IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Cuộc đời của ngài Achaan Mun, Thầy của ngài Achaan Chah
Diệu Minh
bài Dec 1 2011, 04:48 PM
Bài viết #1


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,057
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



LỜI TÁC GIẢ
Tiểu Sử của đại đức Mahn Bhūridatta mà các bạn sắp đọc là kết quả của một công
trình nghiên cứu lâu dài. Tôi đã tham khảo, đi gặp các vị đại đức đệ tử của ngài. Những
người đã từng sống chung với ngài.
Tôi đã góp nhặt, ghi lại và soạn ra thiên tiểu sử nầy. Tôi hoàn toàn không vừa ý khi
soạn bản tiểu sử nầy, vì thật là rẩt khó để cho các Sư , các vị đã từng sống tiếp xúc với
ngài diễn tả được hểt những kinh nghiệm sổng trong cuộc đời tu tập của ngài mà ngài đã
nói 1ại cho các vị đó nghe. Nhưng nếu tôi chờ có đầy đủ tẩt cả những chi tiết mà các vị đó
nhớ lại, thì không những e rằng thời gian sẻ làm chúng phai nhòa và mất đi, mà hi vọng
ghi chép lại tiểu Sử vể ngài cũng không thành tựu được.
Rẩt là khó, khi tôi phải cho hoàn thành một công việc mà mình chưa vừa ý, nhưng
hi vọng của tôi là tập tiểu sử nầy giúp ích được phần nào các đọc giả quan tâm đến Phật
giáo
Tôi cố gắng mô tả tất cả những hoạt động của ngài theo thứ tự thời gian, và theo lối
hành văn thuật lại đời sống của các vị Thánh Tăng như' đã được ghi trong các kinh
điển, đồng thời cố ghi lại những bài pháp mà ngài đã giảng cho các đệ tử, mục đích là cho
các thế hệ sau thấy tấm gương đạo hạnh của một bậc chân tu, người đã theo con đường
chỉ dạy của đức Phật. Và cho thấy khả năng chứng đạo có thể đạt được như mô tả trong
các kinh điển, nếu như có một sự gia sức, một sự nổ lực thành thật trong việc tu hành.
Xin các đọc giả tha lổi cho tôi nếu như cách trình bày không có gì thích hợp.
Tôi không như ý về tác phẩm nầy, nhưng vẩn xuất bản vì hi vọng các đọc giả Phật
giáo có thể tìm thấy một sự lợi lạc trong việc đọc lại cuộc đời của ngài, đại đức Mahn Bhūridatta.


Tỳ Khưu Mahā Bowa Ñāṇasampanno
Oct, 1971







NHÀ XUẤT BẢN GIỚI THIỆU

Chúng tôi hân hạnh được trình bày, nơi phụ tnương đặc biệt của tập san nầy, thiên
tiểu sử của cố đại đức thiền Sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, bình sanh là vị thiền Sư
nổi danh nhầt trong nước Thái, do một số các đệ tử đồng thời với ngài biên soạn. Tác giả
là đại đức thiền sư Phra Ācham Boowa Ñāṇasampanno, tịnh cư trong rừng chùa Bahn
Tard, thuộc tỉnh Udon , cách xa kinh đô Vọng Các (Thái Lan) lối 600 Km về phía đông
bắc.
Hiện nay có nhiều vị thiền sư trước đã tững là đệ tử của ngài, như đại đức thiền Sư
Phra Ācham Chah đã được nêu tên trong bản của ông Douglax M. Bums nhan đề : chương
trình và dự án thành lập Tăng già Mỹ . Đăng nơi trang 56 của tập san nầy, mặc dầu cố đại
đức thuộc về phái tiểu thừa cải cách, do đức vua Monkut lừng danh trên thế giới lập nên,
nhưng ngài có rất đông đệ tử thuộc cả hai phái, và đại đức thiền sư Phra Ācham Chah có
lẻ là vị đệ tử ưu tú trong phái đại thừa vậy. Quí bạn đọc thiên tiểu sử nầy, chắc thế nào
cũng quay lại bản kêu gọi kể trên của ông.
Như đã nêu trên trong số tân niên của chúng tôi, quyễn sách bằng chử Thái là một
đầu đề tranh luận, vừa bị đã đảo, vừa được hoan hô, giữa nhóm trí thức và nhóm bình dân,
giữa phái thượng lưu và phái hạ lưu, giữa hàng vương giả và hạng bần cùng và giữa chư
Tăng và các thiện tín. Như thế, không phải là vô cớ, bởi vì quyễn sách là một khuyến
khích lớn cho hàng Phật tử hành thiền thấy rằng : Ngày nay, đạo quả cũng vẩn còn giác
ngộ được, nhưng nó đòi hỏi những nổ lực thích ứng chân thành và mảnh liệt của những
bực tu hành già giặn và chính chắn.
Đối với những người chỉ thích lăn lóc trong vũng lẫy tuyệt vọng, một bản tuyên
ngôn như thế làm cho họ đau khổ vô cũng, và họ ném đá đả đão đại đức tác giả, lại còn
mẵng đại đức là kẻ khủng bố, là kẻ phá hoại Phật giáo nữa. Nhưng có vài người lắng tai
nghe bản thông điệp của đại đức, tin tưởng rằng nếu tự họ chưa già giặn đủ để giác ngộ
đạo quả ngay trong kiếp nầy, thì cũng có thể có những người khác đã đến trình độ đó.
Những người nầy sẳn lòng chịu lầm lạc, nếu quả thật họ lầm lạc, chỉ vì tin quá lố – như thế còn tốt hơn phạm nhằm đại tội Ariyūpavāda là mạ lỵ , hay hủy báng một vị thánh
thanh văn. Họ đặt tất cả niềm tin của họ trên cái sự kiện hiển nhiên là trong số những kẻ
chỉ trích Ngài (Phra Ācham Mahn Bhūridatta) Không ai có tài năng bằng ngài, hoặc bằng
phân nửa Ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh, thanh cao, giản dị và thanh
khiết. Ký thác đức tin của ta nơi một người sống một đời chơn chánh thánh thiện, thay vì
đặt ở nơi những người chỉ hứa giúp đở ngoài môi và còn thụ hưởng đủ thứ khoái cảm nhục
lạc, há chẳng đáng khuyên hơn, được lợi ích hơn, và cũng đúng với Phật pháp hơn sao?
Chúng ta tôn thờ và tin tưởng ngài, là người không bao giờ khao khát đệ tử, hoặc tìm cầu danh vọng, và làm gương cho bất luận pháp nào của ngài thuyết, há chẵng tốt đẹp nhiều hơn sao ?
Chúng tôi tin rằng tác phẩm sau đây sẻ được đón tiếp nồng hậu và sẻ bị chỉ trích
kịch liệt, bởi quần chúng độc giả đọc chử anh, không kém nồng hậu và kịch liệt hơn khi
còn nguyên văn chử Thái. Và chúng tôi kính cẩn Xin cầu chúc : Mong Sao cho những
người hằng miệt thị ngài (đại đức , hay cố đại đức ) cũng như những người hằng tôn kính
ngài đều có khả năng làm được như ngài, hoặc bằng phân nửa ngài, trong việc thực hiện
một đời sống phạm hạnh thanh cao và tinh khiết.
Thiên tiểu sử vạch rõ phương pháp tu hành và nếp sống linh động trình bày nơi
đây, chính là của cố Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, cung cấp bởi các đệ
tử đồng thời với cố đại đức, đả từng tu tập dưới sự hướng dẫn của ngài, trong những thời
kỳ khác nhau. Do đó sự chính xác của họ có thể tìn cậy được lắm, dẫu rằng theo lẽ đương
nhiên, chúng ta không thể biết chắc là mổi vị đệ tử của ngài có nhớ được từng lời giáo
huấn của ngài, và từng địa điểm, từng việc biến chuyễn trong đời ngài hay là không?
Nhưng nói đi rồi, còn nói lại, chúng ta không thể chờ đợi cho tới lúc sẻ thành tựu hoàn toàn mỹ mản, chúng ta càng trì hoãn , thì chắc là những chi tiết hay ho, hửu lý càng phai mờ trong ký ức của những đệ tử của ngàì. Và những thế hệ mai sau ắt là thiếu một tấm gương giá trị mà họ có thể soi chung. Vì xét thấy sự kiện nầy mà chúng tôi trình bày.
Thiên tiểu sử sau đây, hi vọng rằng thà còn ít còn hơn không có gì hết. Phương pháp trình bày nơi đây, noi theo gương các bậc soạn giả tiền bối đã ghi chép tiểu sử của các vị thánh Thanh Văn, trong nhiều bản kinh, với hi vọng lưu truyền những gương mẩu cho đoàn hậu tấn. Trong trường hợp, có điều gì bất nhả mà chính cố đại đức thiền sư đã tự thuật, thì soạn giả xin cáo lổi với quí độc giả, nơi đây. tác phẩm nầy được soạn ra với mục đích phụng sự những ai lưu tâm tới khía cạnh Phật gíáo.
Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, lúc bình sanh là vị thiền Sư danh
tiếng nhứt, được tất cả các đệ tử thân cận thật sự tôn kính. Qua các thời thuyết pháp nói
đạo và những lời chỉ dạy về Pháp cao siêu của ngài, nhóm đệ tử thân tín tự nhiên thấy rõ
là ngài hẳn đã chứng đắc quả vị nào rồi mới gây được cái ấn tượng sâu đậm trong tâm họ
ngay từ ban đầu, và về sau luôn luôn dùng để trắc nhiệm sự kiện nầy. Đệ tử của ngài gồm
đủ cả cư sĩ và Tỳ Khưu, có lẽ khắp trong nước Thái và luôn cả trong nước Lào, láng
giềng.
Lịch sử đời sống ngài thật là kỳ diệu, cả trong hai thời : khi còn là cư sĩ và lúc đả tu
Tỳ Khưa, từ ngày đầu cho tới ngày cuối. Nó không có chút tỳ vết bợn nhơ, nên dẩu cho
ngọc kim cương hoặc thứ trân bảo khác cũng không bì kịp sự hy hữa và tinh khiết của nó.


Tháng 6 âm lịch, 1974
(Sư Pháp Minh)







ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU

Tôi có duyên khi đọc được một phần bản thảo tiểu sử của ngài đại đức Mahn
Bhūridatta được viết tay trên cuốn vở học trò 100 trang của Cố Tỳ Khưu Pháp Minh.
Thiền Sư Pháp Minh là một vị Tỳ Khưu được nhiều người biết tới trong Phật Giáo Nam Tông ở VN, vì là bậc chân tu khả kính.
Thiển Sư Pháp Minh sanh năm 15-3-1918 tại làng phước Hải Huyện Long đất, Tỉnh
Bà rịa , Vũng Tàu. Thế danh là Nguyễn Văn Long con của cụ Nguyễn Văn Tài và bà
Phạm Thị Minh.
Xuất gia làm Sa Di vào năm 1965 tại chùa Phổ Minh, Gò Vấp, Gia Định vào ngày
7 thắng 2. Sau đó ngày 6-1-1968, ngài thọ đại giới Tỳ Khưu tại chùa Pháp Bảo ở Mỹ Tho.
Thầy Tế độ là Hòa Thượng Giới Nghiêm.
Năm 1968, ngài rời chùa Bửu Quang ở Gò Dưa, đến núi nhỏ ở Vũng Tàu tìm nơi
độc cư thiền định. Năm 1969 ngài trở lại về Tổ đình Bửu Quang để tiếp tục sự nghiệp tu
hành. Tháng 12 năm 1974, ngài theo lời thỉnh cầu của ban trị Sự Thích Ca Phật đài ở Vũng
Tàu tới đó để hoằng pháp. Năm 1975-76 ngài du hành xuống Tô Châu, Hà Tiên , Rạch
Giá.
Năm 1977 - 80, ngài trở lại Tổ Đình Bửu Quang để tu. Sau đó đến lúc mất ngài
sống hạnh độc cư, trì bình khất thực tại cốc Bình Thủy, gò Dưa , Thủ Đức. Và ngài an
nhiên thị tịch khi ngồi thiền định vào lúc 9 giờ ngày thứ tư, 27 tháng 1 năm 1993 (tức
mùng 5 tháng giêng, năm Quí Dậu)
Từ khi xuẩt gia ngài luôn thực hành pháp hạnh đầu đà khẩt thực, và nguyện không
nằm. Ngài giử hạnh tri túc, thường ít nhận tứ sự cúng dường của chư Tăng và Phật tử.
Ngài thông suốt nhiều ngoại ngữ như tiếng Pháp, Anh, Thái, Khơmer, Pali.
Ngài Soạn dịch nhiều kinh điển : như bộ chủ giải kinh Pháp cú, Sưu tập kệ Pali.
Trước tác nhiểu tác phẩm: Sổ tức quán thực tập, Lâm tuyển pháp, Cổng vào Niểt Bàn,
Chiển Sĩ thượng thặng, Ba cách làm phước, Việc tập tâm, Tứ oai nghi, Hạnh nguyện bồ
tát, Siêu pháp tiểt chế tình dục, Tùy bút pháp hành, Thiền luận, Kệ kinh Tam Bảo Pali, . .
Bản thảo tôi có được của cố thiền sư Pháp Minh do một người bạn đưa thì chỉ có
một phần, vì đây là quà tặng của cố thiền sư Pháp Minh cho thân sinh của vị đó – theo lời
vị đó nói. Nhân duyên đưa đẩy, nên tôi xin lược dịch tiếp từ bản tiếngAnh, để hoàn thành.
Tôi nghĩ cố đại đức thiền sư Pháp Minh khi dịch, thì ngài cũng là muốn cho đọc giả
thưởng thức một tác phẩm hay của Phật giáo.
Tôi hoàn thành tiếp việc lược dịch, những sai sót chắc là có là vì khả năng hạn hẹp
của tôi trong ngôn ngữ , xin người đọc tha thứ. Tôi cũng thành tâm xin sám hối nểu có
điều gì không phải thì do vô rninh không biết mà gây, chớ không chủ ý.
Nguyện xin Phật Pháp được trường tồn. Chúng Sinh an Iạc


Rocky Mountain
Thạch Sơn
2004


NHỮNG NĂM ĐẦU

Thầy Đại đức (Phra Acharn 1 ) Mahn Bhūridatta, sanh vào trong một gia đình Phật giáo vào thứ năm ngày 20 tháng 1 năm mùi, Phật lịch 2413 (năm 1870), tại làng Ban Khambong, quận KhongJiam thuộc tỉnh Ubon Ratchathani. Cha ngài là ông Khamduang, và mẹ ngài là bà Jun (Dung) họ Kaenkaew. Là anh cả trong 8 người con trong gia đình, tuy nhiên khi ngài khuất bóng thì chỉ có 2 người em còn sống mà thôi. Ngài là con đầu lòng, nhỏ thó , nước da trắng hồng. Ngài nhanh nhẹn và tráng kiện lại vừa thông minh, ngay từ thuở nhỏ. Đến năm 15 tuổi, ngài xuất gia tu Sa di , ở chùa làng Khambong. Nhờ ngài hâm mộ việc học hỏi Dhamma (pháp), cho nên không bao lâu ngài thuộc lầu những bài kinh của thầy ngài dạy. Tánh tình và hạnh kiểm của ngài củng đáng tín nhiệm, không bao giờ gây rắc rối cho bạn bè và bậc trưởng thượng.
Nhưng, hai năm sau khi xuất gia tu sa di, ngài phải hoàn tục, để đáp lại lời thỉnh cầu của cha ngài đang cần đến ngài phụ giúp trong gia đình. Nhưng nếp sống thanh bạch đã có ảnh hưởng xâu xa trong tâm hồn ngài. Ngài không bao giờ quên nó được. Cho nên ngài lập chí nguyện sớm muộn gì ngài cũng sẻ trở lại đường tu. Đây rất có thể là mảnh lực của một đức tin bất thối chuyển, hoặc Saddhā (chánh tín) đã được gắn chặt vào tâm tánh ngài.
Về sau, khi ngài 22 tuổi, tiếng gọi của đời tu phạm hạnh có vẻ thúc giục thiết tha. Ngài bèn cáo biệt song thân. Hai ông bà cũng sẳn lòng chấp thuận và sốt sắng lo liệu việc ngài xuất gia tu lên Tỳ Khưu. Hai ông bà thỏa thích chuẩn bị nhu dụng của Tỳ Khưu cho ngài, rối đưa ngài đi xuất gia tại chùa Liap trong thành phố của tỉnh Ubon Ratchathani. Có đại đức Phra Ariyakawi là thầy tế độ (Upajjhāya), đại đức Pha Khru Sitha là thầy Kiết ma ( Kammavācariya), và đại đức Phra Khru Prajuk Ubonkhun là thầy chỉ dẩn (anusāsanācariya) vào ngày 12 tháng 6 dương lịch (năm 2436 Phật lịch). Sau lể xuất gia, ngài có pháp danh là Tỳ khưu Bhūridatta 2. Xuất gia rồi ngài chăm lo học thiền Minh sát ( Vipassanā) với đại đức Sao 3 tại chùa Liap.


