xấu, đây thì làm nhức nhói tâm can của loài người củng như loài trời, và các hàng thánh nhân. Bởi vậy cho nên phải gắng sức làm một vị chân sa môn, phải vô cùng cẩn trọng gìn giử chánh niệm và sự tự chủ trong mọi lúc. Trong mọi thứ trên đời mà người ta đánh giá, đề cao và quan tâm nhất thì chỉ có tâm là cao quí nhất. Thật sự tâm là một bảo tàng vô giá trong mọi thế giới . Hảy chăm sóc kỹ nó. Để biết rõ bản chất thật sự của tâm nghĩa là phải giác ngộ được Pháp (Dhamma). Hiểu rõ tâm tức là hiểu rỏ Pháp. Khi mà tâm được nhận biết thì toàn thể Pháp được biết. Đó là Niết bàn. Rõ ràng tâm là một kho tàng vô giá, không nên xem thường. Người bỏ luống cái tâm mình là người quên lãng việc mình sở hữu một kho tàng vô giá. Cho dù cả trăm ngàn lần tái sanh thì cũng chỉ là trăm ngàn lần chịu thiệt thòi. Nếu khi mà biết đó là một kho tàng vô giá thì chớ nên xao lãng, để mà sau nầy hối tiếc, đó là điều tránh được. Sư phải không khi nào để chuyện như vậy xảy ra. Loài người là một loài có trí khôn, đừng tõ ra thiếu trí khôn, như thế sau nầy sẽ sanh vào loài mà không khi nào tìm thấy một chút nào sung sướng, an vui. Cách cư xử, hành động của một vị sa môn trong mọi sinh hoạt đạo và đời phải là một tấm gương sáng cho mọi người khác trên thế giới noi theo. Việc làm phải trong sạch, không tỳ vết. Hành động phải chơn chánh và bình đẳng. Vậy, tự mình phải gắng hết sức mà tu tập công việc của một vị sa môn. Và phải luôn tăng trưởng, do đó bất cứ chổ nào cũng phải tu tập thích hợp. Một sa môn mà thõa thích trong việc thực hành Giới (Sila ) Định (Samadhi ) Niệm (Sati) , Tuệ (Pađđa) và Tấn ( Viriya ) thì chắc chắn trở nên một bậc sa môn theo nghĩa thật của danh từ, ngay bây giờ hoặc trong thời cận lai. Như thế là Pháp của người có sự tinh tấn, có sự kiên trì và nhẫn nại, có sự quyết định phấn đấu vì tôn chỉ an toàn và cao thượng. Đó là pháp của người đã tuyệt đối giải thoát khỏi được đau khổ, hết bị ràng buộc không còn ở dưới sự áp chế của bất cứ quyền lực nào. Đó là Pháp Phật, của đức Thế tôn bậc đã tuyệt đối tự do, bực thầy của Tam giới. Giác ngộ được nghĩa lý của Pháp nầy. Sư sẽ giải thoát được khỏi phiền não, trong một thời gian ngắn. Ta truyền giao cho sư pháp nầy để sư quán xét suy tư cho thật kỹ càng. Và sư sẽ có kinh nghiệm về những huyền diệu của tâm, mà tâm hằng sẳn có.” Sau khi dứt thời pháp, vị A La Hán từ biệt di. Đại đức duyệt lại bản huấn từ một cách kỹ lưỡng, suy tư về nhiều điểm khác nhau từng chi tiết một. Và ngày càng nhiều vị A La Hán khác nhau đến chỉ dạy đại đức . Tâm của đại đức càng phát triễn và kinh nghiệm được nhiều thêm chân lý với mãnh lực luôn luôn tăng tiến của ý chí và của niệm và tuệ. ĐẮC QUẢ BẤT LAI Theo lời đại đức kể , khi được nghe các thời pháp của các vị A La hán đệ tử của Phật, cũng giống như được nghe huấn từ của chính đức Phật thuyết ra, trên thực tế ngài chưa từng yết kiến đức Phật bao giờ. Đại đức thấm nhuần trong thiền duyệt, thế giới bên ngoài và ngay cả xác thân ngài tan biến mất. chỉ còn cái tâm tuyệt đối, tõa sáng rạng ngời của pháp. Chỉ khi nào xuất đại định, ngài mới biết mình còn mang một xác thân nặng nề , là điểm tập trung của 4 uẩn khác nương tựa kết dính nhau lại, mà tự bản thân mổi uẩn là một sự dày vò đau khổ. Chính trong hang đá ấy , ngài đã tiếp kiến nhiều vị A La Hán đến viếng và được ban huấn từ. Đây là kinh nghiệm ngoại hạng so với bản kê những biến cố của đại đức ở những nơi khác. Chính trong hang động nấy mà đại đức đã thông suốt con