IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Cuộc đời của ngài Achaan Mun, Thầy của ngài Achaan Chah
Diệu Minh
bài Dec 1 2011, 04:48 PM
Bài viết #1


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,051
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



LỜI TÁC GIẢ
Tiểu Sử của đại đức Mahn Bhūridatta mà các bạn sắp đọc là kết quả của một công
trình nghiên cứu lâu dài. Tôi đã tham khảo, đi gặp các vị đại đức đệ tử của ngài. Những
người đã từng sống chung với ngài.
Tôi đã góp nhặt, ghi lại và soạn ra thiên tiểu sử nầy. Tôi hoàn toàn không vừa ý khi
soạn bản tiểu sử nầy, vì thật là rẩt khó để cho các Sư , các vị đã từng sống tiếp xúc với
ngài diễn tả được hểt những kinh nghiệm sổng trong cuộc đời tu tập của ngài mà ngài đã
nói 1ại cho các vị đó nghe. Nhưng nếu tôi chờ có đầy đủ tẩt cả những chi tiết mà các vị đó
nhớ lại, thì không những e rằng thời gian sẻ làm chúng phai nhòa và mất đi, mà hi vọng
ghi chép lại tiểu Sử vể ngài cũng không thành tựu được.
Rẩt là khó, khi tôi phải cho hoàn thành một công việc mà mình chưa vừa ý, nhưng
hi vọng của tôi là tập tiểu sử nầy giúp ích được phần nào các đọc giả quan tâm đến Phật
giáo
Tôi cố gắng mô tả tất cả những hoạt động của ngài theo thứ tự thời gian, và theo lối
hành văn thuật lại đời sống của các vị Thánh Tăng như' đã được ghi trong các kinh
điển, đồng thời cố ghi lại những bài pháp mà ngài đã giảng cho các đệ tử, mục đích là cho
các thế hệ sau thấy tấm gương đạo hạnh của một bậc chân tu, người đã theo con đường
chỉ dạy của đức Phật. Và cho thấy khả năng chứng đạo có thể đạt được như mô tả trong
các kinh điển, nếu như có một sự gia sức, một sự nổ lực thành thật trong việc tu hành.
Xin các đọc giả tha lổi cho tôi nếu như cách trình bày không có gì thích hợp.
Tôi không như ý về tác phẩm nầy, nhưng vẩn xuất bản vì hi vọng các đọc giả Phật
giáo có thể tìm thấy một sự lợi lạc trong việc đọc lại cuộc đời của ngài, đại đức Mahn Bhūridatta.


Tỳ Khưu Mahā Bowa Ñāṇasampanno
Oct, 1971







NHÀ XUẤT BẢN GIỚI THIỆU

Chúng tôi hân hạnh được trình bày, nơi phụ tnương đặc biệt của tập san nầy, thiên
tiểu sử của cố đại đức thiền Sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, bình sanh là vị thiền Sư
nổi danh nhầt trong nước Thái, do một số các đệ tử đồng thời với ngài biên soạn. Tác giả
là đại đức thiền sư Phra Ācham Boowa Ñāṇasampanno, tịnh cư trong rừng chùa Bahn
Tard, thuộc tỉnh Udon , cách xa kinh đô Vọng Các (Thái Lan) lối 600 Km về phía đông
bắc.
Hiện nay có nhiều vị thiền sư trước đã tững là đệ tử của ngài, như đại đức thiền Sư
Phra Ācham Chah đã được nêu tên trong bản của ông Douglax M. Bums nhan đề : chương
trình và dự án thành lập Tăng già Mỹ . Đăng nơi trang 56 của tập san nầy, mặc dầu cố đại
đức thuộc về phái tiểu thừa cải cách, do đức vua Monkut lừng danh trên thế giới lập nên,
nhưng ngài có rất đông đệ tử thuộc cả hai phái, và đại đức thiền sư Phra Ācham Chah có
lẻ là vị đệ tử ưu tú trong phái đại thừa vậy. Quí bạn đọc thiên tiểu sử nầy, chắc thế nào
cũng quay lại bản kêu gọi kể trên của ông.
Như đã nêu trên trong số tân niên của chúng tôi, quyễn sách bằng chử Thái là một
đầu đề tranh luận, vừa bị đã đảo, vừa được hoan hô, giữa nhóm trí thức và nhóm bình dân,
giữa phái thượng lưu và phái hạ lưu, giữa hàng vương giả và hạng bần cùng và giữa chư
Tăng và các thiện tín. Như thế, không phải là vô cớ, bởi vì quyễn sách là một khuyến
khích lớn cho hàng Phật tử hành thiền thấy rằng : Ngày nay, đạo quả cũng vẩn còn giác
ngộ được, nhưng nó đòi hỏi những nổ lực thích ứng chân thành và mảnh liệt của những
bực tu hành già giặn và chính chắn.
Đối với những người chỉ thích lăn lóc trong vũng lẫy tuyệt vọng, một bản tuyên
ngôn như thế làm cho họ đau khổ vô cũng, và họ ném đá đả đão đại đức tác giả, lại còn
mẵng đại đức là kẻ khủng bố, là kẻ phá hoại Phật giáo nữa. Nhưng có vài người lắng tai
nghe bản thông điệp của đại đức, tin tưởng rằng nếu tự họ chưa già giặn đủ để giác ngộ
đạo quả ngay trong kiếp nầy, thì cũng có thể có những người khác đã đến trình độ đó.
Những người nầy sẳn lòng chịu lầm lạc, nếu quả thật họ lầm lạc, chỉ vì tin quá lố – như thế còn tốt hơn phạm nhằm đại tội Ariyūpavāda là mạ lỵ , hay hủy báng một vị thánh
thanh văn. Họ đặt tất cả niềm tin của họ trên cái sự kiện hiển nhiên là trong số những kẻ
chỉ trích Ngài (Phra Ācham Mahn Bhūridatta) Không ai có tài năng bằng ngài, hoặc bằng
phân nửa Ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh, thanh cao, giản dị và thanh
khiết. Ký thác đức tin của ta nơi một người sống một đời chơn chánh thánh thiện, thay vì
đặt ở nơi những người chỉ hứa giúp đở ngoài môi và còn thụ hưởng đủ thứ khoái cảm nhục
lạc, há chẳng đáng khuyên hơn, được lợi ích hơn, và cũng đúng với Phật pháp hơn sao?
Chúng ta tôn thờ và tin tưởng ngài, là người không bao giờ khao khát đệ tử, hoặc tìm cầu danh vọng, và làm gương cho bất luận pháp nào của ngài thuyết, há chẵng tốt đẹp nhiều hơn sao ?
Chúng tôi tin rằng tác phẩm sau đây sẻ được đón tiếp nồng hậu và sẻ bị chỉ trích
kịch liệt, bởi quần chúng độc giả đọc chử anh, không kém nồng hậu và kịch liệt hơn khi
còn nguyên văn chử Thái. Và chúng tôi kính cẩn Xin cầu chúc : Mong Sao cho những
người hằng miệt thị ngài (đại đức , hay cố đại đức ) cũng như những người hằng tôn kính
ngài đều có khả năng làm được như ngài, hoặc bằng phân nửa ngài, trong việc thực hiện
một đời sống phạm hạnh thanh cao và tinh khiết.
Thiên tiểu sử vạch rõ phương pháp tu hành và nếp sống linh động trình bày nơi
đây, chính là của cố Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, cung cấp bởi các đệ
tử đồng thời với cố đại đức, đả từng tu tập dưới sự hướng dẫn của ngài, trong những thời
kỳ khác nhau. Do đó sự chính xác của họ có thể tìn cậy được lắm, dẫu rằng theo lẽ đương
nhiên, chúng ta không thể biết chắc là mổi vị đệ tử của ngài có nhớ được từng lời giáo
huấn của ngài, và từng địa điểm, từng việc biến chuyễn trong đời ngài hay là không?
Nhưng nói đi rồi, còn nói lại, chúng ta không thể chờ đợi cho tới lúc sẻ thành tựu hoàn toàn mỹ mản, chúng ta càng trì hoãn , thì chắc là những chi tiết hay ho, hửu lý càng phai mờ trong ký ức của những đệ tử của ngàì. Và những thế hệ mai sau ắt là thiếu một tấm gương giá trị mà họ có thể soi chung. Vì xét thấy sự kiện nầy mà chúng tôi trình bày.
Thiên tiểu sử sau đây, hi vọng rằng thà còn ít còn hơn không có gì hết. Phương pháp trình bày nơi đây, noi theo gương các bậc soạn giả tiền bối đã ghi chép tiểu sử của các vị thánh Thanh Văn, trong nhiều bản kinh, với hi vọng lưu truyền những gương mẩu cho đoàn hậu tấn. Trong trường hợp, có điều gì bất nhả mà chính cố đại đức thiền sư đã tự thuật, thì soạn giả xin cáo lổi với quí độc giả, nơi đây. tác phẩm nầy được soạn ra với mục đích phụng sự những ai lưu tâm tới khía cạnh Phật gíáo.
Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, lúc bình sanh là vị thiền Sư danh
tiếng nhứt, được tất cả các đệ tử thân cận thật sự tôn kính. Qua các thời thuyết pháp nói
đạo và những lời chỉ dạy về Pháp cao siêu của ngài, nhóm đệ tử thân tín tự nhiên thấy rõ
là ngài hẳn đã chứng đắc quả vị nào rồi mới gây được cái ấn tượng sâu đậm trong tâm họ
ngay từ ban đầu, và về sau luôn luôn dùng để trắc nhiệm sự kiện nầy. Đệ tử của ngài gồm
đủ cả cư sĩ và Tỳ Khưu, có lẽ khắp trong nước Thái và luôn cả trong nước Lào, láng
giềng.
Lịch sử đời sống ngài thật là kỳ diệu, cả trong hai thời : khi còn là cư sĩ và lúc đả tu
Tỳ Khưa, từ ngày đầu cho tới ngày cuối. Nó không có chút tỳ vết bợn nhơ, nên dẩu cho
ngọc kim cương hoặc thứ trân bảo khác cũng không bì kịp sự hy hữa và tinh khiết của nó.


Tháng 6 âm lịch, 1974
(Sư Pháp Minh)







ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU

Tôi có duyên khi đọc được một phần bản thảo tiểu sử của ngài đại đức Mahn
Bhūridatta được viết tay trên cuốn vở học trò 100 trang của Cố Tỳ Khưu Pháp Minh.
Thiền Sư Pháp Minh là một vị Tỳ Khưu được nhiều người biết tới trong Phật Giáo Nam Tông ở VN, vì là bậc chân tu khả kính.
Thiển Sư Pháp Minh sanh năm 15-3-1918 tại làng phước Hải Huyện Long đất, Tỉnh
Bà rịa , Vũng Tàu. Thế danh là Nguyễn Văn Long con của cụ Nguyễn Văn Tài và bà
Phạm Thị Minh.
Xuất gia làm Sa Di vào năm 1965 tại chùa Phổ Minh, Gò Vấp, Gia Định vào ngày
7 thắng 2. Sau đó ngày 6-1-1968, ngài thọ đại giới Tỳ Khưu tại chùa Pháp Bảo ở Mỹ Tho.
Thầy Tế độ là Hòa Thượng Giới Nghiêm.
Năm 1968, ngài rời chùa Bửu Quang ở Gò Dưa, đến núi nhỏ ở Vũng Tàu tìm nơi
độc cư thiền định. Năm 1969 ngài trở lại về Tổ đình Bửu Quang để tiếp tục sự nghiệp tu
hành. Tháng 12 năm 1974, ngài theo lời thỉnh cầu của ban trị Sự Thích Ca Phật đài ở Vũng
Tàu tới đó để hoằng pháp. Năm 1975-76 ngài du hành xuống Tô Châu, Hà Tiên , Rạch
Giá.
Năm 1977 - 80, ngài trở lại Tổ Đình Bửu Quang để tu. Sau đó đến lúc mất ngài
sống hạnh độc cư, trì bình khất thực tại cốc Bình Thủy, gò Dưa , Thủ Đức. Và ngài an
nhiên thị tịch khi ngồi thiền định vào lúc 9 giờ ngày thứ tư, 27 tháng 1 năm 1993 (tức
mùng 5 tháng giêng, năm Quí Dậu)
Từ khi xuẩt gia ngài luôn thực hành pháp hạnh đầu đà khẩt thực, và nguyện không
nằm. Ngài giử hạnh tri túc, thường ít nhận tứ sự cúng dường của chư Tăng và Phật tử.
Ngài thông suốt nhiều ngoại ngữ như tiếng Pháp, Anh, Thái, Khơmer, Pali.
Ngài Soạn dịch nhiều kinh điển : như bộ chủ giải kinh Pháp cú, Sưu tập kệ Pali.
Trước tác nhiểu tác phẩm: Sổ tức quán thực tập, Lâm tuyển pháp, Cổng vào Niểt Bàn,
Chiển Sĩ thượng thặng, Ba cách làm phước, Việc tập tâm, Tứ oai nghi, Hạnh nguyện bồ
tát, Siêu pháp tiểt chế tình dục, Tùy bút pháp hành, Thiền luận, Kệ kinh Tam Bảo Pali, . .
Bản thảo tôi có được của cố thiền sư Pháp Minh do một người bạn đưa thì chỉ có
một phần, vì đây là quà tặng của cố thiền sư Pháp Minh cho thân sinh của vị đó – theo lời
vị đó nói. Nhân duyên đưa đẩy, nên tôi xin lược dịch tiếp từ bản tiếngAnh, để hoàn thành.
Tôi nghĩ cố đại đức thiền sư Pháp Minh khi dịch, thì ngài cũng là muốn cho đọc giả
thưởng thức một tác phẩm hay của Phật giáo.
Tôi hoàn thành tiếp việc lược dịch, những sai sót chắc là có là vì khả năng hạn hẹp
của tôi trong ngôn ngữ , xin người đọc tha thứ. Tôi cũng thành tâm xin sám hối nểu có
điều gì không phải thì do vô rninh không biết mà gây, chớ không chủ ý.
Nguyện xin Phật Pháp được trường tồn. Chúng Sinh an Iạc


Rocky Mountain
Thạch Sơn
2004


NHỮNG NĂM ĐẦU

Thầy Đại đức (Phra Acharn 1 ) Mahn Bhūridatta, sanh vào trong một gia đình Phật giáo vào thứ năm ngày 20 tháng 1 năm mùi, Phật lịch 2413 (năm 1870), tại làng Ban Khambong, quận KhongJiam thuộc tỉnh Ubon Ratchathani. Cha ngài là ông Khamduang, và mẹ ngài là bà Jun (Dung) họ Kaenkaew. Là anh cả trong 8 người con trong gia đình, tuy nhiên khi ngài khuất bóng thì chỉ có 2 người em còn sống mà thôi. Ngài là con đầu lòng, nhỏ thó , nước da trắng hồng. Ngài nhanh nhẹn và tráng kiện lại vừa thông minh, ngay từ thuở nhỏ. Đến năm 15 tuổi, ngài xuất gia tu Sa di , ở chùa làng Khambong. Nhờ ngài hâm mộ việc học hỏi Dhamma (pháp), cho nên không bao lâu ngài thuộc lầu những bài kinh của thầy ngài dạy. Tánh tình và hạnh kiểm của ngài củng đáng tín nhiệm, không bao giờ gây rắc rối cho bạn bè và bậc trưởng thượng.
Nhưng, hai năm sau khi xuất gia tu sa di, ngài phải hoàn tục, để đáp lại lời thỉnh cầu của cha ngài đang cần đến ngài phụ giúp trong gia đình. Nhưng nếp sống thanh bạch đã có ảnh hưởng xâu xa trong tâm hồn ngài. Ngài không bao giờ quên nó được. Cho nên ngài lập chí nguyện sớm muộn gì ngài cũng sẻ trở lại đường tu. Đây rất có thể là mảnh lực của một đức tin bất thối chuyển, hoặc Saddhā (chánh tín) đã được gắn chặt vào tâm tánh ngài.
Về sau, khi ngài 22 tuổi, tiếng gọi của đời tu phạm hạnh có vẻ thúc giục thiết tha. Ngài bèn cáo biệt song thân. Hai ông bà cũng sẳn lòng chấp thuận và sốt sắng lo liệu việc ngài xuất gia tu lên Tỳ Khưu. Hai ông bà thỏa thích chuẩn bị nhu dụng của Tỳ Khưu cho ngài, rối đưa ngài đi xuất gia tại chùa Liap trong thành phố của tỉnh Ubon Ratchathani. Có đại đức Phra Ariyakawi là thầy tế độ (Upajjhāya), đại đức Pha Khru Sitha là thầy Kiết ma ( Kammavācariya), và đại đức Phra Khru Prajuk Ubonkhun là thầy chỉ dẩn (anusāsanācariya) vào ngày 12 tháng 6 dương lịch (năm 2436 Phật lịch). Sau lể xuất gia, ngài có pháp danh là Tỳ khưu Bhūridatta 2. Xuất gia rồi ngài chăm lo học thiền Minh sát ( Vipassanā) với đại đức Sao 3 tại chùa Liap.