ĐIỀM MỘNG TIÊN TRI

Lúc mới khởi sự hành thiền minh sát với Thầy đại đức Sao, ngài Bhūridatta đã chọn pháp môn niệm Phật làm đề mục thiền quán mà ngài thích nhất. Ban đầu, không đem đến cho ngài sự tịnh lạc, an vui theo ý nguyện khiến cho lắm lúc ngài hoài nghi giá trị của nó. Nhưng ngài bền chí gia công niệm mãi, và cuối cùng, ngài đã đạt được một độ nhất tâm và hưởng được sự an vui tịnh lạc quá sức hy vọng của ngài.
Thế rồi, một đêm nọ, ngài nằm chiêm bao: Ngài mơ thấy mình đi ra khỏi cổng làng, băng ngang một khu rừng rậm, có nhiều chổ cây cối mọc chi chít, chằng chịt, không chừa một lối đi. Nhưng ngài ráng sức vượt qua tất cả chướng ngại và sau cùng thoát ra khỏi khu rừng, để thấy một cánh đồng không mông quạnh, thẳng tắp tới tận chân trời, ngài lại tiếp tục cuộc hành trình với những nổ lực không ngừng.


1. Phra Acharn : Thầy đại đức ; tiếng Thái, dùng để tôn kính gọi Tăng
2. Bhūridatta : (có nghĩa là nhiều trí tuệ) là tên của vị Bồ tát, tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thực hành hạnh Ba la mật. Vì bồ tát muốn thoát kiếp làm rồng nên lên nhân gian thực hành tu bát quan trai giới, và tu thập thiện giới. Và Ngài đã phát nguyện rằng: "Kẻ nào mong được da, thịt, máu và xương trong thân thể ta, thì tùy sở thích". Do đó, tuy bị thầy rắn làm khổ sở đau đớn, nhưng thay vì dùng oai lực thần thông của mình để bảo vệ mình Ngài lại chấp nhận mọi sự khổ đau để giử lời nguyện, và thực hành được xâu xa pháp nhẩn nhục Ba la mật (Khanti pāramī).
3. Thầy Đại đức Sao Kantasīlo (1859-1942) : là người sanh ở tỉnh Ubon Ratchathani. Là vị thầy hướng dẩn giới thiệu ngài pháp tu thiền đề mục hay thiền nghiệp xứ (kamma-ţţhāna):
Dọc đường, ngài gặp một cây đại thọ nằm chắn ngang lối đi. Cây nầy thổ ngử Thái gọi là Jāt 4 (hay cây Sanh). Thân cây rất to lớn, bị hạ đã nhiều năm qua, hiện còn nằm lún dưới đất một phần, vỏ và ruột đã mục nát hiện rõ nên ngoài. Ngài bèn trèo lên đi trên thân cây mục ấy, và quán sát thấy rỏ là nó đã hết phương mọc lại được nữa rồi. Khi ấy, ngài biết rằng sự sanh của ngài trong vòng tử sanh sẻ phải chấm dứt. Thân cây Jāti (sanh) ngã nằm đây ngài xem như những kiếp sanh của ngài trong vòng luân hồi. Thân cây đã hết phương mọc được tượng trưng cho sự sanh của ngài lần này sè là lần cuối, nếu ngài kiên tâm nổ lực không ngừng. Còn cánh đồng bao la, rộng khắp bốn phương trời, tượng trưng cho cái vòng tử sanh bất tận.
Ngài còn đang đứng trầm ngâm quán sát những nghĩa lý nầy thì bổng hiện ra một con ngựa kim màu trắng to lớn đi về phía ngài và đứng bên thân cây sanh. Tự nhiên ngài mong muốn cỡi nó. thế là ngài lên ngựa, và nó tức khắc phi nước đại chạy đi. Ngài không có ý quyết định đi đâu hoặc làm gì cả, chỉ biết là mình đã đi được một quãng đường rất xa, trong cánh đồng mênh mông vô cùng tận. Trên đường, ngài nhìn thấy một cái tủ lộng lẩy chạm bạc công phu trong có chứa một bộ Tam tạng kinh. Dường như chiều theo ý ngài, con ngựa đưa ngài đến trước tủ đựng Kinh. Ngài xuống ngựa với mục đích là mở cửa tủ Kinh, thì lập tức con ngựa biến mất. khi ngài bước tới thì lại thấy chổ đang đứng là bìa một khu rừng rậm hoang vu, mịt mù khói tỏa, đầy gai góc, lùm bụi xoắn chặt nhau không thấy lối đi. Khi ấy ngài định mở cửa tủ Kinh để xem thì ngài thức dậy.
Điềm tâm ảnh (Nimitta) nầy khiến cho ngài tin chắc rằng ngài sẻ có thể đạt đạo, chứng quả trong hiện kiếp, nếu như ngài không bỏ dở dang những nổ lực của ngài. Từ đó trở đi ngài càng tinh chuyên trì niệm danh hiệu Phật trong mọi lúc.
Đồng thời ngài nghiêm trì những hạnh đầu đà mà ngài chấp thọ từ lúc thọ Tỳ Khưu, nghiêm chỉnh thực hành cho đến lúc mất.
Đó là những hạnh :1.Mặc y phấn tảo, từ chối những y dâng đến tận tay _ 2. Đi bát hằng ngày không sót, trừ những ngày phát nguyện nhịn ăn _ 3. Không thọ vật thực đem đến sau _4. Chỉ thọ vật thực để trong bát khi ngài đi trì bình _5.Mổi ngày chỉ ăn một bửa, và độ trong bát _6. Chỉ mặc Tam y – ngài có dùng khăn mặt (dùng để lau thân mà đó là điều cần thiết trong thời đại nầy _7. Ngụ trong rừng, có nghĩa sống và ngủ trong rừng hay nơi hoang dã trong hang núi, hoặc dưới hòn đá cheo leo (trừ ra khi có người thỉnh ngài vào tỉnh thành trong một thời gian ngắn).
Ngoài ra đôi lúc khi ngài có thể ngài cũng thọ thêm những hạnh khác trong 13 hạnh đầu đà. Tuy nhiên trong suốt cuộc đời ngài đã nghiêm trì 7 hạnh đầu đà trên và đó trở thành nhân cách sinh hoạt thường ngày, và khó có thể tìm được người như vậy.
Ngài luôn lôn kiên trì và quả quyết không bao giờ đổi ý trong bất cứ việc gì mà ngài đã quan tâm nghĩ tới, dầu là pháp hành bên ngoài (hạnh đầu đà , v. v..) hoặc hoạt động nội tâm (Minh sát).
Đời sống của ngài là sự hoàn toàn dùng cho mục đích giải thoát, với những nổ lực xả ly liên tục trong việc tiêu trừ phiền não bên trong. Có rất ít dịp may cho tánh cống cao ngã mạn lẻn được vào tâm trí ngài, mặc dầu thật tế , lúc bấy giờ ngài vẩn còn là hạng phàm phu như bao nhiêu người khác. Nhưng , ngài khác hẳn họ ở chổ : thay vì để tâm bay nhảy tự do, bị phiền não sai sử thì ngài thường trực ở trong tỉnh thức, phòng ngừa các thứ phiền não, và luôn khởi chiến và tấn công nó một cách can đảm. Điều nầy, về sau , ngài có thuật lại chúng tôi mới biết.
Sau đó khi tâm ngài đã được thiết lập vững vàng, tiện dụng cho việc suy tư quán xét, ngài mới hồi tưởng đến điềm chiêm bao khi trước và dần dần hiểu rõ : nếp sống của một gia chủ, là nơi tụ tập của tất cả mọi thứ khổ, giống như khu rừng già là nơi chứa chấp mọi thứ tai nạn. Trái lại , nếp sống phạm hạnh tu theo pháp Phật , chuyễn hóa tâm thức khỏi thế giới độc hại hiểm nguy tới một khoảng không bao la là cảnh giới của sự an lạc, thoát khỏi những sợ hải, đau khổ .


4. Tương tự trong tiếng Pali là Jati nghĩa là sanh, (gồm luôn sự chết )
Còn con bạch mã cao lớn ngài cỡi chính là đường lối tu theo pháp Phật, là đường đạo giải thoát, nhờ nó mà đưa ngài đến nơi tự tại. Và khi gặp tủ bạc chạm trổ công phu, chứa Tam tạng kinh mà chỉ có thể nhìn, vì lẽ ngài còn bất toàn, nên chưa đủ khả năng học hiểu trọn cả bộ Tam Tạng, do đó ngài không thông suốt về mặt văn hóa của Phật giáo, như vậy ngài không trọn vẹn đạt tuệ thuộc về bốn loại đó là : 4 vô ngại biện tài 5 , cần thiết cho một vị pháp sư biện tài vô ngại, thông suốt nghĩa lý và phương pháp giáo hóa, có trí tuệ cao sâu như trời biển, khả dĩ làm thầy của tất cả chúng sanh trong tam giới 6. Theo lời ngài, thì ngài chưa đầy đủ pháp ba la mật để đạt được mục đích nầy, và đó là lý do khiến cho ngài chỉ được nhìn bên ngoài tủ kinh Tam tạng chứ không mở đọc thông suốt toàn bộ giáo lý bên trong. Ngài tiếp lời rằng : ”Khả năng dạy dỗ người khác của ngài chỉ có thể xem như là sơ đẳng hoặc nhập môn để chuyển tiếp tới những pháp tu cao hơn “. Về sự kiện nầy dầu cho nó hiển nhiên chăng nữa, thì đối với các đệ tử thân tín đã được học hỏi, và tu hành dưới sự hướng dẩn của ngài, thì có một việc rõ ràng là mổi đề tài giảng đạo, thuyết pháp của ngài đều phi thường và cảm kích làm sao, thật không thể dùng lời nào mà tả cho xiết ! Ở thời đại mới, người ta biết tìm đâu ra một lối giảng dạy Dhamma ăn sâu vào tâm thức mà không bao giờ quên được ?
LINH ẢNH TRONG THIỀN ĐỊNH

Trong thời gian ngài đang tham thiền, với đề mục niệm Phật (Buddho) ở tại chùa Liap. có một hôm tâm ngài lắng dịu và một linh ảnh hiện ra : trước mặt ngài, một tử thi thúi rục, sình chương, bị những con thú ăn dơ như là kên kên, quạ và chó tranh nhau sâu xé . .. và không bao lâu, tử thi ấy bị rứt ra từng mảnh, rải đi khắp cả mặt đất chung quanh, thấy vậy ngài xúc động mảnh liệt, vừa nhờm gớm, vừa mõi mệt. Sau khi tâm ngài rút ra khỏi từng thiền, ngài kềm giử cái linh ảnh trong tuệ nhản của ngài làm đề mục chánh trong mọi lúc cả ngày lẩn đêm, trong bốn oai nghi : đi, đứng, nằm, ngồi . Ngài tiếp tục quán tưởng cho đến một ngày kia, hình ảnh tử thi đó biến thành ra một cái đĩa tròn trong suốt lơ lững trước mặt, quán cái đĩa nầy lâu thì thấy hiện ra đủ thứ cảnh vật khác nhau, những hình ảnh không ngớt thay đổi liền liền, chắc là kết quả của tánh hiếu kỳ của ngài đang khao khát muốn coi thử cái gì sẻ tiếp theo. Có lúc, hình như ngài đang trèo lên những hòn núi cao, kế đó ngài lại thấy mình cầm một thanh kiếm và mang một đôi hia, rồi đi bách bộ trên núi, một lúc khác, trước mặt ngài bổng hiện ra một bức tường cao lớn có một cánh cửa, ngài mở cửa ra nhìn thấy một vài vị Tỳ Khưu đang tham thiền phía bên trong.
Kế đó, phong cảnh mở rộng ra cho thấy những sườn núi cheo leo và hang đá gần đâu đó, trong vài cái hang lại có đạo sĩ ẩn cư. Lại một lúc khác nữa, ngài thấy món đồ giống như cái nôi hoặc cái thúng từ sườn núi thòng xuống.


5. Catu Paţisambhidā : Bốn tuệ vô ngại biện tài: 1. Biện tài về nghĩa ( attha-Paţisambhidā) trí về nghĩa: là biện tài giảng dạy minh bạch một giáo lý vắn tắt, có khả năng dự đoán tiên tri những hậu quả, quán thấy chuyện vị lai. Ngài Ca Chiên Diên (Katyayāna) là vị đệ nhất về nghĩa đế. 2. Biện tài về pháp (Dhamma-Patisambhida) trí biết về pháp: là khả năng ngược lại biện tài về nghĩa, có khả năng tóm gọm những chi tiết phức tạp, và mô tả dài dòng, để cho dễ nhắc sơ qua và ghi nhớ, quán thấy chuyện quá khứ. 3.Biện tài về ngôn từ (Nirutti- Paţisambhidā) trí biết về tất cả ngôn ngử , văn tự để trình bày pháp và nghĩa 4. Biện tài về trí (Paṭibhāna- Paţisambhidā) trí biết về các loại trí hoặc biện thuyết vô ngại: là thông suốt cách trình bày và giảng thuyết cho thích ứng với mọi trường hợp.biết áp dụng các phương tiện thiện xảo cho từng trường hợp. có khả năng giải quyết ổn thỏa một tình trạng khủng hoảng hay biến cố bất ngờ.
6. Tam giới : Là ba cõi sinh tữ : 1. Dục (có nam nữ dâm dục), 2. Sắc (không có nam nữ , tâm của chúng sanh nhập định hữu sắc, nghĩa là đề mục thiển định là vật hữu hình) và 3. Vô Sắc giới (không có sắc thân chỉ có thần thức, tâm của những chúng sanh đã nhập định vô sắc : nghĩa là đề mục không phải là vật hữu hình).
Ngài thấy mình bước vào trong cái thúng ấy và được nhấc lên khỏi vực thẳm để thấy một chiếc thuyền to trên đó, trong thuyền có cái bàn vuông. Khi ấy, hòn núi bật sáng lên vì có ánh sáng phía sau nó. Và sao đó ngài lại thấy mình độ cơm trên đỉnh núi đó nữa. Đó là cách phong cảnh đổi thay biến hiện liền liền trước mặt ngài, như phim chớp bóng, chứ không dẩn ngài tới đâu cả.
Ròng rả ba tháng trường, cứ hể ngồi thiền nhập định là ngài toàn thấy những cảnh tượng không đâu ra đâu, biến hiện không ngừng, không biết đến bao giờ mới dứt. Còn kết quả nội tâm thì chẳng có chi đích đáng cả. Sau những thời tọa thiền kiểu đó, thì tâm ngài trở nên xúc động mạnh đối với hình ảnh và âm thanh bên ngoài. Khiến cho ngài khi vui, khi buồn khi thì thích điều nầy, khi thì ghét điều kia. Hiển nhiên là ngài không thể giử được tâm bình đẳng, điềm tĩnh bằng cách ấy.
Bấy giờ ngài tĩnh ngộ, tin chắc rằng đó không phải là chánh đạo đưa đến giải thoát. Nếu nó đúng thì tại sao không thể kiên định giử được trạng thái an nhiên, tự tại của tâm. Ngược lại tâm ngài lại bị phân tán, dao động trước những sắc bên ngoài mà tâm tiếp xúc – cũng giống như người bình thường không có tu tập gì cả . Rồi ngài kết luật rằng : “chắc chắn là việc săn đuổi, hoặc sự chú tâm hướng theo cảnh bên ngoài, là nghịch với nguyên tắc hành thiền, đoạt mất sự an lạc bên trong do hành thiền mang lại”.