dường đạo của bực Bất Lai (Anāgāmin) . Theo kinh điển nhà Phật thì : đến đạo quả A Na hàm thì loại bõ được năm phần kiết sữ : tức là hữu thân kiến (Sakkāya-diṭṭhi) hay tà kiến ngã chấp ; Hoài nghi (Vicikicchā) hay nghi ngờ, do dự ; Giới cấm thủ (Śīlabbata-parāmāsa) hay là cố chấp về các thứ dị đoan hành lể cúng kiến; Tham ái (Rāga ) hay nhục dục; và Sân hận (Paṭigha ) hay não hại. Bậc A Na hàm thì hoàn toàn không còn sanh làm người hay chúng sanh ở cõi có thân hình giả hợp bằng tứ đại : đất, nước, gió, và lữa. Nếu chưa đắc đạo quả A La Hán trong hiện đời thì vị Bất Lai, tùy theo trình độ tu tập cũa mỗi người , mà sẽ tái sanh vào trong một năm cõi trời sắc giới tối cao đó là : Vô phiền (Aviha), còn gọi là Quảng quả thiên là một trong 9 cõi của Tứ Thiền thiên; Vô nhiệt (Atappa) ở Tứ thiền thiên ; Thiện Kiến (Sudassi) ; Thiện Hiện (Sudassa) và Sắc cứu cánh (Akanittha ) cõi cuối cùng trong Tứ thiền thiên, mà sự khác nhau chỉ là một mức độ đặc biệt về sự vi tế hoặc thanh cao của riêng của mỗi cõi mà thôi. Chỉ trong vòng các đệ tử thân tín , đại đức mới cho biết là ngài đã đắc đạo quả A Na Hàm ở trong thạch động ấy. Nhưng tôi, tác giả, quyết định ghi chép lại đây, trình bày cho đại chúng biết. Nếu sự phơi bày đây có gì không thích hợp , tôi hoàn toàn xin lãnh chịu phần trách nhiệm. Một đêm nọ, bổng nhiên đại đức phát tâm đại bi, thương xót các bạn đồng đạo Tỳ Khưu một cách lạ thường. Đây là do nơi nhiều ấn chứng bất ngờ và đáng kể phát sanh trong giờ tham thiền, cứ lập đi lập lại trong nhiều đêm liên tiếp. Cái đêm mà đại đức tưởng nghĩ đến các Tỳ Khưu khác, đặc biệt đáng kể ở chổ trạng thái thiền định xâu xa khác thường, nhận biết được những việc làm ngu dốt của mình trong quá khứ mà rơi nước mắt. Đồng thời cũng rõ biết được những thành quả đạt được nhờ sự tinh tấn phấn đấu, nhận thức được cái ân đức xâu xa, lòng từ bi của đức Phật. Người đã chỉ dẫn con đường đạo Pháp cho chúng sanh, để họ có cơ hội thoát đi sự kiềm tõa trùng trùng điệp điệp của nghiệp lực (Karma). Những điều này có thể tóm gọn trong đoạn kinh Pháp Cú :” Chúng sanh có nghiệp là nơi sanh , và chỉ có nghiệp là vật sở hửu “. Đại đức tự khuyến cáo rằng : Mặc dầu diệu pháp đa diện và đạo quả đã được thành tựu khả quan như thế, nhưng mức diệt khổ rốt ráo vẫn chưa đạt tới. Cần phải có sự tinh tấn mãnh liệt hơn và Niệm cùng Tuệ phải tiến triển cao hơn, phối hợp nhau để ngõ hầu đạt tới mục đích cuối cùng. TỪ GIẢ THẠCH ĐỘNG SARIKA Điều khiến cho đại đức nhẹ nhõm , thoải mái như là một phần thưởng dục lòng là chứng bịnh đau dạ dày kinh niên đã làm khổ đại đức bấy lâu đã trị tận gốc, nhờ hiệu năng trị liệu của Pháp. Từ đây về sau tâm của đại đức được thiết lập kiên cố, mặc dầu toàn thể phiền não chưa được loại trừ hẳn. Đại đức chẳng còn nghi ngờ chút nào cả về dường lối tu hành của mình. Vì nó có một sự tiến triễn rõ ràng chứ không trồi sụt như trước nữa. Đại đức đã chắc ý rõ rệt là mình không lý luận xuông hoặc còn mù mờ trong việc tu hành, và sự chấm dứt khổ hoàn toàn không còn xa nữa. Trong thời kỳ ấy, niệm và tuệ phát triển vững chắc đều đều , không có gì khó nhọc. Một dòng kiến thức về các đề tài nội tâm và ngoại cảnh, triền miên chảy qua tuệ nhãn của đại đức càng khiến cho đại đức vui thú bội phần trong pháp (Dhamma). Chính trong lúc ấy đại đức phát khởi tâm đại bi thương xót các Tỳ Khưu, mong muốn chia sẽ những kinh nghiệm và điều chứng ngộ mà mình đạt được. Vì lòng bi mẩn đại đức phải từ giả thạch động kỳ diệu ấy mà