![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,057 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
LỜI TÁC GIẢ
Tiểu Sử của đại đức Mahn Bhūridatta mà các bạn sắp đọc là kết quả của một công trình nghiên cứu lâu dài. Tôi đã tham khảo, đi gặp các vị đại đức đệ tử của ngài. Những người đã từng sống chung với ngài. Tôi đã góp nhặt, ghi lại và soạn ra thiên tiểu sử nầy. Tôi hoàn toàn không vừa ý khi soạn bản tiểu sử nầy, vì thật là rẩt khó để cho các Sư , các vị đã từng sống tiếp xúc với ngài diễn tả được hểt những kinh nghiệm sổng trong cuộc đời tu tập của ngài mà ngài đã nói 1ại cho các vị đó nghe. Nhưng nếu tôi chờ có đầy đủ tẩt cả những chi tiết mà các vị đó nhớ lại, thì không những e rằng thời gian sẻ làm chúng phai nhòa và mất đi, mà hi vọng ghi chép lại tiểu Sử vể ngài cũng không thành tựu được. Rẩt là khó, khi tôi phải cho hoàn thành một công việc mà mình chưa vừa ý, nhưng hi vọng của tôi là tập tiểu sử nầy giúp ích được phần nào các đọc giả quan tâm đến Phật giáo Tôi cố gắng mô tả tất cả những hoạt động của ngài theo thứ tự thời gian, và theo lối hành văn thuật lại đời sống của các vị Thánh Tăng như' đã được ghi trong các kinh điển, đồng thời cố ghi lại những bài pháp mà ngài đã giảng cho các đệ tử, mục đích là cho các thế hệ sau thấy tấm gương đạo hạnh của một bậc chân tu, người đã theo con đường chỉ dạy của đức Phật. Và cho thấy khả năng chứng đạo có thể đạt được như mô tả trong các kinh điển, nếu như có một sự gia sức, một sự nổ lực thành thật trong việc tu hành. Xin các đọc giả tha lổi cho tôi nếu như cách trình bày không có gì thích hợp. Tôi không như ý về tác phẩm nầy, nhưng vẩn xuất bản vì hi vọng các đọc giả Phật giáo có thể tìm thấy một sự lợi lạc trong việc đọc lại cuộc đời của ngài, đại đức Mahn Bhūridatta. Tỳ Khưu Mahā Bowa Ñāṇasampanno Oct, 1971 ![]() ![]() NHÀ XUẤT BẢN GIỚI THIỆU Chúng tôi hân hạnh được trình bày, nơi phụ tnương đặc biệt của tập san nầy, thiên tiểu sử của cố đại đức thiền Sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, bình sanh là vị thiền Sư nổi danh nhầt trong nước Thái, do một số các đệ tử đồng thời với ngài biên soạn. Tác giả là đại đức thiền sư Phra Ācham Boowa Ñāṇasampanno, tịnh cư trong rừng chùa Bahn Tard, thuộc tỉnh Udon , cách xa kinh đô Vọng Các (Thái Lan) lối 600 Km về phía đông bắc. Hiện nay có nhiều vị thiền sư trước đã tững là đệ tử của ngài, như đại đức thiền Sư Phra Ācham Chah đã được nêu tên trong bản của ông Douglax M. Bums nhan đề : chương trình và dự án thành lập Tăng già Mỹ . Đăng nơi trang 56 của tập san nầy, mặc dầu cố đại đức thuộc về phái tiểu thừa cải cách, do đức vua Monkut lừng danh trên thế giới lập nên, nhưng ngài có rất đông đệ tử thuộc cả hai phái, và đại đức thiền sư Phra Ācham Chah có lẻ là vị đệ tử ưu tú trong phái đại thừa vậy. Quí bạn đọc thiên tiểu sử nầy, chắc thế nào cũng quay lại bản kêu gọi kể trên của ông. Như đã nêu trên trong số tân niên của chúng tôi, quyễn sách bằng chử Thái là một đầu đề tranh luận, vừa bị đã đảo, vừa được hoan hô, giữa nhóm trí thức và nhóm bình dân, giữa phái thượng lưu và phái hạ lưu, giữa hàng vương giả và hạng bần cùng và giữa chư Tăng và các thiện tín. Như thế, không phải là vô cớ, bởi vì quyễn sách là một khuyến khích lớn cho hàng Phật tử hành thiền thấy rằng : Ngày nay, đạo quả cũng vẩn còn giác ngộ được, nhưng nó đòi hỏi những nổ lực thích ứng chân thành và mảnh liệt của những bực tu hành già giặn và chính chắn. Đối với những người chỉ thích lăn lóc trong vũng lẫy tuyệt vọng, một bản tuyên ngôn như thế làm cho họ đau khổ vô cũng, và họ ném đá đả đão đại đức tác giả, lại còn mẵng đại đức là kẻ khủng bố, là kẻ phá hoại Phật giáo nữa. Nhưng có vài người lắng tai nghe bản thông điệp của đại đức, tin tưởng rằng nếu tự họ chưa già giặn đủ để giác ngộ đạo quả ngay trong kiếp nầy, thì cũng có thể có những người khác đã đến trình độ đó. Những người nầy sẳn lòng chịu lầm lạc, nếu quả thật họ lầm lạc, chỉ vì tin quá lố – như thế còn tốt hơn phạm nhằm đại tội Ariyūpavāda là mạ lỵ , hay hủy báng một vị thánh thanh văn. Họ đặt tất cả niềm tin của họ trên cái sự kiện hiển nhiên là trong số những kẻ chỉ trích Ngài (Phra Ācham Mahn Bhūridatta) Không ai có tài năng bằng ngài, hoặc bằng phân nửa Ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh, thanh cao, giản dị và thanh khiết. Ký thác đức tin của ta nơi một người sống một đời chơn chánh thánh thiện, thay vì đặt ở nơi những người chỉ hứa giúp đở ngoài môi và còn thụ hưởng đủ thứ khoái cảm nhục lạc, há chẳng đáng khuyên hơn, được lợi ích hơn, và cũng đúng với Phật pháp hơn sao? Chúng ta tôn thờ và tin tưởng ngài, là người không bao giờ khao khát đệ tử, hoặc tìm cầu danh vọng, và làm gương cho bất luận pháp nào của ngài thuyết, há chẵng tốt đẹp nhiều hơn sao ? Chúng tôi tin rằng tác phẩm sau đây sẻ được đón tiếp nồng hậu và sẻ bị chỉ trích kịch liệt, bởi quần chúng độc giả đọc chử anh, không kém nồng hậu và kịch liệt hơn khi còn nguyên văn chử Thái. Và chúng tôi kính cẩn Xin cầu chúc : Mong Sao cho những người hằng miệt thị ngài (đại đức , hay cố đại đức ) cũng như những người hằng tôn kính ngài đều có khả năng làm được như ngài, hoặc bằng phân nửa ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh thanh cao và tinh khiết. Thiên tiểu sử vạch rõ phương pháp tu hành và nếp sống linh động trình bày nơi đây, chính là của cố Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, cung cấp bởi các đệ tử đồng thời với cố đại đức, đả từng tu tập dưới sự hướng dẫn của ngài, trong những thời kỳ khác nhau. Do đó sự chính xác của họ có thể tìn cậy được lắm, dẫu rằng theo lẽ đương nhiên, chúng ta không thể biết chắc là mổi vị đệ tử của ngài có nhớ được từng lời giáo huấn của ngài, và từng địa điểm, từng việc biến chuyễn trong đời ngài hay là không? Nhưng nói đi rồi, còn nói lại, chúng ta không thể chờ đợi cho tới lúc sẻ thành tựu hoàn toàn mỹ mản, chúng ta càng trì hoãn , thì chắc là những chi tiết hay ho, hửu lý càng phai mờ trong ký ức của những đệ tử của ngàì. Và những thế hệ mai sau ắt là thiếu một tấm gương giá trị mà họ có thể soi chung. Vì xét thấy sự kiện nầy mà chúng tôi trình bày. Thiên tiểu sử sau đây, hi vọng rằng thà còn ít còn hơn không có gì hết. Phương pháp trình bày nơi đây, noi theo gương các bậc soạn giả tiền bối đã ghi chép tiểu sử của các vị thánh Thanh Văn, trong nhiều bản kinh, với hi vọng lưu truyền những gương mẩu cho đoàn hậu tấn. Trong trường hợp, có điều gì bất nhả mà chính cố đại đức thiền sư đã tự thuật, thì soạn giả xin cáo lổi với quí độc giả, nơi đây. tác phẩm nầy được soạn ra với mục đích phụng sự những ai lưu tâm tới khía cạnh Phật gíáo. Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, lúc bình sanh là vị thiền Sư danh tiếng nhứt, được tất cả các đệ tử thân cận thật sự tôn kính. Qua các thời thuyết pháp nói đạo và những lời chỉ dạy về Pháp cao siêu của ngài, nhóm đệ tử thân tín tự nhiên thấy rõ là ngài hẳn đã chứng đắc quả vị nào rồi mới gây được cái ấn tượng sâu đậm trong tâm họ ngay từ ban đầu, và về sau luôn luôn dùng để trắc nhiệm sự kiện nầy. Đệ tử của ngài gồm đủ cả cư sĩ và Tỳ Khưu, có lẽ khắp trong nước Thái và luôn cả trong nước Lào, láng giềng. Lịch sử đời sống ngài thật là kỳ diệu, cả trong hai thời : khi còn là cư sĩ và lúc đả tu Tỳ Khưa, từ ngày đầu cho tới ngày cuối. Nó không có chút tỳ vết bợn nhơ, nên dẩu cho ngọc kim cương hoặc thứ trân bảo khác cũng không bì kịp sự hy hữa và tinh khiết của nó. Tháng 6 âm lịch, 1974 (Sư Pháp Minh) ![]() ![]() ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU Tôi có duyên khi đọc được một phần bản thảo tiểu sử của ngài đại đức Mahn Bhūridatta được viết tay trên cuốn vở học trò 100 trang của Cố Tỳ Khưu Pháp Minh. Thiền Sư Pháp Minh là một vị Tỳ Khưu được nhiều người biết tới trong Phật Giáo Nam Tông ở VN, vì là bậc chân tu khả kính. Thiển Sư Pháp Minh sanh năm 15-3-1918 tại làng phước Hải Huyện Long đất, Tỉnh Bà rịa , Vũng Tàu. Thế danh là Nguyễn Văn Long con của cụ Nguyễn Văn Tài và bà Phạm Thị Minh. Xuất gia làm Sa Di vào năm 1965 tại chùa Phổ Minh, Gò Vấp, Gia Định vào ngày 7 thắng 2. Sau đó ngày 6-1-1968, ngài thọ đại giới Tỳ Khưu tại chùa Pháp Bảo ở Mỹ Tho. Thầy Tế độ là Hòa Thượng Giới Nghiêm. Năm 1968, ngài rời chùa Bửu Quang ở Gò Dưa, đến núi nhỏ ở Vũng Tàu tìm nơi độc cư thiền định. Năm 1969 ngài trở lại về Tổ đình Bửu Quang để tiếp tục sự nghiệp tu hành. Tháng 12 năm 1974, ngài theo lời thỉnh cầu của ban trị Sự Thích Ca Phật đài ở Vũng Tàu tới đó để hoằng pháp. Năm 1975-76 ngài du hành xuống Tô Châu, Hà Tiên , Rạch Giá. Năm 1977 - 80, ngài trở lại Tổ Đình Bửu Quang để tu. Sau đó đến lúc mất ngài sống hạnh độc cư, trì bình khất thực tại cốc Bình Thủy, gò Dưa , Thủ Đức. Và ngài an nhiên thị tịch khi ngồi thiền định vào lúc 9 giờ ngày thứ tư, 27 tháng 1 năm 1993 (tức mùng 5 tháng giêng, năm Quí Dậu) Từ khi xuẩt gia ngài luôn thực hành pháp hạnh đầu đà khẩt thực, và nguyện không nằm. Ngài giử hạnh tri túc, thường ít nhận tứ sự cúng dường của chư Tăng và Phật tử. Ngài thông suốt nhiều ngoại ngữ như tiếng Pháp, Anh, Thái, Khơmer, Pali. Ngài Soạn dịch nhiều kinh điển : như bộ chủ giải kinh Pháp cú, Sưu tập kệ Pali. Trước tác nhiểu tác phẩm: Sổ tức quán thực tập, Lâm tuyển pháp, Cổng vào Niểt Bàn, Chiển Sĩ thượng thặng, Ba cách làm phước, Việc tập tâm, Tứ oai nghi, Hạnh nguyện bồ tát, Siêu pháp tiểt chế tình dục, Tùy bút pháp hành, Thiền luận, Kệ kinh Tam Bảo Pali, . . Bản thảo tôi có được của cố thiền sư Pháp Minh do một người bạn đưa thì chỉ có một phần, vì đây là quà tặng của cố thiền sư Pháp Minh cho thân sinh của vị đó – theo lời vị đó nói. Nhân duyên đưa đẩy, nên tôi xin lược dịch tiếp từ bản tiếngAnh, để hoàn thành. Tôi nghĩ cố đại đức thiền sư Pháp Minh khi dịch, thì ngài cũng là muốn cho đọc giả thưởng thức một tác phẩm hay của Phật giáo. Tôi hoàn thành tiếp việc lược dịch, những sai sót chắc là có là vì khả năng hạn hẹp của tôi trong ngôn ngữ , xin người đọc tha thứ. Tôi cũng thành tâm xin sám hối nểu có điều gì không phải thì do vô rninh không biết mà gây, chớ không chủ ý. Nguyện xin Phật Pháp được trường tồn. Chúng Sinh an Iạc Rocky Mountain Thạch Sơn 2004 NHỮNG NĂM ĐẦU Thầy Đại đức (Phra Acharn 1 ) Mahn Bhūridatta, sanh vào trong một gia đình Phật giáo vào thứ năm ngày 20 tháng 1 năm mùi, Phật lịch 2413 (năm 1870), tại làng Ban Khambong, quận KhongJiam thuộc tỉnh Ubon Ratchathani. Cha ngài là ông Khamduang, và mẹ ngài là bà Jun (Dung) họ Kaenkaew. Là anh cả trong 8 người con trong gia đình, tuy nhiên khi ngài khuất bóng thì chỉ có 2 người em còn sống mà thôi. Ngài là con đầu lòng, nhỏ thó , nước da trắng hồng. Ngài nhanh nhẹn và tráng kiện lại vừa thông minh, ngay từ thuở nhỏ. Đến năm 15 tuổi, ngài xuất gia tu Sa di , ở chùa làng Khambong. Nhờ ngài hâm mộ việc học hỏi Dhamma (pháp), cho nên không bao lâu ngài thuộc lầu những bài kinh của thầy ngài dạy. Tánh tình và hạnh kiểm của ngài củng đáng tín nhiệm, không bao giờ gây rắc rối cho bạn bè và bậc trưởng thượng. Nhưng, hai năm sau khi xuất gia tu sa di, ngài phải hoàn tục, để đáp lại lời thỉnh cầu của cha ngài đang cần đến ngài phụ giúp trong gia đình. Nhưng nếp sống thanh bạch đã có ảnh hưởng xâu xa trong tâm hồn ngài. Ngài không bao giờ quên nó được. Cho nên ngài lập chí nguyện sớm muộn gì ngài cũng sẻ trở lại đường tu. Đây rất có thể là mảnh lực của một đức tin bất thối chuyển, hoặc Saddhā (chánh tín) đã được gắn chặt vào tâm tánh ngài. Về sau, khi ngài 22 tuổi, tiếng gọi của đời tu phạm hạnh có vẻ thúc giục thiết tha. Ngài bèn cáo biệt song thân. Hai ông bà cũng sẳn lòng chấp thuận và sốt sắng lo liệu việc ngài xuất gia tu lên Tỳ Khưu. Hai ông bà thỏa thích chuẩn bị nhu dụng của Tỳ Khưu cho ngài, rối đưa ngài đi xuất gia tại chùa Liap trong thành phố của tỉnh Ubon Ratchathani. Có đại đức Phra Ariyakawi là thầy tế độ (Upajjhāya), đại đức Pha Khru Sitha là thầy Kiết ma ( Kammavācariya), và đại đức Phra Khru Prajuk Ubonkhun là thầy chỉ dẩn (anusāsanācariya) vào ngày 12 tháng 6 dương lịch (năm 2436 Phật lịch). Sau lể xuất gia, ngài có pháp danh là Tỳ khưu Bhūridatta 2. Xuất gia rồi ngài chăm lo học thiền Minh sát ( Vipassanā) với đại đức Sao 3 tại chùa Liap. ĐIỀM MỘNG TIÊN TRI Lúc mới khởi sự hành thiền minh sát với Thầy đại đức Sao, ngài Bhūridatta đã chọn pháp môn niệm Phật làm đề mục thiền quán mà ngài thích nhất. Ban đầu, không đem đến cho ngài sự tịnh lạc, an vui theo ý nguyện khiến cho lắm lúc ngài hoài nghi giá trị của nó. Nhưng ngài bền chí gia công niệm mãi, và cuối cùng, ngài đã đạt được một độ nhất tâm và hưởng được sự an vui tịnh lạc quá sức hy vọng của ngài. Thế rồi, một đêm nọ, ngài nằm chiêm bao: Ngài mơ thấy mình đi ra khỏi cổng làng, băng ngang một khu rừng rậm, có nhiều chổ cây cối mọc chi chít, chằng chịt, không chừa một lối đi. Nhưng ngài ráng sức vượt qua tất cả chướng ngại và sau cùng thoát ra khỏi khu rừng, để thấy một cánh đồng không mông quạnh, thẳng tắp tới tận chân trời, ngài lại tiếp tục cuộc hành trình với những nổ lực không ngừng. 1. Phra Acharn : Thầy đại đức ; tiếng Thái, dùng để tôn kính gọi Tăng 2. Bhūridatta : (có nghĩa là nhiều trí tuệ) là tên của vị Bồ tát, tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thực hành hạnh Ba la mật. Vì bồ tát muốn thoát kiếp làm rồng nên lên nhân gian thực hành tu bát quan trai giới, và tu thập thiện giới. Và Ngài đã phát nguyện rằng: "Kẻ nào mong được da, thịt, máu và xương trong thân thể ta, thì tùy sở thích". Do đó, tuy bị thầy rắn làm khổ sở đau đớn, nhưng thay vì dùng oai lực thần thông của mình để bảo vệ mình Ngài lại chấp nhận mọi sự khổ đau để giử lời nguyện, và thực hành được xâu xa pháp nhẩn nhục Ba la mật (Khanti pāramī). 3. Thầy Đại đức Sao Kantasīlo (1859-1942) : là người sanh ở tỉnh Ubon Ratchathani. Là vị thầy hướng dẩn giới thiệu ngài pháp tu thiền đề mục hay thiền nghiệp xứ (kamma-ţţhāna): Dọc đường, ngài gặp một cây đại thọ nằm chắn ngang lối đi. Cây nầy thổ ngử Thái gọi là Jāt 4 (hay cây Sanh). Thân cây rất to lớn, bị hạ đã nhiều năm qua, hiện còn nằm lún dưới đất một phần, vỏ và ruột đã mục nát hiện rõ nên ngoài. Ngài bèn trèo lên đi trên thân cây mục ấy, và quán sát thấy rỏ là nó đã hết phương mọc lại được nữa rồi. Khi ấy, ngài biết rằng sự sanh của ngài trong vòng tử sanh sẻ phải chấm dứt. Thân cây Jāti (sanh) ngã nằm đây ngài xem như những kiếp sanh của ngài trong vòng luân hồi. Thân cây đã hết phương mọc được tượng trưng cho sự sanh của ngài lần này sè là lần cuối, nếu ngài kiên tâm nổ lực không ngừng. Còn cánh đồng bao la, rộng khắp bốn phương trời, tượng trưng cho cái vòng tử sanh bất tận. Ngài còn đang đứng trầm ngâm quán sát những nghĩa lý nầy thì bổng hiện ra một con ngựa kim màu trắng to lớn đi về phía ngài và đứng bên thân cây sanh. Tự nhiên ngài mong muốn cỡi nó. thế là ngài lên ngựa, và nó tức khắc phi nước đại chạy đi. Ngài không có ý quyết định đi đâu hoặc làm gì cả, chỉ biết là mình đã đi được một quãng đường rất xa, trong cánh đồng mênh mông vô cùng tận. Trên đường, ngài nhìn thấy một cái tủ lộng lẩy chạm bạc công phu trong có chứa một bộ Tam tạng kinh. Dường như chiều theo ý ngài, con ngựa đưa ngài đến trước tủ đựng Kinh. Ngài xuống ngựa với mục đích là mở cửa tủ Kinh, thì lập tức con ngựa biến mất. khi ngài bước tới thì lại thấy chổ đang đứng là bìa một khu rừng