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
Diệu Minh
bài Dec 1 2011, 04:56 PM
Bài viết #2


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,057
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



NHỮNG CHÚNG SANH HOÀN HẢO

Có một việc kỳ diệu xảy ra cần được nói ở đây.
Một hôm có một phái đoàn đông đảo chư Thiên tới thăm ngài. Vị thiên chủ bắt đầu bằng lời như sau:
“Ngài ở đây, mang lại sự hoan hỉ cho các Trời, Thần. Chúng tôi có cảm giác rất vui khi được hòa quang của ngài tõa chiếu đến. Hào quang của ngài thì rất đặc biệt không thể so sánh được , cho nên chúng tôi biết ngài ở đây. Khi ngài giảng pháp cho Tỳ Khưu , Sa Di hay Cư sĩ âm thanh của ngài cũng vang dội tới các thế giới cao thấp khác nhau. Chỉ có kẻ chết mới không nghe tiếng ngài ”.
Tôi muốn trình bày ở đây là chính bản thân tôi không được nghe Thầy nói, nhưng được nghe từ người đáng tin cậy kể lại và lúc đó Đại đức hỏi rằng : “Nếu các thế giới có thể nghe thấy tiếng người của ta, thì tại sao loài người chỉ ở chút xa không nghe được” thì vị Trời trả lời rằng :
"Thưa đại đức , loài người biết gì về đức hạnh ? Họ chỉ dùng 6 giác quan để tạo nghiệp ác mà thôi. Họ chỉ tạo các ác nghiệp từ lúc sơ sinh cho tới lúc chết , họ không biết thế nào là thiện , ác cho dù họ được sinh ra làm người. Chỉ có một số rất ít biết dùng thân người trong việc đúng . Số nghiệp thiện, đức hạnh loài người có rất ít, thí dụ như sau loài người chết sống cả hằng trăm lần, cũng chĩ bằng loài Trời chết sống một lần, còn Trời phạm Thiên còn sống lâu hơn nữa. Loài người thì rất đông, nhưng đông của kẻ không biết gì . Chỉ có một số ít biết mà thôi. Loài người có nhiệm vụ gìn giử giáo pháp của Phật (Sāsana), nhưng họ lại không biết sự cao quí của pháp, và coi thường bỏ phế.
Kẻ ác thì chỉ biết điều ác. Họ tự cho là loài người nhưng họ chỉ biết họ đang sống mà thôi, khi mà hơi thở không còn thì họ bị chôn vùi trong đống nghiệp mà họ tự tạo. Loài trời biết được thì làm sao loài người không biết được điều đó ? Không có gì là bí mật cả. Khi một kẻ vừa mất đi, thì thân nhân mời Tăng đến đọc một bản kinh để chúc lành, nhưng Tại sao họ được nghe ? Khi mà thần thức rời thân , thì họ đã bị trói buộc bởi nghiệp lực, làm sao có cơ hội mà nghe pháp. Ngay cả lúc sống còn không muốn nghe huống gì lúc chết. Chỉ có người sống nghe pháp được, nếu họ mong muốn. Nhưng hiển nhiên người sống cũng không muốn. Ngài đã không thấy vậy sao ? Có khi nào họ thật tâm thành ý lắng nghe lời tụng của Tăng. Thật sự trong tâm họ không có giáo pháp, họ chỉ đam mê những cái mà loài thú cũng đam mê. Đó là những gì họ thích thú vào, ngay cả khi chết họ cũng chưa chịu từ bỏ. Loài Trời biết rõ về loài người hơn là loài người biết gì về loài Trời. Kính thưa ngài cao quí ! một vị Tăng đáng qui ngưỡng. Ngài đã hiểu rõ các loài Trời, người , giống địa ngục và các loài khác. Chính vì vậy mà loài Trời đến qui y với ngài.” Khi dứt lời đại đức hỏi tiếp :
“Các vị, loài Trời có thiên nhản thông, thiên nhĩ thông thấy, nghe xa hơn loài người. Biết điều tốt , xấu của loài người hơn là chính họ biết . Có cách nào làm cho họ biết đúng sai ? Tôi cảm thấy quí vị có khả năng hơn các thầy loài người” .
Họ đáp :” Chúng con , loài Trời đã thấy nhiều người nhưng ngài thì rất đặc biệt. Ngài luôn có từ tâm như nhau đối với loài Trời và loài người. Ngài cố gắng dạy họ. Thật sự có cõi Trời và các cõi khác ngoài thế giới con người đang sống. Nhưng vì đời nầy, qua đời kia không ai thấy loài Trời , nên chẳng ai tin cả. Nếu có thấy chút gì về các hiện tượng lạ huyền bí thì họ lại cho thấy ma. Không có cách nào mà loài Trời chỉ dạy loài người . Loài Trời có nhật thức về loài người nhưng loài người thì không . Chúng con chỉ để nghiệp lực vận chuyển chứ không làm gì được cho loài người. Ngay cả chúng con cũng bị nghiệp lực chi phối, nếu chúng con không còn thì đã đạt được Niết Bàn". Ngài hỏi : “Loài Trời biết khi nghiệp lực không còn thì tới Niết Bàn, thế thì loài Trời biết gì về Niết Bàn, và các vị có đau khổ không ?”. Họ trả lời:
“Kính thưa ngài , tại sao lại không ? Vì các đức Phật ai cũng chỉ dạy thoát khổ , mà không ai dạy sống trong đau khổ . Loài người thì không hứng thứ gì về điều nầy. Còn loài Trời chúng con, tất cả đều có khái niệm về Niết Bàn, nhưng chúng con còn phải thoát khỏi lưới nghiệp dầy nặng của chúng con, trước khi tiến tới Niết Bàn. Nếu còn chút nghiệp , cho dù tốt hay xấu, thì cũng vẩn còn trong vòng tử sanh.”
Đại đức hỏi :”Có nhiều vị Tăng nào khác tiếp xúc với các vị không ?” họ đáp: “ Thưa ngài có nhưng không nhiều, đa số họ ở trong rừng núi.” Hỏi : “Người thường có khả năng nầy không ?”.
Đáp :” Thưa ngài có, nhưng rất hiếm, nhưng họ phải là người biết pháp , biết tu tập cho tâm trong sáng , thì khi đó họ mới có khả năng thấy chúng con “.
Hỏi :"Trong kinh thường nói loài Trời ít dám đến gần loài người vì mùi hôi, mùi hôi gì vậy?, Nếu thế thì tại sao các vị lại đến thăm tôi”.
Đáp :” Người mà có đức hạnh cao thì không có mùi hôi, mà còn có mùi thơm, chúng con không bao giờ nhàm chán, gần gũi những người như vậy. Chỉ có người không có đức hạnh thì mới hôi. Nững người có những hạnh tà vạy xấu xa, dù có người tưởng rằng đó là việc làm tốt. Những người đó đáng sợ và hôi hám chúng con không dám dến gần. Chẳng phải là chúng con không muốn gần loài người, Nhưng đó là những gì mà loài Trời gặp phải khi tiếp xúc với loài người “
Khi nghe thầy kể lại các đệ tử chăm chú, hứng thú nghe quên cả thời gian, và ai cũng muốn mình cũng có khả năng như vậy. Cũng chính những lúc nầy đại đức hay kể về tiền kiếp của ngài, làm một số người nổi tính tò mò dục vọng, muốn có thần thông, mà quên đi rằng công việc chính là giải thoát khổ đau và Niết Bàn. Khi có chánh niệm thì họ lập tức tự trách mình :” Thật là điên rồ, chuyện giải thoát đau khổ trước mắt không lo, mà ta lại đi tìm bóng ma của quá khứ ”. Do đó các Tăng không ai nhắc tới việc thần thông.
Việc đại đức tiếp xúc với các loài Trời Thần, mà ngài kể lại cho chúng tôi rất lý thú. Có lần ngài nhắc tới thế giới ma mà những việc làm côn đồ cũng xảy ra giống như loài người . Những kẻ xấu đi gây xáo trộn cũng bị bắt nhốt vào một nơi, như ở nhân gian người ta gọi là nhà tù. Có tù nặng nhẹ, nam cũng như nữ. Tội khác nhau giam giử nơi khác nhau. Có loại rất dữ, nhìn vào mắt chúng thì biết chúng không xúc động trước lòng từ , lòng trắc ẩn.
Ma cũng chung sống như con người sống trong các thành phố, nhưng rất rộng lớn hơn nhiều, cũng có các ma chúa thủ lảnh cai quản ma dân. Có một số ít cũng có đạo đức mà các ma khác đều tôn trọng. Bản năng tự nhiên của loài ma là rất kính sợ những ai có quyền lực và uy quyền cai trị. Họ thật sự kính sợ chớ không phải là sự xu nịnh. Đại đức thường tuyên bố rằng các ma chúa có nhân của việc tốt nhiều hơn nhân của việc ác. Đó là điều mà ngài nhận thấy ở thế giới loài ma. Những chúng sanh nầy có nhiều phước nhưng vì nghiệp của họ nên phải sanh vào loài ma, tuy nhiên do có phước lớn nên họ cai quản một số đông dân ma. Trong thế giới ma thì không phân chia giai cấp như loài người. Tất cả đều bị chi phối bởi hoạt động của Pháp , của nghiệp của giống ma. Danh từ cai quản cầm quyền ở đây thì không giống như ở thế giới loài người. Đại đức kể nhiều chi tiết, nhưng xin lổi là tôi nhớ rất ít mà kể lại.
Đại đức viếng thế giới qua việc nhập định, khi ma thấy ngài thì họ kêu gọi nhau đến để dảnh lể ngài, và ma chúa rất tôn kính vào tin tường vào đại đức. Khi ngặp ngài sau khi thăm hỏi ma chúa dẫn ngài đi thăm tất cả những nơi ma ở và các nhà tù nơi giam giử các ma nam , nữ phá rối trật tự gây xáo trộn. Ma chúa giải thích điều kiện sinh sống của từng giống ma. Ma là danh từ loài người gắn cho “ma”, thật ra cũng là một chúng sinh sống trong một thế giới trong số vô vàn thế giới.
Đại đức thích ở vùng rừng núi, và sau khi ở một thời gian dài ở Nakhon Phanom để giảng dạy các chư Tăng cùng giáo hóa dân chúng, ngài thường quán mình và cảm thấy đến lúc ngài dành một thời gian cho sự tu tập của ngài. Vì đại đức biết rằng ngài vẩn còn chưa đủ năng lực để tiến tới đích cuối cùng. Vì khi giáo hóa chúng sinh thì ngài đã hoản việc tiến tới của mình. Ngài cảm thấy ngài cần phải gia tăng nổ lực thêm một lần nữa để đạt tới đích và xóa bỏ mọi chuyện phải làm cho mình (bậc vô học), kể từ khi rời vùng cao nguyên trung phần tới vùng rừng núi Đông bắc, tâm ngài phát triển chậm. Lúc đó có mẹ ngài sống 6 năm gần ngài như là Ưu Bà Di, sau khi hỏi sự đồng ý của mẹ thì ngài cùng bà và số đông Tăng rời vùng Nakhon Phanim di chuyển tới tỉnh Ubon Ratchathani, băng ngang dãi núi Nong Sung qua Kham Cha-ee và tới quận Lerng Nok Tha trong tỉnh Ubon Ratchathani. Năm đó ngài an cư ở Ban Nong Khon ở quận Amnat Charoen. Khi đó danh tiếng ngài đã vang dội số người đến với ngài tu học rất đông. Ngài nghiêm khắc chỉ bảo các Tăng.
Một đêm khi ngài nhập định, thì thấy có hình ảnh như sau: một số đông Tăng cùng Sa Di đi nghiêm trang sau ngài, nhưng có một số vội vả vượt qua ngài , không tõ thái độ cung kính, có người đang tìm cơ hội vượt qua trước ngài, trông không có một chút nào uy nghi trang nghiêm cả. Và cuối cùng có vài người đang cầm thanh tre đâm vào ngực ngài khiến ngài khó thở. Điều trông thấy nầy làm ngài đau lòng. Ngài vội hướng tâm nhìn về tương lai của những vị đó, thì hiều rằng những ai đi ngay ngắn sau ngài là những vị hiểu biết đúng đắn và theo lời ngài dạy bảo, là những vị kính thầy, trọng Tăng và tôn trọng giáo pháp của Phật, gìn giử pháp Phật không cho mai một, và tương lai là người mà Trời, người tôn kính. Còn những vị không tõ vẻ tôn kính, lấn vượt qua ngài là những người kiêu căng tự phụ cho mình là biết hết, và giỏi hơn thầy, mặc dù chính thầy đã chỉ dẩn cho họ. Họ coi thường Tăng đoàn, vì họ cho họ là đã biết rõ giáo pháp, như vậy không những hại họ còn hại cho Phật pháp, kể cả những người sau nầy muốn chỉ dạy cho họ. Tâm tai hại đó không những làm hại mình còn làm hại người khác, và các thế hệ sau nữa, vì họ không biết mình đang đi trên con đường đúng hay là sai.
Còn những vị định đang vượt qua ngài thì là những người sắp giống như các vị trước. Những người hại mình và hại người và là những kẻ phá hoại Phật pháp, làm cho Giáo Pháp Phật tàn lụi, biến mất trên thế giới loài người.
Còn người đâm ngài, là những vị coi mình là hơn ai hết, và hành động theo đó, chẳng biết đúng sai, không biết nhân quả , hơn nữa là gây rắc rối cho Tăng đoàn và thầy của họ nữa. Đại đức cho biết rõ, ngài biết chắc ai là ai trong số các đệ tử đó. Ngài rất buồn vì các đệ tử đó, những vị đã được ngài tận tâm dạy dổ và ban phước lành cho phép an cư kiết hạ ở khu vực gần đó.
Đúng như vậy, vài ngày sau đó phái đoàn nhà nước đến thăm tu viện tháp tùng theo họ, là các Tăng đâm ngài, mà ngài đã thấy trong lúc thiền định. Ngài không nói gì cả chỉ quan sát hành đông của họ. Tất cả họ yêu cầu ngài giúp phái đoàn trong việc xây dựng vài trường học trong vùng vì đây là chính sách của nhà nước, Tất cả đều đồng ý là phải nhờ ngài nói giúp, vận đông dân chúng trong vùng vì đại đức là người có uy tín , được nhiều người biết tới. Họ nghỉ rằng công việc sẻ hoàn thành nếu ngài giúp tay.
Khi được lý do mà họ viếng thăm, thì ngài ngay lập tức biết rằng hai vị Tỳ Khưu đi theo đoàn là nguyên nhân chính gây ra công việc nầy. Sau đó ngài kêu gặp riêng hai vị Tăng, và chỉ bảo họ phải sống sao cho đúng bổn phận của một vị Tỳ Khưu.
Câu chuyện nhắc lại ở đây giúp cho đọc giả thấy cái kỳ diệu của tâm, Tâm có khả năng biết việc bên ngoài, việc dấu bên trong, việc quá khứ , hiên tại, cũng như việc ở tương lai. Đại đức Mân là một tấm gương điễn hình. Ngài là một Tỳ Khưu vượt bựt trong thời nay trong cách hành đạo cũng như Trí tuệ (phát sinh do tu định và tuệ). Có những lúc đại đức nói trực tiếp có lúc nói gián tiếp dạy người, vì bài học về chuyện vị Tỳ Khưu già ở gần động Sarika nên ngài rất cẩn thận trong việc hiển bày chân lý nội tâm cho kẻ khác mặc dầu ngài thiết tha muốn giúp họ.
Thông thường khi nói người này nghĩ sai, người kia nghĩ đúng ngài không nói trực tiếp nêu tên vị ấy, nhưng sự trình bày thẳng thắn, làm người nghe cảm động và kẻ có lổi biết sợ. Nếu ai không nghe lời thành thật của ngài thì bất hạnh cho vị ấy, vì đó là những lời nói thật làm vị trỡ thành kẻ hữu dụng. Dù không nêu tên nhưng đôi khi có kẻ sợ đến nổi phải sám hối trước đại chúng. Đại đức là vị Thầy rất nhuần nhuyễn trong việc dạy bảo các đệ tử.
Có lẽ vài đọc giả cảm thấy khó chịu khi tôi nói ra những điểu nầy , tôi thành thật xin lổi, tôi muốn ghi lại chân thật những gì liên quan tới ngài. Những đệ tử lâu năm, và sống với Tăng đoàn của ngài đã công nhận những điều tôi ghi lại.
Thường thì những ngoại cảnh làm tâm xao động như hình dáng, âm thanh, mùi , vị, sự đụng chạm thân, hay hình dáng người khác phái, là những đề tài mà đại đức khiển trách trực tiếp hay gián tiếp. Dĩ nhiên Tăng cũng có những ý tưỡng khác, nhưng ngoại trừ nghiêm trọng còn không ngài không lưu ý tới nhiều.
Thời pháp tối là giờ quan trọng nhất trong ngày. Đại đức muốn cho đại chúng thân tâm được tĩnh lặng. Trong khi nghe và giảng pháp ngài không muốn thành viên trong Tăng đoàn hay ngài bị quấy nhiễu. Nếu có ai trong chúng khi nghe pháp mà tâm đi nơi khác, nghĩ điều xằng bậy, ngài liền sửa trị ngay lập tức, như tiếng sét đánh tan ngay tư tưởng xấu, dù không nói tên ra nhưng thường vị đó run lên, như muốn xỉu. Các vị Tăng khác cũng cảnh giác, kiềm thúc tâm ỳ, sợ mình không khéo cũng y như vị kia. Những “tiếng sét” phát ra liên tục trong buổi pháp làm khán thính giả có chánh niệm và tập trung. Nhiều vị đạt định (sự tập trung cao) trong thời pháp, còn ai không có khả năng đó thì cũng có chánh niệm vì phải kiềm thúc tâm ý không cho nó đi lang thang.
Do đó Tăng chúng ở với ngài đều phát triển được căn bản vững chắc trong việc tập trung. Càng ở lâu vơi ngài thì cách cư xử bên trong cũng như bên ngoài hòa hợp với ngài. Ở lâu học tập trong sự giáo dục nghiêm khắc của ngài thì sẻ thấy các phương tiện thiện xảo của ngài trong cách dạy, và người đó sẻ ham thích giáp pháp và thực hành giáo pháp , cho đến lúc tự mình có thể tự lập.
Còn ai không tiến bộ khi ở với ngài, thì thường là chú ý bề ngoài nhiều hơn là nội tâm. Thí dụ như bị ngài khiển trách vì tâm ý chạy lăng xăng bậy bạ, hay hành vi không đúng thì thay vì thật tâm sửa đỗi bên ngoài và bên trong, thì chỉ làm qua loa lúc bị khiển trách, rồi thì sau đó chứng nào tật nấy, không có nghị lực mà thay đổi cách suy nghĩ , thói quen. Tập khí lâu đời cứ giử đó mà sống. Lúc đến cũng như đi không có gì thay đổi. Thật là vô lý khi đi tìm thầy giỏi để học mà mà ta không chịu sữa đổi lề lối củ không tốt của ta.
Đã nói về tập khí lâu đời thì bản thân tôi cũng vất vả gian nan, trong việc sửa đổi lề thói củ. Mặc dầu được sống chung với tấm gương sáng như đại đức với sự giáo dục nghiêm minh mà đôi khi phiền não quá sâu dầy cũng làm cho tôi mất chánh niệm bị ru ngũ bởi chính nó, mà vẩn hành xử theo thói củ. Do đó nếu chúng ta không luôn luôn cảnh giác, quán sát thân tâm với chánh niệm cùng giáo pháp hổ trợ thì khó mà nhổ bỏ gốc rể phiền não.
Đại đức rời Ban Nong Khon vào mùa khô, trên đường trở về làng xưa, ngài dừng chổ này vài ngày chổ kia một bửa cho tới khi về làng, có mẹ ngài cùng đi theo. Về làng , ngài ở đó giáo hóa dân chúng cho tới khi họ cảm thấy thông suốt, xong ngài từ biệt gia đình đi về miền Trung nguyên.
Thời đó chưa có xe hơi, ngài du hành một cách thong thả , an lạc trong hạnh đầu đà, kỳ này không có đệ tử đi theo vì mục đích của ngài là dồn hết nổ lực tu cho tròn bổn phận vị Tỳ Khưu. Trên đường đi tới Bangkok, vai mang bát , mang dù, và vật dụng của một Tỳ Khưu, dưới ánh nắng gay gắt, có vẻ là cồng kềnh vất vả, nhưng ngài cảm thấy rất là an lạc một mình du hành, bỏ lại những suy tư , gánh nặng về các đệ tử , ngài cũng không còn lo cho mẹ ngài nửa, bà ta đã có một nền tảng vững chắc về sự tu tập, mẹ ngài có thể tự lập trên con đường đạo. Không còn ràng buộc nào cả, ngài thiền quán trên đường đi, buổi trưa quá nóng bức, ngài dừng lại dưới bóng cây mà tọa thiền. Tự do không gì ràng buộc, chỉ cần một thôn xóm nhỏ vừa đủ cho ngài đi khất thực, nơi nào thích hợp thì ngài ở lại lâu trước khi đi tới chổ khác.
Đại đức kể rằng, khi tới rừng Dong Phaya Yen ở giữa Saraburi và Nakhon Ratchasima, những khu rừng núi làm ngài hoan hĩ một cách đặc biệt, làm ngài muốn ngụ tại nơi đây để phát triển tâm, và đã từ lâu ngài không sống trong rừng núi tĩnh mịch, hoang dã cùng vô số thú rừng. Hồi đó khu rừng miền trung nguyên không có nhiều làng mạc, chỉ có vài nhóm dân nhỏ độ vài gia đình sống rãi rác làm nghề săn, dốn cũi hay làm rẫy chung quanh sườn núi. Họ có tín tâm, kính phục sư đầu đà , họ cúng dường nhưng không bao giờ làm phiền thì giờ của ngài. Đại đức ở đó một lúc lâu cho lúc ngài rời tới Bangkok.