đi tìm những vị tỳ Khưu mà ngài biết trong buổi ban sơ hành đạo ở miền Đông bắc. Vài ngày trước khi đại đức ra đi, một số thọ thần cùng với vị lãnh đạo đã qui y với đại đức từ mấy tháng trước, đồng đến bái kiến đại đức để nghe thuyết pháp. Sau thời pháp, đại đức báo cho họ biết tin là đại đức sắp phải từ biệt chốn nầy. Nghe vậy, các thọ thần đều đồng tình ngăn cản. Tất cả đều yêu cầu đại đức ở lại để ban bố hạnh phúc và thịnh vượng cho họ. Nhưng đại đức bảo rằng : Chính cái tinh thần trách nhiệm đã khiến đại đức đến đây và cũng cái tinh thần nầy thôi thúc đại đức phải ra đi. Rồi đại đức khuyên họ đừng nên bi thảm và tiếp lời rằng : có thể đại đức còn trở lại, khi có cơ hội. Dĩ nhiên là các thọ thần không thể cầm lòng trước cảnh biệt ly , vì họ kính phục và yêu mến ngài. VUA SÃI NGÀI UPĀLI Buổi tối , trước ngày từ giả thạch động, đại đức Mân nghĩ về đại đức Vua sãi Chao Khun Upāli ngụ chùa Boromaniwat ở Bangkok và muốn biết lúc ấy ngài đang làm gì, đại đức hướng tâm và phát dòng ý thức quán sát tâm của ngài Upāli, và tức khắc biết rằng : Ngài Upāli đang minh sát thập nhị nhân duyên. Đại đức bèn ghi nhớ ngày giờ lúc ấy, và về sau khi xuống kinh đô, đại đức hỏi lại ngài Upāli cho rõ sự thật. Nghe như vậy đức ngài Upali nhìn nhận là đúng và ngài hết sức hoan hỉ, bảo rằng : "Sư sao giỏi quá ! ta là một giáo sư mà còn chưa bì kịp tài sư. Sư làm cho ta đến phải hổ thẹn”. Ngài cũng dạy thêm rằng :“ Đây là điều chúng ta nên mong gặp ở một vị đệ tử của đức Phật Thế tôn. Không phải tất cả trong chúng ta đều bất lực trong việc tu tập giáo pháp của đức Phật, mà đã có người gìn giử được chánh pháp của đức Thế tôn. Không để thời hiện đại nay làm con người lười biếng, tư tưởng chủ bại, yếu kém không còn khả năng đạt được mục đích tối thượng trong cuộc sống làm người. Sư đã xác đúng cái chân lý : Dhamma thì vô thời gian, không bị hạn chế bỡi thời gian và địa điểm. Nếu không thì chánh pháp sẽ không còn xuất hiện trên thế gian nầy nữa. Chính vì sự biếng nhác mà Pháp bị mai một trên thế gian. Bây giờ thật là phấn khởi, được đại đức Mân đích thân đứng ra làm gương mẩu vậy". Đại đức thường được ngài Upāli khen ngợi. Đôi khi có những vấn đề nan giải , thì đức ngài cho người mời đại đức Mân đến làm cố vấn và giúp cho ý kiến. Một thời gian đại đức rời kinh đô Vọng Các, để đi lên những tỉnh đông bắc. Trong những năm trước khi đại đức tới thạch động, ngài đã du hành qua xứ Miến Điện, rồi trở về Thái Lan, ngang qua tỉnh Chiang Mai. Sau đó, Đại đức vượt biên giới vào tỉnh Luang Phrabang ở vương quốc Lào, lưu ngụ nơi đây trong một thời gian, rồi đại đức lên đường trở về tỉnh Loei, nhập hạ ở chùa làng Ban khok , gần động Pha Pu. Mùa hạ năm sau an cư ở động Pha Bing cũng trong tỉnh ấy. Lúc ấy, những địa điểm nầy, còn là những vùng rừng núi hoang vu, có nhiều dã thú , làng mạc thưa thớt. Có khi đại đức đi suốt cả ngày đường mà không thấy được một xóm làng nào cả. Trong một địa phương hoang dã như vậy thì chắc là phải khổ thật , bởi vì phải ở lại đêm với tất cả dã thú chung quanh mình. CỌP RỪNG Đại đức thường kể cho đệ tử nghe vài câu chuyện gặp cọp của đại đức. Trong thời gian cư ngụ ở vương quốc Lào, có một lúc đại đức ẩn cư trong một nơi hẻo lánh gần núi. Nơi đó, thường có một con hùm lớn đến viếng. Nó thích chăm chú nhìn đại đức một cách tò mò, ở cách một khoảng xa, trong khi đại đức đang mãi miết đi kinh hành ban đêm. Nhưng nó không có dáng điệu nào tõ ra hung hãn, dể sợ cả, trừ ra thỉnh thoảng nó gầm