rậm hoang vu, mịt mù khói tỏa, đầy gai góc, lùm bụi xoắn chặt nhau không thấy lối đi. Khi ấy ngài định mở cửa tủ Kinh để xem thì ngài thức dậy. Điềm tâm ảnh (Nimitta) nầy khiến cho ngài tin chắc rằng ngài sẻ có thể đạt đạo, chứng quả trong hiện kiếp, nếu như ngài không bỏ dở dang những nổ lực của ngài. Từ đó trở đi ngài càng tinh chuyên trì niệm danh hiệu Phật trong mọi lúc. Đồng thời ngài nghiêm trì những hạnh đầu đà mà ngài chấp thọ từ lúc thọ Tỳ Khưu, nghiêm chỉnh thực hành cho đến lúc mất. Đó là những hạnh :1.Mặc y phấn tảo, từ chối những y dâng đến tận tay _ 2. Đi bát hằng ngày không sót, trừ những ngày phát nguyện nhịn ăn _ 3. Không thọ vật thực đem đến sau _4. Chỉ thọ vật thực để trong bát khi ngài đi trì bình _5.Mổi ngày chỉ ăn một bửa, và độ trong bát _6. Chỉ mặc Tam y – ngài có dùng khăn mặt (dùng để lau thân mà đó là điều cần thiết trong thời đại nầy _7. Ngụ trong rừng, có nghĩa sống và ngủ trong rừng hay nơi hoang dã trong hang núi, hoặc dưới hòn đá cheo leo (trừ ra khi có người thỉnh ngài vào tỉnh thành trong một thời gian ngắn). Ngoài ra đôi lúc khi ngài có thể ngài cũng thọ thêm những hạnh khác trong 13 hạnh đầu đà. Tuy nhiên trong suốt cuộc đời ngài đã nghiêm trì 7 hạnh đầu đà trên và đó trở thành nhân cách sinh hoạt thường ngày, và khó có thể tìm được người như vậy. Ngài luôn lôn kiên trì và quả quyết không bao giờ đổi ý trong bất cứ việc gì mà ngài đã quan tâm nghĩ tới, dầu là pháp hành bên ngoài (hạnh đầu đà , v. v..) hoặc hoạt động nội tâm (Minh sát). Đời sống của ngài là sự hoàn toàn dùng cho mục đích giải thoát, với những nổ lực xả ly liên tục trong việc tiêu trừ phiền não bên trong. Có rất ít dịp may cho tánh cống cao ngã mạn lẻn được vào tâm trí ngài, mặc dầu thật tế , lúc bấy giờ ngài vẩn còn là hạng phàm phu như bao nhiêu người khác. Nhưng , ngài khác hẳn họ ở chổ : thay vì để tâm bay nhảy tự do, bị phiền não sai sử thì ngài thường trực ở trong tỉnh thức, phòng ngừa các thứ phiền não, và luôn khởi chiến và tấn công nó một cách can đảm. Điều nầy, về sau , ngài có thuật lại chúng tôi mới biết. Sau đó khi tâm ngài đã được thiết lập vững vàng, tiện dụng cho việc suy tư quán xét, ngài mới hồi tưởng đến điềm chiêm bao khi trước và dần dần hiểu rõ : nếp sống của một gia chủ, là nơi tụ tập của tất cả mọi thứ khổ, giống như khu rừng già là nơi chứa chấp mọi thứ tai nạn. Trái lại , nếp sống phạm hạnh tu theo pháp Phật , chuyễn hóa tâm thức khỏi thế giới độc hại hiểm nguy tới một khoảng không bao la là cảnh giới của sự an lạc, thoát khỏi những sợ hải, đau khổ . 4. Tương tự trong tiếng Pali là Jati nghĩa là sanh, (gồm luôn sự chết ) Còn con bạch mã cao lớn ngài cỡi chính là đường lối tu theo pháp Phật, là đường đạo giải thoát, nhờ nó mà đưa ngài đến nơi tự tại. Và khi gặp tủ bạc chạm trổ công phu, chứa Tam tạng kinh mà chỉ có thể nhìn, vì lẽ ngài còn bất toàn, nên chưa đủ khả năng học hiểu trọn cả bộ Tam Tạng, do đó ngài không thông suốt về mặt văn hóa của Phật giáo, như vậy ngài không trọn vẹn đạt tuệ thuộc về bốn loại đó là : 4 vô ngại biện tài 5 , cần thiết cho một vị pháp sư biện tài vô ngại, thông suốt nghĩa lý và phương pháp giáo hóa, có trí tuệ cao sâu như trời biển, khả dĩ làm thầy của tất cả chúng sanh trong tam giới 6. Theo lời ngài, thì ngài chưa đầy đủ pháp ba la mật để đạt được mục đích nầy, và đó là lý do khiến cho ngài chỉ được nhìn bên ngoài tủ kinh Tam tạng chứ không mở đọc thông suốt toàn bộ giáo lý bên trong. Ngài tiếp lời rằng : ”Khả năng dạy dỗ người khác của ngài chỉ có thể xem như là sơ đẳng hoặc nhập môn để chuyển tiếp tới những pháp tu cao hơn “. Về sự kiện nầy dầu cho nó hiển nhiên chăng nữa, thì đối với các đệ tử thân tín đã được học hỏi, và tu hành dưới sự hướng dẩn của ngài, thì có một việc rõ ràng là mổi đề tài giảng đạo, thuyết pháp của ngài đều phi thường và cảm kích làm sao, thật không thể dùng lời nào mà tả cho xiết ! Ở thời đại mới, người ta biết tìm đâu ra một lối giảng dạy Dhamma ăn sâu vào tâm thức mà không bao giờ quên được ? LINH ẢNH TRONG THIỀN ĐỊNH Trong thời gian ngài đang tham thiền, với đề mục niệm Phật (Buddho) ở tại chùa Liap. có một hôm tâm ngài lắng dịu và một linh ảnh hiện ra : trước mặt ngài, một tử thi thúi rục, sình chương, bị những con thú ăn dơ như là kên kên, quạ và chó tranh nhau sâu xé . .. và không bao lâu, tử thi ấy bị rứt ra từng mảnh, rải đi khắp cả mặt đất chung quanh, thấy vậy ngài xúc động mảnh liệt, vừa nhờm gớm, vừa mõi mệt. Sau khi tâm ngài rút ra khỏi từng thiền, ngài kềm giử cái linh ảnh trong tuệ nhản của ngài làm đề mục chánh trong mọi lúc cả ngày lẩn đêm, trong bốn oai nghi : đi, đứng, nằm, ngồi . Ngài tiếp tục quán tưởng cho đến một ngày kia, hình ảnh tử thi đó biến thành ra một cái đĩa tròn trong suốt lơ lững trước mặt, quán cái đĩa nầy lâu thì thấy hiện ra đủ thứ cảnh vật khác nhau, những hình ảnh không ngớt thay đổi liền liền, chắc là kết quả của tánh hiếu kỳ của ngài đang khao khát muốn coi thử cái gì sẻ tiếp theo. Có lúc, hình như ngài đang trèo lên những hòn núi cao, kế đó ngài lại thấy mình cầm một thanh kiếm và mang một đôi hia, rồi đi bách bộ trên núi, một lúc khác, trước mặt ngài bổng hiện ra một bức tường cao lớn có một cánh cửa, ngài mở cửa ra nhìn thấy một vài vị Tỳ Khưu đang tham thiền phía bên trong. Kế đó, phong cảnh mở rộng ra cho thấy những sườn núi cheo leo và hang đá gần đâu đó, trong vài cái hang lại có đạo sĩ ẩn cư. Lại một lúc khác nữa, ngài thấy món đồ giống như cái nôi hoặc cái thúng từ sườn núi thòng xuống. 5. Catu Paţisambhidā : Bốn tuệ vô ngại biện tài: 1. Biện tài về nghĩa ( attha-Paţisambhidā) trí về nghĩa: là biện tài giảng dạy minh bạch một giáo lý vắn tắt, có khả năng dự đoán tiên tri những hậu quả, quán thấy chuyện vị lai. Ngài Ca Chiên Diên (Katyayāna) là vị đệ nhất về nghĩa đế. 2. Biện tài về pháp (Dhamma-Patisambhida) trí biết về pháp: là khả năng ngược lại biện tài về nghĩa, có khả năng tóm gọm những chi tiết phức tạp, và mô tả dài dòng, để cho dễ nhắc sơ qua và ghi nhớ, quán thấy chuyện quá khứ. 3.Biện tài về ngôn từ (Nirutti- Paţisambhidā) trí biết về tất cả ngôn ngử , văn tự để trình bày pháp và nghĩa 4. Biện tài về trí (Paṭibhāna- Paţisambhidā) trí biết về các loại trí hoặc biện thuyết vô ngại: là thông suốt cách trình bày và giảng thuyết cho thích ứng với mọi trường hợp.biết áp dụng các phương tiện thiện xảo cho từng trường hợp. có khả năng giải quyết ổn thỏa một tình trạng khủng hoảng hay biến cố bất ngờ. 6. Tam giới : Là ba cõi sinh tữ : 1. Dục (có nam nữ dâm dục), 2. Sắc (không có nam nữ , tâm của chúng sanh nhập định hữu sắc, nghĩa là đề mục thiển định là vật hữu hình) và 3. Vô Sắc giới (không có sắc thân chỉ có thần thức, tâm của những chúng sanh đã nhập định vô sắc : nghĩa là đề mục không phải là vật hữu hình). Ngài thấy mình bước vào trong cái thúng ấy và được nhấc lên khỏi vực thẳm để thấy một chiếc thuyền to trên đó, trong thuyền có cái bàn vuông. Khi ấy, hòn núi bật sáng lên vì có ánh sáng phía sau nó. Và sao đó ngài lại thấy mình độ cơm trên đỉnh núi đó nữa. Đó là cách phong cảnh đổi thay biến hiện liền liền trước mặt ngài, như phim chớp bóng, chứ không dẩn ngài tới đâu cả. Ròng rả ba tháng trường, cứ hể ngồi thiền nhập định là ngài toàn thấy những cảnh tượng không đâu ra đâu, biến hiện không ngừng, không biết đến bao giờ mới dứt. Còn kết quả nội tâm thì chẳng có chi đích đáng cả. Sau những thời tọa thiền kiểu đó, thì tâm ngài trở nên xúc động mạnh đối với hình ảnh và âm thanh bên ngoài. Khiến cho ngài khi vui, khi buồn khi thì thích điều nầy, khi thì ghét điều kia. Hiển nhiên là ngài không thể giử được tâm bình đẳng, điềm tĩnh bằng cách ấy. Bấy giờ ngài tĩnh ngộ, tin chắc rằng đó không phải là chánh đạo đưa đến giải thoát. Nếu nó đúng thì tại sao không thể kiên định giử được trạng thái an nhiên, tự tại của tâm. Ngược lại tâm ngài lại bị phân tán, dao động trước những sắc bên ngoài mà tâm tiếp xúc – cũng giống như người bình thường không có tu tập gì cả . Rồi ngài kết luật rằng : “chắc chắn là việc săn đuổi, hoặc sự chú tâm hướng theo cảnh bên ngoài, là nghịch với nguyên tắc hành thiền, đoạt mất sự an lạc bên trong do hành thiền mang lại”. -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,057 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