ĐIỀM MỘNG TIÊN TRI

Lúc mới khởi sự hành thiền minh sát với Thầy đại đức Sao, ngài Bhūridatta đã chọn pháp môn niệm Phật làm đề mục thiền quán mà ngài thích nhất. Ban đầu, không đem đến cho ngài sự tịnh lạc, an vui theo ý nguyện khiến cho lắm lúc ngài hoài nghi giá trị của nó. Nhưng ngài bền chí gia công niệm mãi, và cuối cùng, ngài đã đạt được một độ nhất tâm và hưởng được sự an vui tịnh lạc quá sức hy vọng của ngài.
Thế rồi, một đêm nọ, ngài nằm chiêm bao: Ngài mơ thấy mình đi ra khỏi cổng làng, băng ngang một khu rừng rậm, có nhiều chổ cây cối mọc chi chít, chằng chịt, không chừa một lối đi. Nhưng ngài ráng sức vượt qua tất cả chướng ngại và sau cùng thoát ra khỏi khu rừng, để thấy một cánh đồng không mông quạnh, thẳng tắp tới tận chân trời, ngài lại tiếp tục cuộc hành trình với những nổ lực không ngừng.


1. Phra Acharn : Thầy đại đức ; tiếng Thái, dùng để tôn kính gọi Tăng
2. Bhūridatta : (có nghĩa là nhiều trí tuệ) là tên của vị Bồ tát, tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thực hành hạnh Ba la mật. Vì bồ tát muốn thoát kiếp làm rồng nên lên nhân gian thực hành tu bát quan trai giới, và tu thập thiện giới. Và Ngài đã phát nguyện rằng: "Kẻ nào mong được da, thịt, máu và xương trong thân thể ta, thì tùy sở thích". Do đó, tuy bị thầy rắn làm khổ sở đau đớn, nhưng thay vì dùng oai lực thần thông của mình để bảo vệ mình Ngài lại chấp nhận mọi sự khổ đau để giử lời nguyện, và thực hành được xâu xa pháp nhẩn nhục Ba la mật (Khanti pāramī).
3. Thầy Đại đức Sao Kantasīlo (1859-1942) : là người sanh ở tỉnh Ubon Ratchathani. Là vị thầy hướng dẩn giới thiệu ngài pháp tu thiền đề mục hay thiền nghiệp xứ (kamma-ţţhāna):
Dọc đường, ngài gặp một cây đại thọ nằm chắn ngang lối đi. Cây nầy thổ ngử Thái gọi là Jāt 4 (hay cây Sanh). Thân cây rất to lớn, bị hạ đã nhiều năm qua, hiện còn nằm lún dưới đất một phần, vỏ và ruột đã mục nát hiện rõ nên ngoài. Ngài bèn trèo lên đi trên thân cây mục ấy, và quán sát thấy rỏ là nó đã hết phương mọc lại được nữa rồi. Khi ấy, ngài biết rằng sự sanh của ngài trong vòng tử sanh sẻ phải chấm dứt. Thân cây Jāti (sanh) ngã nằm đây ngài xem như những kiếp sanh của ngài trong vòng luân hồi. Thân cây đã hết phương mọc được tượng trưng cho sự sanh của ngài lần này sè là lần cuối, nếu ngài kiên tâm nổ lực không ngừng. Còn cánh đồng bao la, rộng khắp bốn phương trời, tượng trưng cho cái vòng tử sanh bất tận.
Ngài còn đang đứng trầm ngâm quán sát những nghĩa lý nầy thì bổng hiện ra một con ngựa kim màu trắng to lớn đi về phía ngài và đứng bên thân cây sanh. Tự nhiên ngài mong muốn cỡi nó. thế là ngài lên ngựa, và nó tức khắc phi nước đại chạy đi. Ngài không có ý quyết định đi đâu hoặc làm gì cả, chỉ biết là mình đã đi được một quãng đường rất xa, trong cánh đồng mênh mông vô cùng tận. Trên đường, ngài nhìn thấy một cái tủ lộng lẩy chạm bạc công phu trong có chứa một bộ Tam tạng kinh. Dường như chiều theo ý ngài, con ngựa đưa ngài đến trước tủ đựng Kinh. Ngài xuống ngựa với mục đích là mở cửa tủ Kinh, thì lập tức con ngựa biến mất. khi ngài bước tới thì lại thấy chổ đang đứng là bìa một khu rừng rậm hoang vu, mịt mù khói tỏa, đầy gai góc, lùm bụi xoắn chặt nhau không thấy lối đi. Khi ấy ngài định mở cửa tủ Kinh để xem thì ngài thức dậy.
Điềm tâm ảnh (Nimitta) nầy khiến cho ngài tin chắc rằng ngài sẻ có thể đạt đạo, chứng quả trong hiện kiếp, nếu như ngài không bỏ dở dang những nổ lực của ngài. Từ đó trở đi ngài càng tinh chuyên trì niệm danh hiệu Phật trong mọi lúc.
Đồng thời ngài nghiêm trì những hạnh đầu đà mà ngài chấp thọ từ lúc thọ Tỳ Khưu, nghiêm chỉnh thực hành cho đến lúc mất.
Đó là những hạnh :1.Mặc y phấn tảo, từ chối những y dâng đến tận tay _ 2. Đi bát hằng ngày không sót, trừ những ngày phát nguyện nhịn ăn _ 3. Không thọ vật thực đem đến sau _4. Chỉ thọ vật thực để trong bát khi ngài đi trì bình _5.Mổi ngày chỉ ăn một bửa, và độ trong bát _6. Chỉ mặc Tam y – ngài có dùng khăn mặt (dùng để lau thân mà đó là điều cần thiết trong thời đại nầy _7. Ngụ trong rừng, có nghĩa sống và ngủ trong rừng hay nơi hoang dã trong hang núi, hoặc dưới hòn đá cheo leo (trừ ra khi có người thỉnh ngài vào tỉnh thành trong một thời gian ngắn).
Ngoài ra đôi lúc khi ngài có thể ngài cũng thọ thêm những hạnh khác trong 13 hạnh đầu đà. Tuy nhiên trong suốt cuộc đời ngài đã nghiêm trì 7 hạnh đầu đà trên và đó trở thành nhân cách sinh hoạt thường ngày, và khó có thể tìm được người như vậy.
Ngài luôn lôn kiên trì và quả quyết không bao giờ đổi ý trong bất cứ việc gì mà ngài đã quan tâm nghĩ tới, dầu là pháp hành bên ngoài (hạnh đầu đà , v. v..) hoặc hoạt động nội tâm (Minh sát).
Đời sống của ngài là sự hoàn toàn dùng cho mục đích giải thoát, với những nổ lực xả ly liên tục trong việc tiêu trừ phiền não bên trong. Có rất ít dịp may cho tánh cống cao ngã mạn lẻn được vào tâm trí ngài, mặc dầu thật tế , lúc bấy giờ ngài vẩn còn là hạng phàm phu như bao nhiêu người khác. Nhưng , ngài khác hẳn họ ở chổ : thay vì để tâm bay nhảy tự do, bị phiền não sai sử thì ngài thường trực ở trong tỉnh thức, phòng ngừa các thứ phiền não, và luôn khởi chiến và tấn công nó một cách can đảm. Điều nầy, về sau , ngài có thuật lại chúng tôi mới biết.
Sau đó khi tâm ngài đã được thiết lập vững vàng, tiện dụng cho việc suy tư quán xét, ngài mới hồi tưởng đến điềm chiêm bao khi trước và dần dần hiểu rõ : nếp sống của một gia chủ, là nơi tụ tập của tất cả mọi thứ khổ, giống như khu rừng già là nơi chứa chấp mọi thứ tai nạn. Trái lại , nếp sống phạm hạnh tu theo pháp Phật , chuyễn hóa tâm thức khỏi thế giới độc hại hiểm nguy tới một khoảng không bao la là cảnh giới của sự an lạc, thoát khỏi những sợ hải, đau khổ .


4. Tương tự trong tiếng Pali là Jati nghĩa là sanh, (gồm luôn sự chết )
Còn con bạch mã cao lớn ngài cỡi chính là đường lối tu theo pháp Phật, là đường đạo giải thoát, nhờ nó mà đưa ngài đến nơi tự tại. Và khi gặp tủ bạc chạm trổ công phu, chứa Tam tạng kinh mà chỉ có thể nhìn, vì lẽ ngài còn bất toàn, nên chưa đủ khả năng học hiểu trọn cả bộ Tam Tạng, do đó ngài không thông suốt về mặt văn hóa của Phật giáo, như vậy ngài không trọn vẹn đạt tuệ thuộc về bốn loại đó là : 4 vô ngại biện tài 5 , cần thiết cho một vị pháp sư biện tài vô ngại, thông suốt nghĩa lý và phương pháp giáo hóa, có trí tuệ cao sâu như trời biển, khả dĩ làm thầy của tất cả chúng sanh trong tam giới 6. Theo lời ngài, thì ngài chưa đầy đủ pháp ba la mật để đạt được mục đích nầy, và đó là lý do khiến cho ngài chỉ được nhìn bên ngoài tủ kinh Tam tạng chứ không mở đọc thông suốt toàn bộ giáo lý bên trong. Ngài tiếp lời rằng : ”Khả năng dạy dỗ người khác của ngài chỉ có thể xem như là sơ đẳng hoặc nhập môn để chuyển tiếp tới những pháp tu cao hơn “. Về sự kiện nầy dầu cho nó hiển nhiên chăng nữa, thì đối với các đệ tử thân tín đã được học hỏi, và tu hành dưới sự hướng dẩn của ngài, thì có một việc rõ ràng là mổi đề tài giảng đạo, thuyết pháp của ngài đều phi thường và cảm kích làm sao, thật không thể dùng lời nào mà tả cho xiết ! Ở thời đại mới, người ta biết tìm đâu ra một lối giảng dạy Dhamma ăn sâu vào tâm thức mà không bao giờ quên được ?
LINH ẢNH TRONG THIỀN ĐỊNH

Trong thời gian ngài đang tham thiền, với đề mục niệm Phật (Buddho) ở tại chùa Liap. có một hôm tâm ngài lắng dịu và một linh ảnh hiện ra : trước mặt ngài, một tử thi thúi rục, sình chương, bị những con thú ăn dơ như là kên kên, quạ và chó tranh nhau sâu xé . .. và không bao lâu, tử thi ấy bị rứt ra từng mảnh, rải đi khắp cả mặt đất chung quanh, thấy vậy ngài xúc động mảnh liệt, vừa nhờm gớm, vừa mõi mệt. Sau khi tâm ngài rút ra khỏi từng thiền, ngài kềm giử cái linh ảnh trong tuệ nhản của ngài làm đề mục chánh trong mọi lúc cả ngày lẩn đêm, trong bốn oai nghi : đi, đứng, nằm, ngồi . Ngài tiếp tục quán tưởng cho đến một ngày kia, hình ảnh tử thi đó biến thành ra một cái đĩa tròn trong suốt lơ lững trước mặt, quán cái đĩa nầy lâu thì thấy hiện ra đủ thứ cảnh vật khác nhau, những hình ảnh không ngớt thay đổi liền liền, chắc là kết quả của tánh hiếu kỳ của ngài đang khao khát muốn coi thử cái gì sẻ tiếp theo. Có lúc, hình như ngài đang trèo lên những hòn núi cao, kế đó ngài lại thấy mình cầm một thanh kiếm và mang một đôi hia, rồi đi bách bộ trên núi, một lúc khác, trước mặt ngài bổng hiện ra một bức tường cao lớn có một cánh cửa, ngài mở cửa ra nhìn thấy một vài vị Tỳ Khưu đang tham thiền phía bên trong.
Kế đó, phong cảnh mở rộng ra cho thấy những sườn núi cheo leo và hang đá gần đâu đó, trong vài cái hang lại có đạo sĩ ẩn cư. Lại một lúc khác nữa, ngài thấy món đồ giống như cái nôi hoặc cái thúng từ sườn núi thòng xuống.


5. Catu Paţisambhidā : Bốn tuệ vô ngại biện tài: 1. Biện tài về nghĩa ( attha-Paţisambhidā) trí về nghĩa: là biện tài giảng dạy minh bạch một giáo lý vắn tắt, có khả năng dự đoán tiên tri những hậu quả, quán thấy chuyện vị lai. Ngài Ca Chiên Diên (Katyayāna) là vị đệ nhất về nghĩa đế. 2. Biện tài về pháp (Dhamma-Patisambhida) trí biết về pháp: là khả năng ngược lại biện tài về nghĩa, có khả năng tóm gọm những chi tiết phức tạp, và mô tả dài dòng, để cho dễ nhắc sơ qua và ghi nhớ, quán thấy chuyện quá khứ. 3.Biện tài về ngôn từ (Nirutti- Paţisambhidā) trí biết về tất cả ngôn ngử , văn tự để trình bày pháp và nghĩa 4. Biện tài về trí (Paṭibhāna- Paţisambhidā) trí biết về các loại trí hoặc biện thuyết vô ngại: là thông suốt cách trình bày và giảng thuyết cho thích ứng với mọi trường hợp.biết áp dụng các phương tiện thiện xảo cho từng trường hợp. có khả năng giải quyết ổn thỏa một tình trạng khủng hoảng hay biến cố bất ngờ.
6. Tam giới : Là ba cõi sinh tữ : 1. Dục (có nam nữ dâm dục), 2. Sắc (không có nam nữ , tâm của chúng sanh nhập định hữu sắc, nghĩa là đề mục thiển định là vật hữu hình) và 3. Vô Sắc giới (không có sắc thân chỉ có thần thức, tâm của những chúng sanh đã nhập định vô sắc : nghĩa là đề mục không phải là vật hữu hình).
Ngài thấy mình bước vào trong cái thúng ấy và được nhấc lên khỏi vực thẳm để thấy một chiếc thuyền to trên đó, trong thuyền có cái bàn vuông. Khi ấy, hòn núi bật sáng lên vì có ánh sáng phía sau nó. Và sao đó ngài lại thấy mình độ cơm trên đỉnh núi đó nữa. Đó là cách phong cảnh đổi thay biến hiện liền liền trước mặt ngài, như phim chớp bóng, chứ không dẩn ngài tới đâu cả.
Ròng rả ba tháng trường, cứ hể ngồi thiền nhập định là ngài toàn thấy những cảnh tượng không đâu ra đâu, biến hiện không ngừng, không biết đến bao giờ mới dứt. Còn kết quả nội tâm thì chẳng có chi đích đáng cả. Sau những thời tọa thiền kiểu đó, thì tâm ngài trở nên xúc động mạnh đối với hình ảnh và âm thanh bên ngoài. Khiến cho ngài khi vui, khi buồn khi thì thích điều nầy, khi thì ghét điều kia. Hiển nhiên là ngài không thể giử được tâm bình đẳng, điềm tĩnh bằng cách ấy.
Bấy giờ ngài tĩnh ngộ, tin chắc rằng đó không phải là chánh đạo đưa đến giải thoát. Nếu nó đúng thì tại sao không thể kiên định giử được trạng thái an nhiên, tự tại của tâm. Ngược lại tâm ngài lại bị phân tán, dao động trước những sắc bên ngoài mà tâm tiếp xúc – cũng giống như người bình thường không có tu tập gì cả . Rồi ngài kết luật rằng : “chắc chắn là việc săn đuổi, hoặc sự chú tâm hướng theo cảnh bên ngoài, là nghịch với nguyên tắc hành thiền, đoạt mất sự an lạc bên trong do hành thiền mang lại”.