rú lên khi quanh quẩn gần đó. Từ lâu đã quen cách sống trong rừng có nhiều dã thú, đại đức không lưu ý đến con cọp nhiều hơn là để ý đến công phu tinh tấn xả ly của mình. Trong giai đoạn nầy, ngài có bạn đồng tu là một vị tỳ khưu cao tuổi hạ hơn pháp danh là Sitha cũng rất thích khu vực yên tĩnh nầy, miền núi dọc bờ sông Mekong, ngay sát biên giới Lào. Hai người tạm trú ở hai khu vực cách nhau cũng hơi xa và đi khuất thực hai làng khác nhau. Cùng thời với đại đức Mân, ngài cũng tiến bộ rất nhiều trong việc tham thiền. Một đêm nọ, Con cọp lớn đến viếng đại đức Sitha khi vị ấy đang kinh hành, nó ngồi thu mình cách đường đi kinh hành khoảng 2 thước, ở giữa hai đầu đoạn đường đi kinh hành được dánh dấu bằng hai ngọn nến, để thấy lối đi. Cảm thấy điều gì khác thường, đại đức Sitha bèn liếc nhìn về phía bên đường kinh hành 16 thì thấy nó đang ngồi tại đó, đôi mắt sáng rực đang chăm chú nhìn thầy, nhưng đại đức Sitha không cảm thấy sợ, Thầy chỉ, đơn thuần nhìn nó giống như một con chó giử nhà, một con thú nhồi bông to lớn. Trong giây phút hai cặp mắt nhìn nhau xong , rồi thầy lại tiếp tục việc đi kinh hành ngang qua lại trước mặt con cọp, nhưng trong suốt thời gian đó thầy không có một phút nào sợ cả. Sau một lúc đi kinh hành vẩn thấy nó ngồi canh chừng, cảm thấy thương hại cho nó, thầy hướng tâm nghĩ về nó mà nói rằng : " Tại sao không đi nơi khác kiếm ăn, mà tại sao phải ngồi nhìn chừng ta ?" Khi Thầy vừa nghĩ như vậy thì con cọp gầm lên một tiếng chát tai vang rền khắp cả khu rừng. Thấy sự phản ứng nầy, Sư bèn đổi ý nghĩ như sau: " Chính vì lòng bi mẫn mà ta nghĩ như vậy, vì sợ nhà ngươi phải nhịn đói vì ngồi quá lâu, dầu sao ngươi cũng có miệng và bao tử cần đổ đầy như các loài khác, nếu nhà ngươi không cảm thấy đói , và muốn ngồi đây canh gác cho ta, thì tốt thôi, ta không ngại đâu". Thế là ông chúa sơn lâm không phản ứng gì nữa và tiếp tục ngồi yên nơi đó, trong khi thầy tiếp tục công việc đi kinh hành của mình và không để ý tới nó nữa. Một lúc sau, sư ngưng đi kinh hành lại chiếc giường tre gần đó ngồi nghỉ, xong đọc một thời kinh rồi ngồi thiền một lúc xong mới đi nằm ngũ. Suốt cả thời gian nầy con cọp vẫn ngồi như lúc ban đầu. Nhưng lúc thức dậy khoảng 3 giờ sáng, để đi kinh hành thì sư không thấy con cọp nữa. Không biết nó đi từ lúc nào, và sau nầy cho đến khi rời khu vực nầy cũng không thấy nó. Khi gặp đại đức Mân, thầy Sitha kể lại câu chuyện lạ nầy : Thầy vừa mới nghĩ kêu nó đi , thì nó gầm một tiếng lớn. Thầy còn nhớ lại là mặc dầu tâm thức không có một chút sợ nào nhưng lúc nghe tiếng gầm thì lông tóc trên người thầy dựng đứng cả lên và da đầu tê, thầy cảm tưởng như mình đang đội nón vậy. Nhưng chút sau thì hết, thầy lại tiếp tục việc đi kinh hành coi như không có gì xảy ra. Có lẽ có một chút sợ vi tế tiềm ẩn, mà lúc đó tâm thức thầy không nhận ra được. Dù con cọp không trở lại viếng , nhưng thỉnh thoảng còn nghe tiếng gầm của nó vang dội. Dù vậy tâm đại đức không quan tâm đến nó nữa và an ổn trú tâm trong việc tu hành của mình. XUỐNG NÚI ĐỘ ĐỜI Lúc trước, trong buổi đầu, Ngài khởi đầu tu hạnh đầu đà ở tỉnh Nakhon Phanom, miền đông bắc Thái Lan, từ đó băng qua tỉnh Sakon Nakhon, tỉnh Udon Thani, tới Miến Điệm một thời gian xong trở về Thái Lan qua ngã Chiang Mai, trú một thời gian ngắn rồi lại qua Lào đến Luang Phrabang, rồi Vientaine. Sau đó trỡ lại Thái Lan xuống tỉnh Loei, rồi đi dần về phía nam xuống thủ đô Bangkok. An cư kiết hạ một mùa ở chùa Pathumwan, Sau đó