CọP TRÁ HÌNH
Đại đức nói rằng, ngoại trừ một số ít đi ra các phố, thì các dân tộc thiểu sống ở vùng Chiang Mai không biết gì về Tỳ Khưu. Trong những ngày đầu du hành ở vùng Chiang Mai, đại đức đi cùng với một vị Tăng đệ tử. Hai ngài tới sống trong một khu núi, cách một bản thôn chừng hơn 2 cây số. Họ sống trong rừng, dùng tàn cây làm mái nhà. Vào buổi sáng hai ngài vào bản thôn đi khất thực, dân trong bản rất ngạc nhiên, hỏi các ngài làm gì vậy, thì được trả lời rằng họ đang đi bát. Họ kinh ngạc không hiểu các ngài làm gì là đi bát. Đại đức Mân trả lời rằng là đi xin cơm ăn. Họ hiểu ra và hỏi muốn xin cơm hay gạo, đại đức trả lời là muốn xin cơm thì họ cho mổi vị một chút cơm bỏ vào bát. Xong hai vị trở về khu vực của mình mà độ. Vì không có sự hiểu biết gì về đạo Phật cho nên chiều hôm trưởng làng họp các dân trong xóm lại và tuyên bố rằng : hai vị đó là cọp trá hình. Vị trưởng làng nói không biết là loại cọp gì nhưng cấm dân trong bản lang thang trong rừng, và nhất là đàn bà con nít. Nếu phải đi thì các trai tráng nên mang theo vũ khí và đi từng đoàn để chống cự lại hai con cọp đó. Kỳ lạ thay, lúc đại đức thiền định là lúc dân trong bản họp. Do biết được chuyện nầy nên đại đức rất buồn phiền, thay vì chán nãn bỏ đi nơi khác thì đại đức rất thương xót các dân trong bản vì vô minh, và nghiệp xấu nên không biết một tý gì về Phật pháp. Đại đức tin rằng đa số dân trong bản tin lời vu khống trên vì họ rất thành thật, ngây thơ . Và sợ rằng cái quả không tốt của cái nhân vu khống, lúc chết có thể họ đi đầu thai làm loài cọp. Do vậy mà sáng hôm sau, đại đức bảo người đệ tử biết câu chuyện về dân làng họ nghĩ về hai thầy trò , và vì lòng từ bi đối với dân làng, nên đại đức khuyên người đệ tử hảy kiên nhẩn chịu đựng các gian khổ trong thời gian sống ở đây , để khi nào cảm hóa xong thì mới đi tới nơi khác. Không những dân làng không tin , mà còn cho một số trai tráng đi theo dõi và canh chừng hai vị. Có khi họ đúng ở xa dòm, có khi họ lại gần tay lăm le vủ khí , đứng ngay hai bên đường đi kinh hành xem sét. Cuộc canh chừng tiếp diển hàng ngày và liên tục trong nhiều tuần. Dân làng cũng không quan tâm tới vần đề sinh sống của “hai con cọp nầy “, mà chỉ sợ rằng cọp ta làm hại dân làng. Cho nên cuộc sống rất là gian nan, khổ cực. Nếu được thì chỉ có chút ít cơm trắng, còn có bửa không được thì hai ngài chỉ uống nước trừ cơm. Vì họ sống trong rừng cho nên không có gì che mưa , che nắng. chỉ có mái cây làm nhà , khi trời mưa, ở vùng rừng núi nầy thường là mưa suốt cả ngày. Gặp những ngày như vậy thì hai Thầy trò tìm cây lá, khô và tạm làm chòi che mưa. Và khi mưa gió quá lớn hai ngài dùng cây dù mang theo, mở ra và ngồi ở trong mà che mưa gió. Cuộc sống bửa có bửa không, ngay cả nước củng phải đi bộ xuống dưới chân núi mà mang về dùng cho ngày. Mặc dầu cuộc sống gian khổ như vậy nhưng dân làng không có ý thương hại gì. Buổi trưa thì thường có 3 hay 4 người thanh niên theo dõi ngài . Họ đứng ở xa thì thầm bàn tán không nói lời nào với ngài. Đại đức cũng không để ý tới họ. Khi họ tới thì Đại đức hướng tâm đọc ý nhĩ của họ mà họ không hề hay biết . Bất cứ ai đến ngài cũng đọc xem tư tưởng của họ, tất cả đến đều muốn tìm lổi của ngài. Đại đức rất thương xót cho họ, đa số dân làng bị một số nhỏ lợi dụng làm họ mất niềm tin. Đại đức ở đó nhiều tháng , và dân bản làng vẩn cho người theo dõi hằng ngày xem coi ngài có làm gì nghi ngờ không . Tuy vậy làm như vậy nhưng họ không đuổi đại đức ra khỏi khu vực đó. Họ thay phiên nhau theo dõi trong nhiều tháng trời mà cũng vẩn không thấy đại đức làm gì khả nghi cả. Vào một chiều khi đang ngồi định thì đại đức biết dân trong làng đang họp bàn về ngài. Đại đức có thể nghe vị trưởng làng chất vấn các người đi theo dõi ngài . Tất cả đều nói họ không thấy gì khả nghi cả. Và họ sợ nghi ngờ quá thì có hại chớ không có lợi. Vị trưởng làng bèn hỏi gặng tại sao lại như vậy. Thì họ trả lời rằng họ theo dõi nhiều ngày nhưng chỉ thấy hai người hoặc là ngồi nhắm mắt hay đi tới đi lui nhưng lại không nhìn quanh như những người khác. Nếu thật là cọp thì giờ họ đã lộ chân tướng rồi. Những người đi theo dõi ngài đều muốn có cuộc gặp thẳng để hỏi ngài muốn gì, và vì họ cũng sợ đắc tội với thần linh. Tất cả đều đồng ý hai thầy trò là người tốt, đang tu tập gì đó, không làm hại ai. Và họ nghĩ nên đối xử tốt với hai người đó. Do đó họ cử người tới gặp ngài để hỏi cho ra lẽ. Sáng hôm sau, đại đức bảo người đệ tử là dân làng sẻ cho người đại diện tới gặp, để hỏi chuyện. Thì chẵng bao lâu, buổi trưa người đại diện tới đúng như ngài nói. Vị ấy hỏi: “ Ông kiếm gì vậy mà khi ngồi thì nhắm mắt , khi thì đi qua đi lại.” Đại đức trả lời : “Ta đánh rơi Buddho (Phật Đà), nên tìm Buddho trong những lúc ngồi hay đi” “Buddho là gì vậy, chúng tôi có thể giúp ngài tìm không ?” “Buddho là viện ngọc báu trong 3 cỏi hiện hữa. Viên ngọc thần giúp ta biết hết mọi chuyện một cách thật sự. Nếu mà anh giúp tôi tìm được, thì tốt lắm cả hai chúng ta đều tìm thấy Phật Đà” “Vậy ông mất nó lâu chưa” “Không lâu. Mới đầu tìm, thì ngồi hay đi khoảng 15 hay 20 phút, nghĩ nhớ câu Buddho. Buddho chưa muốn cho anh tốn nhiều thì giờ để tìm kiếm ra. Nó sợ rằng anh mệt đâm ra chán nản , rồi thì không còn muốn tìm nữa. Lúc đó thì không còn có cơ hội gặp Buddho nữa. Cho nên lúc đầu tìm thì chỉ nên như vậy.” Khi nghe lời chỉ dạy như vậy thì liền bỏ đi. Người dân thiểu số họ như vậy, khi muốn đi thì đi chớ không có lời chào hỏi thưa trình. Khi vị đó về làng , dân chúng bu quanh lại hỏi . Thì vị đó giải thích là hai đang tu ở trên rừng mà họ thấy hoặc ngồi hoặc đi qua, đi lại là vì tìm Buddho, chớ không phải là cọp trá hình như dân làng nghĩ. Rồi ai nấy đều hỏi Buddho là gì thì vị đó bèn giải thích theo lời đại đức. Thế là dân trong bản từ già tới trẻ , chỉ trừ các em quá nhỏ thi ai nấy đều đi tìm Buddho, trong tâm đều niệm câu Buddho. Vài ngày sao, thật kỳ diệu, giáo pháp của Đức Phật Thế Tôn đã nẩy nở trong tâm của một người dân trong bản. Nghe theo lời chỉ dạy của đại đức Mân, người đó luôn tâm niệm câu Buddho cho đến một ngày thì tâm rất là an lạc. Trước đó trong giấc mơ người đó thấy đại đức để trên đầu người đó một ngọn đèn cầy lớn và sáng chói. Ngay khi vừa mới đặt lên thì từ đầu cho tới chân người đó trở nên trong sáng. Người đó cảm thấy rất sung sướng và không những vậy mà ánh sáng từ thân vị đó còn tõa ra chung quang nữa. Liền sau đó vị ấy đi gặp đại đức Mân để kể lại tình trạng an lạc mà vị ấy đạt được và giấc mơ. Đại đức Mân lại chỉ dạy thêm cho người đó. Và sau đó thì người ấy tiến bộ rất nhanh vị ấy có thể đọc được tư tưởng ý nghĩ của người khác. Và thành thật trình bày sự tiến bộ cho đại đức nghe theo cách của người dân tộc thiểu số. Về sau, khi vị ấy thăm dò, đọc ý nghĩ của đại đức, và nói lại cho đại đức nghe. Nghe vậy Đại đức vui vẻ hỏi :”Thế anh có thấy có gì xấu không ?” Người đó trả lời liền không do dự : “Tâm của thầy thì không có một điềm tập trung nào cả, mà chỉ là ánh hào quang tõa sáng. Ánh sáng vượt trội hơn những ai