TÂM ĐƯợC GIảI THOÁT

Đại đức Mân kể rằng khi tới Bangkok ngài ở chùa Pathumwan trong mùa an cư đó, và trong mùa an cư đại đức thường học giáo pháp với ngài Chaokun Upali tại tu viện Boromaniwat. Và được vua sãi mời ngài theo tới viếng vùng Chiang Mai sau khi mãn mùa an cư của . Lần này thì ngài đáp xe lữa Ngài hầu như nhập định trên xuống khoảng thời gian ở xe lữa: ở gữa khoảng Bangkok và Lopburi ngài nằm nghỉ , còn suốt khoảng còn lại ngài nhập định cho lúc tới Chiang Mai.
Lúc bắt đầu thiền định ngài tự nhủ chỉ sẻ xuất định khi tới Chiang Mai, và chỉ tập trung thiền định không làm gì khác. Sau khoảng hai mươi phút, thì ngài nhập định rất sâu. Lúc đó ngài chỉ có nhận thức sự tĩnh lặng của tâm , còn tiếng ồn ào của xe lữa, tiếng người náo nhiệt ngài không nhận biết , tất cả tan biến hết cùng vơi ý thức, và cảm xúc thân tâm của ngài. Đại đức nhập định rất sâu cho tới khi xe lữa tới Chiang Mai, mà quyết định lúc trước khiến ngài xuất định.
Khi tới ga, ngài thu xếp hành trang để đi xuống, thì thấy mọi người và nhân viên hỏa xa nhìn ngài với con mắt ngạc nhiên. Khi xuống tàu nhân viên hỏa xa vui vẻ lại giúp ngài xuống, trong khi đó mọi người ở sau bàn tán về ngài. Trước khi sửa soạn xuống tàu , người ta hỏi ngài ngụ ở chùa nào, thì ngài trả lời ngài ở trong rừng phía Đông Bắc, du hành khắp nơi không có chổ nhất định. Có người vui vẻ đề nghị giúp đỡ phương tiện cho ngài di chuyển trong thành phố, nhưng ngài từ chối, vì ngài trả lời rằng ngài tháp tùng theo ngài Chao Khun Upali, là vị nổi tiếng ở vùng Chiang Mai. Khi ra ga thì Tăng sĩ , dân chúng và quan chức địa phương đón tiếp ngài Upali và đoàn rất long trọng, có cả xe hơi đưa rước mà thời đó thì rất hiếm. Đoàn xe đưa phái đoàn về chùa Chedi Luang.
Được tin ngài Upali tới thành phố Chiang Mai, dân chúng đủ mọi thành phần cùng Tăng sĩ lũ lượt đến viếng thăm và nghe pháp. Nhân cơ hội nầy trong một buổi thuyết pháp ngài Chaokhun Upāli đã giới thiệu đại đức và yêu cầu ngài giảng pháp cho đại chúng nghe. Đại đức đã ban một thời pháp rất hay mà ai nấy cũng đều muốn không kết thúc. Đại đức bắt đầu từ căn bản rồi dần tới chổ thâm sâu của Phật pháp. Khi kết thúc đại đức vái chào ngài Upāli rồi trở về chổ ngụ của mình ở trong chùa. Sau đó ngài Upāli tán thán như sau, mà các đệ tử có ghi lại :
“Đại đức Mân đã tuyên dương, và ban một thời Pháp rất cao sâu, hùng hồn, mà khó có ai bì kịp. Đại đức đã làm trong sáng Muttodaya – Tâm giải thoát, một cách không còn nghi ngờ gì cả . Mọi vấn đề được giải thích, trình bày một cách rõ ràng , chính xác, ngay cả tôi cũng không thể bì kịp cách giảng dạy đặc biệt nầy. Cách nói pháp đầy lôi cuốn của vị sư đầu đà đây thật là khác thường. Thật là hoan hỉ và đầy lợi ích khi nghe đại đức giảng. Trong suốt thời pháp ngài đã làm cho chúng ta thích thú say sưa về pháp mà không chán.
Đại đức đã nói về các chuyện bình thường xảy ra hằng ngày, mà chúng ta đều thấy nghe và biết , nhưng ít ai trong chúng ta để ý quan tâm và suy xét nó. Chỉ khi đại đức nói ra chúng ta mới thấy tầm quan trọng của nó. Đại đức thật sự là Tăng thiền đề mục (kamma-ţţhāna) một cách thuần thục. Người đã dùng chánh niệm và tuệ, cùng lòng thành tín chân thật đi theo con đường Đức Phật đã chỉ bày, không còn mang theo chút mảy nào cách mà người đời đang đi trên con đường thế tục. Bài pháp của đại đức có nhiều sự diễn tả : khi thì bình thường, khi thì nghiêm trang, lúc thì nhấn mạnh vào một ý. Khó mà ai trong chúng ta có thể chân thành tự nhiên mà trình bày được như vậy. Đại đức có khả năng phân tích những khía cạnh khác nhau trong Phật pháp , và làm cho chúng ăn khớp liên kết với nhau và giảng cho chúng ta hiều rõ, ăn sâu vào tâm thức của chúng ta. Nhận định của ngài về vấn đề thật là sáng suốt. Bản thân tôi cũng phải hỏi ý kiến đại đức khi có chuyện không thể tự mình giải quyết, và đại đức đã nhanh chóng giải quyết vấn đề bằng tuệ nhản của đại đức . Tôi đã nhận nhiều sự giúp đở của đại đức.
Khi tôi dự định tới Chiang Mai tôi mời đại đức đi theo, tuy đại đức không nói nhưng tôi nghĩ chính vì vùng nầy có nhiều núi non, và rừng, thích hợp cho việc tu hành nên đại đức muốn tới nơi đây. Người như đại đức thật là khó gặp. Tuy rằng tôi là bậc trên đại đức, nhưng hết sức kính trọng pháp mà ngài có được, nhưng đại đức thì lúc nào cũng khiêm tốn và kính trọng tôi, tôi cảm thấy thật thẹn. Đại đức chỉ muốn lưu ở đây một thời gian ngắn , trước khi đi tìm chổ thích hợp cho việc tu tập. Tôi để người bạn nầy tự ý , không dám ngăn cản ý của đại đức . Đây là vị Tăng khó mà gặp được trong đời. Mọi nổ lực chỉ dành cho giáo pháp, sự giải thoát khỏi đau khổ . Chúng ta nên thành tâm cầu nguyện cho đại đức sớm được như ý, để làm lợi ích cho tất cả chúng ta sau nầy.
Trong chúng ta ở đây có vị nào có vấn đề trong sự tu tập, thì nên gặp đại đức để hỏi ý kiến , tôi tin chắc các vị sẻ không thất vọng, nhưng xin đừng bao giờ xin bùa, chú, vật bảo hộ phòng thân, cầu may mắn vì đây là những cái khác không có trong con đường tu hành. Nếu không thì các vị tự làm phiền mình, phiền ngài, và có thể quí vị sẽ bị khiển trách. Chớ trách rằng tôi không báo trước.
Đại đức đích thực là một vị Tỳ Khưu, ngài thành thật chỉ dạy người khác biết đâu là đường đúng, đường sai, đâu là là thiện là ác. Ngài không bao giờ đi lệch khỏi con đường pháp. Cách hành và biết của đại đức thật đúng như giáo pháp mà Phật đã chỉ dạy. Không ai trong thời nay có thể truyền đạt được điều thâm sâu , vi diệu của Phật pháp như đại đức làm được. Tôi biết được là do các cuộc thảo luận pháp với đại đức. Chính vì vậy mà tôi kính ngưỡng đại đức, tôi không nói ra nhưng chắc là đại đức biết được điều đó.
Đại đức thật sự đáng cho chúng ta tôn kính, và là mảnh phước điền cho loài người chúng ta, không còn nghi ngờ gì nửa. Đại đức không bao giờ nói ra những thành quả đạt được , nhưng từ các cuộc thảo luận Phật pháp mà tôi biết được. Tôi biết chắc rằng đại đức đã chứng đắc, nhập dòng thánh quả bậc thứ ba, dù đại đức chưa bao giờ nói ra hay có ý cho tôi biết. Nhưng hiển bày rõ vì cách sống của đại đức. Cái biết về giáo pháp mà ngài trình bày cho tôi thì hoàn toàn như pháp mà người đã chứng đắc bậc đó mới có như trong Kinh Phật cho biết . Đại đức không hiển bày điều gì cho tôi ngoài lòng tôn kính và chân thành trung tín. Tôi chưa bao giờ thấy có sự ngang bướng, khinh thị người khác, đại đức lúc nào cũng khiêm cung, tôi thật sự tâm phục đại đức.”
Đó là những lời tán thán của ngài Upāli trước các cư sĩ, Tỳ Khưu và Sa Di sau khi đại đức Mân giảng pháp xong, và trở về chòi của mình. Những vị có mặt hôm đó , sau nầy khi có dịp thường hay kể cho đệ tử của mình nghe dịp may được gặp ngài. Danh từ Tâm được giải thoát Muttodaya sau đó được xử dụng trong các bài điếu văn trong buổi làm lể trà tỳ nhục thân của ngài. Và sau đó được xử dụng trong các bài viết về ngài. Theo đại đức Chao khun Dammachedi ở chùa Bodhisomphorn ở Udon Thani, thì đại đức ở Chiang Mai từ năm 1929 cho tới 1940 , sau đó ngài rời và tới tỉnh Udon Thani. Những sự kiện ở Udon Thani sẻ trình bày sau.