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
Diệu Minh
bài Dec 1 2011, 04:55 PM
Bài viết #2


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,051
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



quyền lực của tâm được gia tăng, nó có vẽ như đã dẹp trừ một số trăm, số ngàn phiền não .chỉ còn sót lại một ít thôi.
Sống sâu trong rừng, thì vị Tỳ khưu phát triển lòng từ bi đối với loài thú, hoặc hiền hoặc dữ, mà không sanh lòng sợ hay dững dưng. Hành giả giác ngộ rằng loài thú cũng như ta, cũng sanh già khổ, bệnh, chết . Loài người chúng ta chỉ hơn loài thú ở chổ biết thiện và ác. Nếu không thì chúng ta cũng chẳng hơn gì loài thú. Chúng ta gọi chúng là thú này, con kia, nhưng lại không biết chúng gọi ta là gì ? Ai mà biết được ? Có lẽ chúng gọi chúng ta là Chằn tinh ăn thịt (đây là lời đại đức nói), là bởi vì chúng ta thích thú trong việc hành hạ, và giết chúng làm thức ăn, hay chỉ để tiêu khiển. Ngay cả trong loài của chúng ta, con người cũng thường sân hận, ghen ghét nhau, hay quấy nhiễu và giết hại nhau. Hậu quả là bản năng của loài thú là cảnh giác đề phòng con người.
Do kinh nghiệm sống trong rừng, mà đại đức thường nói: sống trong rừng mang lại rất nhiều vô số dịp may cho hành giả minh sát tâm và cảnh, và sự liên hệ của nó. Ai mà muốn thoát khổ, thì khi sống trong rừng hành giả sẻ gặp rất nhiều nguồn cảm hứng, khích lệ cho việc giải thoát .
Không còn nghi ngờ gì nữa, rừng là một chiến trường thích hợp cho mọi tầng giác ngộ trong cuộc chiến nội tâm để dứt khổ. Bắt đầu từ chính Đức Phật, Thế Tôn của chúng ta mà sau nầy lời dạy đầu tiên của vị thầy tế độ cho vị tân Tỳ Khưu là hảy chọn cho mình một khu rừng thích hợp cho việc tu hành của mình.
Đại đức thọ trì đúng đắn chi đầu đà nầy cho tới lúc mất, trừ những lúc hoàn cảnh phải làm bớt đi .
7. Ngụ dưới tàng cây.
Là một chi trong hạnh đầu đà , rất gần giống như là sống trong rừng. Theo lời đại đức thì cái hôm ngài chuyển hóa được thế giới, đắc quả thì là lúc ngài đang ở dưới tàn cây, câu chuyện nầy sẽ được đề cập tới ở phần sau.
Cách sống mà duy nhất chỉ nhờ tàn cây làm mái che nắng, mưa, che chở thì đó là một cuộc sống nội tâm. Tâm luôn luôn ở tình trạng tập trung (có chánh niệm) và nổ lực xả ly được tăng cường.
Nhờ chánh niệm vững chắc vào Tứ Niệm Xứ : Thân, Thọ, Tâm, và pháp . Cùng với Tứ Diệu Đế : Khổ , Tập , Diệt và Đạo, cộng lại. Những yếu tố nầy là một sự bảo vệ vững chắc, hiệu quả nhất cho việc chiến đấu với phiền não. Vị Tăng nào muốn thật sự hiểu mình và tìm những cách tu an toàn đúng dắn, thì hảy tìm một nơi thích hợp và đề mục thiền quán thích hợp và gắng hết sức tu tập thì sẻ nhanh chóng đạt được kết quả. Kể từ Đức Phật, phép đầu đà ngụ ở dươi tàn cây là một nơi thích hợp cho việc thiền quán dẹp trừ phiền não.
8. Ở nơi mộ địa.
Là một phép tu khổ hạnh nhắc nhở Tăng cũng như cư sĩ không được giải đãi. Đa số trong chúng ta ít nghĩ về cái chết đang dần tới mình. Thật sự là chúng ta đăng từng chập đi dần tới sự chết. Chúng ta quên lãng, hay vô tình mà cách sống như thể thần chết không bao giờ dám đụng tới ta. Ai mà có khả năng làm được chuyện đó ?
Hảy nghĩ xem đã có bao nhiêu người sống bình thường đã bị đưa tới nghĩa trang ? Những thi thể nằm đầy trên các giàn hỏa, hoặc dưới những nấm mồ , trước đã là những người sống, nay phải im lặng riu ríu bị thần chết dẩn đi, không thể kháng cự được, chúng ta rồi cũng sẻ y như vậy.
Hành giả phải nên tự dạy mình bằng cách viếng thăm nghĩa địa, để quán xét cái khổ của cái chết và sự thật nằm trong sự tử sanh .
Hành giả nào mà thường xuyên thăm mộ địa – nghĩa địa bên ngoài thân và nghĩa địa bên trong trong thân, thì sẻ nhanh chóng làm suy giảm cái kiêu hảnh là ta còn trẻ, còn mạnh khẽo , còn sung túc. Hành giả ấy sẻ không bị sự cống cao ngã mạn che lấp, có khuynh hướng nhìn thấy lổi mình và lo sữa đổi, hơn là tìm thấy lổi người khác, và vạch trần ra với ác ý. Việc nầy phần đông người đời có thói quen tích lũy, nó chỉ làm tăng số dự trử những điều ác của mình mà thôi. Bất hạnh thay, nó là bịnh nan y, khó chửa nhất , nhưng lại dễ lây.
Nghĩa địa là nơi họp mặt đông đủ lớn nhất của dân chúng, bất luận tuổi tác, giai cấp, địa vị và quốc tịch, không ai có phương tiện để vượt qua khỏi nó, thoát khỏi sự kềm tõa của Ma vương, thần chết, trừ ra hành theo chánh đạo của đức Phật và chư Thanh Văn đệ tử đã hành. Nhưng việc nầy không thể thiếu sự học hỏi sâu rộng thông suốt trong “trường đại học” sanh, lão , bịnh, tử , như chính đức Phật và các thánh đệ tử của ngài đã từng học qua. Nếu chỉ tới đại học đường nầy khi sắp bỏ hơi thở cuối cùng thì đã quá trể , chỉ còn có hai sự chọn lựa là thiêu hay đem chôn mà thôi. Việc giử giới, tạo công đức, hay tu thiền thì không cách nào làm được nữa.
Đại đức Mân biết rõ sự lợi lạc của việc đi thăm nghịa địa . Là nơi rèn tập cho sự can đảm dám nhìn ngay vào những chân lý. Đại đức thường khuyến khích sự viếng thăm mộ địa , cả bên ngoài lẫn bên trong.
Một trong những đệ tử của ngài rất sợ ma, mà cũng anh dũng gắng sức theo gương Thầy. Người ta không nghĩ rằng người Tu sợ ma, cũng như Phật pháp mà sợ pháp thế tục. Nhưng có một vị Tăng đã sợ ma.




CHUYệN Vị TỲ KHƯU SỢ MA

Câu chuyện sau đây , do chính đại đức Mân kể lại:
Có một vị Tăng trên đường vân du hành dạo, một hôm vào xế chiều tới một khu làng, hỏi thăm dân địa phương nhờ chỉ dùm một cánh rừng thích hợp gần đó. Người ta đưa vị ấy tới chổ ngụ, nhưng không cho biết rằng chổ ấy giáp ranh với một nghĩa địa. Đêm đầu tiên vị Tỳ Khưu ấy nghỉ rất yên tịnh. Nhưng ngay ngày hôm sau, vị ấy thấy dân làng khiêng một tử thi đi ngang qua đó. Một lát sau, họ thiêu xác chết trên giàn hỏa, cách độ không xa, và trong tầm nhìn của vị Tỳ Khưu ấy. Lúc mới thấy chiếc quan tài khiêng ngang qua vị ấy đã thấy khó chịu bất an rồi. Nhưng nghĩ rằng họ đem đi nơi khác. Nay biết được chổ ở của mình là ngay sát nghĩa địa, và tận mắt thấy người chết bị đem thiêu, thì vị ấy lại càng bất an, lo sợ. Sợ đến nổi vị ấy gần như nghẹt thở và điếng người như là sắp chết vậy. Câu chuyện nầy được kể lại nơi đây ngõ hầu cho chúng ta thấy ban đầu nỗi sợ của vị ấy to lớn như thế nào, và cuối cùng vị ấy trở nên can đảm như sao. Do đó, nó có thể là một bài học cho những người “đồng cảnh ngộ”
Khi dân làng ra về hết, vị Tỳ khưu ở lại một mình bị cái sợ ám ảnh dày vò. Phép tụng kinh, phép tham thiền cũng chẳng giúp cho vị ấy bớt sợ được mảy may nào . Mổi khi nhắm mắt là vị ấy thấy hiện ra một hàng dãi những bóng ma diễn hành , kéo đến thăm mình . Lủ ma đông vô số kể, luôn luôn có những bộ mặt lạ hiện trong tâm ảnh của vị ấy. Khiến cho vị Tỳ Khưu kinh hoàng, khiếp vía.
Từ lúc xuất gia tời giờ vị ấy chưa bao giờ kinh nghiệm, mục kích những hình ảnh ma quái lâu trong tâm như vậy. Nhưng cũng còn chánh niệm mà nghĩ rằng : Cái cảnh ma diễn hành, là do trí tưởng tưởng của ta tạo ra, chỉ là hư vọng mà thôi.
Một vị Tỳ Khưu đầu đà thường có tiếng là vô úy, dám đương đầu với thần chết và các hiểm họa khác, nên vị ấy lại nghĩ rằng : “Mình là một trong số các sư đầu đà, tại sao mình lại sợ ma một cách đáng hổ thẹn như vậy chứ ? Thật là không xứng danh là một Tỳ Khưu. Làm nhơ danh các vị Tỳ Khưu đầu đà khác. Tại sao ta lại hành xử như vậy ? Thật là xấu hổ.”
Được khích lệ bởi những đức hạnh của một Tỳ Khưu đầu đà, vị ấy nhất định buộc mình đối đầu với cái sợ. Hình ảnh cái xác bị thiêu rụi làm cho kinh hoàng, nên vị ấy đắp y định đi tới chổ thiêu xác, mà từ xa đã thấy tàn lữa chập chờn. Nhưng chỉ đi vài bước rồi hai chân của vị ấy như bị dính chặt vào đất, tim của vị ấy đập rầm rầm như sấm nổ, và mình vị ấy toát ra mồ hôi như tắm, như đang ở giữa trưa hè. Thấy không xong, Vị ấy vội rảo bước nhanh, không cho phép mình đứng lại nữa. Việc nầy bắt buộc hành giả phải có một mức độ tập trung cao độ để thắng phục sự run rẩy của thân và tâm.
Tuy run rẩy từng bước vì sợ nhưng vị ấy cũng đến gần cái thây đã bị thiêu cháy. Tưởng đã hết sợ, nhưng cái sợ tiềm ẩn đã làm vị ấy muốn sỉu ngay tại chổ. Quá sợ đến muốn bỏ chạy, nhưng một lần nữa vị ấy còn làm chủ được tâm ,và can đảm nhìn lên cái xác bị thiêu rụi. Khi thấy cái xương xọ cháy trắng xóa vì bị lửa táp từ lâu, vị ấy cảm như mình sắp ngã ra chết giấc ngay khi ấy.
Nhưng đến phút cuối mãnh lực của ý chí đến tiếp cứu vị ấy. Vị Tỳ Khưu ấy đè nén nỗi sợ hãi, ngồi xuống đối diện với cái tử thi, lấy đó làm đề mục cho sự tham thiền. Vị ấy bắt cái tâm đang hồi hộp phải tụng bài kệ như sau : Ta đây sẳn sàng chịu chết giống như tử thi nầy. Tai sao ta lại sợ nó ? Ta đây cuối cùng rối cũng phải chết, thì tại sao ta lại sợ một xác chết.?
Lập đi lập lại nhiều lần, bài kệ trên , thì chợt nghe tiếng động, như tiếng chân khi bước khi dừng, dường như đang chuẩn bị tấn công, vị Tỳ Khưu ấy suy tưởng như vậy. Lúc nầy, không còn tham thiền gì nữa, cái sợ đã đến mức tận cùng chỉ muốn đứng dậy bỏ chạy la cầu cứu. Nhưng vị ấy còn do dự lắng nghe, lúc nầy tiếng chân rất gần , chực bỏ chạy nhưng lại nghe tiếng nhai lớn kêu rột rột, Trí tường tượng của vị ấy nghĩ rằng : “Ma quỉ gì đang nhai ăn quanh đây ? chắc chút nữa , nó sẻ nhai đầu của ta.” Chẵng thể chịu đựng được nữa , vị ấy quyết định mở mắt nhìn nếu gặp ma quỉ thì nhanh chân chạy thoát, vì còn giử được mạng sống để sau này tinh tấn tu hành. Tâm nghĩ , thân hành theo, vị ấy mở mắt quay nhìn về phía tiếng động thì đó là con chó trong làng đang ăn những thức ăn bày cúng cho người chết. Thì ra là tiếng nhai, nuốt của con chó giống như tiếng nhai nuốt của quỉ trong trí tưởng tưởng của vị ấy. Nhận thấy điều đó, vị ấy chợt cười cho sự ngu sợ của mình.
Quay nhìn con chó, nó đang ăn một cách say sưa không để ý gì chung quanh. Con chó đã dạy cho vị ấy một bài học quí giá. Vị Tỳ Khưu rất xấu hổ về tính nhát sợ của mình. “ Bất chấp quyết định đối diện với cái sợ, nhưng khi nghe tiếng chó đi tìm ăn thì ta đã sợ mất hồn, may thay ta còn một chút chánh niệm để quán sét nguyên nhân của cái sợ . Nếu không ta đã bỏ chạy như kẻ điên, kêu la cầu cứu. Thật là một điều hổ thẹn. Ta thật không xứng đáng mặc áo vàng, Y của những đệ tử của Như Lai, những bậc chiến sĩ gan dạ kiên cường mà không có ai trên thế giới bì kịp. Làm thế nào đây để chuộc lại lổi lầm nầy. Không có Tăng nào tệ hại như mình. Thật là điều xấu hổ cho Tăng đoàn.” Tự khiển trách như vậy, và vị ấy quyết định lập nguyện như sau :
“Ta nguyện ở nơi đây cho tới lúc nào hàng phục được tính sợ ma của ta. Nếu ta phải chết trước, thì hảy như vậy. Nếu sống mà không chiến thắng được nổi sợ nầy thi còn đáng sống chi nữa. Sống chỉ làm ô nhục cho Phật giáo mà thôi, chỉ làm tấm gương xấu cho kẻ vô dụng mà thôi”.
Sau khi thệ nguyện như vậy, vị Tỳ Khưu ấy ở ngay tại nghĩa địa, ngày đêm quán tử thi và so sánh xác tử thi với xác thân mình. Biết rằng thân thể ai cũng cùng cấu tạo bởi Tứ dại, Khi tâm thức còn thì tứ đại được duy trì, tâm thức rời khi tứ đại tan rã.
Khi nghĩ về sự kiện tưởng chó ra ma, vị ấy nghỉ : “Kinh Phật thường nói Tưởng là một nhà ảo thuật đại tài, giờ đây ta mới thật sự biết được, mới biết sự hôi thối của cái thân đang chết nầy. Tánh sợ ma của ta chỉ là sự lừa đảo của Tưởng mà thôi (Saddhā ) . Từ giờ trở đi Tưởng sẻ không lừa được ta nữa . Ta sẻ ở nơi đây khi nào tưởng bị tiêu diệt và được chôn nơi đây. Giờ đây là công việc chính của ta.”
Từ đó trở đi, lúc nào ý tưởng sợ ma nổi dậy, vị đó trực diện đối dầu với nó. Và từ chổ sợ ma vị ấy chuyễn thành một bài học Pháp lợi lạc lớn.