trong đời nầy. Con chưa từng thấy bao giờ, tại sao thầy ở đây hơn 1 năm mà không chỉ bảo cho chúng con sớm”. “Làm sao ta có thể chỉ dạy, khi mà không ai tới hỏi?” “Nếu mà biết trước Thầy vĩ dại như vậy chúng con đã tới học ở thầy rồi. Khi chúng con tới hỏi thầy đang làm gì mà ngồi nhắm mắt và đi qua đi lại, thì thầy nói Buddho bị mất, rồi hỏi chúng con tìm dùm. Khi hỏi nó ra sao thì thầy nói nó là viên ngọc thần trong sáng. Thật ra nó là tâm của thầy. Thầy nói mất là vì thầy muốn chúng con cũng có được cái tâm trong sáng như thầy. Thật là vị thầy giỏi, vì muốn chúng con được sung sướng mà thầy chỉ cho chúng con cách tìm Buddho ở trong mổi chúng con”. Cái tin của một người trong bản làng đạt được pháp làm cho mọi người ai nấy đều phấn khởi. Ai nấy đều niệm Buddho, ngay cả các em bé cũng vậy. Ai nầy đều tin tưởng vào đại đức. Và từ đó về sau , vị đệ tử dân tộc thiểu số đắc pháp nầy bưng bát của đại đức khi ngài vào thôn khất thực, sau khi chờ đại đức ăn xong thì nhờ ngài chỉ dạy về Phật pháp , ngày nào cũng vậy chỉ trừ khi có việc bận. Khi dân bản tin tưởng , thì chuyện đâu vào đó. Ai nầy đều muốn giúp đỡ ngài. Họ tự động làm, như làm chòi cho ngài, và tấm phản để ngài ngồi ăn và ngồi thiền. Họ còn dọn con đường đi kinh hành cho ngài. Họ ca ngợi ngài như sau :”Hảy nhìn đường đi kinh hành, chằng chịt rể cây , cỏ dại. Thế mà Thầy đi được, chắc thầy là heo rừng nên mới có thể đi qua lại được. Thế mà thầy vẩn đi. Kỳ thật. Thầy lạ đời lắm thầy biết không? Khi chúng tôi hỏi thầy đường đi nầy để làm gì thì thầy nói để tìm Phật (Buddho), thầy bị mất Phật. Khi hỏi thầy ngồi làm gì thì thầy cũng nói đi tìm Phật. Đây là vị thầy tài ba nhất, mà thầy không nói cho ai biết. Thầy lạ lắm thầy biết không ? Chổ nằm của thầy là gì , là những là cây khô mục chất đống trên đất, giống như chổ heo nằm. Làm sao mà thầy có thể chịu đựng được như vậy hàng tháng trời. Thầy làm chúng tôi hối hận muốn khóc. Chúng tôi thật là ngu, không nhận ra được người tốt như thầy. Hơn nữa có người trong chúng tôi lại nói xấu thầy, làm cho tất cả chúng tôi tin theo. May thay , giờ thì ai cũng tin, mến ngài”. Đại đức kể lại dân tộc thiểu số rất thật thà. Khi tin tưởng, mến phục ai thì họ rất nhiệt tình, không lập lờ. Khi tới thì bị đại đức bị gán cho là ma cọp, khi được dân chúng tin tưởng thì ai cũng gọi ngài là Tịnh nhân. Là phước điền vô tận cho loài người. Sau khi tất cả dân làng đều sám hối với ngài về các lổi lầm trước kia mà họ đối xử vơi ngài, và ngài tuyên bố tha thứ cho họ . Đại đức nói với người đệ tử rằng công việc đã xong tơi lúc phải đi nơi khác. Hôm sau đó, khi ngài nói với dân làng là tới lúc hai vị phải rời bỏ khu vực đó để đi tới nơi khác. Thì tất cả dân trong bản làng đều quì xuống khóc lóc cầu xin ngài ở lại. Cả núi rừng vang dội tiếng van xin khóc lóc. Đại đức phải trấn an và giải thích cho họ biết lý do mà ngài phải ra đi. Và dạy họ rằng sau khi hiểu biết đúng đắn thì phải tự giáo dục, tự tu hành mới đúng là tôn chỉ của Phật đà. Ngay cả lúc hai thầy trò ra đi cả dân làng cũng lại níu kéo van xin, người nắm dù, người nắm bình nước, không ai chịu cho hai thầy trò ra đi, lại một lần nữa ngài phải giải thích khuyên ngăn, phải mất vài giờ bịn rịn họ mới cho ngài rời khỏi. Tất cả chỉ cầu mong ngài ở lại cho họ được hạnh phúc. Tuy nhiên tất cả đều phải thay đổi, vô thường không gì có thể tồn tại mãi. Chính vì lý do nầy mà đại đức phải ra đi. Sau nầy khi nghe thầy kể lại, chúng tôi rất cảm động thương cho các người ở miền núi. Cảnh người nầy kéo , người kia níu, tiếng la khóc vang dội như chính mình trông thấy. Đại đức đã đi theo con đường của bậc Thiện Thệ (Sugato). Khi ở sâu trong rừng núi thì phục vụ các dân tộc thiểu số, sống vùng biên địa, hay các loàøi Trời , Thần, Ma, Rồng, Ca Lâu La (Kim Sí điểu) , khi tiếp xúc vơi 1oài người thì dạy bảo Tăng, Ni, dân chúng ở trong mọi tầng lớp. Không lâu mới đây , tôi đi đảnh lễ một vị cao Tăng rất từ bi và khả ái mọi người dân Thái đều mến ( Tôn giả Fan Ajāro). Khi thì tôn giả đang thảo luận đạo với các đệ tử thân tín, thì tôi cũng tham gia vào. Khi câu chuyện bàn tới đại đức Mân là thầy của tôn giả thì tôn giả nhắc lại những năm sống trong tăng đoàn của đại đức ở vùng rừng núi Chiang Mai cách phố gần nhất cũng mất khoảng vài ngày đường bộ. Vị tôn gia ûnầy tôn kính nhắc lại là không nghi ngờ gì nữa đại đức Mân tâm đã thanh tịnh. Vị ấy nói như vầy: “Đại đức Mân biết tất cả những gì tôi suy nghĩ , thật là không biết nói như thế nào. Tôi cảm thấy như có sợi dây buộc vào mình ngày cũng như đêm. Tôi rất cố gắng và rất tinh tấn kiềm giử chánh niệm, thế nhưng mà ngài cũng bắt được những suy nghĩ lạng quạng của tôi, mà nói ra giữa đại chúng cho mọi người đều nghe. Thiền định của tôi phát triển rất tốt khi ở với ngài. Thế nhưng cũng chưa kềm được tâm ý. Nó chạy loạn xạ. Chúng ta không thể nào ngờ được là tâm hoạt động không bao giờ nghỉ, ngày cũng như đêm. Có ai trong chúng ta mà có thể bắt kịp được nó và kềm lại. Tôi thì rất cố gắng cảnh giác, nhưng Đại đức thì biết rõ tôi hơn là tôi biết tôi. Đôi khi ngài nói lại những ý tưởng mà tôi thật sự không nhớ biết, khi ngài nhắc lại thì tôi mới rõ là mình có nghĩ như vậy, mà đôi khi điều đó nó xảy ra cũng lâu rồi. Thật là đáng nể.” Tôi hỏi :“Thế ngài có bị thầy la không ?” “Cũng thỉnh thoảng, nhưng thường thì thầy tôi dùng đó làm thí dụ cho buổi giảng pháp. Thỉnh thoảng cũng có các vị tăng khác ngồi nghe, thật là xấu hổ, nhưng khi đó thì ngài không nói tên người phạm ra.” Tôi hỏi thế ngài có sợ không. Thì tôn giả đáp rằng:”Tại sao lại không sợ, người thì run lên, tâm thì bấn loạn , mất thở mấy lần. Đại đức thật sự biết được người ta nghĩ gì. Thí dụ như có lần tôi ngu ngốc nghĩ mình đi ra tu mộât mình. Thì ngay sáng hôm đó , ngay khi tôi gặp ngài thì ngài quởû liền là: Ông định đi đâu hả ? đây là nơi tốt nhất , ông nên ở với tôi. Và ngài còn nói thêm nơi đây rất vui được nghe pháp những nơi khác không có được, và còn khuyên nhiều nữa. Tôi biết là ngài biết ở trình độ của tôi lúc đó mà đi xa thì không tiến, mà thụt lùi. Cho nên ngài giử tôi ở lại với ngài. Điều đáng nể sợ là mổi khi tôi hướng tâm nghĩ về ngài thì thấy ngài trừng mắt nhìn tôi bất kể ngày hay đêm. Có những đêm tôi không dám ngũ vì cảm thấy thầy đang nhìn mình. Mổi khi tôi hướng về ngoại cảnh là y như rằng thấy thầy đang dòm mình, do đó giúp tôi cảnh giác cao”. Tôn giả kể lại rằng: “Lúc tôi tới Chiang Mai thì ngụ ở một ngôi chùa nhỏ trong phố mới tới chưa được một tiếng thì có một chiếc xe hơi chạy vào chùa và dừng trước cốc của tôi. Khi tôi ra hỏi xem là ai thì thấy đại đức Mân đứng đó, tôi vội vàng quì xuống đảnh lể . Sau đó thì hỏi đại đức tới đây làm gì thì ngài liền trả lời là đến để đón tôi. Vì đêm hôm trước ngài biết là tôi tới. Tôi hỏi ngài là ai nói cho ngài biết thì ngài trả lời làm sao mà biết thì không quan trọng chỉ biết là ngài biết và đến một mình đón tôi về. Càng nghĩ thì càng cảm động và nhớ ơn ngài.” “Nếu mà tâm của tất cả chúng tôi khi nghe pháp thanh tịnh không có tà kiến thì khi nghe pháp chúng tôi rất vui sướng an lạc. Bài pháp của ngài thì đơn giản và trong sáng làm chúng tôi say mê hạnh phúc khi nghe pháp. Nhưng mà khi có một người nào trong chúng tôi không chú tâm , lo ra, thì bài pháp trở nên nóng nỏng. Người phạm lổi cảm thấy ngay. Khi giảng pháp Đại đức Mân không quan tâm là phiền não của ai bị khuấy động mà pháp ngài giảng tấn công ngay phiền não không nhân nhượng. Thỉnh thoảng thì ngài cũng nêu tên người phạm ra và chất vấn ngay giữa đại chúng. Ngài quở : đêm qua tại sao ông lại thiền như vậy, không đúng mà phải như vầy, hay Tại sao ông sáng nay nghĩ như