thì lên trú ngụ tại thạch động Sarika nhiều năm trời cho tới đắc quả Bất Lai. Trong thời ban đầu ngài thường du hành một mình, thỉnh thoảng ngài có bạn đồng hành nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Ngài lúc nào cũng đặt hết tâm trí vào việc giải thoát, cho nên thường sống tách biệt người khác. Và ngài thích đơn độc tu hạnh đầu đà. Chỉ sau khi đắc quả Bất Lai ở động Sarika , lúc đó ngài đã có chổ đứng vững chắc trong giáo pháp của Như Lai, và lòng bi mẩn khởi lên nên lấy việc hóa độ chúng sanh làm sự ưu tiên hàng đầu. Đây là nguyên nhân khiến ngài rời bỏ thạch động Sarika và du hành lại về phía Đông Bắc. Lúc trước, đại đức cũng đã hướng dẫn một số Tỳ Khưu trên đường hành đạo, và phía Bắc có một nhóm lớn Tỳ khưu đầu đà. 16. Bề dài của đường đi kinh hành , cố nhiên là phụ thuộc vào nơi chốn. Đường ngắn nhất ,khi không có chổ trống thì không nên ngắn hơn 10 bước. Bề dài trung bình là 20 bước, còn dài nhất là 25-30 bước. Phương hướng là Đông -Tây được xem là tốt nhất, hoặc không hơn 45o (tức là Đông Bắc hay Tây Nam) cũng không cho phép. KHÔNG bao giờ đại đức Mân đi kinh hành theo hướng Bắc Nam, khi thấy đệ tử nào đi như vậy , thì ngài bảo thôi đừng làm thế nữa. Ắt là phải có lý do, vì đại đức có khả năng quan sát các pháp hành cổ sơ thời đức Phật. Đại đức chắc ý về phương pháp của mình nên dạy đệ tử hành theo. Y Tăng Già lê có thể khoát lên hoặc không trong lúc đi kinh hành. Điều nầy là tùy do xứ nóng hay lạnh. Trong khi đi hành giả không nên khoanh tay hoặc chấp tay sau lưng, hoặc đánh đồng xa (nghĩa là vung tay mạnh) nhưng phải chấp chéo phía trước mặt, tay phải trên tay trái, hai tay đều đặt dưới rốn. Tuy nhiên , không cần n phải đi mãi không lúc nào ngừng. Bao giờ sự minh sát trở nên xâu xa, hành giả có thể dừng chân trong giây lát, có thể tới cả giờ đồng hồ rồi đi lại tiếp. Cũng không nhất thiết phải đi trong bao lâu, một ngày, một đêm hay hàng giờ. Tùy do điều kiện sức khẻo vài tinh thần. Mục đích quan trọng là để phát triển minh sát tuệ. Nghĩa là phải có chánh niệm , bằng vắng mặt của chánh niệm thì sự đi sẽ trở thành tự động, như người máy. Nên đại đức quyết định gặp lại những vị đó và các thiện nam tín nữ đã từng hộ trì các tăng. Khi trở về đại đức nhanh chóng được mọi người kính ngưỡng. Rất nhiều người phát tín tâm xuất gia, thực hành hạnh như ngài. Ngay cả có một số Thầy tuổi cao, hạ lớn được mọi người tôn kính là thầy A Xà Lê , dã tự ý bỏ hết danh vị mà đến xin thọ giáo với đại đức. Về sau đã phát triển nội tâm một cách vững chắc, và có đủ bản lảnh, tài năng mà hóa độ kẻ khác. Trong nhóm đệ tử đầu tiên đáng nêu tên nhứt là đại đức Suwan , nguyên trụ trì chùa Aranyikawat trong quận Tha Bo tỉnh Nong Khai , đại đức Singh Khantayākhamo, trước trụ trì chùa Slawan trong tỉnh Nakhon Ratchasiam, đại đức Mahā Pin Paňňāphalo, trước trụ trì chùa Saddharam cũng trong tỉnh Nakhon Ratchasiam. Cả ba vị đại đức đều xuất thân từ tỉnh Ubon Ratchathani, đến nay đều tịch hết. quí vị là những đệ tử quan trọng đã đảm trách việc dạy dổ huấn luyện các Tỳ Khưu và cư sĩ , thay thế cho sư phụ mình là đại đức Mân Bhuridatta. Một số đệ tử của quí vị ấy còn sống đến hôm nay. Trong ba vị kể trên, hai vị sau là hai anh em. hai vị đều có trình độ văn hóa cao. về sau, khi gặp đại đức hai vị đều hâm mộ pháp hành của ngài, bèn từ bỏ tánh tự ái, và trách nhiệm mà đến xin thọ học nên ngài. Về sau hai vị nầy đã giúp đại đức rất nhiều trong công trình dạy dỗ và rèn luyện thế hệ đến