9. Chỉ mặc Ba Y.
Đây là một trong những hạnh đầu đà. Đại đức Mân nghiêm trì hạnh nầy cho tới lúc già . Chỉ khi sức khẻo suy kém, ngài mới giảm bớt việc hành trì hạnh nầy. Thuở đó, Vị Tỳ Khưu đầu đà ít khi ở lâu một chổ , trừ khi an cư kiết hạ trong 3 tháng mùa mưa. Do việc du hành bằng cách đi bộ cho nên Tỳ Khưu chỉ mang những vật dụng cần thiết thôi, và tự mình phải mang, cho nên không vị nào mang nhiều đồ , khi gặp ai cúng dường vật dụng các vị đó cho các vị tăng khác.
Cái đẹp của vị Tỳ Khưu đầu đà là sống đơn giản và hành trì nghiêm mật. Khi đại đức mất, ngài chỉ để lại tám thứ cần thiết cho vị Tăng đầu đà : Tam Y, bình bát, dây lưng, dao cạo, kim và đồ lọc nước. Lúc sống thì ngài sống vương giả trong cái nghèo của vị Tỳ Khưu, lúc chết ra đi không có bất cứ một sự gắn bó, quyến luyến nào cả. Loài trời , người thường ca ngợi những vị Tăng như vậy : sống trong sự nghèo nàn cao quí, và không có sự ràng buộc của những việc thế gian.
Ngài cẩn thận trì hạnh nầy rất điêu luyện và thành thạo mà đời nầy khó thấy ai thực hiện được. Ngài cũng rõ ràng trình bày quan điểm của mình đối với ai muốn theo học nơi ngài là phải sống một cuộc sống khổ hạnh. Ngài thường chỉ dẩn các đệ tử tới những nơi hoang vu, đáng sợ như các khu rừng rậm, núi cao, hang động, gò hoang, ... .
Trên đường du hóa, khi ngài ở đâu một thời gian ngắn, là như thõi nam châm, một số lớn Tỳ Khưu tự động tới ở với ngài. Thường thì ngài thành lập một tự viện tạm thời ở trong rừng cho khoảng 60 tơi 70 vị Tỳ Khưu , nếu số đông hơn thì ngài chỉ định thành lập một tự viện khác cũng ở trong rừng cách khoảng khá xa, vì theo ngài đông quá sẽ không tốt cho việc tu tập, nhưng cũng không xa quá vì khi cần các đệ tử có thể dể dàng tới hỏi ý kiến, học hỏi nơi ngài khi gặp vấn đề nan giải.
Vào những ngày Bố Tát (ngày Phát Lồ sám hối), khi giới được tụng xong thì ngài nói pháp và trả lời thắc mắc cho các đệ tử trong việc tu hành. Cho tới khi không còn ai hỏi nữa mới thôi. Rồi thì ai nấy trở về trụ xứ của mình.
Đôi khi có một số đông Tỳ Khưu ở với ngài, tuy vậy họ rất hòa hợp, vì ai cũng đã chuẫn bị thực hành theo những điều ngài chỉ dạy. Chỉ thấy đông lúc thọ thực, còn các thời khác thì tu viện vắng vẻ không thấy ai, vì các Tỳ Khưu ai nấy đều về chổ ngụ trong rừng của mình.
Ngài thường tập họp chúng lại vào buổi tối để giảng pháp. Lúc đó thì chỉ có tiếng ngài ban pháp cho đệ tử , họ chăm chú lắng nghe, Pháp được chuyền từ Thầy vào trò, các đệ tử hoan lạc nghe pháp như đang uống nước cam lộ quí hiếm. Ngoài các Tỳ Khưu đầu đà , đôi khi còn có các vị trời xuống nghe pháp.
Ngài chăm lo hướng dẩn tinh thần của đệ tử đúng nghĩa là một vị Thầy, cho nên các đệ tử kính ngưỡng ngài : Họ coi ngài là mạch sống của đời sống tu hành của họ. Họ có thể chết vì ngài. Gương ngài A Nan Đà (Ananda) là một thí dụ cho việc tín tâm của đệ tử vào người Thầy : Ngài đã chạy ra chặn ngang đứng giữa Đức phật và con voi say mà Đề Bà Đạt Đa thả ra để hại đức Phật.
Khi đại đức khuyên đệ tử làm điều gì thì họ thi hành ngay, như bảo ai đi đến hang động, khu rừng đó thực tập thì họ không có chút sợ , hay lo âu vì sự nguy hiểm ở chổ lạ mà họ vui vẻ thi hành, tin tưởng rằng họ sẻ tiến bộ khi tu tập tại đó.


TẬP QUÁN, DỊ ĐOAN, PHONG TỤC ĐỊA PHƯƠNG

Thuở ban đầu , khi đại đức Sao và đại đức Mân đi hành đạo ở miền đông bắc, để chỉ dạy cho dân chúng bỏ ác làm lành, tin vào nhân quả, thì tục thờ cúng quỉ thần rất thịnh hành ở đó.
Bất cứ công việc gì cũng đều coi ngày tốt, dù là gieo mạ, làm vườn, xây nhà, xây chòi, .. . Họ phải cúng kiến thần linh trước khi bắt đầu công việc . Khi bệnh thì họ đi thầy phù thủy để trừ tà. Ngay cả khi ho, hỉ nũi, thầy phù thủy cũng sẻ phán rằng: người đó xâm phạm vị thần đó, ma đó nên phải cúng để chữa bệnh. Nếu sau khi cúng mà vẩn chưa khỏi thì cũng không sao, vì khi thầy nói khỏi là dân chúng tin , người bệnh cũng cảm thấy khẻo, nên thời đó người bệnh và Y sĩ khôn hơn bây giờ : Lời của Thầy bùa nói là chắc, người bệnh tin ngay không có nghi ngờ, khỏi cần phải tìm phương thuốc khác.
Khi đại đức Sao và đại đức Mân qua các vùng đó giảng pháp, và những chân lý cho dân chúng thì dần dần phong tục thầy bùa chửa bệnh, tập tục thờ cúng thần linh củng giảm dần. Ngày nay thì hầu như không còn nữa. Nếu có chỉ còn có một số nhỏ rãi rác mà thôi. Phần lớn đều qui y Tam bảo, phần lớn đó cũng là nhờ sự giáo hóa của hai vị đại đức.
Khi đi hoằng pháp dân chúng hỏi đặt nhiều câu hỏi, tuy nhiên tôi chỉ nhớ các câu hỏi sau, nếu có gì không đúng là tại vì thời gian tôi không nhớ chính xác từng lời của ngài nói, vì khi ngay cả khi nhớ lại chính lời của tôi còn đôi khi không chính xác. Thí dụ câu hỏi : “Ma có thiệt không ?” thì ngài trả lời : “ Nếu có gì thật sự hiện hửu trong thế giới , là ma hay gì đi nữa, thì nó thật có cho dù người ta có tin hay không đi nữa , nó vẩn hiện hửu. Và đều chịu chi phối theo qui luật tự nhiên của nó. Đặc tánh của nó không phụ thuộc vào điều người ta có tin hay là không. Nguyên lý nầy áp dụng cho mọi sự việc. Trở lại vấn đề ma quỉ, thì vấn đề mà có người hoài nghi, có người tin. Khi tin thì khi nghe có ma thì làm cho người ta sợ hải, đau khổ. Thường thì những ai không sợ thì không khổ về việc nầy. Đa số thì ma quỉ phần lớn là do tưởng tượng của người ta. Cho nên có hay không, ngay cả bây giờ tôi nói có , thì cũng không đủ chứng cớ để làm cho người hoài nghi tin là có. Bởi vì người ta thường có thói quen không chấp nhận sự thật. Nếu có ai bị bắt tại trận trong việc làm sai quấy thì họ vẩn cãi chối. Hiếm có ai nhìn nhận sự thật. Nói chung người ta thường có cố tật nầy.”
Khi hỏi : Con người từ đâu tới ? Thì ngài trả lời :”Con người ai cũng cần có cha, mẹ mà sinh ra, không ai kỳ diệu sinh ra từ ngọn cây. Hiển nhiên chúng ta ai cũng có cha me sanh ra và được nuôi lớn lên. Nếu như tôi nói rằng con người sanh là do vô minh và chấp hửu. Người ta hoàn toàn không biết rõ vô minh hay chấp thủ là gì, dĩ nhiên chỉ trừ những bậc A La Hán. Vấn đề là chổ không ai thật tình muốn hiểu rõ câu hỏi nầy. Cho nên tôi chỉ nói gọn là chúng ta do cha mẹ sinh ra. Có thể có người phê bình là tôi nói ngắn ngọn bình thường, nhưng rất khó mà nói sự thật cho người mà hỏi cho có lệ chớ chẵng thật tâm nuốn tìm hiểu. Đức Phật Thế Tôn có dạy con người và thú dều do : vô minh duyên hành . . . . Hữu duyên sanh . . . “ Khi sanh chấm dứt thì mọi đau khổ cũng theo đó mà chấm dứt. Các điều kiện nầy vốn có trong tâm của mổi một người còn phiền não. Khi mà sự thật được chấp nhận thì các vị sẽ thấy rõ các nhân duyên chính là điều dẫn dắt chúng sanh làm người hay làm thú trong thế giới nầy. Nguyên nhân chính là Vô minh (Avijjā ) và lòng khao khát , thèm muốn, mà không bao giờ thõa mản được. Mặc dầu chúng ta chưa chết nhưng chúng ta cũng đã tìm một nơi khác để sanh vào và tiếp tục “sống”, đây là điều mà dẫn dắt loài hữa tình luân hồi, làm người làm thú để mà sống khổ. Ai mà muốn biết sự thật thì hảy nhìn vào tâm mình, cái tâm đầy dẫy những loại phiền não đang điên cuồng tìm sự sanh và sống. Chắc chắn người đó sẻ thấy câu trả lời mà không cần phải hỏi ai. Câu hỏi như vậy chỉ phô bày mức độ của vô minh."
Và câu hỏi :”Cái gì gây sự luyến ái giữa nam và nữ, ngay cả trong loài thú cũng vậy, mà không cần ai chỉ dạy ?”. Đại đức trả lời :” Rāgatanhā , lòng đam mê ái dục thì không có ở trong sách vở giáo khoa, hay được nhà trường dạy, mà nó có trong tất cả nam, nữ : một nhân khó trừ, vô tàm, vô quý. Gây cho người ta làm những điều xấu xa, thô tục mà tự họ không biết. Tham luyến ái dục thì ở trong mọi loài nam , nữ , bất kể sang nghèo, thượng lưu , hạ lưu, người hay thú. Nếu nó mạnh thì sẻ gây đại họa cho thế giới . Khi mà tâm chúng ta không đủ sức kềm hảm tánh buông lung của nó thì giống như cơn lũ lụt cuốn trôi tàn phá những gì nó băng ngang. Cái nhân đó luôn tăng trưởng trong loài hữu tình bởi vì nó luôn nhận sự bồi bổ , và cũng cố. Chúng ta ai cũng biết rằng sự tai hại của nạn lũ lụt, nhưng không ai quan tâm tới cái nạn lũ lụt của lòng ái dục nam nữ . Nó tàn phá những cái cao quí của tâm mà ta xây dựng và phát triển. Nó là nguyên nhân chính cho tình trạng xuống dốc của chúng ta. Nếu như không rõ đây là nguyên nhân chính thì chúng ta thật sự sẻ khó mà có sự thõa mản.”
Từ câu hỏi là nguyên nhân sự hấp dẫn giữa nam và nữ thì ngài trong trả lời ngài đã cho biết thêm cái sự tai hại của nó gây ra qua vấn đề yêu thương nghen nghét. Ngài trả lời rằng : Ái dục làm cho giống nam, nữ, hai loài thích nhau, và tìm đến nhau - đây là điều tự nhiên (vì trong loài hữu tình ở cõi Dục nầy đã có nhân mạnh mẽ nầy) Không có cái gì khác. Ái dục sẻ dùng mánh khéo của nó để cho người ta yêu nhau, và từ đó mang tới sự yêu thương , và sân hận. Nó sẻ khiến cho ai thương ai , ghét ai thì người đó sẻ theo như vậy. Đại đức lại hỏi một người gần đó : “Thế ông có bao giờ gây gổ với vợ không ?” Vị ấy trả lời rằng có và rất khó chịu khổ sở, không muốn, nhưng sau đó lại gây nhau nữa . Đại đức tiếp rằng “ Thấy không , đây là bản chất của thế giới nầy, lúc thì thương yêu nhau, lúc khác thì ghét, hận nhau. Ngay cả lúc người ta biết nhưng khó mà sửa trị được. Có bao giờ anh tự muốn sửa đổi không ?” Ngài lại dạy tiếp : “ Do đó trong đời sống vợ chồng, một gắng sức nhỏ cũng đủ ngăn chặn điều nầy . Khi nổi sân hận thì hảy nghĩ tới những điều tốt đẹp đã chung nhau san sẻ trong quá khứ, và tới tương lai chung sống tới lúc già. Khi đó so sánh những điều nầy với sự sân hận thì cũng đủ làm chuyện căng thẳng trở nên bình thường. Chớ để lòng sân hận làm tan nát gia đình mà mọi người thân đều bị ảnh hưởng. Phần lớn con người đi sai là do tính độc đoán. Chẵng biết đúng hay sai họ đều muốn mọi người trong gia đình đều phải nghe theo. Đó là điều khó thể đạt được. Chính lòng kiêu căng ấy mà gây sự sân hận, cơn thịnh nộ làm mọi người trong gia đình đau khổ. Tệ hơn nữa là còn muốn mọi người khác trên thế giới ai cũng nghe theo mình. Giống như chặn sóng dại dương bằng tay không. Do đó trong cách xử sự với chồng, hay vợ, người giúp việc, bạn bè thì phải cho hợp tình hợp lý, sống hài hòa. Chớ sống độc đoán ích kỷ mà hại mình, hại người. Nếu không nghe theo, thì sẻ gánh chịu đau khổ “.