vậy, nếu không muốn bị đọa thì đừøng bao giờ nghĩ như vậy nữa, tại sao không nghĩ và làm như đức Phật đã chỉ chúng ta ? Rất nhiều Đại khái như vậy. Ai mà thành tâm sữa thì đại đức không nhắc nữa”. BÙA VạN NĂNG Có lần một số dân thiểu số sống gần khu tu hành của đại đức, họ thắc mắc không biết ngài có bùa trị ma không, nên bàn nhau đi hỏi ngài. Sáng sớm hôm sau ngài nói với các đệ tử sống chung rằng: “Đêm qua khi ta ngồi định thì nghe thấy dân bản làng gần đây bàn rằng không biết các người tu hành như chúng ta có bùa trị ma không ? Nếu vậy thì chúng ta nên cho họ ba câu “Buddho, Dhammo, Sangho” để họ quán niệm về đó. Trên đời thì chỉ có Phật , Pháp ,Tăng là ma quỉ sợ.” Đúng như đại đức nói , một nhóm người dân tộc thiểu số đến gặp ngài để xin bùa. Đại đức Mân cho ba câu Phật, Pháp và Tăng, và cách xử dụng chúng như thế nào. Ngài bảo đảm vơi họ là ma quỉ rất sợ công thức nầy. Và dạy họ mật niệm . Giử vửng những lời chỉ dẫn còn tươi mới của đại đức trong tâm, họ thực hành ngay không chần chừ vì nghĩ đây là câu chú trừ tà ma, mà không biết ngài đã ban cho họ một đề mục thiền. Không lâu thì họ đắc thiền. Ngay sáng hôm sau đó họ lại chạy lại gặp ngài và kể lại những gì xảy ra. Thì ngài bảo đảm là họ đã thực hành đúng như lời ngài dạy, và tà ma đã bỏ chạy khỏi khu vực họ ở rồi. Từ giờ trở đi không nên sợ ma quỉ nửa vì đã có Pháp bảo vệ rồi. Là dân tộc thiểu số họ thừa hưởng cá tánh tốt bụng và thật thà, cho nên khi nghe đại đức dạy thì họ thành tâm thực hành theo không chút do dự, chính vì vậy mà trong thời gian rất ngắn nhiều người đã tiến bộ rõ rệt, tâm họ trong sáng. Có người còn đắc thiền. Họ có khả năng đọc được tư tưởng người khác cũng giống như người ở chuyện cọp trá hình. Những lần tới thăm tu viện là họ gặp đại đức để hỏi về cách hành thiền và trình bày sự tiến bộ của họ. Các vị tăng thì rất ngạc nhiên và lo vì những người dân nầy có thể biết được mình đang nghĩ gì. Tuy vậy các Tăng, họ cũng hỏi xem hư thật ra sao, thì khi đó các người bản xứ họ nói thẳng ra ý nghĩ của từng người hỏi. Làm ai nấy đều choáng váng, vì sự thật là có những người dân tôc thiểu nầy biết được họ nghĩ gì. Họ cũng cho biết là họ tìm hiểu tâm đại đức trước khi tìm hiều các vị tăng sống chung với ngài. Đại đức hỏi họ thấy gì thì tất cả đều trả lời tâm ngài không phải là người thường không có một chút dấu vết nào của hiện thực tương đối mà là một sự hoàn toàn tĩnh lặng trong sáng trong thân thể người thường. Sau đó thì dân làng không ai nhắc tới ma nữa mà những người đắc thiền dạy lại người người khác cho nên dân trong vùng rất cung kính ngài. Cứ sáng sớm là họ tụ tập nhau lại ở giữa làng để chở cúng dường các Tăng. Khi cúng dường, họ đều nhận được sự chúc làng của đại đức. Và đại đức dạy họ cách tõ lòng biết ơn bằng cách la lên ba tiếng ”Sadhu” , để loài trời, thần nghe được mà hoan hĩ cùng với họ mà được hưởng một phần phước lành như dân trong bản. Đại đức Mân đi du hành hầu như khắp mọi chổ trong vùng rừng núi ở Chang Mai. Và ngài ở lâu hơn những nơi khác. Thứ nhất là vì khung cảnh thích hợp cho cá tánh của ngài, thứ hai là vì ngài cảm thấy các dân tộc thiểu số cần ngài, ngài thương xót họ không muốn bỏ ho,ï họ cần được chỉ dạy để thăng tiến chớ không không thôi thì đọa lạc vì lối sống và tà kiến của họ. Các đoàn Trời, Thần, Rồng cũng đến viếng thăm ngài và học hỏi, thường cứ hai lần trong một tháng. Có đêm ngài rất bận rộn vì tiếp nhiều đoàn. Trước khi tới thì họ thông báo, có đoàn thì hàng vạn, hàng trăm ngàn, ít thì cũng từ 1 ngàn trở lên , loài rồng thì thường là từ 500 tới 1000. Họ thường thông báo cho đại đức biết trước trong ngày. Và loài trời, thần thì rất đông, theo lời ngài kể thì tất cả loài người, rồng, ma, Kim sí điễu, hay các loại khác, đến gặp được ngài gom lại cũng không bằng. Đại đức luôn biết trước các cuộc viếng thăm của các loại chúng sanh khác. Nếu như họ định tới lúc sáng sớm thì ngài đi nghỉ một lát trước khi tiếp họ, còn nếu giữa khuya thi ngài chờ. Khi tiếp họ thì trước hết ngài vào định rất sâu và ở trong đó , cho tới giờ thì ngài rút ra ở vào Cận hành định mà tiếp xúc với họ. Nếu mà đại đức ở sâu trong định thì họ không thể tiếp kiến ngài, còn ở trạng thái thức bình thường thì khó mà tiếp xúc, giảng dạy cho họ, mặc dầu đại đức có biết , và thấy họ. Do đó Cận hành định là trạng thái thích hợp nhất để tiếp xúc với các loài ở các cảnh giới khác. Đại đức rất nhuần nhuyễn trong việc nầy, ngay cả ở động Sarika, lúc đó ngài đã được 22 tuổi hạ và còn lúc ngài mất thì là 60 tuồi hạ. Đại đức rất thông cảm vả hiểu hoàn cảnh của loài trời, thần. Họ cũng rất muốn thăng tiến cũng như loài người mà vì vậy mà họ gặp ngài để thọ học và tạo phước đức. Họ hay phàn nàn vơi ngài là loài người không biế gì về loài trời, thần hết. Vì sống trong khu vực rừng núi nên đại đức có thời giờ dạy bảo chư Thiên và thần mà ngài coi là một bổn phận của ngài. Một sự kiện đặc biệt là khi ngài sống trong khu vực của người Mường ở sâu trong núi, gần làng Ikaw Village. Thì có một số địa thần ở nước Đức, đến gặp ngài xin được ban cho bài pháp mà cho họ “công thức chiến thắng” . Khi ngài hướng tâm đến câu hỏi, thì một câu kinh khởi lên “ Thắng giận dữ bằng sự thiếu giận dữ (Akkhodhena jine kodham)“ và đại đức kể lại, ngài ban thời pháp như sau: “Chiến thắng giậän dữ bằng sự thiếu giận dữ 17 là như vầy . Ai mà muốn chiến thắng thì đây là pháp quan trọng, hảy nhớ lấy. Nó là nguồn hạnh phúc và hòa bình trong thế giới. Tình thương và lòng nhân hậu là cách tốt nhất để trừ sự nóng giận mà gây tai gại cho lo người cũng như thần. Nơi nào có tình thương yêu và lòng tốt thì nơi đó có hòa bình và sự thịnh vượng. Do các loài nên tu tập. Nếu mà không có công thức chiến thắng nầy, ít thì tạo sự không thõa mản, bồn chồn nhiều thì kích động thế giới gây gổ tranh đấu với nhau. Sự nóng giận và ghen ghét thì không bao giờ hàng phục được kẻ thù. Vì chính chúng là điều ác. Chúng chỉ mang lại sự thiệt hại cho chúng ta và người chung quanh mà thôi. Càng nóng giận thì lửa thiêu hủy thế giới càng mạnh cuối cùng thì chỉ đi đến hủy diệt. Sự giận dữ thật sự là có tánh lửa, cái tánh di truyền có từ đại lửa cấu tạo thế giới nầy. Mặc dầu các vị không sờ thấy được nhưng khả năng nó thì mạnh mẻ tàn khốc. Những ai mà muốn hòa bình, thạnh vượng thì hảy quán tưởng về sự tàn hại từ lữa của sự nóng giận gây ra. Gây tạo phát sinh ngọn lửa nầy thì chỉ có hại mình và người khác thôi. Sự tương đồng của tình thương và lòng tốt, từ bi giữa các chúng sinh thì là lực cân bằng thế giới nầy. Sân hận là cái lực ngược lại để lật đổ nó. Vời trí tuệ đúng đắn mà đức Phật Thế tôn đã nhận rõ sự tai hại vô cùng của sự giận dữ . Ngài thấy rằng tình thương yêu , lòng tốt đối xử với nhau là cái lực ngấm ngầm liên kết tạosự hòa bình, mang lại hạnh phúc, điều mà các loài đều mong muốn. Chính vì vậy mà Ngài đã chỉ dạy chúng ta về tình thương và lòng tốt là phương tiện tốt nhất để mang lại hòa bình và thịnh vượng. Chừng nào chúng sinh còn có tình thương yêu, lòng tốt thì còn có khả năng cơ hội có được sự hạnh phúc. Khi mà thiếu vắng những điều đó, thì dù có đầy đủ vật chất , thì cũng vẩn bất an và không có hạnh phúc. Không bao giờ thật sự hưởng được hạnh phúc. Khi mà chúng ta hiểu sự lợi ích của giáo pháp, sự tàn hại khốc liệt của ngọn lữa sân hận, thì hảy nhanh chóng tránh nó đi, đừng nhen nhúm, khơi dậy ngọn lữa đó. Có thể chúng ta không bao giờ có cơ hội nầy nữa, vì vậy hảy nên tận dụng cơ hội nầy, để đừøng hối hận sau nầy. Thế giới thì lúc nào cũng đang thay đổi, và cái làm chúng thay đổi thì ở ngay tại đây , ở trong thân tâm của chúng ta.” Đó là ý những gì đại đức chỉ dạy cho họ. Sau khi nghe xong thì tất cả đồng tán thán 3 lần tiếng “Sādhu” vang dội khắp cả thế giới. Đại đức hỏi họ ở xa tơi làm sao biết mà tới. Thì họ trả lời rằng, tất cả loài thần đều biết ngài đang ở đâu. Thật ra đối với loài người thì nước Đức và Thái Lan hai khu vực nầy thì xa nhưng loài địa Thần thì không. Thần ở hai khu vực, họ gặp nhau thường xuyên. Ngài kể rằng các thần ở nước Đức cũng hay đến nghe pháp như các thần ở Thái Lan, hay ở các khu vực khác. Tất cả chư Thiên hay thần ai cũng tôn kính chư tăng, không bao giờ dám bay ngang qua Tăng, hay khu vực tăng ở. Và họ thường đến lúc khuya, lúc mà các chư Tăng đã đi ngũ. Khi gặp ngài thì họ đi 3 vòng chung quanh ngài, về phía tay phải để tõ lòng tôn kính, ra về cũng vậy. Ra khỏi khu vực Tăng ở họ mới bay lên hư không. 