sau. Thứ kế là đại đức Thet Therasangsī, hiện nay đại đức trụ trì chùa Hin Mak Peng, trong quận Sri Chiang Mai tỉnh Nong Khai, là đệ tử thâm niên của đại đức Mân , rất được tôn kính vì phẩm hạnh thanh cao, khiết bạch và được chư tăng, và thiện tín trong hầu hết mọi miền biết danh. Cách hành đạo của thầy thì uyển chuyển, đều đặn, tánh nết của thầy thì dịu dàng , khiêm cung, lời nói của đại đức thì nhu hòa truyền cảm cùng với dáng điệu thanh nhã đáng mến. Những đặc điểm như thế khiến người gặp ái một kính ngưỡng và khiến họ muốn tu hành để được như thế. Có điều đáng lưu ý : Mổi vị đệ tử của đại đức Mân thì đều có những cá tánh đặc biệt, không ai giống ai, tuy nhiên đều làm cho người gặp kính ngưỡng muốn noi theo. Nhưng những điểm đặc sắc nầy chỉ có được khi nào thật sự hành trì mà thôi , vì cũng có kẻ bắt chước, không thật sự tu hành, thì gặp phải sự sân hận ác cảm của người chung quanh. Đại đức Thet luôn luôn làm vừa lòng đẹp ý tất cả mọi người và cũng xứng hợp với phẩm hạnh của một nhà sư cần phải làm gương mẩu, điềm tĩnh, và hài hòa. Theo tôi ngài là một vị đệ tử của đại đức Manh đặc sắc nhất . Tôi đã biết ngài lâu rồi và luôn hằng kính ngưỡng. Kế là đại đức Fan Ajāro, đại đức hiện ngụ tại chùa Udomsomphon, ở làng Na Hua Chang trong quận Pannanikhom thuộc tỉnh Sakhon Nakhon, đại đức được mọi người trong nước biết tới bởi cách tu hành và tánh tình. tâm từ của đại đức thì thật là quãng đại vô biên, xét theo sự giúp đỡ tinh thần cũng như vật chất. Viên ngọc quí khác là đại đức Khao Anālyo, xin được nêu ở đây. Đại đức an cư trong chùa Tham Klong Phen trong quận Nong Bua Lamphu, tỉnh Udon Thani. Đại đức cũng có tiếng tăm không kém , về pháp hành phạm hạnh, và sự giác ngộ. Có lẽ đọc giả đã biết về ngài. Đại đức là một thiền sư tăm tiếng nhất thời nay, ngài luôn luôn thích sống độc cư và đáng là gương mẩu trong lối tu khổ hạnh và dũng cảm. Được xem là quán quân trong sự tinh tấn các chi của hạnh đầu đà. Bây giờ đại đức được 82 tuổi thọ, nhưng vẩn chưa cho phép mình giải dãi, giảm bớt sự tinh tấn. Có vài người đã hỏi tôi, vì tõ ý lo ngại cho sức khẻo của đại đức, tại sao ngài cứ tiếp tục tinh tấn mãi như vậy khi mà ngài đã thành tựu không có gì nữa để mà thành tựu thêm. Và Không hiểu tại sao ngài lại có năng lực như vậy. Khi gặp những ai hỏi tôi - tác giả , như vậy, tôi cố gắng giải thích như sau: "Một người mà đã hoàn toàn trừ được những nguyên nhân gây rắc rối - cái mà làm cạn nguồn sinh lực , làm cản trở sự tiến bộ, chúng không còn kiềm tõa tâm trí người đó trong sự mê mờ nữa. Trong khi phần lớn chúng ta tích lũy sự lười nhác lớn như ngọn núi cao, cản trở tầm nhìn của chúng ta. Ngay lúc chúng ta khởi sự cộng việc làm cao quí thì chúng ta lại sợ rằng chúng ta không đủ sức gặt hái được thành quả lớn lao. Chúng ta lại lo âu trước e rằng công việc quá khó nhọc. Nên cuối cùng chúng lại không hái được quả tốt lành mà phải trở về với giỏ không, đó là cái tâm ưu phiền, và lang thang với sự nghèo nàn khốn khổ, chính là sự thiếu tu tập tích lũy công đức. Lúc này chúng ta lại than van, trách cứ rằng chúng ta không may đã gặp nhiều sự khó khăn, cản trở. Đúng vậy chính sự biếng nhác đã làm hõng ta, gây trở ngại cho ta. Những ai đã xóa bỏ sự biếng nhác thì họ kiên gan bền trí trong lúc gặp khó khăn. Họ không bao giờ sợ công việc quá sức mình. Những người như vậy tâm họ thanh tịnh thấm nhuần Phật Pháp, không bị nhiễm ô, và luôn là những người gương mẩu trong loài người.” Nêu trên đây là một trong