HOẰNG PHÁP

Trong những lúc, khi phải giảng pháp cho một đông thính giả , bao gồm Tỳ Khưu và cả cư sĩ , thì đại đức chia thì thời giờ ra : từ 4 tới 5 giờ chiều cho cư sĩ , còn từ 7 giờ trở đi ngài dùng để giảng pháp cho Tỳ Khưu và Sa Di. Khi xong thì các đệ tử trở về chòi của mình mà thiền định. Chuyến hoằng pháp ở miền đông bắc đầu tiên và lần thứ hai thì ngài theo thời khóa nầy mà dạy đệ tử . Còn chuyến thứ ba và thứ tư sau khi ngài trở về từ Chiang Mai tới Udon Thani, ngài thường thay đổi thời khóa hơn là cắt ngang chương trình hoằng pháp. Tôi sẻ trình bày lý do sau nầy cho đọc giả rõ.
Trọng tâm trong việc giảng dạy là Tỳ Khưu và Sa Di. Ngài đặc biệt quan tâm tới những Tỳ Khưu tiến bộ trong thiền định và có những kinh nghiệm nội tâm sâu và thường có cuộc giáo huấn riêng.
Rất bình thường, vì tùy theo tính tình của mổi người mà kinh nghiệm nội tâm khác nhau. Mặc dù kết quả chung là An lạc và tĩnh. Do sự khác nhau trong cách tu tập mà kết quả, kinh nghiệm thiền định cũng khác nhau. Vài hành giả có khuynh hướng chỉ thấy biết những gì chỉ hiện trong tâm của họ thôi, còn người khác thì còn biết cái thuộc về bên ngoài – như là hình ảnh loài ma, chư thiên. Hình ảnh người hay thú chết trước mặt họ, hay ngay cả xác thân của chính họ hiện ngay trước mặt họ. Tất cả những điều như thế thì người mới tập thiền định rất khó mà phân biệt hư thật. Nếu mà không phân tích rỏ kinh nghiệm thì sẻ nhân lầm cái hư mà cho thật, điều nầy sẻ gây chướng ngại cho sự tiến bộ. Hành giả mà tâm hướng tới những hiện tượng bên ngoài khi nhập định , thì hiếm , thường thì chỉ có 1 trong 20 người, nhưng không nghĩa là không có. Do đó rất quan trọng có được sự hướng dẩn của vị Thầy có kinh nghiệm về thiền.
Đại đức chăm chú lắng nghe kinh nghiệm của đệ tử và cho lời khuyên cho từng vị. Những lời khuyên đầy cảm hứng, và khích lệ . Với từng linh ảnh, ngài giải thích cặn kẻ cho đệ tử cách đối phó, và tu tập. Các Tỳ Khưu chăm chú lắng nghe pháp với khuôn mặt rạng ngời vì sự tin tưởng về pháp , về khả năng của mình. Ngay cả các Tỳ Khưu chưa đạt được các kinh nhiệm sâu trong thiền định cũng cảm hứng và hoan hỉ.
Trong chuyến hoằng pháp lần thứ hai, đại đức lưu lại miền đông bắc nhiều năm. Thường thì ngài không ở một nơi lâu hơn một mùa an cư kiết hạ. Khi mùa an cư xong thì ngài du hành ở miền rừng núi, như cánh chim tự do trong bầu trời rộng lớn. Ngài chỉ biết , và quan tâm đến pháp, chẳng màng đến chổ ở và thực phẩm nuôi thân, ngài hài lòng với những gì xin được, có được. Ngài thích du hành, và sống một mình.
Khi mà ngài dẩn đệ tử đi khuất thực thì trong buổi giảng pháp ngài thường dùng đề tài thú vật mà đoàn khất thực gặp trên đường để giảng giải luật nhân quả cho các đệ tử nghe.
Đại đức thường giảng rằng : chúng ta không nên khinh khi loài vật, vì chúng ở tình trạng tái sinh thấp hơn do phải thọ lảnh nghiệp quả đã gieo trong quá khứ . Thật sự trong vòng luân hồi thì khi nhân duyên đầy đủ thì lúc làm loài vật, lúc làm người. Ngài chỉ rõ những nguyên nhân mạnh mẽ nào đã khiến chúng sanh phải sanh làm thú nầy thú kia, hay được làm người. Những điều nầy có vẻ khó lảnh hội được , nhưng nếu chúng ta không thiện xảo mà giải quyết thì đó là rắc rối lớn của chúng ta.
Trong vài tỉnh ở miền Đông Bắc, vào những dịp đặc biệt ngài thường giảng pháp lúc rất khuya. Chỉ có Đại đức thấy được, những Chư Thiên tập họp lại đứng ở xa nghe pháp. Lúc đó thì đại đức ngưng cuộc thuyết pháp cho các Tỳ Khưu và ngài nhanh chóng nhập định, để mà giảng dạy cho Chư Thiên. Phái đoàn Chư Thiên dè dặt đứng ở xa nghe pháp, là vì họ tôn kính Chư Tăng. Ngài có giải thích rằng : Chư Thiên ở các tầng trời rất cẩn thận tránh bay ngang qua khu vực Tăng ở khi đến gặp ngài vì sợ bất kính với chư Tăng. Khi đến viếng ngài, trước tiên họ đi kinh hành vòng quanh thân ngài 3 vòng , rồi vị Thiên chủ : Bất cứ cõi trời nào cũng đều có vị Thiên chủ , mà mọi vị trời trong cõi đó hết sức tôn kính và vâng lời. Khi đó vị Thiên chủ dẩn đoàn sẽ thông báo cho ngài biết là họ ở cõi nào tới , và đến để yêu cầu ngài giảng pháp về đề tài mà họ mong muốn nghe. Đại đức sẻ chào hỏi họ. Xong ngài hướng tâm tới đề tài đó mà bắt đầu giảng pháp cho các vị trời nghe. Khi mà họ nghe hiểu xong thì đồng thanh nói “Sādhu” (Lành thay !) ba lần , tiếng nói vang dội tới các cõi trời, những lời tán thán này thì chỉ chúng sanh ở cõi trời nghe được mà thôi.
Khi nghe pháp xong họ lại đi kinh hành về phía tay phải quanh ngài ba vòng, xong rồi họ trở lui bay lên trời một cách cao đẹp , mà theo lời đại đức thì dáng điệu uy nghi, thanh nhả mà loài người không thể nào có được , ngay cả Đại đức hay Tăng muốn bắt chước cũng không thể được.
Đó là điều khác nhau giữa tính thô trược của xác thân loài người và thân trong sáng của Chư Thiên. Khi đi ra khỏi khu vực Tăng họ mới nhẹ nhàng thăng hoa lên trời. Lúc xuống thì cũng như vậy. Từ đằng xa đi tới, và họ im lặng thanh tao bước tới, chứ không như loài người ồn ào khi đến gặp chư Tăng. Đây là lảnh vực mà loài người hơn Chư Thiên: Nói năng lớn tiếng. Các Chư Thiên luôn luôn nghiêm trang ngồi nghe pháp, không bao giờ tõ thái độ bất kính đối với vị Tăng đang giảng pháp.
Thường thì Đại đức biết trước những cuộc viếng thăm của loài Trời. Nếu giữa khuya họ tới , thì buổi chiều hôm đó ngài đã biết trước, và thay đổi lịch trình giảng dạy cho thích hợp. Khi gần tới giờ thì ngài ngưng việc đi kinh hành, mà tọa thiền nhập định, ngài ở trong cận hành định để xem Chư Thiên tới chưa, và tiếp tục nhập định cho tới lúc Chư Thiên tới viếng thăm. Khi mà biết họ tới trể khoảng 2 hay 3 giờ sáng, thì ngài xả thiền đi nghỉ và dậy trước một lúc mà tiếp Chư Thiên.
Các đoàn Chư Thiên tới thăm nghe pháp thì không xảy ra thường xuyên khi ngài ở miền Đông bắc, và phái đoàn họ đi cũng không quá đông. Nếu mà họ bất chợt tới nghe pháp , đại đức biết được thì lập tức ngưng buổi giảng pháp cho các Tỳ Khưu, mà phập định thuyết pháp vì lợi ích của Chư Thiên. Đại đức coi đây là trách nhiệm đặc biệt. Sau khi thuyết pháp xong thì ngài đi nghỉ và sáng hôm sau lại theo thời khóa công phu như chưa có gì xảy ra.
Buổi nói chuyện giửa Tăng và Chư Thiên thì đều dùng ngôn ngử của tâm, mà hoàn toàn không phải là ngôn ngử của loài người hay thú. Hỏi và trả lời là do ngôn ngữ nầy, giống như chúng ta nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ của loài người. Thật ra ngôn ngữ của Tâm thì chính xác hơn , không bị giới hạn bởi ngôn từ vì nó xuất phát trực tiếp từ tâm. Sự truyền đạt qua tiếng nói là hoạt động máy móc của tâm do đó cho nên, thường không phản ảnh trung thực ý hay cảm xúc của người đối thoại.
Đại đức thì điêu luyện về vần đề nội tâm, và cả phương pháp giáo dục cho người ta trở thành người tốt. Chúng ta thường nghĩ chúng ta có khả năng nầy. Đi vay mượn của nhiều người : đi nơi nầy , nơi kia để cầu tìm thầy học đạo, mà không biết rằng khả năng đó chỉ có được từ chính chúng ta khi chúng ta có thực chứng. Ngay cả những điều đã học chúng ta cũng bỏ rơi và đi về tay không vì chúng ta không có chánh niệm, trí tuệ , sự quán tưởng sâu sắc. Do đó chúng ta không thể nào đạt được phẩm chất cao đẹp từ pháp mang lại, chúng ta lúc nào cũng bất an , và không hài lòng với những gì chúng ta gặp.
Sự tu tập và hoằng pháp của ngài tiến triển một cách suông sẻ, những chướng ngại là điều trong quá khứ. Khi ngài tới đâu cũng mang đến niềm sự thanh bình, an lạc. Do đó chư Tăng và dân chúng đều kính trọng ngài. Bất cứ khi nào nghe tin ngài đến thì họ nhanh chóng đến lạy chào.
Có lần tại làng ban Thum, quận Tha Khek, mà trước đó đại đức Sao và ngài có ngụ, khi nghe ngài đến thì dân làng vui mừng chạy ra đón. Lúc đó thì dân trong vùng đó bị bệnh đậu mùa. Họ năn nĩ ngài ở lại để họ nương nhờ. Nên thay vì thờ cúng thần thánh , thì ngài dạy họ qui Y Tam Bảo, và dạy họ tụng kinh buổi sáng và chiều . Giống như phép mầu, trước khi ngài tới thì người ta chết hằng ngày vì bệnh dịch, nhưng từ khi ngài đến thì không xảy ra sự chết người nữa, và những ai bị bệnh thì nhanh chóng lành bệnh. Và điều kỳ lạ là không có ai mắc bệnh nữa. Dân chúng trong vùng đều tin tưởng vào ngài, vào Phật pháp. Từ đó, trỡ đi dân chúng vùng nầy đều có tín tâm cho tới ngày nay. Vị trụ trì chùa vùng đó thời nay, mổi khi nói đến ngài, thì đều chấp tay.
Điều nầy xảy ra có lẻ vì do tâm từ của ngài. Vì Đại đức nói rằng ngài luôn dành 3 thời trong ngày : buổi trưa, buổi tối trước khi nghỉ, và buổi sáng sau khi thức dậy, ngồi rãi tâm từ cho tất cả chúng sanh. Hơn nữa ngài cũng thực hành pháp nầy nhiều lần trong ngày cho các cá nhân mà ngài ghĩ tới. Khi rải tâm từ thì Ngài hướng tâm vào trong và sau đó phát ra khắp mọi phương. Ánh sánh của tâm thì sáng ngời mà ánh sánh của mặt trời không thể nào sánh kịp. Ánh sáng nầy thì làm sáng trong thế giới, mang sự thanh bình cho thế giới.