17. Đây là đoạn trích từ kinh pháp cú kệ số 223: Lấy khơng giận thắng giận, Lấy thiện thắng khơng thiện, Lấy thí thắng xan tham, Lấy chơn thắng hư ngụy. Khi các Tăng ở chung với ngài thì ngài cũng chia thời khóa mà dạy dổ từ cạn đến sâu, từ cao cho đến thấp, dạy thiền, dạy tuệ, cho mọi trình độ khác nhau của các đệ tử. Lắng nghe pháp một cách chú tâm thì rất có lợi cho việc tu hành, cho nên các sư đầu đà rất coi trọng việc nghe pháp. Họ tìm kiếm và gìn giử mối quan hệ với các thiện tri thức mà họ có thể nghe pháp. Vì các bậc thiện tri thức đã hành và có những kinh nghiệm nên chỉ bảo lại cho họ các kinh nghiệm đã đi qua. Và họ thành tâm học hỏi, và tôn kính người thầy đã truyền dạy cho họ hỏi những kinh nghiệm đó. NGƯỜI ANH VOI TO LỚN. 18 Có lần đại đức mân đi du hành chung với hai vị đại đức là đại đức KhaoTham Klong Phen thuộc tỉnh Udon Thani, và đại đức Mahā Thongsak ở chùa Sudhawat thuộc tỉnh Sakon Nakhon. Khi các ngài đi trên một con đường mòn dẩn lên núi thì gặp ngay phải một con voi già to lớn, đang đứng chắn ngay giữa, và đang ăn những bụi tre bên đường. Con voi được chủ cũ phóng sanh về rừng khi nó già, nay lang thang đến đây kiếm ăn. Gặp như vậy , chưa biết làm sao qua vì đây là con đường duy nhất , nhỏ hẹp dẫn lên núi. Không có cánh nào đi ngang qua được. Đại đức Mân bèn bảo đại đức Khao hảy nói với con voi đang ăn lá tre, và cây non . Họï đang đứng cách voi khoảng 10 thước. đại đức Khao bèn lên tiếng “Này anh voi, tôi muốn nói chuyệïn vơi anh”. Lần đầu nghe , voi ta không quay lại, nhưng ngừng nhai. đại đức Khao lại kêu lên: “Này anh voi kia, tôi muốn nói chuyệïn vơi anh”. Làn này thì voi ta quay đầu lại, đứng sừng sửng giửa đường, hai tai vễnh lên. ““Nầy Anh voi to lớn, chúng tôi là các sư, người nhỏ bé , và sợ anh, người to lớn. Chúng tôi muốn đi qua mà anh đứng giữa đường nhỏ hẹp. Vậy xin hảy nép qua một bên cho chúng tôi đi qua. Nếu anh đứng như vậy chúng tôi không dám qua”. Nghe vậy voi ta vội dấu cái vòi to dài vào bụi tre bên đường, và xích qua một bên như thể làm hiệu cho các ngài đi qua. Thấy vậy các ngài liền cất bước vượt qua. Khi đi qua thì chiếc dù của đại đức Mahā Thongsak vướng vào một đám tre, ngài cố gằng giật để gở ra, và vừa sợ voi nên toát mồ hôi. Lúc đó thì voi ta nhìn trừng trừng vị đại đức, ánh mắt to, trong, có vẽ thông cảm hơn là đe dọa. Lúc lâu đại đức Mahā Thongsak mới gở thoát cây dù. Khi thấy mọi người đã vượt qua rồi thì đại đức Khao quay lại nói với voi rằng:”Này người anh, chúng tôi đã vượt qua, xin hảy tự nhiên ăn”. Vừa nói xong thì voi lại nhai ăn tiếp. Sau đó, đại đức Khao khen rằng con vật nầy hiểu tiếng người, tánh hiền lành chỉ có điều là không biết nói mà thôi. Đạïi đức Mahā Thongsak hỏi đại đức Mân đọc ý nghĩ của voi ra sao chứ khi đại đức mới thấy voi quay đầu lại đã sợ điếng hồn vì nghỉ voi ta sẻ chạy sấn lại, chỉ khi thấy nó đứng yên mới yên tâm. Và đại đức Mahā Thongsak chọc đùa đại đức Khao :”Đại đức Khao thật hay nói chuyện với voi như nói chuyện với người. Nầy anh voi to lớn , chúng em nhỏ bé sợ không dám đi qua, xin anh nhường lối để chúng em qua. Nghe lời khen tặng nầy, anh cho em qua, thế nhưng người em nhỏ bé nầy lại vụng về , làm dù vướng, thế là người em nhỏ bé nầy sợ hải. sợ rằng người anh lớn sẻ đổi ý.” Nghe những lời nầy đại đức Mân cười vui vẻ. Đại đức Mân bảo hai vị đại đức là ngài đã đọc ý nghĩ con voi và biết rằng nó không có ý gì. Nó là voi nhà đã được chủ thuần để đi kéo gổ nên hiểu biết tiếng người nay già được thả lại về rừng. 18. Chuyện do chính đại đức Mahā Thongsak kể lại Chủ đã dạy voi biết cung kính tăng, người mặc áo vàng. Đại đức Mahā Thongsak hỏi tiếp và bàn về con voi thì đại đức Mân quở rằng:” Ông là người có sự tưởng tượng lạ đời, đại đức Mahā Thongsak . Nếu sư mà cũng thích thú và tìm hiểu sự thật như tìm hiểu về voi thì chắc sư sẻ nhanh chóng thoát khổ chỉ trong một ngày. Sư giống như bao người khác. Chỉ phí thì giờ quí báu vào chuyện vô ích. Thế sư định thắc mắc, hỏi về voi suốt đêm hay là về pháp”. Nghe như vậy sư liền không dám nhắc tới nữa. NGƯỜI TĂNG ĐIÊN KHÙNG Nhiều tăng đã bị khiển trách vì nói chơi hay là nói không có lý do, chủ đích. Có một vị tăng làm phiền tăng đoàn. Khi đại đức bình luận điều gì thì vị đó thích xen ý liến của mình vào. Lúc mơi tới đại đức đã cảnh cáo trước làø hảy kiểm soát ý nghĩ của mình đùng để tật ham nói làm chủ và đừng nên xen vào chuyện của người khác. Những tăng thật tâm tu hành thì lắng nghe lời dạy , còn vị nầy thì dường như không quan tâm mấy đến lờøi đại đức dạy. Đại đức Mân có lối giảng pháp đặc biệt, là ngài thường dùng các thú vật, hay các hay các âm thanh sắùc tướng mà ngài gặp trên đường giảng cho các vị Tăng đi phía sau ngài. Có lần trên đường đi ngài gặp một con nghé , bò con , khi gặp các vị Tăng thì nó hoãng sợ vội chạy ngay về rút dưới bụng mẹ, trong khi đó mẹ nó thì đã quen với hình ảnh các chư Tăng thì không sợ vẩn thản nhiên nhai cỏ. Đại đức dừng lại và giảng lớn tiếng như sau: “Khi thấy chúng ta bò mẹ thì không sợ, nhưng bò con thì không như vậy , hoãng sợ đi tìm mẹ cầu cứu, chui rúc dưới bụng mẹ như muốn nhấc mẹ nó lên mà chạy. Con người cũng không khác. Khi gặp nguy thì hay đi tìm chổ an ổn, Nếu gần mẹ thì chạy lại mẹ, gần cha thì chạy lại cha. Con người không khác thường dựa vào gia đình và bạn bè. Ít ai nghĩ là họ tự dựa vào chính mình. Khi nhỏ thì dựa vào người khác cách nầy, khi lớn thì dựa vào người khác cách nọ, còn khi già thì dựa vào người cách kia. Luôn luôn cách nầy hay cách kia mà chúng ta dựa vào người khác, không mấy khi muốn hoàn toàn tự lập. Chúng ta kẻ tu hành cũng vậy. Đã thọ giới mà làm biếng không chịu tu tập. Sợ gian khổ, làm biếng không tinh tấn hành đạo. Dường như chúng ta không bao giờø có thể hoàn thành được công việc mình muốn làm. Khi mà mới chớm có ý tưởng tốt, rồi thì cái làm biếng cố tật lại xem vào cản trở sự tiến bộ. Không thể tự mình giúp mình chúng ta lại dựa vào kẻ khác. Câu châm ngôn : Attāhi attano natho. Mình là chổ nương tựa của chính mình. Thì vô nghĩa chừng nào chúng ta còn không thể tự mình thở qua lổ mũi của chính mình. Sư đầu đà thật tâm tu hành thì không phải lúc nào cũng nhờ người khác để mà sống, mà thở. Hảy lắng nghe những lời dạy của thầy mình, nghe theo mà cố gắng đạt được, chớ để những lờøi chỉ bảo tuột rơi mất. Hảy tinh tấn lên nghe theo và hành xử như thầy mình. Rồi quí vị sẽ tiến bộ, lúc đó thì tự mình không còn nhờ ai nữa, tự mình có thể thở được qua lổ mũi của chính mình. Thế nghĩa là gì, là lúc đó các vị có được trí tuệ để có thể tự mình vất bỏ đau khổ. Rồi dầân dần tự tin, càng ngày càng có thể tự lập. Rồi sau cùng thì mình trở thành đúng đắn là một vị Tỳ Khưu, thật sự là mình.” Ngài đã khơi dậy đề tài nầy để cho các vị đi khất thực chung với ngài có một đề tài mà suy nghĩ , quán tưởng về. Thế nhưng vị Tăng “rắc rối” lại lơ đãng vẩn vơ nghĩ về chuyện