số các đệ tử của đại đức Mân, mổi vị là một viên ngọc quí, bao giờ cũng đem lại sự phú túc và hạnh phúc đến cho những người có duyên thân cận , tiếp xúc với quí ngài. Đại đức Mân đã dạy dỗ nhiều đời đệ tử, trong số đó có nhiều vị là thiền sư nổi tiếng, có khả năng tự tu và hường dẫn kẽ khác. Đại đức đã đi giáo hóa và hướng dẫn bá tánh, gốm cả Tỳ Khưu và thiện tín trong nhiều vùng trong nước, khả năng thu phục giáo hóa được mọi người là do sụ thật chứng của ngài. Điềm mộng tiên tri của đại đức đã thực hiện được. Rất nhiều người đã hết sức vui thích và phấn khởi trong đường lối giáo hóa và thể thức hành đạo của ngài. Đại đức đã dạy cho người khác giáo pháp mà chính ngài giác ngộ - không có vấn đề luận thuyết trong cách giáo dục của ngài. Những gì đại đức đã thuyết dạy là những gì đại đức đã “tri”. Điều gì đại đức đã chỉ dạy cho người khác hành là đại đức đã hành. Như thế , là đại đức đã làm tròn ước nguyện khi rời thạch đông để đi giáo hóa chúng sanh . CÁCH THỌ TRÌ HẠNH ĐẦU ĐÀ Sau đây là các hạnh đầu đà mà đại đức khuyến khích các đệ tử nên thọ trì. 1. Đi trì bình khuất thực : Đây là bổn phận hàng ngày cũa những Tỳ khưu và sa di đầu đà cần phải làm, trừ ngày nào cắc vị ấy quyết định không thọ thực. Trên đường đi vào làng các vị ấy phải luôn luôn thu thúc. Đây là cách tự chủ bằng hai pháp song song là niệm và tấn. Cái tâm không để cho sa ngã vì nư sự cám dổ bên ngoài chi phối, những sự cám dỗ nầy có thể lén chui vào mắt, tai , mũi, miệng , thân và ý của hành giả. Do đó vị ấy phải cẩn thận đề phòng trên đường đi và về, từng tác động cữ chỉ đều phải có chánh niệm quán sát. Quã thật đó là một lối biểu lộ của sự tinh tấn. 2. Chỉ ăn vật thực được cúng trong bát, từ khước vật thực dâng sau. Thức ăn đặt vào bát , dầu ít hay nhiều, đều thích hợp cho việc nuôi sống thân , điều nầy rất tốt cho việc tri túc. Không cần phải thọ lảnh thêm vật dưng về sau khi đi khuất thực. Đó là sự đầu hàng của tánh tự khoan, (một bộ mặc khác của phiền não tham )là một thói quen sau càng lâu càng khó khắc phục. Pháp tri túc với bất cứ vật thực gì dâng vào bát là mục đích của chi đầu đà nầy. Lo âu, thèm muốn về thức ăn là đặc tánh cũa loài ngạ quỉ - Một loại chúng sanh bị hành hạ bỡi do chính nghiệp mình đã tạo, ngạ quỉ luôn luôn tìm cầu thức ăn thay vì pháp , và không khi nào thõa mãn được với thực phẩm kiếm được, luôn tìm kiếm để làm dầy bao tử. Chi đầu đà nầy là phương pháp hay để trị tánh tham ăn , suy nghĩ về thức ăn và những phiền não từ đó sinh ra. 3. Chỉ dộ mổi ngày một bửa ăn. Chi nầy thích hợp nhất cho vị Tỳ khưu đầu đà chuyên chú về việc mở mang tâm trí, thiền định. Vì làm trút đi bớt gánh nặng của thức ăn vì những giờ khác không lo âu về bữa ăn nữa. Ngay cả chỉ ăn một bửa, Tỳ Khưu đầu đà chỉ nên ăn vừa sức chớ không nên ăn no vì như vậy sẽ gây sự hôn trầm thụy miên trong việc thiền định, và những ai thích hợp cho chi nầy sẻ gặt hái nhiều thành quà tốt trong việc tu tập. Ngoài đời khi gặp bệnh thì tìm thuốc để chữa trị, khi gặp hiểm nguy, thế lực đe dọa thì kiếm cách bảo vệ cũng như vậy trong Phật pháp . Chi đầu đà nầy là phương thuốc hay cho ai bị bệnh tham ăm. Ngoài ra cũng là cách hay để trị cái tâm trạo cữ. 4. Chỉ thọ thực trong bát. Chỉ ăn trong bát không cần chén các thứ vật dụng lỉnh kỉnh khác. Chi nầy thích hợp cho Tỳ Khưu đầu đà biết tri túc, và luôn lưu động, đến đâu cũng chỉ tạm rồi đi. Nó miễn cho vị ấy khỏi sự phiền phức phải mang theo những vật dụng khác. Mặt khác cũng tốt cho tâm