SỰ GIAN KHỔ , THIẾU THỐN

Sau khi rời tỉnh Ubon Ratchathani, ngài an cư kiết hạ ở làng Ban Nong Lat, quận Waricha- bhum thuộc tỉnh Sakon Nakhon, một số đông chư Tăng và cư sĩ cùng tháp tùng theo ngài để học hỏi. Dân chúng trong vùng ai nấy đều sùng bái ngài. Thiện nam tín nữ vùng đó ai cũng nức lòng đón tiếp ngài, hăng hái làm việc lành, bỏ việc ác. Sau mùa an cư thì ngài du hành tiếp tới tỉnh Udon Thani , ngài đi tới quận Nong Bua Lampnu và quận Ban Pheu và an cư ở làng Ban Kho. Mùa an cư kiết hạ kế thì ngài ở quận Tha Bo, tỉnh Nong Khai. Và ngài qua lại ở hai tỉnh đó một thời gian .
Như đã đề cập phần trước, đại đức thích sống ở vùng hoang vu, nơi dân cư thưa thớt, tiện lợi cho việc tu hành. Những khu rừng hoang sơ, đầy dã thú. Khi màn đêm xuống thì hàng ngàn âm thanh của muôn thú hòa điệu tạo một thứ âm thanh thiên nhiên thân thiết. Âm thanh nầy thì không gây chướng ngại cho việc hành thiền, nhưng không thể áp dụng đối với âm thanh của con người. Tiếng cười, nói , hát , tiếng la của con người thì làm trở ngại cho việc hành thiền. Tăng thì dễ bị tổn thương vì tiếng nói của người nữ , nếu như định không sâu thì sự tập trung dễ bị phá hũy. Tôi phải xin lổi các người nữ ở đây vì ý định của tôi không phải là phê bình chỉ trích người nữ mà là người hành giả không đủ sức tập trung, bị chi phối. Do đó có lẽ vì vậy mà Tỳ Khưu thường thích chọn nơi vắng vẽ, ở rừng núi, để không ngừng theo đuổi những phẩm chất hoàn hảo, cho tới khi đạt được thánh quả.
Đại đức thường nói rằng nếu so sánh sự tu tập của ngài là một căn bệnh , thì đó là một căn bệnh nguy hiểm , sắp chết vì pháp ngài hành là một sự hành hạ đau đớn về thể xác cũng như tinh thần. Từ ngày xuất gia, khó có được một ngày mà ngài an nhàn thảnh thơi, như một số Tăng hình như đang sống như vậy. Bởi vì phiền não làm rối tung trong tâm ngài một cách nhanh chóng, khó mà bắt kịp. Nếu như để tâm sơ hở một chút thì phiền não tức khắc sẻ gây rắc rối cho ngài. Khi mà phiền não nắm bắt được tâm thì , nó càng nắm chặt hơn khó mà trừ bỏ được. Do đó ngài không bao giờ sao lảng, lúc nào cũng ở trong tình trạng cảnh giác chiến đấu với phiền não, để nó không có sức mạnh nửa để bắt ngài phục tùng theo nó. Đại đức tinh tấn như vậy cho tới khi tâm ngài đã vững chắc. Từ đó trở đi Tăng cũng như Cư sĩ kiếm ngài để học dạo. Tuy ở chốn sơn lâm hoang vu, nhưng số người đến tìm cầu học hỏi cũng rất nhiều, có khi không đủ chổ tiếp . Đại đức hiểu và thông cảm cho đại chúng khi họ tới viếng thăm. Mặt khác ngài lại lo sợ cho sự an toàn của đại chúng, vì thời đó cọp còn rất nhiều.
Có lần ngài ở trong một hang đông gần làng Ban Namee Nayung, quận Ban Pheu thuộc tỉnh Udon Thani. Là nơi có rất nhiều cọp đang sinh sống. Nên không phải là nơi cho khách ngũ trọ qua đêm. Do đó ngài nhờ người làm các chòi tre cao để cọp không vồ chụp được lúc người ta ngủ. Và ngài không cho phép ai đi xuống ban đêm – dụng cụ vệ sinh phải mang theo ở trong chòi. Và ngài không cho khách ở lâu, chỉ vài ngày. Vì cọp đây không sợ người , đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Có đêm khi đại đức đang đi kinh hành dưới ánh sáng của đèn cầy, thì thấy con cọp to đang rình đàn trâu đi ngang qua đó, đàn trâu trâu cảm thấy vội chạy về phía làng. Cọp không sợ khi ngài đi qua đi lại trên đường kinh hành.
Những ai theo học ở ngài , đều phải chuẫn bị tinh thần vô úy, không sợ chết hay nguy hiểm ở những nơi tu hành. Họ phải trừ bỏ bản ngã vì lợi ích của chính họ và Tăng đoàn. Do đó Tăng đoàn ở chung với ngài hòa hợp giống như tay chân của một thân thể, không hoạt động trái ngược, họ biết tri túc, tinh thần an ổn, và do đó thiền định nhanh chóng được phát triển.
Khi một vị Tỳ Khưu sống ở nơi hoang vu nguy hiểm, thực phẩm và đồ nhu dụng hiếm hoi thì hoạt động tâm thức dễ có sự chánh miệm kèm theo. Định nhanh chóng đạt được. Bên ngoài gian nan nguy hiểm , thì bên trong chánh niệm vững bền. Hơn nữa có thầy bên cạnh để chỉnh khi đi sai đường. Ai mà tu tập trong sự gian khổ ở tứ phía thì tâm rèn luyện được sự dũng cảm, vô úy, và chỉ có Phật pháp là cao quí, nên người đó mau chóng thành tựu.
Chúng ta đã sợ cái không đáng sợ , và không tin tưởng vào lời Đức Phật dạy, cho nên sự tu tập của ta khó mà thành tựu.
Đại đức thường nhấn mạnh rằng : Tu tập ở những nơi mà gây cho tâm sự sợ hãi chớ ở những nơi khác. Cái sợ sẻ giúp tâm ta trừ khử bớt phiền não, không cho chúng giải đãi , an nhàn mà là cơ hội lớn cho sự tích tụ chất chồng thêm phiền não. Và rèn tâm có sự chánh niệm vững chắc. Chỉ ở những nơi như vậy hành giả mới có tiến bộ trong việc điều phục Tâm. Khi mà phải đối diện đương đầu với tình huống khủng hoảng thì phải qui hướng vào Tâm chớ tìm cầu khác ngoài thân tâm của chính mình. Nếu mạng căn của người đó hết , thì phải chết , không có làm gì được hơn nữa.
Vị Tăng phải tin tưởng vào Phật Pháp là vị bảo trợ mạng sống của mình. Sống hay chết đều theo Pháp mà hành. Không gì lo sợ trước bất cứ hoàn cảnh nào. Dù rằng cọp beo, rắn rít vây quanh người đó phải sống như pháp . Vị ấy sẻ phát triển lòng dũng cảm, và tâm từ thật sự có đối với loài thú.
Con người vì nghiệp lành nên chúng ta có PHÁP mà loài thú không có. Vì lý do nầy mà tâm chúng ta ảnh hưởng đến các loài khác.
Đại đức Mân đã áp dụng những phương pháp hữu hiệu cho các đệ tử , để họ nhanh chóng thấy rõ sự thành đạt của họ, và phát triển vững chắc, để sau nầy có cơ hội chỉ dạy người khác. Trong cách nầy mà Phật pháp được trường tồn dành giử cho thế hệ sau. Khi mà quan sát cách sống và hành pháp của ngài thì ta có thể nói rằng đó là cách tu khổ hạnh. Đại đức và các đệ tử sống ở những nơi hoàn cảnh thiếu thốn , những nơi mà điều kiện sống cần thiết cũng thiếu thốn. Họ tập quen với cuộc sống khắc nghiệt nên họ được tự do, không ràng buộc bởi việc thế sự , biết tri túc. Cuộc sống có vẻ không thích thú đối với người khác, nhưng ngài và các đệ tử là những người dũng cảm , sống vì Phật pháp, vì mục đích là giải thoát đau khổ của chính mình và người. Những người theo chân Đức Phật Thế Tôn là Thầy của mọi loài.
Có những lúc cần thiết phải nhịn ăn nhiều ngày để làm cho thiền định được tăng tiến. Thân cảm giác đói nhưng sẻ làm mạnh sự cảnh giác cao độ, không buồn ngủ cần thiết cho hành thiền. Nhịn ăn hay ăn ít là phương thuốc hay chửa được nhiều bệnh từ tánh tham ăn mà ra. Và nhiều điều kỳ diệu đạt được từ pháp hành nầy (theo lời đại đức nói).
Trong cách dạy của ngài thì đại đức nhấn mạnh lòng dũng cảm, dành hết thì giờ, nổ lực tìm hiểu rõ phiền não , và nguyên nhân gây ra. Bản thân phải hiễu rõ phiền não và Phật pháp. Chính bản thân đại đức cũng đã làm như vậy và chỉ khi nào hiễu thấu ngài mới đi hoằng pháp.
Pháp ngài thường nhắc tới pháp Ngũ Lực (5 sức mạnh ) : Tín, Tấn , Niệm, Định, Tuệ. Thường dạy đệ tử suy tư quán tưởng về pháp nầy.


CAO HỌC

Một đệ tử lâu năm của đại đức nhớ lại . Một số đông Tỳ Khưu và Sa Di tập hợp dưới ngài . Họ sống một cách hòa hợp như là không còn phiền não nữa. Cho dù một mình hay chung với đại chúng họ cư xử một cách điềm tĩnh. Nếu không biết cuộc thảo luận giữa đại đức và các vị ấy về trình độ tu tập của mổi vị , thì chúng ta cứ nghĩ các vị ấy là các bậc vô học, những vị A La hán.
Đại đức khuyên bảo chỉ dẫn từng vị trong vấn đề tu tập, từ những vị sơ đẳng trong hành thiền, cho tới những vị có kinh nghiệm cao sâu trong sự tu tập.
Dù khi thảo luận vấn đề cá nhân của mổi vị Tỳ Khưu hay là giảng dạy cho toàn thể đại chúng, ngài đều biểu hiện một sự tự tin chắc chắn. Các thính giả biết rõ là những gì ngài dạy là từ thật chứng . Ngài không bao giờ suy đoán vấn đề, dùng những từ như “có thể là . “, hay là “ hình như là .. .”
Đại đức thay đổi cách giảng pháp tùy theo trình độ của mổi người. Ngài cẩn thận trình bày pháp cho đại chúng mà trình độ mổi người khác nhau, để ai cũng có thể hiều mà tu tập. Đối với cư sĩ thì ngài thường dạy về cách bố thí, sống có đạo đức và phát triển trí tuệ, hay tu tuệ . Đó là ba pháp căn bản để được sanh làm người , và là căn bản của những lời Phật dạy.
Bố thí là cách thể hiện lòng tốt đối với người và vật đang cần sự giúp đỡ của mình. Chúng ta hi sinh san sẻ những cái tốt mà ta có được. Dù là cho vật chất hay tinh thần., chúng ta không nên mong muốn có sự hoàn đáp, chỉ hoan hỉ vì đã thực hiện hạnh tốt đó mà thôi . Sự Bố thí cũng có nghĩa là tha thứ cho người kẽ đã làm não hại ta. Do năng lực của bố thí mà người hay bố thí không bao giờ phải sanh vào nơi thiếu thốn. Chừng nào con người còn biết hi sinh, giúp đở kẻ khác thì cuộc sống con người còn có ý nghĩa , nếu không thì cuộc sống sẻ trở thành cằn cỗi khô khan.
Sống đạo đức , là phương tiện hữu hiệu ngăn ngừa con người làm hại, xâm phạm vật chất và tinh thần của nhau. Đây chính là phẩm chất được làm người. nếu không có đạo đức thì thế giới của con người sẻ bị lữa phi đạo đức thiêu hũy. Sống đạo đức được chỉ dạy bởi Đức Phật Thế tôn , Ngài khám phá rằng chỉ có cuộc sống đạo đức con người mới làm dịu bớt sức nóng do tham sân si tạo ra. Nếu không có đạo đức sức mạnh của phiền não từ tham sân si sẻ tạo ra những loài “yêu quái” độc hại mà nó hũy diệt tất cả những gì nó gặp.
Ý tưởng của người đạo đức như Đức Thế Tôn, Người mà đã hoàn toàn đoạn trừ phiền não thì chỉ phát sinh sự mát dịu, an bình cho thế giới. So sánh sự lợi lạc có được từ cuộc sống đạo đức, thì chúng ta cần phải nên sống cho có đạo đức.
Phát triển trí tuệ, nghĩa là rèn luyện tâm cho nó sáng suốt, bình đẳng dựa trên nguyên lý nhân , quả . Thay vì bỏ bê tâm, không chăm sóc, thì chúng ta thiền, quán điều phục nó để nó trỡ nên có ích. Tâm giống như thú vật chỉ khi nào thuần hóa thì ta mới xử dụng như ý mà thôi. Vì khi có trí tuệ hướng dẫn thì chúng ta hành động không sai trái. Không tạo ác nghiệp để dẫn chúng ta đi xuống.
Do đó tâm cần được tu tập để mang lại lợi ích cho đời nầy, cũng như đời sau.
Có nhiều cách phát triển tâm như là thiền đề mục, quán tưởng, niệm Phật , quán hơi thở, học tập lời Phật dạy.
Bậc trí giả nói rằng : Phật pháp có năng lực thắng lướt các năng lực của vật chất và tinh thần. Cho dù bạn giàu , nghèo, cuộc sống sung sướng đau khổ thì khi có được PHÁP thì chúng ta sẽ an lạc trong mọi hoàn cảnh.
Đại đức Mân kể lại khi ngài ở trong rừng, núi của vùng Udon Thani và Nong Khai. Chư thiên ở cõi trên và thần ở cõi dưới thường đến viếng gặp ngài để học đạo. Có đoàn đến viếng ngài thường cứ hai tuần một lần, có đoàn chỉ một lần một tháng. Ở vùng đó Trời , Thần ít đến thăm ngài thường như ở vùng Chiang Mai.
Đại đức có kể về một thành phố rồng (loài rắn cũng thuộc loại rồng) ở dưới chân núi gần ở phía Tây thành phố Lào Luang PraBang. Chúa loài rắn đó thường mang tùy tùng đến nghe pháp. Loại thần nầy ít hỏi pháp hơn là các loại thần khác hay Chư Thiên. Tuy nhiên tất cả Trời Thần đều cung kính khi nghe pháp. Chúa loài rắn đó thường đến viếng thăm ngài mổi đêm. Có lần mang theo cả một đoàn đông đảo. Vì ngài ở vùng hoang vu, ít người lai vãng nên có dịp giảng pháp cho các loài Thần , Trời. Ngài luôn biết trước lúc loài rắn đến thăm , thường thì không quá khuya, vào khoảng 10 giờ , trể lắm là 11 giờ . Loài rắn yêu cầu ngài hảy ở lại luôn khu vực nầy vì sự lợi lạc cho Họ. Loài rắn bảo vệ ngài suốt ngày đêm, dù không thể đến quá gần , nhưng họ có đủ khả năng quan sát mọi việc xảy ra ở khu vực chung quanh ngài ở. Loài Trời thì đến quá khuya, khoảng 1 hay 2 giờ sáng. Nếu ngài sống trong núi, xa làng mạc thì họ tới sớm hơn khoảng 10 giờ tối.


Trong thời kỳ trung niên, thời khóa của đại đức như sau: Sau bữa ăn trưa , đại đức đi kinh hành cho tới giữa trưa, nghỉ một lát ngài ngồi tọa thiền khoảng 1 tiếng rưỡi trước khi đi kinh hành cho tới 4 giờ chiều, xong ngài dọn dẹp chung quanh chổ ở , tắm rửa, và đi kinh hành tiếp cho tới 7 hay 8 giờ tối. Xong ngài vô chòi tọa thiền, nếu trời không mưa thì ngài lại đi kinh hành tiếp cho tới khuya, nếu quá khuya hay khi trời mưa thì ngài ở lại trong chòi. Ngài nghỉ vào khoảng 11 giờ tối và dậy khoảng 3 giờ sáng. Nếu chư Thiên hay thần đến thăm vào lúc gần sáng, thường thì ngài biết trước, thì ngài nghỉ sớm. Nếu mà họ tới khoảng 11 giờ tối đến cuối đêm., thì ngài nhập định tiếp họ. Đây là thời khóa đại đức tuân thủ suốt đời.
Khi mà có nhiều đoàn tới trong một đêm, thì sau khi giảng pháp và trả lời câu hỏi cho đoàn đầu tiên, thì đại đức cho biết có đoàn khác sắp tới, và thế là họ nhanh chóng rời để cho ngài tiếp phái đoàn khác . Đôi khi vị dẩn đoàn yêu cầu ngài giảng cho một đề tài đặc biệt nào đó, thì lúc đó đại đức hướng tâm vào đề tài ấy, và tự nhiên trí về điều ấy nảy sinh và ngài thuyết giảng về đề tài đó. Có những lúc họ yêu cầu ngài giảng một bộ kinh mà đề kinh được gọi ở thời xa xưa , mà ngài không biết thì ngài yêu cầu cho biết đề kinh mà thời nay gọi, thường thì ngài biết đề kinh họ yêu cầu ngay nhưng đôi khi ngài hỏi cho rõ ràng, không nhầm lẫn. Có lần họ yêu cầu ngài giảng một bộ kinh, nhưng khi ngài vừa mới bắt đầu giảng, thì họ cho biết đó không phải là bộ kinh họ muốn nghe giảng, để làm đại đức nhớ lại , họ đọc lại vài đoạn kinh, thế là ngay sau đó ngài nhớ rõ lại bộ kinh ấy. Đại đức chỉ thuyết giảng khi biết chắc đó là đề tài đúng, thích hợp.
Có những lần Trời, Thần, Rồng đều cùng đến viếng ngài trong một đêm, thì ngài phải chia ra để giảng , nói chuyện với từng nhóm. Giống như ở loài người, mọi nhóm đệ tử tới viếng ngài trong cùng một ngày.
Đại đức cho biết , mặc dù sống ở sâu trong rừng, nơi nơi hoang vu, hiểm trở , nhưng đại đức cũng rất bận rộn vì phải tiếp và giảng dạy cho các Trời Thần cùng loài Rồng. Do đó ít khi ngài có rảnh thời gian cho mình. Nếu mà ở trong rừng gần khu dân cư thì loài người hay thăm viếng cầu đạo, thì ngài phải dành buổi chiều cho cư sĩ và buổi tối cho Tỳ Khưu và Sa Di.