ĐắC QUả A LA HÁN

Ở một thời gian ngắn tại chùa Chedi Luang để tõ lòng tôn kính ngài Chao Khun Upāli, được sự chấp thuận của ngài Upāli, đại đức từ biệt lên vùng hoang dã ở phía bắc của tỉnh để tìm nơi thích hợp cho việc tu tập. Một cuộc hành trình mới mà ngài mong đợi từ lâu nay đã có, trước kia vì bận rộn việc giáo dục các Tỳ Khưu khác đã làm cho đại đức không có thì giờ cho mình. Đã từ lâu rồi ngài mới sống được một mình. Cuối cùng ngài đã ở tại khu vực rừng núi Mae Rim ở Chiang Dao. Đại đức ở đây nhiều mùa khô và mưa.
Nổ lực của ngài đã tới cao điểm, cho mục đích cuối cùng , sống hay chết cũng không màng chỉ biết là tận lực không để gì có thể làm chướng ngại. Vì từ tâm mà ngài đã tận lực dạy dổ các vị Tỳ Khưu khác, ngài biết chắc là đã tận lực, mà kết quả có thể thấy trong một vài vị đệ tử . Giờ đây là lòng từ bi cho chính mình, thời gian đây là đễ tự giáo dục và vượt qua các chướng ngại để tới mục đích cuối cùng. Khi mà chưa tới "bờ bên kia" thì dính dáng tới việc người khác thì không có lợi ích bao nhiêu, tựa như làm nặng chiếc thuyền đã chở quá tãi gần chìm khó có thể đi tới bờ bên kia. Khi mà hoàn hảo bản thân thì tự khắc sè giúp đở được vô số người khác.
Đại đức đã nổ lực tinh tấn suốt ngày đêm, chỉ trừ khi ngài ngủ , còn ngoài ra trong mọi hành động : đi, đứng, nằm, ngồi , ngài đều dùng chánh niệm và tuệ phân tích các hoạt đông tâm thức, không bỏ xót điều nào. Lúc ở trình độ nầy thì chánh niệm và tuệ quyện lẩn nhau như bánh xe pháp quay liên tục, bất kể hoạt động của thân.
Sau nầy khi ngài kể về sự nổ lực hết mình trong giao đoạn nầy, chúng tôi các đệ tử, ngồi im lặng say sưa nghe ai nấy dường như nín thở . Tựa như Đại đức Mân hé mở cánh cửa Niết Bàn cho chúng tôi coi. Mặc dầu đây chỉ là một trong giai đoạn dài cần tu khổ hạnh của ngài, nhưng khi nghe kể cuộc chiến đấu của ngài với phiền não cũng làm cho chúng tôi cảm động và tâm phục sự hành trì của ngài, sự dũng cảm của ngài.
Đại đức đã nói rằng : Đại đức đã từ lâu đạt thánh quả Bất lai (A-Na-Hàm) nhưng do việc giáo hóa các đệ tử nên ngài không có thì giờ cho việc tiến triển nhanh như ý. Nay có cơ hội ở Chiang Mai ngài dồn hết nổ lực để đạt mục đích cuối. Khu rừng núi vùng Chiang Mai rất thích hợp cho việc tu tập, và tâm ngài cũng sẳn sàng. Chính thân thể ngài lúc nầy cũng tráng kiện thích hợp cho mọi gian nan phấn đấu. Niềm tin ờ ngài dâng cao như ánh mặt trời tõa chiếu rực rỡ sang suốt tới “bờ bên kia”. Đại đức so sánh cuộc chiến đấu nội tâm giữa pháp và phiền não, giống như chó săn đã dồn con mồi vào chân tường, chỉ là thời gian nhanh hay chậm con chó săn sẻ xé tan con mồi phiền não ra từng mảnh. Không có cách kết thúc nào khác nữa . Khi mà tâm được trang bị bởi đại chánh niệm và đại trí tuệ, thì không một sát na nào mà sao lảng, mọi sự hiện, sanh khởi trong tâm đều tự động được quán sát bởi chánh niệm và tuệ. Khi mà nhân và bản tánh thật của mổi sự được hiểu rõ thì tâm lướt bỏ qua. Không cần phải nổ lực tác ý bắt tâm như lúc mới bắt đầu tu. Khi mà tâm đã có thói quen dùng chánh niệm và tuệ để quán sát thật tướng của sự việc. Chỉ trừ khi ngủ, mọi lúc tâm ở trình độ nầy đều có đại chánh niệm và tuệ. Ở trình độ quả Bất Lai , (A Na hàm) thì vấn đề Sắc Uẩn (Rūpa Khandha) đã được giải quyết, sắc pháp (liên quan tới thân) đã được hiện rõ , không còn nghi ngờ, tà kiến về sắc pháp nữa. Khi hành giả bước vào giai đoạn cuối là lộ trình A La Hán, thì tà kiến về Vô Sắc (Nāma ) cần phải giải quyết : Đó là 4 Uẩn Thọ Tưởng hành và Thức phải được liễu tri, nhờ có tuệ quán. Thật tướng của Danh được nhận rõ. Ngoài danh sắc , không có ngả , hay con người, không có ngã nhân.
Đức Phật Thế tôn của chúng ta, được tôn xưng là đấng đạo sư trong Tam giới là do Chánh niệm và Tuệ. Các đệ tử Ngài thành đạo quả A La Hán cũng nhờ chánh niệm và tuệ, không gì khác. Đạo Phật là đạo của Trí tuệ. Chứ không phải là do nghiên cứu, suy luận hay suy đoán mà có. Trong giai đoạn mới đầu hành đạo thì các khái niệm suy diễn cần thiết cho việc phác họa cho con đường đi. Nhưng phải nên rất cẩn thận vì sự suy diễn sẻ nhận ảo tưởng là thật.
Khi Phật và các đệ tử A La hán chỉ bày chân lý cho thế gian thì các ngài trình bày đạo của Trí tuệ – đó là cách nhìn rõ thật tướng của sự việc. Chúng ta hành giả phải cẩn trọng chớ để sự suy diễn len lõi vào đưa ra các chiêu bài suy đoán thay thế trí tuệ. Đó là chính là điều mà Đức Phật Thế Tôn đã khuyên dân chúng thành Kalama là hảy tin vào chân lý giáo pháp bằng trí tuệ, bằng niềm tin chân lý sẻ được khám ra chính từ trong nó (Sự thật của chân lý là chân lý), sau khi chính mình chứng nghiệm tự hiễu rõ , chớ đừng dựa vào sự suy diễn , ức đoán hay là vào sự tin tưởng truyền từ đời nầy xuống đời khác, hay vào lời nói của một vị có uy tín.
Đại đức Mân kể lại rằng ở trình độ tu tập nầy thì tâm rất kiên cố hành trì. Lúc ấy thì ngài không còn biết thời gian ngày, đêm, sự ngủ, nghỉ, và không biết mệt. Vô úy, bất động, lúc nào tâm ngài cũng đối kháng với mọi loại phiền não hiện khởi, và sẳn sàng tiêu trừ chúng. Kể từ khi rời chùa Chedi Luang ở Chiang Mai, không có một ngày bị bỏ phí cho tới mãi về sau tới khi hoàn toàn được giải thoát.
Ngay khi bắt đầu, cuộc hành trình ở giai đoạn nầy, thì tâm ngài với cá tính mạo hiểm, trước bị hạn chế bởi sự các sinh hoạt giáo hóa chúng sanh, nay được tự do tính năng động lại mạnh mẽ trỡ lại cùng với chánh niệm và trí tuệ cao sâu, tâm ngài quán sát mọi hiện bên trong và ngoài ở trong Tam giới, không có một thứ gì bị bỏ sót, thanh gươm trí tuệ giải thoát dần dần cắt bõ những hoài nghi, tà kiến về danh-sắc. Ngài cảm thấy mình như cá lớn vùng vẩy bơi lội tự do trong biển lớn. Nhìn lại qua khứ thì chỉ thấy một bóng đêm đầy dẫy những sự hiểm nguy, chập chờn đe dọa, những sự đau khổ vô vàn, nhìn tới trước thì thấy một quang cảnh huy hoàng sáng chói mà không thể nào tả được. Cảnh giới mà vượt quá tầm hiểu biết của người chưa giải thoát , không thể nào diễn tả được.
Vào một đêm , đại đức ngồi tọa thiền không lâu sau khi đại chánh niệm và đại trí tuệ đã tới mức cao điểm, giống như bánh xe pháp, đại trí tuệ và niệm hòa lẩn vào nhau quay tít vô tận chung quanh tâm và những gì sanh khởi từ đó. Lúc đó ngài ngồi ở giữa một khoảng đất trống rộng rãi có những tảng đá lớn chung quanh ở ngay dưới chân một ngọn núi, và ở dưới một tàn cây lớn , ở chung quanh khoảng đất trống rộng chỉ có cái cây lớn duy nhất nầy, mà ngài hay tọa thiền dưới nó.
Tôi xin lổi đọc giả vì tôi không nhớ rõ là loại cây gì và chính xác địa điểm ở đâu, vì khi nghe thầy kể lại sự kiện nầy chúng tôi các đệ tử say mê theo dõi, bị lôi cuốn vào kết quả thành tựu vĩ đại của ngài mà quên đi các tiết nhỏ nhặt. Khi nghe kể về cuộc chiến thắng huy hoàng nầy thì tôi tự hỏi phải chăng ta lại bỏ phí cơ hội cao quí làm người đây, ta có đũ khả năng để làm được điều như vậy chăng, những câu hỏi như vậy ám ảnh tâm trí tôi lúc đó, làm tôi không ghi nhớ các tiểu tiết mà sau nầy tôi phải ghi lại.
Vào chiều hôm đó thì ngài đi kinh hành quán về lý Nhân duyên, là bối cảnh chính trong trình độ tu tập nầy, ngài bắt đầu từ Vô minh duyên hành (Avijjā Paccaya Saṇkhāra), và bị lôi cuốn vào lý nhân duyên đến nổi ngài chỉ quán nghiệm về đề tài nầy. Lúc khoảng 9 giờ tối thì ngài tĩnh tọa quán cũng đề tài nầy, từ vô minh duyên hành ngài quán sát phân tích các duyên sanh khởi đi theo chiều thuận tới các mắc xích liền nhau của 12 nhân duyên, rồi từ mắc xích cuối đi chiều nghịch trở lại Vô minh, theo cách như vậy mà đại đức quan sát phân tích nhân duyên.
Đêm tối đã tới , cũng như cuộc chiến giửa đại trí tuệ và chánh niệm với Vô minh, một chúa tể đầy quyền lực , mánh khéo tinh vi cai quản vương quốc Tam giới, mà ít có ai thoát khỏi sự thống trị kiềm hãm của ông vua nầy. Vô minh đã tung ra những đoàn quân thiện chiến nhất , đông đảo nhất , vơi thanh gươm trí tuệ sắc bén và sức khẻo dũng mảnh của niệm mà đại đức từng lúc từng lúc chống trả lại các cuộc tấn công mãnh liệt, lúc thì như vũ bảo, lúc thì chống trả các địch quân trá hàng, những cám dỗ mua chuộc. Cuối cùng thì khoảng 3 giờ sáng thì ngài hoàn toàn chiến thắng, đoàn quân tinh nhuệ cùng nhà vua của chúng tan biến mất. Đại đức hoàn toàn thoát khỏi.
Đại đức kể lại lúc ngài thoát khỏi mọi khổ đau trong Tam giới thì có một tiếng chấn động mạnh vang dội dường như làm rung chuyễn cả vũ trụ. Ngay lập tức các loài trời ở khắp mọi nơi trong vô vàn thế giới đến chúc tụng sự thành đạt của ngài, và tán thán, âm thanh tán thán vang dội đi khác các thế giới, tuyên bố sự xuất hiện của một vị đệ tử của Đức Phật Thế Tôn trong thế giới. Tất cả ai nấy đều vui mừng vì sự kiện nầy, nhưng loài người thì quá bận rộn với cuộc sống thế tục không ai quan tâm dến sự việc là đã có một đồng loại đã chứng đắc PHÁP siêu việc.
Sau đó thì tâm ngài không gì hơn là thanh tịnh pháp (Visuddha-dhamma ), bản tánh chân thật của tâm, nó thấm nhuần thân tâm ngài, tỏa sáng đi khắp mọi phương. Mội kinh nghiệm to tát vi diệu không thể nào tả được. Lúc đó thói quen thông thường thương hại chúng sanh hoàn toàn biến mất cùng với ý muốn giảng dạy cho chúng sanh. Đại đức cảm thấy Pháp thật là quá vi diệu không thể nào người thường hiểu được, ngài cảm thấy thôi thì hảy tận hưởng sự vi diệu nầy một mình trong khi còn xác thân sống trong thế giới qui ước tương đối nầy.
Lúc đó ngài lại quán về lợi lạc mà Đức Thế tôn mang lại cho loài người. Đức vô thượng đạo sư, người đã tìm ra Chân Lý vi diệu, và giảng dạy cho các chúng sanh biết mà tu tập để cũng được như ngài. Đại đức tìm thấy không có một chút hư dối nào trong pháp Phật. Suốt đêm đó ngài đãnh lể đức tính cao quí của Phật, của Pháp , của Tăng.
Chẵng phải đại đức không có từ bi, khi tâm mới chứng đắc nghĩ rằng pháp quá vi diệu con người khó ai hiểu được, khó mà dạy họ biết cái vị diệu, mà ngài luôn có lòng từ bi sâu đậm với đồng loại, nhưng vì do tâm mới kinh nghiệm sự thù thắng vi diệu, một sự thù thắng mà con người không khi nào tưởng tượng nổi. Khi quán về Đức Thế Tôn thì giáo pháp mà Ngài chỉ bày thì không phải riêng cho cá nhân một mà cho toàn thể thế giới, cho chúng sinh cùng thời với ngài và cho các thế hệ sau nầy. Do đó mà người theo chân Đức Phật Thế Tôn tới được Đạo, Quả và Niết bàn thì đông vô kể xiết. Và đại đức lần nửa an tâm với ý tưởng giáo hóa các chúng sanh tìm ngài cầu học giáo pháp. Trong việc giảng dạy, thì pháp sư có bổn phận tôn kính giáo pháp bằng cách từ chối chỉ dạy những ai không tôn trọng giáo pháp và đi làm ngược lại những gì được chỉ dạy.
Pháp được chỉ bày là để giúp các chúng sanh, giống như thầy thuốc giúp bệnh nhân kê đơn toa thuốc là mong người bệnh theo đó uống mà khỏi, không có lý nào lại đi giúp trị những ai không muốn chữa bệnh.
Đại đức nói rằng ngài đã chắc chắn an lạc sống một mình vì thân tâm lúc nầy hoàn toàn thanh tịnh, dạy dổ chúng sanh là hoàn cảnh đặc biệt chớ không phải là bổn phận, hay việc phải làm, mà là sống như pháp.
Đại đức Mân giảng pháp rất thận trọng, không bao giờ cẩu thả, vì bản thân pháp là như vậy. Đại đức không bao giờ giảng theo cách tùy tiện mà luôn theo nền tảng đã thiết lập vững chắc, theo lối cũ hành trì theo những gì Đức Phật đã chỉ dạy. Ngài luôn khuyến cáo các đệ tử phải đi theo sát giáo pháp và giới luật mà Đức Phật đã chỉ bày. Vì chúng đại diện cho Đức Phật Thế Tôn và pháp hành của Ngài. Đại đức nhấn mạnh rằng Tăng giử được Đạo, Quả là những người khiêm nhường, không tự phụ, lúc nào cũng gìn giử Thân khẩu ý, khi mà được như vậy thì tự mình có thể đứng vững.
Ngài kể lại đêm ngài giác ngộ để tạo sự tín tâm, niềm khích lệ cho các đệ tử. Cá tánh đặc biệt của tâm ngài lúc mới hành đạo thì đã hiện rõ thì lúc đắc đạo cũng khác thường. Theo ngài kể thì khi tâm ngài thoát khỏi vòng luân hồi , thì dường như nó xoay chuyển ba vòng chung quanh tâm giải thoát . Lần xoay vòng thứ nhất thì tâm ngài “cắt bỏ“ tất cả những gì tương đối. Sau lần thứ hai thì tâm “giải thoát”, tâm hoàn thành nhiệm vụ hoàn toàn giải thoát. Lần thứ ba thì tâm “xả ly û” hoàn thành nhiệm vụ của hoàn toàn xả bỏ các dính mắc. Sau đó thì tâm và pháp là một. Không còn phân biệt. Các uẩn tạo thành cái hiện hữu tương đối (thân tâm tương đối của một con người) thì cũng như trước nhưng nay thì thanh tịnh và trong sáng không còn cấu uế. Ngủ uẩn của một vị A La thì cũng như trước, thí dụ những Uẩn có nhiệm vụ cho hoạt động tâm thức thì vẩn làm nhiệm vụ đó dưới mệnh lệnh của chủ nhân ông là tâm, mà bây giờ là thanh tịnh và trong sáng. Khi mà “tâm giải thoát” được phóng thích thì những ràng buộc dích mắc với Uẩn cũng được phóng thích. Lúc nầy thì tâm và Các Uẩn là hai thành phần riệng biệt. Mổi tự thể chân thật theo bản tính sẳn có của nó. Không bên nào phá rối bên nào mà hoạt động bên nhau một cách hài hòa, theo chức năng của mổi thể . Cho tới khi chết, các Uẩn không còn, tan rã thì tâm ở tình trạng mà ta gọi là Niết Bàn.
Lúc sáng sớm sau khi ngài đắc đạo nhìn về quá khứ thật là đáng thương vì vô minh mà đại đức đã lăn trôi, bị kéo lê trong vô vàn tử sanh. Nay ngài đã được giải thoát, được uống nước cam lồ , được tới bờ bên kia, nơi mà Đức Phật Thế Tôn và các đệ tử A La hán của Ngài đã giác ngộ và từng tuyên bố hơn 2500 năm về trước. Nếu mà lúc đó có ai nhìn thấy ngài vừa thành kính đảnh lễ Tam bảo mà nước mắt tuôn trào thì có lẽ họ nghĩ vị Tăng nầy bị ma nhập, hành hạ.
Đêm đó tất cả các loài Trời đến đảnh lể ngài, tán thán và chờ nghe pháp. Nhưng ngài đang thâm nhập sự vi diệu của pháp nên ngài bảo cho các loài trời là ngài chưa muốn tiếp và bảo các chúng sanh đó hảy đến vào bửa khác. Các trời hoan hỉ ra về vì ai nấy đều diện kiến một vị trời thanh tịnh (Viśuddhi-deva ) tức là A La hán.
Sáng hôm sau, ngài hồi tưởng lại kinh nghiệm vi diệu lúc đắc quả, tri ơn gốc cây đã che chở cho ngài, dân làng chung quanh đã hộ trì ngài. Sáng hôm đó ngài định không đi khất thực, vì sự an lạc mà ngài có được do đắc quả cũng đủ cho sự duy trì, nhưng vì lòng bi mẩn với các dân làng đã giúp ngài quá nhiều, nên ngài đi khuất thực sáng hôm đó, mặc dầu đại đức cảm thấy không muốn ăn. Khi vào làng ngài nhìn thẳng vào từng người đặt thức ăn vào bát của ngài, và các dân làng mĩm cười chào ngài. Lúc đó đại đức cảm thấy một lòng từ bi vô vàn đối với tất cả mọi người.
Sau khi khất thực xong, ngài trở về núi, tâm ngài sung mản, thân ngài cảm thấy no đủ, mặc dù chưa thọ thực. Tuy không muốn ăn nhưng ngài thọ thực vì lợi ích của chúng sanh, và vì thân cần chất bổ dưỡng. Lúc đó thì thức ăn dường như không còn mùi vị nữa, đúng thật như Đức Phật nói : Pháp vị thì hơn hết mọi vị khác.
Vì nôn nóng nghe pháp nên ngay đêm sau đó, tất cả Trời Thần đều đến diện kiến ngài. từng đoàn, từng đoàn từ mọi phía tới. Ai nấy đều diển tả ánh sáng hòa quang rực rỡ từ pháp của ngài, và tiếng chấn động vang dội nên họ đều biết mà tới lúc ngài giác ngộ.
Sau khi nghe pháp, các đoàn ai nấy trở về cõi của mình. Đại đức hồi tưởng lại những khó khăn chồng chất, những nổ lực tinh tấn. Các pháp hành gian khổ . Nên ngài so sánh pháp có được là pháp ở ngưỡng cửa chết. Nếu đại đức không đến quá gần sự chết thì chắc chắn là ngày nay không thể nào giải thoát được.