xả ly, vì một món mang theo là phải quan tâm gìn giử. Mặc khác là các món trộn lẩn trong bát thì nhắc nhở vị Tỳ Khưu đặt tâm trí vào thức ăn đang thọ, mục đích của thức ăn là để duy trì sự sống, không nên bị lôi cuốn vào sự ưa thích, chán ghét vật thực, và quán tính “bất tịnh” của nó. Và chính đại đức đã đạt nhiều chân lý từ việc thực hành hạnh nầy, và ngài thọ trì chi nầy cho tới lúc mất. Trong cách nầy Tỳ Khưu đầu đà phải nên cẩn thận gìn giử chi nầy , vì có rất nhiều thành quả đặc biệt có được từ hạnh nầy, đây chính là điều đại đức Mân khuyên nhủ. 5. Mặc y Phấn tão. Đây là chi đầu đà khác mà đại đức thọ trì một cách thành kính. Hạnh nầy chủ đích chính là phương pháp dẹp bỏ tâm tham về y đẹp và những vật đẹp bắt mắt. Thực hành hạnh nầy đòi hỏi Tỳ khưu đầu đà nhặt và thâu thập các miếng vải bị vứt bỏ dọc đường hay ở nghĩa địa. Dùng các miếng vải nầy để vá y hay ráp lại thành miếng lớn may Y, hay dùng làm khăn tắm , v.v. . .Có những lúc đại đức , được sự đồng ý của tang chủ , đã dùng vải liệm người chết . Đại đức khi gặp một miềng giẻ rách trên đường thì ngài nhặt mang về chổ ngụ, bất cứ là thứ vải gì, đem giặt sạch dùng nó để may vá y , hoặc dùng làm việc khác. Về sau, các thiện nam tín nữ biết hạnh nầy, họ dâng cúng vải cho ngài bằng cách cố ý để, vất trong bãi tha ma, hoặc trên đường đi khất thực của ngài, hoặc chung quanh chổ ngài trú ngụ. Do đó, ban đầu ngài chỉ nhặt vải bị vất bỏ , sau nầy ngài phải thuận duyên nhận vải được các thiện nam tín nữ cố ý đặt ở những nơi mà ngài đi qua. Như thể vậy ngài thọ trì chi nầy như vậy cho tới lúc mất. Đại đức thường nhấn mạnh : Các thì Tỳ Khưu muốn sống an vui thì hảy nên xem mình như giẻ rách. Với thái độ tâm như thế, Vị ấy sẽ sống thoãi mái trong việc sinh hoạt hằng ngày, và việc tiếp xúc kẻ khác. Vị ấy dẹp bỏ được tánh cống cao ngã mạn vì ý nghĩa về đức hạnh của mình vì mình đang là Tỳ Khưu. Đức hạnh thật sự chính là sự từ bỏ cái vị kỷ của mình, chứ không phải là đề cao cái tự ngã. Một vị Tỳ Khưu phải biết rõ quan hệ giữa mình và những đức hạnh mà mình muốn thành tựu. Hành giả phải có con mắt tinh tường để canh chừng sự đột nhập của chứng tự cao và đừng cho nó lấn át những đức hạnh mà mình đang tu tập. Hành giả phải tu tập thái độ dẹp trừ bản ngã, coi “mình” như miếng giẻ rách bị vất bỏ, tu tập cho thành thục để nó trở thành cá tánh thực chất của mình, và nó bền vững như đại địa. Do đó , vị ấy ấy không bị lay động trong những lời khen chê. Hơn nữa khi cái tâm hoàn toàn không còn tánh tự cao tự đại thì tâm đó thật sự điềm tĩnh. Đại đức, tin rằng hạnh mặc y phấn tão thật sự là cách tốt để làm suy yếu đi tánh coi mình là nhất, đã ăn sâu trong tâm thức. 6. Ngụ trong rừng. Từ khi mới biết tu tập , ngài đã giác ngộ được lợi ích to lớn của hạng đầu đà nầy. Do đó đại đức đã hưởng được hạnh phúc của cảnh độc cư yên tịnh. Bốn phía chung quanh là phong cảnh thanh tu, đánh thức sự giác tỉnh. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi cảnh thanh tịnh khuyến khích, là trợ duyên cho chánh niệm. Nhờ không có sự ràng buộc , hoặc áp bức lên cái tâm, nên viển ảnh giải thoát hiện ra ngày càng thêm tõ rạng. Cảnh hoang vu, xa cách nhà cửa con người, chung quanh là dã thú, tạo nguồn cảm hứng cho tâm về việc giải thoát. Tâm như sẳn sàng, chực bay lên ra khỏi hố sâu của phiền não. Thật sự, thì phiền não vẩn nằm yên trong tâm, nhưng trong một cảnh trí như thế -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 16th June 2025 - 04:29 AM |