KHÁC NHAU CHỉ DO TÂM

Tôi đã viết về loài Trời thì ở đây tôi cũng muốn viết về loài người , nhưng tôi thành tâm xin lỗi cùng đọc giả, vì ở đây chủ đích của tôi chỉ muốn trình bày sự khác biệt, và cố gắng trung thực trình bày ại những gì mà Thầy Đại đức đã kể lại cho chúng tôi.
Thầy đại đức Mân cho biết rằng có sự khác biệt lớn giữa loài trời và loài người đó là sự tiếp xúc và nghe pháp. Loài trời, từ cõi cao đến thấp, có khả năng thấu hiểu những bài pháp được nghe hơn là loài người, và khi nghe xong họ đồng tán thán “Sādhu” (Lành Thay !) ba lần , tiếng tán thán đó vang dội đi khắp các thế giới .
Loài Trời rất là cung kính Chư Tăng, không có một ai tõ thái độ bất kính, khi nghe Tăng giảng pháp thái độ của họ thật là nghiêm trang và cung kính. Loài người thì trái lại, rất ít có người hiểu những gì được giảng – cho dù có lập lại nhiều lần . Không những không hiểu rõ ý nghĩa mà lại còn phê bình nầy nọ : “Thầy đang nói gì vậy, tôi không hiểu tý gì cả?” và còn phê bình :”Thầy nầy giảng không hay như thầy kia “ . Ngay cả có những vị trước đã thọ giới làm Tăng, nhưng không thể ngăn chặn chất chồng phiền não cao như núi, mà nói rằng :”Ta đây còn giảng hay hơn thế nữa, ta còn biết làm cho khán thính giả cười để họ bớt buồn ngủ và căng thẳng, ta biết cách nói chuyện trước công chúng”. Người khác còn nghĩ :”Nghe đồn thầy nầy biết được ý nghĩ của người khác, Nếu mà người ta nghĩ gì thì thầy biết được ngay lập tức, nếu như vậy thì thầy phải cho người ta biết chứ , ít nhất cũng gián tiếp, thí dụ như nói anh không nên nghĩ như thế nầy thế nọ, vì đó là điều sai quấy.”
Có những người tới chỉ có mục đích là tìm chổ sai của người khác, để chứng tõ rằng mình là người hay, người giỏi. Những loại người nầy thì không chút nào hứng thú trong việc học Pháp. Giảng pháp cho họ giống như đổ nước lên mình vịt, chỉ cần rủ vài cái là nước văng đi, không còn giọt nào.
Đại đức Mân thường mĩm cười khi ngài nói về những loại người “thông minh” như vậy, có những người khi đến đã có định kiến rất nặng nề đến nỗi họ không mở lời được, tính tự phụ (cho mình là nhất) quá lớn đến nỗi đại đức cảm thấy bối rối hơn là cảm thấy thương hại, nên ngài không nói pháp. Tuy nhiên có những lúc không thể tránh được, thì muốn cố gắng nói vài câu , nhưng khi định mở miệng thì pháp muốn nói biến mất, ngài không có gì để mà nói. Giống như Pháp không thể đương đầu lại tánh tự cao tự đại quá lớn của kẻ nghe pháp , cho nên pháp biến chạy đi. Lúc đó thì ngài ngồi giống như hình nộm, đối với mọi người ngài như không còn cảm xúc nữa, ngài chỉ im lặng ngồi không một lời nói nào phát ra cả, Trong trường hợp như vậy thì pháp đến từ đâu ?
Đại đức hay cười khi phải nhắc lại những trường hợp như vậy, cho các đệ tử nghe. Tuy vậy trong số đó chúng tôi thấy cũng có người run rẩy, chúng tôi cho rằng họ bối rối , vì khi đó trời không lạnh , hay họ bị cảm.
Đại đức nói rằng ngài không giảng pháp cho người có tánh tự phụ quá lớn, ngoại trừ trường hợp chẵng đặng đừng. Vì bài pháp của ngài sẻ trở thành độc dược cho tâm những người như vậy, nghe pháp mà không có lòng tôn kính pháp. Pháp mà đại đức có được thật sự là cao , và giá trị cho những ai thành tâm. Đây là điều quan trọng. Bất cứ chuyện gì đều có nhân duyên. Trong một số đông nghe pháp , có một số người bồn chồn khó chịu, trong khi đó có một số người cảm thấy dể chịu, an lạc người nhẹ như muốn bay bổng lên. Sự khác biệt đó là do tâm mà ra.
Đại đức hầu như không thể làm gì được cho người mà tâm họ không muốn chấp nhận Phật pháp. Có người sẻ nghĩ rằng: đại đức cứ giảng cho những người đó vì nếu không mang lại điều tốt thì cũng chẵng có hại. Nhưng không áp dụng cho trường hợp nầy được . Những người như vậy hay thường thích làm những việc có tác động ngược lại.
Khi gặp trường hợp như vậy, thì ngài không làm gì cả để tự họ theo số phận của họ. Đại đức coi như là nghiệp lực của họ, không thể làm gì được cả.
Tuy nhiên cũng có người thật tâm muốn cầu đạo, tin vào Nhân Quả, nhưng số người đó ít và ở xa, đây chính là những người đại đức quan tâm để giảng dạy.
Đại đức đã kể lại rất nhiều câu chuyện về loài trời, và sự khác biệt giữa loài trời và loài người, nhưng tôi thành thật xin lổi đọc giả tôi không thể trình bày hết được ở đây vì , đại đức tiếp xúc với họ trong suốt cuộc đời của ngài, và ở đây tôi muốn trình bày theo thứ tự dựa theo quãng đời của ngài. Những gì khác biệt ở đây là do sự so sánh lúc thời của ngài, còn ngày nay với thế hệ mới thì họ nhận được sự giáo dục nhiều hơn, có lẽ họ không có thái độ khiếm nhã, hay quá tự phụ kiêu căng ?
Sau khi sống và giảng dạy đại chúng ở vùng Udon Thani và Nong Khai một thời gian dài , thì đại đức đi về phía đông, tới tỉnh Sakon Nakhon. Đại đức qua các làng mạc thôn quê hẻo lánh, trong khu rừng núi như là Warichabhum, Phang Khon, Sawang Dan Din, Wanon Niwat, và Akat Amnua. Sau đó ngài đi qua quận Sri Songkhram, và các làng Ban Sam Phong, Ban Non Daeng, Ba Dong Noi, Ban Kham Nokkok, tới tỉnh Nakhon Phanom. Tất cả những nơi nầy đều nằm sâu trong rừng và là khu vực hoành hành của bệnh sốt rét. Khi mắc bệnh thì rất khó chữa. Nếu không chết thì mắc bệnh sốt rét kinh niên. Và người bệnh rất đau khổ vì tuy ăn uống được nhưng căn bệnh làm người bệnh khó mà đi làm kiếm ăn được.
Đại đức đã an cư ba mùa kiết hạ trong rừng gần làng Ban Sam Phong. Trong mùa đó đã có vài vị Tăng chết vì bệnh nầy, nên họ phải tới những vùng đồng bằng không ngụ cùng ngài.
Đại đức kể lại khi ngài giảng pháp cho Tăng, Sa di tại làng Sam Phong, thì có một con rồng ở dưới sông SongKhran hóa hình lên nghe pháp đều đặn. Nếu rồng ta không đến được thì lại đến viếng ngài khi ngài nhập định. Các loài trời ở các cõi cũng đến viếng thăm học hỏi, nhưng không thường như ở vùng Udon Thani và Nong Khai.
Đặc biệt là họ luôn tới vào ba ngày đặc biệt trong mùa an cư đó là : ngày đầu tiên , ngày giữa và ngày cuối. Cho dù ngài ở bất cứ nơi nào họ cũng đều tới vào những ngày đó, ngay cả lúc ngài ngụ trong chùa Chedi Luang ở trong thành phố Chiang Mai.