NGƯờI BạN ĐờI TINH THầN

Trong một buổi tọa thiền, sau khi đắc quả cuối. Ngài nhớ lại một vấn đề cá nhân trong quá khứ - mà ngài không quan tâm mấy lúc trước. Ở đây tôi muốn ghi lại một câu chuyện tiền kiếp của ngài . Tôi cảm thấy thiếu xót nếu bõ qua không ghi lại sự kiện nầy. Đặc biệt mối quan hệ nầy hầu như theo mổi chúng ta như hình theo bóng, mà có lẽ chúng ta không biết. Nếu sự kiện ghi đây mà không thích hợp, thì xin cứ trách tác giả vì không tế nhị. Có lẽ bạn đã đoán đúng, vì sự kiện riêng tư nầy chỉ được thảo luận giữa đại đức Mân và các đệ tữ thân tín mà thôi. Tôi cố gắng đè nén sự muốn ghi ra, nhưng càng đè nén thì lòng thúc dục càng mạnh , nên cuối cùng tôi đành chịu thua, ghi ra đây. Tôi sám hối đây là lổi của tôi, và xin các đọc giả tha thứ cho. Hy vọng câu chuyện nầy giúp những ai còn trong vòng tử sanh có chút gì đáng để suy nghĩ về.
Câu chuyện liên quan tới người bạn đời của đại đức Mân trong tiền kiếp. Đại đức kể lại rằng trong một tiền kiếp, ngài và người bạn đời đã phát nguyện cả hai sẻ cùng nhau cố gắng tu hành để thành chánh quả. Cho nên đời nay vào những năm trước khi ngài hoàn toàn giải thoát , thì người bạn nữ đó thường đến thăm ngài trong lúc định (Samadhi).
Trong những lúc như vậy thì ngài giảng pháp cho vị đó một bài pháp ngắn và bảo đi về. Người nữ đó luôn xuất hiện ở dạng tâm thức, thân hình dáng không thể thấy rõ . Không giống như các chúng sanh ở các cõi Sắc. Khi ngài hỏi về tình trạng vô sắc của vị đó, thì vị đó trả lời rằng : là vì lo cho ngài nên vị đó không muốn chọn một cảnh giới nhất định để vào. Và vì sợ ngài quên mối quan hệ xưa – cùng nhau đạt chánh quả vị Phật ở tương lai. Và vì lo âu và sợ nên cảm thấy thường xuyên tới thăm ngài. Đại đức Mân bảo vị dó rằng: Ngài đã từ bỏ lời nguyện đó rồi , không còn muốn như vậy nữa mà muốn đời nầy giác ngộ đạt Niết Bàn, không muốn tái sinh nữa, để khỏi phải mang các nổi đau khổ bất hạnh ê chề trong vô số các đời sống ở quá khứ tới vô số đời sống ở vị lai.
Mặc dầu vị đó không bày tõ cảm xúc nhưng vẩn lo âu quan tâm tới ngài, và còn nhớ lời nguyện xưa. Thỉnh thoảng thì vẩn đến thăm ngài. Nhưng kỳ nầy, sau khi đắc quả A La Hán, thì đại đức quan tâm đến vị đó , bởi vì trong nhiều kiếp họ đã cùng nhau chịu đựng vô vàn gian khổ . Quán về điều nầy , nên ngài muốn gặp người bạn đó để cùng nhau đi tới một sự hiểu biết chung. Ngài muốn giải thích, giảng bày cho vị đó để xóa tan mọi lo âu nghi ngờ về mối quan hệ đặc biệt nầy ở quá khứ. Ngay đêm đó không bao lâu khi ngài nghĩ về điều đó thì vị đó tới gặp ngài cũng ở dạng vô sắc.
Đại đức bắt đầu hỏi vị đó giờ ở đâu, tại sao lại có thân vô sắc như các vị trời ở cõi khác, và tình trạng hiện giờ ra sao. Chúng sanh không có hình dạng đó trả lời rằng : hiện đang ở một cảnh giới phụ nhỏ trong một vũ trụ bao la vô vàn các thế giới . Vị đó lập lại là vì lo cho ngài nên hiện đang chờ ở đó. Khi mà biết đại đức muốn gặp nên đêm nay tới.
Thường thì không muốn thăm ngài thường xuyên, Mặc dầu rất muốn gặp ngài , nhưng cảm thấy thẹn và lưỡng lự . Thật ra thì cuộc viếng thăm của vị đó thì không có hại cho đôi bên vì cả hai đều ở trình độ không bị tổn hại. Tuy nhiên, vì còn nhớ ngài nên làm vị đó lưỡng lự không muốn tới thăm, và vì đại đức bảo nên ít gặp. Mặc dầu không hại, nhưng những sự thăm viếng thường xuyên cũng trở thành chướng ngại tình cảm, gây sự chậm tiến. Tâm chúng sanh dể bị cảm xúc, nên có thể bị ảnh hưởng bởi tình cảm vi tế, như vậy sẽ gây trở ngại cho việc thiền quán. Nghĩ như vậy nên vị đó ít dám đến thăm ngài.
Vị đó biết rằng ngài đã thoát khỏi sự tử sanh , cũng như tất cả sự ràng buộc tình cảm, gia đình, và luôn cả vị đó, người mà lúc nào cũng quan tâm tới đại đức. Một sự kiện chấn động cả vũ trụ thì thay vì hoan hĩ thì như đã từng trong các tiền kiếp sống chung vơi ngài, nhưng lần này thì buồn, và có cảm giác khó hiểu. Vị đó nghĩ rằng đại đức không có trách nhiệm, quên lời thề xưa bỏ rơi lại người bạn đời đã từng chịu đựng gian khổ cùng ngài trong nhiều kiếp sống. Vị đó cảm thấy thất vọng và đau khổ, không thể xóa tan đi được. Nay thì đại đức thì đã giải thoát vượt sự đau khổ , để lại mình sau lưng với những nổi khổ đau. Càng nghĩ thì càng đau khổ.
Do đó vị đó yêu cầu đại đức giúp đỡ: “ Tôi rất là tuyệt vọng, làm sao tôi có thể tìm thấy niềm hạnh phúc? Giống như muốn vươn tới nắm lấy các vì sao trên Trời, mà không bao giờ sờ tới được, thật là đau khổ . Ngài như một vì sao trên trời , ánh sáng tõa khắp mọi nơi. Ngài đã có chổ đứng vững chắc trong pháp. Sự hiện hữu của ngài thì không bao giờ mờ nhạt hay ảm đạm. Nếu tôi còn may mắn thì xin ngài hảy rộng lượng giúp tôi thoát khổ, để đạt được Niết Bàn như ngài. Nguyện rằng lời nguyện chân thật nầy đủ sức để giúp tôi vượt qua bể khổ “ Nghẹn ngào trong lời nói, cầu mong giúp giải thoát.
Đại đức Mân nói rằng ngài muốn gặp vị đó không phải là nhìn về quá khứ :
“ Người mong muốn cho người khác hưởng sự tốt đẹp thì không nên nghĩ như vậy. Thế người có tu tập Tứ Vô Lượng tâm : Từ , bi hỉ , xả ? “. Vị ấy trã lời :”Vâng, tôi đã từng tu tập các pháp đó với ngài trong một thời gian dài mà nay vẩn còn cảm thấy như mới ngày nào. Khi mà người chỉ cứu giúp chính mình như ngài , thì là tự nhiên những người bị bỏ lại sau rất đau khổ . Tôi không biết cách nào làm cho bớt khổ.”
Đại đức nhắc vị đó rằng: " Khi tu một mình hay với ai đi nữa thì tu tập điều tốt là để giảm bớt đau khổ , chớ không phải làm gia tăng, mà khi bị kích động, thì trở nên nóng giận, Tôi nói có đúng không ?"
“Đúng vậy, nhưng khi mà còn phiền não nhiều thì ai cũng không biết đâu là đường đi đúng, đường đi sai, đâu là việc mang lại kết quả tốt, xấu. Chúng tôi chỉ biết đau khổ, nhưng không biết đường thoát ra. Ngài đang nhìn một chúng sanh như vậy”.
Đại đức kể lại rằng vị đó trách móc ngài đã bỏ quên vị đó, nhắc lại những chuyện xưa hai người gian khổ cùng nhau tu để thoát khổ. Trách ngài là không có muốn giúp vị đó.
Đại đức an ũi vị đó:”Khi hai người cùng ăn chung một bàn, thì đương nhiên là có người no trước người kia. Không khi nào cả hai cùng no một lúc. Lấy ví dụ Đức Phật thế Tôn và bà Da du đà Gia (Yasodhara) hai vị đó đã trong rất nhiều kiếp cùng tu hành chung với nhau, nhưng Đức Phật Thích Ca đã giác ngộ trước , và sau đó trở về giúp người vợ cũ giác ngộ tới bờ bên kia. Ngươi cũng nên suy nghĩ kỹ về bài học nầy, thay vì trách móc kẻ mà bây giờ đang tìm cách tốt nhất để giúp đỡ nhà ngươi. Ta thì thành tâm ý tìm phương tiện để giúp nhà ngươi, thế mà ngươi lại trách móc ta. Ý nghĩ nầy không đúng đắn, thế chỉ làm tăng thêm sự khó chịu cho cả hai. Hảy thay đổi cách suy nghĩ, theo gương người vợ cũ của Đức Phật , đây là tấm gương cho tất cả mọi người noi theo.
Mục đích ta muốn gặp ngươi vì muốn giúp đở chớ chẳng phải là ý muốn xua đuổi bỏ rơi. Ta luôn quan tâm tới sự tu hành của ngươi, Khi nói ta quên , bỏ rơi nhà ngươi thì là không đúng sự thật. Đây là lời khuyên thành thật phát xuất từ tâm của một người có lòng từ bi và trong sạch. Nếu nghe theo lời khuyên của ta, và gắng sức làm, thì ta rất vui và chắc chắn nhà ngươi sẻ gặt hái kết quả như ý muốn.
Nguyện vọng ban đầu của chúng ta là muốn đạt quả vị Phật, do đó mới có lời nguyện, để bày tõ quyết tâm thoát khỏi vòng tử sanh. Sau đó niềm khát vọng của ta là đạt quả Thanh Văn, thật sự đây cũng là nhằm cùng mục đích đạt được tự do không còn phiền não, trầm luân tới cảnh an vui Niết bàn. Ta đã theo con đường chánh trong nhiều kiếp, mà đời nay là một vị Tỳ Khưu. Ta luôn gắng hết sức để giử sự liên lạc vơi nhà ngươi. Cho tới giờ đây, ta đã chỉ dẫn nhà ngươi với hết khả năng của ta, và với tình thương vô biên. Không có khi nào ta nghĩ bỏ rơi nhà ngươi để tìm sự giải thoát cho chính mình. Ta lúc nào cũng quan tâm tới nhà ngươi. Mong muốn giúp nhà ngươi thoát khỏi sự đau khổ của tử sanh và dẩn ngươi tới Niết Bàn.
Nhà ngươi đã phản ứng khác thường vì nghĩ rằng ta bỏ rơi nhà ngươi. Từ giờ trỡ đi , không nên nghĩ như vậy nữa. Chớ để ý nghĩ như vậy phát sinh, mà làm tổn thương nhà ngươi. Đó là trái ngược với ý muốn của ta . Ta chỉ mong muốn giúp ngươi .
Trốn thoát không quan tâm ? Ta trốn đi đâu ? Bỏ ai ? Giờ đây ta gắng sức giúp đở nhà ngươi mọi phương tiện có thể giúp. Phải chăng những gì ta đã chỉ dạy phát xuất từ lòng từ bi như ta giờ đây đang làm. Xin hảy hiểu rằng giúp đở nhà ngươi luôn là chủ đích của ta, hảy nhận giáo pháp mà ta truyền dạy. Nếu nhà ngươi tin tưởng mà thực hành theo thì chắc chắn sẽ gặt quả an vui hạnh phúc.
Từ khi ta xuất gia , thọ giới làm Tăng thì ta chưa bao giờ nghĩ xấu về ai. Nay ta muốn gặp nhà ngươi chẵng phải là muốn gạt , hay làm hại nhà ngươi mà là muốn giúp đỡ nhà ngươi. Nhà ngươi nên hoan hĩ vì mình còn có phước để nghe giáo pháp, mặc dù thân nhà ngươi bây giờ là vô sắc thì điều nầy là sự kiện rất hiếm, hầu như không có được. Ta cũng rất hoan hĩ vì có thể chỉ dạy ngươi. Nhà ngươi nên vui mừng vì còn có người đến giúp kéo ngươi ra khỏi tình trạng tuyệt vọng nầy mà chính do sự suy nghĩ không đúng của chính nhà ngươi gây ra. Nếu được như vậy thì ta rất vui và nhà ngươi cũng không bị đau khổ trói buộc.. Chớ đễ pháp được thấy như là cái gì không tốt, lòng từ bi là cái gì có hại.”
Sau khi nghe các lời an ũi của đại đức, vị đó bình tĩnh lại và tỏ bày sự biết lỗi.
Đại đức khuyên vị đó nên tìm một cảnh giới thích hợp mà vào để tu tiếp. Vị đó hứa sẻ làm như đại đức khuyên, nhưng trước khi từ giả yêu cầu đại đức một điều : Sau khi tái sinh vào một cảnh giới thích hợp, Đại đức vẩn cho phép gặp và chỉ dạy giáo pháp. Đại đức thuận hứa.
Vị đó từ giả, và đại đức ra khỏi định vào lúc khoảng 5 giờ sáng, thế là đại đức nhập định từ lúc khoảng 8 giờ tối đêm hôm trước , nói chuyện với người bạn cũ cho tới sáng hôm sau.
Không lâu sau đó vị ấy trỡ lại với hình dáng một vị Trời rất đẹp, và cho biết rằng đang ở cung trời Đao Lợi (tầng trời có 33 cõi , Tāvatiṁsa), và bày tõ lòng biết ơn đã giúp cho vị đó thoát khỏi sự tuyệt vọng , đau khổ.