SỰ KIỆN ĐÀO GIẾNG

Có một sự kiện mà cần kể lại ở đây:
Khi ngài tạm cư ở gần làng Ban Sam Phong. Vào lúc mùa khô và có tới khoảng 60, 70 chục người cùng ở với ngài. Do không đủ nước sạch dùng, nên họ bàn cùng dân làng đào giếng cho sâu hơn để có nước sạch, đủ dùng. Sau khi thảo luận , một vị Tăng huynh trưởng gặp ngài hỏi ý kiến. Thì ngài trả lời ngắn gọn rằng :”Không được , có thể xảy ra nguy hiểm”. Đó là những gì ngài nói.
Sau khi tiếp kiến ngài, vị Tăng đó lại nói với đại chúng, họ thắc mắc câu “ Có thể nguy hiểm”. Cuối cùng tất cả đồng ý đào nhưng không cho ngài biết.
Cái giếng thì cách tu viện khá xa, buổi trưa họ đợi ngài nghỉ , thì họ im lặng ra đào. Họ đào xuống rất sâu, nhưng khi đó miệng giếng bị lở và đổ xuống làm hư giếng và suýt làm chết người. Ai nấy đều cảm thầy đều lo âu và hối hận vì không nghe lời của đại đức, nay thì nước ngọt không có thêm nữa lại suýt làm mất mạng. Họ vội vã kiếm gổ tấn chung quanh miệng giếng cho chắc. Và trong suốt thời gian sửa chửa lại giếng họ cầu nguyện xin đại đức gia hộ cho việc sửa chửa không có trở ngại. Thật kỳ lạ, họ nhanh chóng hoàn thành một cách suông sẻ, có người còn tỏ ra vui vẻ.
Sau khi làm xong họ vội vả trở về tu viện. Càng gần chiều tối tới giờ giảng pháp, họ càng lo vì nhớ lại những quở trách của ngài mổi khi có đệ tử làm sai, ngay cả khi họ phạm mà không nhớ biết, ngài cũng nhắc lại để dạy họ.
Đây là việc nghiêm trọng mà cả đại chúng cùng làm, không cho ngài biết. Nếu không biết được bửa nay , thì ngày khác ngài cũng biết. Ai nấy đều bất an.
Tới giờ họp chúng, ngài không nói gì tới chuyện vừa xảy ra, coi như không có biết gì. Ngài rất sắc sảo trong việc dạy dổ các đệ tử , ngài biết rõ chuyện vừa xảy ra và các lổi lẩm các đệ tử phạm phải , Nhưng ngài cũng biết các vị đó rất ăn năn hối hận, bây giờ trách móc lại càng gây thêm sự tổn thương. Sáng hôm sau , ngài vẩn theo thời khóa công phu hằng ngày của mình. Vào buổi sáng hôm kế sau khi đi kinh hành ngài vào giảng đường họp chúng để trước khi đi khất thực, như thông lệ, đại chúng vẩn còn lo vì chuyện bửa trước, thì ngài bằng giọng trìu mến để xóa tan nổi lo sợ của các đệ tử. ngài nói :
“Chúng ta đi đến đây là để học Pháp Phật, Chúng ta không nên mạnh bạo quá củng không nên quá nhút nhát , sợ hải. Ai cũng làm lổi, nhưng giá trị ở chổ là nhận ra lổi lầm của mình. Khi xưa Đức Phật Thế Tôn trước khi thành đạo quả , cũng đã từng phạm lổi, nhưng khi ngài biết thì lập tức quyết tâm sửa đổi không còn tái phạm lổi lầm đó nữa. Đó là điều đáng quí và ca ngợi. Bởi vì khi còn vô minh thì chúng ta còn phạm lổi. Từ giờ trở đi các sư phải nên quan tâm nhiều hơn nữa việc tự kiểm, dùng chánh niệm trong mọi lúc mà hành động, đó là cách của người có trí”.
Đó là những gì ngài nói, khi xong ngài nhìn đại chúng mỉm cười thật tươi và giải tán để dẩn chúng đi vào làng khất thực. Đêm đó ngài không thuyết pháp, mà chỉ căn dặn đại chúng tinh cần tu tập. Ba đêm kế ngài cũng không giảng pháp, đêm thứ tư kế lúc giảng pháp, ngài cũng không nói gì về sự kiện đó, mặc dầu chúng tôi biết chắc ngài đã biết .
Bẳng đi một thời gian, mọi người quên đi vụ đào giếng. Không ai nhắc lại vụ đó nữa, để nó chìm hẳn. Đại đức bản thân ngài cũng chưa tới giếng nước bao giờ vì nó cách xa tu viện và chổ ngài ở.
Một hôm, ngài giảng cho chúng những đề tài về giới luật, cách tu tập, cách tôn kính Phật pháp và pháp sư. Và ngài nhấn mạnh vào luật Nhân Quả, đây chính là nền tảng của Phật pháp . và ngài nói như sau:
"Mặc dầu các các vị bao giờ cũng bị áp lực của lòng ham muốn, nhưng chớ bao giờ để nó nổi dậy mà gây chướng ngại cho việc tu hành. Nếu không chúng sẻ tiêu hủy các pháp mà các sư đang tu tập. Không bao giờ đi ngược lại Phật pháp, giới luật và những lời dạy của thầy mình, vì đó chính là tự mình hủy hoại đời mình. Không vâng lời , thì chỉ thúc đẩy mình tới thói quen xấu mà hại mình , hại người. Đất chung quanh giếng không phải là toàn đất sét, mà có lẩn cát trong đó, nếu đào quá sâu , thì sẻ làm cho giếng bị sụp, có thể chôn chết người đào. Đó là lý do tôi không cho các vị đào. Trước khi chấp thuận hay không cho phép bất cứ công việc gì , tôi cũng suy nghĩ kỷ, những ai ở đây để tu tập nên suy nghĩ lời nầy. Có những điều riêng biệt bên trong, tôi thấy không cần thiết phải nói ra đây.
Những gì tôi giảng ở đây đủ rõ để cho các sư hiểu, thế nhưng các sư lại làm ngược lại. Khi tôi không chấp thuận điều gì , thì các sư cứ làm, khi dạy điều gì thì làm ngược lại. Đó không phải là sự hiểu biết đúng. Sự trái ngược nầy, hiển bày sự cang cường khó dạy của các vị. Một thói quen đã ăn sâu khi còn ở nhà, được cha mẹ nuông chìu. Nay đã là người xuất gia, mà không chịu sữa đổi, lại phô trương ra trước mặt thầy, trước mặc cuộc sống phạm hạnh mà mình đang theo. Sự ngang bướng nầy ở các vị xuất gia ở tuổi nầy thì không thể chấp nhận được, phải bị trách phạt. Nếu cứ ngang bướng như vậy, thì đó là tự đào hố sâu chôn mình, bị mọi người kêu là sư “khó dạy bảo, cứng đầu”. Tất cả những phẩm chất mà mình có đều là từ sự “Ngang bướng, khó trị”. Lúc đó thì sư nầy khó dạy, sư kia làm biếng, sư ấy không biết xấu hổ, thì Tăng đoàn chúng ta chỉ gồm những loại như vậy, tôi chỉ là thầy của những sư cứng đầu, cứng cổ. Khi mà sự bướng bỉnh khó dạy trở nên điều bình thường thì thế giới nầy sẻ hư mục, Phật pháp sẻ không còn nữa. Ai trong các vị còn muốn cứng đầu cứng cổ ? Ai muốn tôi chỉ là thầy của những người như vậy, thì hảy ra giếng mà đào. Nếu thế thì khi giếng sập chết, thì sẻ sanh vào cỏi của những người đầu cứng, cổ cứng.”
Sau giọng khiển trách, ngài dịu giọng xuống cho các chúng có thời giờ suy ngẩm điều thầy dạy, trong suốt thời pháp mọi người dường như nín thở. Xong thời pháp , ai nấy đều ra về , mà tự hỏi tại sao đại đức biết được chuyện đó, mà không ai trong Tăng đoàn dám thuật cho ngài biết.
Sau khi đắc quả Thánh ở động Sarika , ngài có được những khả năng huyền bí, mà ta gọi là thần thông, ngày càng phát triển . Các Tăng sống gần ngài ai cũng thu thúc thân tâm, không dám sơ hở để tâm chạy lăng nhăng bậy bạ, mà trong thời pháp tối hôm đó ngài hay dùng làm đề tài dạy bảo. Đặc biệt lúc nghe pháp , ai cũng chú tâm , thỉnh thoảng khi đại đức dừng nói để bắt hơi thở hay nghỉ, khi đó có ai tâm chạy bậy bạ, thì ngài lập tức thay đổi giọng nói, bắc chước nói lại ý tưởng đó, mặc dầu ngài không bao giờ nhắc tên vị đó, nhưng đó cũng đủ làm cho vị đó xấu hổ và sợ không dám tái phạm nữa.
Đi khất thực cũng là lúc cần đề phòng nhất, vì ai không có chánh niệm để nó chạy quanh lâu xa, thì ngay tối hôm đó ngoài thời pháp chính, đó là đề tài mà ngài giảng nói. Đôi khi thật là xấu hổ khi nghe nói về chính ý nghĩ không kiểm soát được của chính mình, khi các Tăng trong chúng ở đó cũng phải chịu nghe như mình. Nhưng khi biết được kẻ đó thì các huynh đệ trong Tăng đoàn không ai giận hay buồn mà họ đối sử một cách vui vẻ. Ngay sau khi nghe giảng xong ra về các Tăng hỏi đùa nhau : “Ai vậy?” , “Hôm nay ai là người bị bắt tại trận ? “ . Thật là điều hy hữu, vì kẻ đó không giấu diếm mà tự mình nói ra, sám hối với các bạn đồng tu.
Tôi sám hối xin lổi đọc giả (gồm các vị Tỳ Khưu ) vì đây là vấn đề tế nhị, nhưng thật là khó vì tôi muốn viết ra những chuyện có thật đã xảy ra. Sự kiện nầy cũng giống như một vị phạm luật xin được xám hối để được an tâm không phải lo rầu về sau nữa vì điều mình phạm.
Trong nhiều trường hợp, có những vị đã bị quở trách nặng , vì không thu thúc thân tâm. Thường đó là những trường hợp xảy ra trong lúc đi khất thực, không chánh niệm để màu sắc, hình tướng, âm thanh quyến rũ để tâm chạy mất không kiểm soát được. Trong những trường hợp nầy, sau khi về, vẩn còn bị ảnh hưởng bởi sắc pháp bên ngoài lúc đi khất thực. Đây là nguyên nhân chính cho sự phân tâm, chi phối trong lúc tu tập. Đến lúc tự chủ được thì đã tới giờ nghe pháp, là lúc bị quở trách. “Vết thương” cũ chưa lành lại bị âm thanh, hình ảnh quyến rũ chi phối, lại được đại đức ban cho “thuốc đắng “ để chửa. Phần lớn số đông sống với ngài đều bị thương, khi thì vị nầy cần loại thuốc nầy, khi thì vị kia cần thuốc đó.
Khi bị hình tướng, âm thanh chi phối, không đủ sức để thoát , thì lúc về hậu quả là bị đại đức khiển trách. Điều tự nhiên vì ai cũng có ý tưởng tốt và xấu vì còn phiền não, nhưng đại đức không bao giờ chỉ chích ý tưởng xấu khởi lên , mà ngài phê bình khuynh hướng hay nghĩ một cách có hại. Ngài khuyên chỉ nên nghĩ về giáo pháp , và dùng chánh niệm để trừ khử .
Cách dạy của ngài rất là tĩ mỹ, ngài cẩn thận dạy từng ly, từng tý về giới luật, về định, và về tuệ, mà đều thuộc về trình độ cao. Lúc ở động Sarika ngài đã thông thạo đạt qua các tầng thiển định, và đạt được các trí tuệ trung cấp. Chính vì vậy mà ngài có khả năng giải thích chỉ dẫn tường tận các tầng thiền cho các đệ tử, cùng trí tuệ kèm theo. Đã đề cập tới các tầng thiền định thì tôi xin nói ra ở đây:
Định của đại đức Mân thì rất lạ và đặc biệt : dù là Sát Na định(Khanika-samādhi), Cận Hành định (Upacara- samādhi ), hay Tịnh Chỉ định (Appana-samādhi ). Khi tâm ngài vào Sát Na định, thay vì tâm định trong giây lát rồi xuống lại tình trạng bình thường của nó, thì tâm ngài lập tức lên tầng cao hơn là Cận Hành định, nơi đó tâm ngài tiếp xúc với vô số hiện tượng bên ngoài. Loài Trời , Thần, Ma quỉ , hay Rồng, và vô số cảnh giới, thế giới. Tất cả đều được tâm thấy biết qua tầng thiền Cận Hành định. Trong Cận Hành định , đại đức tiếp các chúng sanh mà mắt thường không thấy, tai thường không nghe được. Đôi khi tâm ngài thoát khỏi xác thân bay bổng lên thăm các tầng trời khác nhau, hay đi xuống địa ngục quan sát các chúng sanh thọ khổ cực hình ở đó vì ác nghiệp do chính mình đã tạo. Danh từ “bay lên”, “đi xuống “, chỉ là cách nói tương đối, khi so sánh với tâm thân thô trược nầy, không liên quan gì tới tâm, vì tâm tánh thể khác với thân. Khi nói bay lên , đi xuống thì thân thể cần phải có sự nổ lực, gắng sức, còn tâm thì không cần. Khi nói về cỏi Trời, Niết Bàn, là các cảnh giới tinh trong, thì nó tương trưng cho sự tiến bộ phát triển đi lên, còn địa ngục là cảnh giới của sự thụt lùi, đi xuống của tâm. Chúng ta thường dùng vật chất để đo lường những gì thuộc về tinh thần. Chúng ta có thể ví dụ cõi trời và địa ngục giống như hai kẻ bị tù, một là bị nhẹ còn kẻ kia bị nặng, cả hai đều bị nhốt tù , trong một xả hội của những người lương thiện, những bậc thánh đã thoát được cảnh tù tội. Người ở tù và người ở ngoài không khác, cũng là người chỉ khác là một người bị giam , còn người kia được tự do ở ngoài. Ít ra người tự do ở ngoài và người trong tù có thể dùng các giác quan mà biết được nhau. Còn chúng sanh ở các cảnh giới khác nhau thì không thể biết được nhau. Chúng sanh ở địa ngục thì không biết được cảnh giới của chúng sanh ở cõi trời và ngược lại. Cũng vậy loài người không thể thấy biết được cảnh giới khác . Mặc dầu dòng tư tưởng của chúng sanh cõi nầy giao thoa tiếp xúc qua lại thế giới khác nhưng lại không thể biết , tưởng như duy chỉ có họ là hiện hữu.
Ngay khi bắt đầu hành thiền thì Sát Na định và Cận Hành định đã liên kết chặt chẻ nhau vì tánh đặc biệt của tâm ngài thích phiêu lưu mạo hiểm. Cho nên khi vào Sát Na định thì tâm ngài lập tức đi vào Cận Hành định đi lang thang quan sát vô vàn các thế giới khác nhau. Nên khi đại đức tu tập Định và giử được nó cho yên , thì ngài hướng tâm đi quán sát các thế giới khác như ý muốn. Từ đó trở đi ngài như ý nhập các tầng thiền, Ngài có thể tùy ý vào Sát Na định rồi ra để vào Cận hành định để quan sát các thế giới khác, hay ngài vào Tịnh Chỉ Định là loại Định mà sự nhất tâm rất vững chắc, có sự an lạc, nên hành giả có thể an trú trong nhiều ngày. Đại đức có thể ở lâu trong Tịnh Chỉ định bao lâu tùy ý. Hành giả dể bị dích mắc trong loại định nầy. Đại đức nói ngài cũng bị dính mắc , nhưng không lâu vì cá tánh của ngài có hơi thiên về trí tuệ nên mau thoát, và đại đức có thể tự mình giải quyết vấn đề nầy. Đại đức nói rằng ai mà dính mắc vào Tịnh Chỉ thì rất khó tiến xa, nếu không có áp dụng tu tuệ vào. Vì có sự an lạc nên hành giả dể bị dính nắc ( là một chường ngại trên đường tu), hành giả sẻ phát sinh lòng chấp thủ tinh tế mà không thể dùng chánh niệm quan sát thật tướng của sự vật. Họ tham chấp vào nên không thể nghe lời khuyên của bậc trí giả nên cứ tưởng đó là Niết Bàn, Khi đạt được trình độ nhất tâm đó thì tâm kinh nghiệm rõ ràng đồng thời an lạc nhưng lúc đó thì phiền não cũng “thu nhiếp” vào sự nhất tâm đó, hay nói cách khác là vi tế mà tâm lúc đó không thể nhận ra, trừ phi có Trí tuệ khám phá ra và trừ khử nó, nếu không thì chắc chắn sẻ phải tái sinh trong vòng luân hồi. Cho nên đại đức nói bất cứ loại định (sự nhất tâm) mà không có trí tuệ đi kèm thì sẻ không giải thoát được
Vào lúc ngài du hành lần thứ hai ở miền đông bắc thì ngài đã kinh nghiệm rất thành thạo ở tuệ loại trung cấp. Thứ tuệ cần thiết cho ai vào đạo lộ của thánh A Na hàm. Trước khi đạt quả A Na Hàm thì hành giả phải quán thân. Dùng trí tuệ mà phân biệt cái khía cạnh ưa thích , chán ghét và quán nơi hai khía cạnh gặp nhau. và giải quyết được vấn đề ưa thích, chán ghét, nghi ngờ liên quan đến thân. Tuy thâm nhập được nhưng còn phải tu tập cho thành thục để thành quả A Na hàm. Nếu vị đó mất mà chưa chứng quả A La Hán thì vị đó sẽ sinh vào tầng Trời thứ năm của Phạm Thiên là Sắc Cứu Cánh Thiên mà không phải đi qua 4 tầng ở dưới.
Đại đức kể lại, ngài bị trể dững lại lâu ở đạo lộ A Na Hàm vì không có ai hướng dẫn. Đại đức phải rất thận trọng “ đi từng bước”, ngài rất cẩn thận vì không muốn tạo lổi lầm trong giai đoạn nầy, vì kinh nghiệm bản thân lúc trước. Khi đến giai doạn nầy thì cho thấy phiền não có thể xói mòn sự nổ lực của ngài, hay nói cách khác là phiền não rất là vi tế nhưng mạnh mẻ giống như chánh niệm, và tuệ dùng để trừ nó. Đại đức nói rằng thật sự là điều kỳ diệu mà ngài có thể vượt qua khu rừng già rậm rạp, nguy hiểm nầy, vật lộn với nổi khó khăn và từng bước vượt qua nó để tới khoảng trống bình an.
Trước khi có khả năng để dạy chúng tôi, ngài đã đơn độc một mình đi trên con đường gian khổ để có được ngày nay. Mổi khi có dịp, hợp thời cơ, ngài thường kể lại một phần gian nan trong sự tu tập của ngài, và làm cho chúng tôi rơi nước mắt vì sự khó khăn gian khổ ngài đã chịu đựng, đồng thời cũng tôn kính , ngưỡng mộ giáo pháp vi diệu mà ngài đạt được
Đại đức đã sống 3 hay 4 năm gì đó tại làng Ban Sam Phong, ở quận Sri Songkhram thuộc tỉnh Nakhon Phanom, ngài ở một năm tại làng Ban Huay Sai ở quận Kham Cha-ee cũng trong tỉnh nầy. Và các làng Nong Sung, Khok Klang. Những nơi nầy đều là vùng núi gần ngọn núi Pak Kut. Nơi tập trung đông đảo của các Địa Thần và cọp.
Đại đức thường bảo các đệ tử ở những nơi hẻo lánh hoang vu, và thường nơi đó là những nơi nguy hiểm vì thú dữ. Khi màn đêm xuống tiếng cọp gầm rú liên hồi, vang dội núi rừng, ai mà ở trong rừng mới biết cái sợ đó. Có những đêm thấy cả đoàn cọp đông lúc nhúc đi lang thang qua khu tu viện. Khi mà có Tỳ Khưu hay Sa Di quá sợ không dám đi kinh hành ban đêm thì Đại đức thiện xảo trong việc sợ cọp mà dạy họ rằng : "Ai mà làm biếng thì hảy coi chừng! Cọp vùng nầy thích ăn thịt sư làm biếng có lẻ thịt có mùi vị thơm ngon hơn các loại thịt thú khác, ai không muốn làm mồi cho cọp, thì hảy tinh tấn vì cọp sợ những kẻ tinh tấn , nên không dám ăn“. Do đó khi nghe như vậy ai cũng cố gắng quên sợ mà đi kinh hành ban đêm, họ tin chắc vào những gì thầy nói. Coi việc tinh tấn là lá bùa hộ mạng cho mình khi sống giữa bầy cọp.
Tình trạng sống của họ lại càng làm cho tình cảnh sợ thêm bi đát, vì ai nấy đều sống không có chòi hay cốc như ở tu viện trong làng hay trong phố mà ai cũng chỉ có một giường tre nhỏ cao hơn mặt đất một chút, vừa đủ rộng để ngã lưng nằm nghỉ. Nếu như mà cọp đến thăm thì chỉ phó mặc cho số phận mà thôi. Đại đức biết rằng bình thường thì cọp không dám làm gì, vì các Địa thần khi đến thỉnh pháp đã nguyện bảo vệ các chư Tăng ở khu vực nầy. Và thỉnh ngài cùng chư Tăng ở luôn nơi đây.
Cách thức dạy đệ tử sợ là để cho họ tinh tấn mà thôi , vì có lẻ cọp cũng biết Tăng đang sống khu vực nầy nên đây là khu vực bảo an cho chúng. Các thú vật khác cũng vậy, họ không sợ thợ săn . Khi mà dân chúng biết ngài và chư Tăng đang sống ở đây đa số không ai dám đi săn ở khu vực nầy. Ai cũng sợ hậu quả xảy ra cho mình, họ rất sợ khi thấy có người thợ săn đã chết vì tai nạn do súng của chính mình. Điều kỳ lạ nữa là khi ngài ở đó, thì cọp không săn giết các trâu bò dân làng thả nuôi nửa, không ai biết chúng đi kiếm ăn ở đâu. Tất cả những điều nầy đều do dân chúng trong vùng kể lại cho chúng tôi nghe, cũng như đã được ngài kể lại.


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 15th June 2025 - 10:32 PM