NIềM KHÍCH Lệ CAO QUÍ

Những hôm sau khi ngài đắc quả A La Hán, thì một số chư Phật cùng thánh Tăng A La hán đến thăm khen ngợi sự đắc pháp giải thoát. Có đêm có một vị Phật cùng hàng trăm ngàn vị A La Hán tới. và những đêm khác thì các vị Phật khác nhau cùng số thánh A La Hán khác nhau đến viếng và khen ngợi.
Đại đức nói rằng số vị tháp tùng theo vị Phật có khác nhau là do công đức tương đối khác nhau giữa các vị Phật, đó là sự phận biệt giữa các Đức Phật. Và số đi theo các Ngài cũng không phải là toàn thể các đệ tử A La Hán của vị Phật đó mà chỉ là tiêu biểu một phần mà thôi. Ngoài các Tăng A La hán còn có một số đông Sa Di. Lúc đầu thì hơi bỏ ngỡ nhưng khi nghĩ về danh từ A La Hán thì thấy nó không chỉ áp dụng cho Tăng mà còn cho Sa Di và những ai tâm trong sáng , thanh tịnh.
Phần lớn các vị Phật đền viếng và nói như đại ý như sau:
“ Ta, Đức Thế Tôn biết rằng Tăng đã thoát sự thống khổ của nhà tù Ta Bà. Vì vậy Ta tới để bày tõ sự hoan hĩ . Ta Bà là một nhà tù bao la, kiên cố, đầy các cám dổ để giam giử , đầy ải các chúng sinh. Chúng sinh trong đó thì vô biên, nhưng hiếm ai quan tâm tìm đường thoát khổ đang hành hạ thân tâm, khó ai có thể vượt thoát được. Chúng sinh như người bệnh không muốn uống thuốc, Thuốc nhiều nhưng cũng vô dụng vì người bệnh không chịu uống thuốc.
Phật Pháp là thuốc, các chúng sinh trong Ta bà đều mang bệnh trầm trọng, những phiền não hành hạ thân tâm. Gây sự đau khổ vô cùng tận. Pháp là thuốc trị khỏi bệnh, nhưng mà không chịu uống thì căn bệnh sẻ kéo lê kẻ bệnh đi qua các sự tử sanh luân hồi vô tận, mà mổi một sư tái sinh là một sự thống khổ không thể tả xiết. Mặc dù pháp có khắp ở vủ trụ nơi nào cũng có, nhưng mà nếu không thích, quan tâm thì chẵng khi nào xử dụng được.
Pháp thì hiện hữu theo cách của nó, ta bà hiện hữa theo cách của nó mà chúng sanh trong đó bị xoay vần, như bánh xe. Họ không thề nhìn thấy sự tận cùng của đau khổ . Không khi nào có thể giúp họ được trừ khi các chúng sanh tự giúp mình bằng cách nắm chặt lấy pháp, và thành tâm thực hành. Cho dù bao nhiêu vị Phật xuất hiện ra đời đi nữa, bao nhiêu giáo pháp xuất hiện đi nữa thì chỉ có ai bằng lòng uống thuốc , thì mới có được lợi ích.
Giáo pháp của các Đức Phật đều giống nhau : Bỏ ác làm lành, giử tâm ý trong sạch. Không có giáo pháp nào cao hơn. Giáo pháp được chỉ dạy bởi các đức Phật thì có khả tiêu trừ tất cả các loại phiền não, trừ phi, dỉ nhiên là người hành pháp bị phiền não lấn lướt thì lúc đó họ cho là pháp vô dụng.
Tăng đã thấy một Đức Phật thật rồi chứ ? Một vị Phật thật sự là gì ? Đó là cái tâm thanh tịnh mà Tăng đã chứng đắc. Còn thân Ta cũng như Các vị A La Hán mà Tăng thấy đây là thân ở dạng tương đối chớ chãng phải là Thân chân Thật..
Đại đức trả lời rằng ngài không còn nghi ngờ về tánh chân thật của Phật hay các vị A La hán, nhưng Phật và các vị A La hán thì đang ở Vô Dư Y Niết Bàn (Anupadisesa-nibbāna), không có thân tương đối mà đang xuất hiện ở đây. Đức Phật trả lời rằng :
“ Những ai ở trong Vô Dư Y Niết Bàn, mà muốn tiếp xúc với những ai đã đoạn lậu tận, đã giải thoát mà còn mang thân tương đối , thì các vị đó phải có hóa thân tương đối như vậy. Còn không thì không cần phải như vậy.
Chư Phật biết quá khứ, vị lai của một tướng (Nimittas) tiêu biểu cho một thực thể tương đối ở trong bất kỳ một giai đoạn. Thí dụ như một vị Phật muốn biết các đức Phật trước đó sống như thế nào, thì vị Phật đó phải có tướng của vị Phật muốn được biết và phải ở trong giai đoạn đó, như là một công cụ để hiểu biết về điều dó. Bởi vì kiến thức ở quá khứ liên quan tới cái thân tương đối ở giai đoạn đó. Nếu những gì cần biết ở trạng thái giải thoát thì không cần giả tướng để mà biết. Vì vậy mà các A La Hán đây , cũng như chính Tăng, có khả năng có những tướng thích hợp như ý cho từng trường hợp.
Tâm giải thoát thì lúc nào cũng nhận thấy tính chân thực của thực thể dù ở thân tương đối hay ở Thật tướng.
Thế Tăng hỏi vì nghi ngờ hay hỏi vì xả giao thưa hỏi ?”
Đại đức trả Lời :"Kính Thưa , con thì không còn hoài nghi gì nửa về những khía cạnh tương đối của các Đức Phật hay những khía cạnh thật tướng. Nhưng ở đây con hỏi là vì muốn bày tõ sự tôn kính. Nếu đức Thế Tôn , và các vị A La Hán đây không tới thăm, thì con cũng hoàn toàn không nghi ngờ gì nữa về Phật, Pháp và Tăng. Con biết rằng ai mà thấy được Pháp tức là thấy được Phật. Phật, Pháp và Tăng đều cùng thực thể hoàn toàn thanh tịnh, không có cấu uế, tự do không ràng buộc bởi sự thật tương đối”.
Đức Phật trả lời rằng: “Ta không hỏi vì Ta nghĩ con hoài nghi mà hỏi vì sự thăm hỏi, thân thiện giữa những người bạn”.
Khi đến viếng thăm, thì chỉ có Đức Phật nói, còn những vị tháp tùng không có ai nói một lời nào. Tất cả đều thành kính lắng nghe Đức Phật nói , tất cả đều bày tõ lòng thành kính trang nghiêm , ngay cả các vị Sa Di tuổi trông chừng rất nhỏ có vị chỉ khoảng 8, 9 tuổi hay 12 tuổi là cùng, và điều nầy khiến đại đức rất vui thích. Các vị nhỏ tuổi đó họ như trông các đứa bé bình thường, mắt trong sáng, mặt mày mủm mĩm trông rất dễ thương. Tuy nhiên thái độ thì rất là “người lớn” , rất chững chạc, trầm tĩnh. Nói chung là các vị đi tháp tùng theo Phật có thái độ rất uy nghi, dễ mến.
Đại đức luôn thắc mắc về cách các phép hành thí dụ như đi kinh hành hay cách tọa thiền vào thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế, cũng như thái độ, cách cư xử của vị Tỳ Khưu nhỏ thuổi hạ đối vơi bậc trưởng thượng. Và câu hỏi như có nên mặc Y Tăng Già Lê khi tọa hiền không ? Khi có những thắc mắc khời lên thì đều có một vị Phật hay một vị A La Hán xuất hiện trong định biểu diển lại các pháp hành xử trong thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế cho ngài xem. Có khi các ngài chỉ dẩn cặn kẻ kèm theo sự biểu diển lập lại để giải đáp các thắc mắc của đại đức. Các ngài còn chỉ dẩn cho đại đức cách ngồi thích hợp khi định, mặt nhìn hướng nào, thế ngồi nào thí thích hợp nhất. Khi đi kinh hành thì đi như thế nào, để tay làm sao, làm cách nào cho thân đi cách điềm tĩnh.
Đại đức Mân có vài điều kỳ lạ khi nói về cách cư xử giữa các Tỳ Khưu với nhau. Khi đại đức muốn biết về cách cư xử của các Tỳ Khưu với nhau ở thời Đức Phật. Khi ý nghĩ đó khởi lên thì liền sau hình ảnh một vị Phật và các A La Hán xuất hiện. Các vị A La Hán thì tuổi tác khác nhau. có vị trẻ tuổi, có vị lớn tuổi, lại có những vị rất già mà tóc đều bạc trắng. Phật và các dệ tử không cùng đến một lúc. Họ tơi từng người, người tới trước thì ngồi phía trước, không theo thứ tự tuổi . Ngay cả người Sa Di tới trước cũng ngồi lên hàng đầu. Sau cùng một vị tăng rất lớn tuổi đến sau ngồi ở phía sau cùng. Ngay cả đức Phật lúc đến, chổ nào trống thì ngồi vào chổ đó.
Khi thấy như vậy , đại đức cho là có gì ngờ vực. Có thể nào ở thời đức Phật mà không có sự kính trên , nhường dưới. Thật không phải là điều khích lệ. Có lẽ nào Đức Phật và các đệ tử tuyên dương pháp , mà trong khi đó Ngài và các đệ tử lại hành động một cách bừa bãi như vậy.
Mặc dầu không ai trả lời, giải thích cho đại đức, nhưng Trí ngài ngay lập tức có câu trả lời :
Đây là trường hợp đặc biệt của Pháp Giải Thoát , không còn một dấu vết gì của sự thật tương đối, thông thường. Do vậy mà không có một sự cứng nhắc theo phép tắc. Các Ngài biểu diễn cho thấy bản tính chân thật của sự Thanh tịnh hoàn toàn. Phật tánh bình đẵng, không có sự phân chia theo sự thật tương đối. Từ Đức Phật trở xuống tới các vị Sa Di A La Hán nhỏ tuổi đều bình đẵng dựa theo tâm thanh tịnh.
Đại đức đã hiểu, nhưng muốn xem lối sống, cách hành xử theo thế giới tương đối. Ngay vừa mới có ý nghĩ như vậy thì tất cả hình ảnh đổi thay ngay lập tức. Đức Phật bây giờ ngồi ở trên trước các đệ tử , còn hàng trên là các vị đệ tử cao tuổi, và dần cho tới các vị Sa Di ngồi ở hàng dưới cùng. Thật là một cảnh tôn kính trang nghiêm. Lúc nầy thì Đại đức hiểu thì đây là cách các đệ tử Phật đối xử nhau trong lúc Phật còn tại thế. Các Tỳ Khưu lớn tuổi hành như pháp nhưng vẩn còn phiền não, nhưng các vị Tỳ Khưu A La Hán nhỏ tuổi hạ cũng rất cung kính đối với các vị đó. Khi đó Đức Phật giảng rằng :
“Các đệ tử của Đức Thế Tôn họ chung sống trong hòa hợp, tôn trọng giúp đở lẩn nhau, một tập thể đoàn kết . Điều nầy không có nghĩa là các đệ tử của Phật sống một cách thân mật theo lối thường tình, mà là theo nghĩa bình đẵng, không phân biệt theo đúng pháp . Khi các Tỳ Khưu sống trong Tăng đoàn của Ta, họ không bao giờ cải gây nhau, hay tõ thái đô khinh khi kẻ khác. Tăng mà không kính trọng lẩn nhau theo đúng giáo pháp và giới luật của Phật , thì đó không phải là đệ tử của Ta, mặc dầu đang mặc áo của Như Lai, bắt chước các đệ tử của Như Lai. Khi nào mà họ theo đúng giáo pháp và giới luật, đại diện cho Phật , thì họ chính là đệ tử của Như Lai, cho dù họ ở bất cứ nơi đâu, có được thầy truyền giới hay không, màu da, quốc tịch, thì họ chính là đệ tử của Như Lai. Họ chắc chắn sẻ thoát đau khổ .“ Sau khi nói xong thì Đức Phật và các vị đệ tử biến mất.
Khi đại đức muốn biết có nên mặc y Tăng Già Lê khi hành thiền : thì có một vị A La hán xuất hiện biểu diễn cho thấy không phải lúc nào cũng cần thiết mặc y Chính khi hành thiền . Vị A La Hán biểu diển khi nào, lúc nào khi tọa thiền hay đi kinh hành mà cần mặc Y chính. Hay các trường hợp đặc biệt phải mặc Y chính. Ngay cả cho đại đức thấy màu đúng của ba Y vào thời đó, màu hoàng thổ , Y được nhuộm từ nhựa cây Mít. Có ba màu : màu lạt, vừa, và đậm.
Khi nghe những điều nầy từ đại đức, chúng tôi càng rất tin tưởng về những gì mà đại đức đã chỉ dạy.


NHữNG NĂM ở CHIANG MAI

Đại đức Mân đã ở Chiang Mai, và an cư ở những nơi khác nhau trong tỉnh nhiều năm. Như đại đức đã an cư ở: Ban Chom Taeng ở quận Mae Rim, Ban Pong ở quận Mae Taeng, Ban Kloi ở quận Phrao, Ban Pu Phraya ở quậïn Mae Suai, và Mae Thong Thip ở quận Mai Sai trong tỉnh Chiang Rai. Đại đức cũng an cư nhiều mùa ở chùa Chedi Luang ở trong thành phố Chiang Mai. Và ỡ vùng núi của quận Mae Suai, và vùng rừng núi tỉnh giáp gianh là tỉnh Uttaradic. Ngoài các thời kỳ an cư kiết hạ, thì ngài du hành một mình, 11 năm trời trong tỉnh Chiang Mai và Chiang Rai, nên khó mà ghi lại các chi tiết các nơi mà ngài đi qua và ở lại.
Chỉ trừ khi an cư và ở trong chùa Chedi Luang, còn ngài ra là đại đức thích sống một mình, đi du hành sống hạnh đầu đà một mình đơn độc. Trừ khi nào các vị Tăng khác tìm được ra ngài, thì đại đức ở lại với họ một thời gian ngắn chỉ dạy cho họ rồi bảo họ đi nơi khác mà hành, đó là những nơi hoang vắng thường ở dưới chân núi, trong rừng, mà làng lân cận chỉ có 5 hay 10 gia đình đủ để đi khất thực từng bửa.
Đại đức ở những nơi hoang vắng, tiếp xúc với loài người thì ít nhưng tiếp xúc nhiều với các loài khác : Trời, Thần , Rồng hay các chúng sinh ở các cảnh giới khác. Ngoài ra các dân tộc thiểu số miền núi cũng hay gặp ngài . Tất cả đều tôn kính ngài và nghe theo lời ngài chỉ bảo.
Những Tỳ Khưu mà lặn lội tìm kiếm ngài, thì thường là các Tăng thành tâm cầu đạo, cho nên đại đức đã chỉ dạy theo khả năng của họ. Phương pháp dục ở Chiang Mai thì khác ở những nơi khác trước đó, rất là khắc khe và không nhân nhượng. Giáo pháp chỉ cho những người nào thành tâm vì đạo ngay cả phải từ bỏ mạng sống để cầu pháp.
Có một sự kiện xảy ra khi ngài ở vùng rừng núi Chiang Mai. Một sự kiện mà khó có thể xảy ra ở các Du tăng đầu đà. Tôi xin lổi các quí vị đọc giả vì tôi nghi lại những điều nghe thấy ở đây, chỉ vì mục đích có thể đây là bài học cho những ai có gặp hoàn cảnh tương tự . Câu chuyện nầy chỉ có các đệ tử thân tín biết, và do một trong những vị đó kể lại:
Vào một buổi chiều , đại đức và các Tăng theo học ở ngài ra suối tắm , con suối cũng gần con đường ruộng của một ngôi làng ở đó khá xa. Khi họ đang tắm , thì có một đoàn người nữ đi làm ruộng đi ngang qua. Đây là điều chưa từng bao giờ xảy ra. Khi đó có một vị Tăng nhìn các thiếu nữ và dục vọng khởi lên , điều nầy làm cho vị đó rất là khổ tâm, vì không kiềm giử được , và vì sợ đại đức biết được mà khiển trách, và vì xấu hồ. Vị đó cố gắng kiền giử tâm ý cho khỏi xúc động.
Từ đó trở đi, tâm vị đó rất bất an về chuyện xảy ra. Trong đêm đó đại đức biết được vị Tăng đó đang bị khủng hoảng, không thể ngủ được vì chưa giải quyết được vấn đề. Sáng hôm sau đại đức không nói gì .Khi vị đó gặp ngài, thì run lên vì sợ và xấu hổ. Nhưng đại đức cũng không nói gì chỉ mĩm cười, trấn an. Lúc tới giờ đi khất thực, thì đại đức tìm cớ cho vị đó ở lại : " Tôi biết sư rất tinh tấn trong việc tu hành, cho nên hôm nay sư không phải đi bát, còn các vị khác thì đi với tôi. Chúng ta sẻ san sẽ thực phẩm cho sư , việc nầy cũng không là một vấn đề. Ở lại và tinh tấn hành thiền mà chúng tôi có thể chia sẻ công đức đó với sư.” Đại đức nói mà không nhìn thẳng vị sư đó. Đại đức biết vị đó đã hết sức cố gắng để giải quyết vấn đề, do tình cờ xảy ra chơ không cố ý.
Sau khi mọi người đi khất thực về , các sư chia sẻ thực phẩm bỏ vào bát cho vị sư ở lại. Và đại đức cho người bảo vị đó có thể ở trong chòi ăn một mình hay là ăn chung với các Tăng, cái gì cũng được. Nhưng vị Tăng đó ra ăn chung với đại chúng. Đại đức cũng không nói gì chỉ sau đó ban những lời khuyên thông thường nhỏ nhẹ. Mặc dù ăn chung nhưng vị đó ăn rất ít , như là giử lịch sự.
Chiều đó một vị Tăng khác ra suối tắm – người đã kể lại câu chuyện nầy. Khi tắm tự hỏi tại sao đại đức lại quan tâm đặc biệt đối với bạn mình mà trước chưa từng thấy. Có lẻ bạn mình rất tiến bộ trong việc hành thiền, cho nên thầy mới đạc biệt quan tâm như thế. Cho nên khi có cơ hội vị tăng liền hỏi bạn mình : “Đại đức bảo bạn không phải đi bát, vì bạn rất tinh tấn , nhưng không nói trình độ bạn giỏi cỡ nào, vậy bạn hảy nói cho mình biết ?.” Vị Tăng ngượng ngùng trả lời vì đại đức thương tình một tâm hồn đau khổ và dùng phương tiện thiện xảo mà giúp đở . Và vị Tăng đó tránh không nói gì thêm, nhưng cuối cùng thì nói ra cho bạn nghe. Vị đó hỏi: “Thế bạn có biết gì xảy ra khi chúng ta đang tắm ngày hôm qua”. Vị kia trả lời rằng không có gì trừ sự kiện một đoàn thiếu nữ đi ngang qua. Vị kia nói : “Đó chính là vấn đề, mà giờ đây tôi rất đau khổ , đó là lý do Thầy không cho tôi đi khất thực , sợ rằng tôi chắc đứng tim chết trong làng khi gặp nàng ta. Làm sao đó gọi là đó là trình độ tu hành tiến bộ. Bạn có biết rằng sự tồi tệ trong việc tu hành của tôi không?”
Người kia sững sốt than rằng :”Trơi ơi, bộ bạn có gì với thiếu nữ đó hả”
Vị Tăng trả lời :”Không có gì cả, chỉ là sự thương thầm tưởng nhớ, điều đó phá tan sự định tâm của tôi. Giờ chỉ là hình ảnh nàng ta lỡn vởn trong đầu. Ngay cả giờ cũng không giảm bớt. Tôi không biết phải làm gì , bạn có biết giúp tôi được không ?”
"Không gì đỡ hơn hả ?"
Vị kia buồn khổ trả lời rằng :”Không đỡ hơn được”.
“Trong trường hợp nầy thì tôi nghĩ như vầy: bạn nếu không kềm chế được thì tốt nhất nên rời bỏ khu vực nầy , tìm chổ khác thích hợp hơn để tu. Nếu bạn ngại thì tôi sẻ gặp Thầy nói dùm , chắc là đại đức sẻ cho phép thôi, vì có lẽ Thầy đã biết mà không nói ra thôi”.
Vị Tăng đó đồng ý , và người bạn kia đến gặp thầy nói dùm cho bạn mình. Đại đức đồng ý nhưng ngụ ý bảo:”Căn bệnh từ nghiệp ái dục đời trước rất khó mà chửa, nó nhanh chóng lan lây mà cái nhân cũ thì vẩn còn nguyên.” Đó là những gì đại đức nói mà ngay lúc đó người bạn đi nói dùm cũng không hiểu được.
Người trong cuộc không ai nói gì, Vị Tăng đó chưa bao giờ nói trực tiếp vơi thầy, còn người bạn thì không nói với ai khác ngoài đại đức.
Sau đó thì vị Tăng từ giả thầy , đến một cái làng khá xa để tu hành . Nếu không phải là nghiệp nhân đời trước thì có lẻ vị đó đã an ổn tu hành, nhưng khó mà trách được nghiệp. Đúng như lời của đại đức Mân báo trước . Chỉ một thời gian ngắn sau khi vị Tăng ra đi, thì người thiếu nữ có chung nghiệp vơi vị Tăng đó cũng rời khỏi làng tơi ngụ nơi làng vị Tăng đó ở , nếu chẵng phải là nghiệp lực thì khó mà giải thích được, vì thời đó rất hiếm có một thiếu nử dân tộc thiểu số rời khỏi khu vực làng mình đi tới nơi khác.
Sau một thời gian thì đại đức và các Tăng đi du hành sang nơi khác. Trên đường hành trình mới biết được rằng vị tăng đó đã cỡi áo mà trở lại đời sống thế tục, và lập gia đình vơi thiếu nữ xinh đẹp dân tộc thiểu số đó. Đúng là trường hợp điễn hình của nhân duyên vì theo lời người kể thì vị Tăng đó khi ra suối tắm, mới gặp đã thương người thiếu nữ đó mặc dầu trước đó chưa bao giờ gặp, mặc dầu đi khất thực hằng ngày trong làng, và sống dưới sự giám hộ của đại đức Mân. Khi nhân duyên hội đủ thì khó mà trốn tránh được. Chúng ta chưa bao giờ trong hoàn cảnh nầy có thể mĩm cười chê, nhưng mà ai đã trãi qua thì biết chúng ta không ai có thể bắt chước giống như vị A La hán Sundara Samudda (Tôn Đà La Đại hải ) tự mình cất bổng bay lên không trung, mà thoát khỏi. Mặc dầu đại đức Mân đã dùng các phương tiện để giúp , nhưng tự thấy không thể làm gì được hơn nữa nên ngài không trự c tiếp can thiệp, để cho nghiệp lực hoạt động theo con đường vạch định sẵn có của nó.
Đại đức còn có biệt tài bắt “trộm” rất giỏi (những pháp bên ngoài , “kẻ trộm” , qua các 6 căn, đánh cắp mất sự chánh niệm của tâm ). Những ai có tâm ý đi xằng bậy thì đại đức khiển trách ngay. Những ai không kiên cố học đạo thì tự ái, và hành động không tốt, còn những ai thành tâm thì khi bị khiển trách, họ cố gắng sửa đỗi. Không giận hờn , hay sợ hãi khi lổi lầm bị vạch trần. Khả năng đọc được ý nghĩ kẻ khác của đại đức Mân đã làm cho các đệ tử luôn cảnh giác và chú tâm. Có một vị tăng đến tìm ngài để tu học, thì đại đức đã xử dụng khả năng nầy để dạy vị đó , sau đây là câu chuyện.


VÕ SĨ QUYềN ANH

Khi mà đại đức nhận một nhóm Tăng làm đệ tử, thì thường hay có buổi họp chúng để ngài chỉ dạy các pháp tu hành. Nếu có vị nào mà ngài thấy thái độ tu lõng lẻo hay không như pháp thì trong những giờ như vậy đại đức la rầy . Khi đại đức trong định thì thái độ, hành vi không đúng của một người đệ tử có thể hiện bày cho thấy hay là những lúc bình thường đại đức đọc được những ý nghĩ quấy của người đệ tử. trong những trường hợp như vậy thì ngài phát huy một phương pháp để cho người đó biết lổi của mình và từ đó về sau không còn tái phạm nữa,
Có một người đệ tử trước kia là một võ sĩ , sau đó vì hâm mộ ngài nên xuất gia đi tu, và tìm tới chổ ngài để cầu đạo. Khi tới vị đó vái chào và xin gia nhập vào Tăng đoàn. Đại đức chấp thuận, mà không nói một lời bình phẩm nào.
Có lẽ đêm đó đại đức quán sát vị đệ tử mới, nên ngay sáng hôm sau khi các Tăng tập hợp lại để đi khất thực, thì ngài đi vào nói về vị Tăng mới nhập đoàn :”Vị sư nầy hôm qua tới đây bày tõ lòng muốn cầu đạo, ta nhìn thấy thái độ chẵng có gì thù nghịch, cũng được. Tại sao đêm qua, trong lúc ta ngồi định thì vị nầy đến đứng trước mặt ta, rồi múa võ hồi lâu, trước khi lui ra còn đá bên nầy , đá bên kia, giống như một võ sĩ đang thượng đài. Đây là câu chuyện gì vậy ? Thế sư là võ sĩ trước khi đi tu à ? Chắc vậy nên mới muốn biễu diễn cho ta Thấy phải không ?”. Khi đại đức nói tất cả các Tăng đều im lặng như tờ , còn vị Tăng ấy thì mặt mày nhợt nhạt.
“Sư định nói gì đây hả ? Trong đầu nghĩ gì mà có thái độ như vậy ? Ít ra cũng còn biết không đánh vào mặt ta”. Vì đến giờ đi khất thực nên đại đức không nói gì hơn , và buổi tối đó cũng không nói gì về chuyện nầy. Nhưng đêm đó lại cũng vẫn như vậy, cho nên sáng hôm sau, ngài lại la rầy:
“Mục đích chính của sư đến đây là gì ? Tối qua lại như vậy nữa, lại đứng múa may, đánh bên nầy đá bên kia, suốt cả đêm , trông chẵng ra làm sao, chẵng giống chút nào là người có ý muốn tốt. Trước khi đến đây sư muốn gì, và bây giờ sư đang muốn gì . Hảy nói thật cho ta biết. Nếu không sư chẵng thể ở đây được. Ta đã hai đêm đều thấy như vậy.”
Vị đó quá sợ hải, mặt mày xanh nhợt, run lên nói không ra tiếng gần như muốn xỉu. Thấy thế vị Tăng ngồi cạnh bèn lên tiếng xin được nói riêng vài lời với vị ấy. Đại đức chấp thuận.
Vị đó khuyện như sau:”Xin anh hảy nói thật cho thầy nghe cảm tưởng của anh, vì thầy chỉ muốn sự thật, chớ chẵng muốn hại anh làm gì ? Không ai trong số sống chung vơi Thầy mà không có lổi lầm, ai cũng còn phiền não chớ chẳng phải là thánh. Nếu có lổi thì bị quở trách là đương nhiên. Tất cả chúng ta đều là đệ tử của thầy. Thầy như cha mẹ ta, và vì trách nhiệm nên thầy mới la rầy chúng ta vì muốn chúng ta thành đạt. Bản thân tôi cũng bị thầy quở trách nhiều lần. Có người còn tệ hơn nữa, bị đuổi ra khỏi đoàn, không cho ở chung , chỉ khi nào thành tâm sữa chửa mới cho ở chung lại. Anh không nên sợ hãi mà dấu diếm. Anh hảy thẳng thắn trình bày , nếu anh không nhớ biết thì thành thật nói cho thầy rằng anh không nhớ biết những lổi lầm. Rồi để thầy định đoạt.”
Sau khi để cho vị Tăng đó khuyên bạn xong. Đại đức lên tiếng:
“Bây giờ sư nói gì đây ? Chẵng phải là ta tìm lổi người khác mà không có lý do. Bởi vì khi ta nhắm mắt thì thấy sư cứ đúng trước mặt múa may quay cuồng với các thế võ. Thật là chẳng giống một vị Tăng chút nào. Ta rất buồn, ta đây chỉ muốn biết hành vi sai trái nào sư vẩn cứ làm để có chuyện xảy ra như vậy. Ta muốn sư nói cho ta biết sự thật. Hay là sư nghĩ rằng các nghiệp trước của ta nay hiện ra đùa giởn trong tâm tư của ta. Nếu thật sự mà sư vô tội thì ta không đáng làm thầy của sư , chỉ là ông sư già điên khùng, tốt hơn là ta nên trốn vào một xó nào đó, chớ đạy bảo kẻ khác làm gì. Nếu mà tiếp tục dạy thì chỉ làm cho thế giới điên đảo thêm mà thôi”.
Thấy tình hình căng thẳng, các sư khác vội khuyên. Cuối cùng vị Tăng đó lập bập trả lời gần như không ra tiếng :“ Thưa, . . . , Dạ, . . . trước kia con là , là . . kẻ đánh võ kiếm ăn”.
“Vậy là anh là một võ sĩ phải không ?” đại đức xác nhận lại.
Vị đó nói : “Dạ vâng” rồi nín thinh.
“Bây giờ anh là một vị sư , làm sao mà còn là võ sĩ được ? Hay là trong khi làm Tăng trên đường đi tới đây anh đánh võ để kiến ăn”.
Vị đó như mất hồn không thể trả lời, thấy vậy một vị Tăng đỡ lời :"Vậy trước kia anh là một võ sĩ, nhưng sau khi xuất gia anh không cón làm nghề đó nữa phải không ?"
Vị đó đáp :”Dạ đúng, trước khi đi tu thì có nhưng sau thì không bao giờ làm nữa”. Thấy tình cảnh không gì khả quan nên đại đức thay đổi đề tài và dẩn chúng đi khất thực. Chiều đó cho người kêu vị đó vào gặp riêng. Nay sau khi có cơ hội kiểm điểm lại , nên khi gặp đại đức vị đó tỏ rõ rằng : trước là một võ sĩ có tiếng ở võ đường Suan Kulap. Nhưng chán đời sống thế tục nên xuất gia cầu đạo giải thoát. Và vì hâm mộ đại đức nên lặn lội đi tìm để học. Chớ không có ý đồ gì hết.
Sau khi trình bày rõ ràng, vị ấy ra về. Tưỡng chừng câu chuyện chấm dứt . Nhưng đêm đó sau khi điều tra, thì sáng hôm sau trước đại chúng, ngài lại chất vấn :
“Không phải là vì trước kia là võ sĩ, mà có điều gì giấu diếm bên trong. Sư nên xem xét kỹ về điều nầy. Coi ra sao. Chớ đơn giản trước kia là võ sĩ thì sự kiện đã chấm dứt không còn dây dưa đến nay.” đại đức chỉ nói từng đó.
Sau vài ngày sống chung có vị tăng thân cận với vị đó tơi thăm và chất vấn về vấn đề, thì sư đó mới phát hiện vị Tăng mới nhập đoàn có mang theo các tấm hình các võ sĩ nổi tiếng. Và khuyên vị tăng mới rằng đây chính là nguyên nhân, và khuyên nên vất bỏ đi, vị đó đồng ý và đem đi đốt .
Sau đó thì mọi chuyện êm xuôi. Vì sơ ý nên khi đi tu vị Tăng đó lại còn mang theo 10 tấm hình các võ sĩ chụp ở tư thế khác nhau để làm kỷ niệm. Vị ấy mang từ thành phố Bangkok cho tới Chiang Mia và lặn lội tơi khu rừng núi đại đức đang ở.
Vị tăng trước kia là võ sĩ sau đó rất tinh tấn tu tập, và luôn sống hòa thuận với mọi người. Từ đó trở đi đại đức cũng không la rầy vị đó nữa.
Tâm thì thật là kỳ diệu. Mặc dầu đại đức sống một mình, nhưng ngài biết rõ tất cả những chuyện trong, cũng như bên ngoài. Khi bản tánh của tâm không bị chê mờ, thì là như vậy; Trí (knowledge) và Tuệ (Understading) cùng phát khởi. Thật là điều kỳ diệu khi tâm, có khả năng như vậy, Biết rõ được mọi hiện tượng phát khởi trong từng sát na. tâm, giống như mới vừa xảy ra, mặc dầu chúng phát khởi ở “thời gian “ lâu xa về trước.
Khi mà tâm ở đại định thì các nhiệm vụ biết nầy ngưng, tất cả các hiện tượng không ảnh hưởng đến tâm. Lúc đó tâm là pháp và pháp là tâm. Hai là một, một là hai, không phân biệt. Tất cả những gì thuộc về tương đối không còn hiện hữa, thời gian , không gian được chuyễn hóa. Không có cảm giác về thân, về tâm thức. Chừng nào mà tâm ở trong trạng thái như vậy, cho dù nhiều ngày, nhiều năm, hay nhiều kiếp, thì tất cả hiện thực gì về tương đối, phân biệt, đều ngưng, như vô thường (Anicca) đau khổ, hay vô ngã (Anattā) đều không ảnh hưởng được. Thí dụ như khi tâm ở Diệt tận định, thì khi thân thể thô trược này tan rã thì tâm cũng không biết.
Thật ra khi tâm ở trạng thái Diệt là trạng thái trong đó những sự thật thuộc về khái niệm đều bị ngưng, thì chỉ là tạm thời, không lâu hằng năm trời. Mà giống như giấc ngũ thật say, cho dù ngũ say đến đâu thì cũng có lúc thức, lúc thức thì các cảm giác của thân và tâm thức trở lại bình thường.
Khi tâm ở những tầng định sâu, bao gồm cả diệt tận định, thì cũng còn nằm trong cảnh giới tương đối mà thôi, Chỉ có tâm giải thoát mới vượt khỏi mà thôi, mới hoàn toàn giải thoát. Chỉ có tâm giải thoát mới không ràng buộc bởi thờøi gian và không gian. Không thể nào giải thích được tâm giải thoát, chỉ tốn giấy mực, thời gian và công sức mà thôi.
Khi tâm ở các trạng thái đại định thì không có hiện thật khái niệm, những hiện tượng có điều kiện liên quan tới tâm thì ngưng, dường như biến mất vậy. Sau đó khi mà tâm rút về cận hành định từ đại định hay trở về tình trạng bình thường là thanh tịnh tâm, thì lúc đó tâm hoạt động bình thường nhận biết qua các giác gian.
Khi ở cận hành định hay ở tình trạng bình thường thì đại đức đều có khả năng lảnh hội vô số các hiện tượng, có khác nhau chỉ là chiều sâu, chiều rộng và chất lượng mà thôi. Khi mà muốn biết tường tận một hiện tượng thì đại đức vào Cận hành định mà quán sát, điều tra. Ở tầng định nầy thì khi muốn biết hình dáng âm thanh của một người, thú hay một loại chúng sanh nào đều có thể nhận biết không khác như dùng mắt, tai thường mà nhận biết vậy.




--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 17th June 2025 - 05:43 AM