khác, cho là chuyện xưa cũ không gì đáng nói. Và có lẽ sự ngang bướng, hay ý nghĩ sằng bậy nào đó khởi lên không hòa nhịp với tư tưởng của đại đức nên ngài liền khiển trách nặng nề , và bảo các vị khác quay về, làm cho mọi người ai cũng sợ. Ngài la lên rằng: “Ông có thể đã điên rồi, giống như chó dại. Cắn xé miếng gổ mục mà người ta ném cho. Tại sao không nhìn vào chính mình, nơi mà sự điên dại phát xuất từ đó. Nếu không ngăn chặn loại suy nghĩ vớ vẩn nầy thì ông sẻ điên khùng mất”. Nói xong ngay quay trở lại chùa không nói lời nào nữa. Khi mọi người quay về chùa thọ thực thì để ý thấy vị Tăng rắc rối có vẻ khác thường và ăn rất ít. Họ cho là người đó xấu hổ. Thế rồi ai nấy làm chuyện của mình không để ý nữa. Tối hôm đó thì họ nghe tiếng rên la than khóc. Họ vội chạy xem là ai thì thấy vị Tăng “rắc rối” đang lăn lộn kêu gào dưới đất, miệng luôn van xin hối hận là đã xử sự bất kính đối với đại đức Mân. Ai nấy hoãng sợ vội chạy mang vị đó tới làng để chạy chữa, sau khi sức dầu xoa bóp và uống thuốc thảo mộc thì vị đó đỡ kích động, rồi thì ngũ thiếp đi. Sáng hôm sau đem đi gặp y sĩ để chữa bệnh, thỉnh thoảng cũng bị kích động kêu la lăn lộn. Nhưng dần thì đỡ sau khi có thể đi lại một mình thì vị đó trở lại quê cũ. Từ đó về sau không ai biết vị đó ra sao. TÁNH TRẺ TRUNG Thường thì các vị sống chung vói đại đức là những vị có trình dộ cũng khá vững chắc. Nên đại đức Mân hành xử cũng dễ dãi , thoải mái, như là giữa người người bạn đạo thân thiết với nhau. Không phải lúc nào ngài cũng nghiêm khắc. Nhưng cách hành xử thay đổi ngay lậo tức tùy theo hoàn cảnh. Ngài đối xử khác nhau trong từng trường hợp. Khi thì đối xửõ vị nầy cánh nầy khi thì vị kia cách khác, ngay cả khi chúng tôi thấy tình trạng tương tự nhưng ngài lại đối xử khác nhau. Chúng tôi rất ngạc ngiên và khâm phục tài ứng xử, đối phó nhanh nhẹ của ngài. Đại đức Mân thường kể cho các Tăng nghe câu chuyện vui thời niên thiếu của ngài, điều nầy minh họa cho tánh năng động của ngài, và sự thay đổi rất lớn mà người đã trải qua. Ngài kể rằng , hồi nhỏ thời niên thiếu ngài thường đi dự thi các buổi hát hò dân gian trong quận giữa các làng với nhau. Một hôm trước hàng ngàn khán thính giả dự hội, thì tự nhiên lúc đó đại đức cảm thấy mạnh dạn, vì trên sân khấu là một thiếu nữ lớn tuổi có tiếng hát hò hay trong vùng. Có lẽ ngài cảm thấy thích thú khi hò chung với người đó, hay biết chừng ngài đang si tình, ai mà biết được ? Ngài lên trên sân khấu thi hò với cô thiếu nữ đó . Thật là chẵng may sau một hồi thì phần thắng nghiêng hẳn về cô đó. Lúc đó thì đức Tăng thống Chao Khun Upāli chưa xuất gia cũng đi dự , chỉ lớn hơn ngài vài tuổi và là bạn đại đức, sống cách đó không xa, tục danh của ngài là Danh. Theo lời kể của ngài Upāli thì nếu không có ai giúp thì chắc đại đức phải thua một cách thật là thảm thương. Ngài Upāli so sánh người thiếu nữ chuyên nghiệp hò đó với đại đức là người hò tài tử thì như cọp cái dữ dằn còn đại đức chỉ là con cọp con chưa mọc răng. Ngài Upāli bèn nghĩ ra cách giúp bạn bằng cách : Nhảy ngay lên sân khấu la lên rằng :”Mân, tao tìm mầy hoài mà không gặp, mẹ mày bị té từ trên mái nhà xuống. Đang nằm trên mặt đất không biết sống chết ra sao, tao định giúp bà thì mẹ mầy nói hảy đi kiếm mầy, tao tìm cả buổi mới gặp mầy ở đây , đi về ngay.” Đại đức và thiếu nữ trên sân khấu ai nấy đều chưng hửng, nín thinh. Ngài lúc đó hỏi : “Mẹ tao ra sao hả Danh” Ngài Upāli lúc đó trả lời :”Sống chết chưa biết ra sao, nhưng tao thì sắp chết đói vì tìm mày mà suốt buổi chưa có ăn gì” Nói xong liền kéo đại đức xuống. Khi đã đi khá xa thì ngài Upāli mới cho đại đức hay sự thật là thấy đại đức sắp bị thua một thảm bại nên bày kế như vậy, thì đại đức nói rằng :” Trời ơi, mày hại tao rồi , tao sắp hạ được nó rồi mà mày kéo tao xuống, Tao chỉ giả bộ như vậy, giống như sắp thua để dụ nó mà mày không biết” Ngài Upāli trả lời :”Thôi đi, đừng có xạo nữa, nếu mày giỏi như vậy thì làm sao trúng kế của tao. Ở dưới ai cũng biết mày sắp thua, đối đáp không ra làm sao, sắp bị nó làm thịt trước mặt công chúng mà còn xạo. Mầy phải biết ơn tao đã cứu nguy cho mầy.” Mặc dầu là đôi bạn thân thời thiếu niên, nhưng lúc nhỏ cả hai lúc đó đã đấu trí với nhau. Ngay cả sau nầy hai ngài cũng đấu trí vui đùa với nhau. Đại đức thường kể cho Tăng nghe câu chuyện ở tuổi thiếu niên khi các đệ tử ngồi chung quanh nghĩ ngơi thư giản. Tôi xin lổi các đọc giả ở đây vì các hành văn không có văn hoa, và dùng tên thế tục của hai ngài nhưng vì tôi ghi lại theo lời đại đức kể cho đệ tử nghe. Tôi chỉ muốn cho đọc giả có chút cơ hội nhìn thấy hai vị cao tăng có tinh thần trẻ trung khi kể chuyện về đời sống thuở niên thiếu. Và so sánh nó với hình ảnh mà chúng ta nghĩ về hai ngài cao Tăng nổi tiếng của nước Thái, người đã hoàn toàn xả ly. Khi đại đức an cư ở gần làng Ban Nam Mao ở quận Mae Pang , một vị thiên chủ thường mang một đoàn tùy tùng đông đảo đến thăm, sau mùa an cư khi ngài một mình tới động Dok Kham, thì vị thiên chủ ấy cũng đến thăm. Đoàn nầy đông đảo và thăm ngài thường nhất. Dân số ít nhất thì cũng hơn trăm ngàn. Nếu trong đoàn có ai chưa bao giờ tới nghe pháp thì vị Thiên chủ giải thích cách thức nghe pháp cho vị đó. Đại đức hay dùng Từ, Tứ Vô lượng Tâm, làm đề tài giảng dạy, vì họ thích nghe về đề tài nầy. Các loài trời thì rất tôn kính ngài cũng như nơi ngài ở, ngay khi tới thăm họ cũng trách đi ngang qua đường đi kinh hành, mà dân chúng tôn kính rải cát cho ngài để đi. Loài rồng cũng vậy. Loài rồng cũng thường mời ngài tới nhà họ cũng giống như loài người mời chư Tăng đến nhà. Người đưa tin mời ngài nếu không tránh được phải đi qua đường kinh hành, thì họ quì xuống gạt cát qua một bên, và bò qua rồi mới đứng lên đi tới chổ ngài ở. Thái độ của họ rất là cung kính. Đại đức nói loài người là chúng sinh có nhiệm vụ giử gìn giáo huấn (Sāsana). Nếu thật sự tôn kính lời giáo huấn thì có lẽ con người nên có lòng thành kính như loài trời, loài rồng có vậy. Mặc dầu chúng ta không thấy được các loài đó tõ lòng tôn kính, nhưng trong kinh Phật đã nói rõ. NHÂN QUẢ LẠ KỲ Có lần đại đức ngồi thiền ở sâu trong núi ở Chiang Mai. Ngài thấy hình ảnh một phụ nữ và một Sa Di đi qua đi lại khu vực đó lúc khuya mà hầu như đêm nào cũng vậy. Thấy vậy ngài hỏi họ tại sao họ ở đây. đi qua đi lại như kiếm gì. Người phụ nữ trả lời là họ lo âu về cái tháp mà họ đang xây nữa chừng. Người sa Di là người em trai cùng xây với vị đó. Ước nguyện muốn xây tháp rất mạnh, nên sau khi chết họ chưa tái sanh vào cảnh giới khác vì chưa làm xong nguyện ước lúc còn sống. Tuy tái sanh ở cõi Lo Âu nhưng họ không bị khổ sở lắm như các chúng sinh khác. Đại đức Mân khuyên họ như sau:”Các ngươi không nên quan tâm lo lắng về chuyện đã tới và đi mất. Chúng không thể nào quay lại được. Cho dù các ngươi có tự nhủ cách nào đi chăng nữa là mình muốn hoàn thành công việc dang dỡ ở quá khứ , nhưng đó là điều không bao giờ xảy ra. Ai mà như vậy thì không đạt được gì ngoài sự thất vọng ê chề, khi hi vọng hảo huyền không thành tựu. Tương lai cũng chưa tới cũng không nên tìm cầu, quá khứ đã trôi qua đi mất cũng đừng tìm bắt. Chuyện đã qua cho qua , chuyện chưa tới cũng cho qua vì nó chưa tới. Chỉ có hiện tại là có thể làm được gì hữu ích. Nếu giấc mộng xây tháp thành tựu thì nó sẻ thành tựu trước khi các ngươi chết. Bây giờ các ngươi không chấp nhận là mình đã chết, lại còn muốn xây tháp mà điều đó bây giờ là không thể nào thực hiện được. Cho nên hai ngươi đã suy nghĩ sai quấy hai lần. Nếu các ngươi còn tiếp tục mong muốn hoàn thành ước nguyện thì là đã sai ba lần. Không những suy nghĩ của các ngươi bị ảnh hưởng bởi điều mong muốn nầy, mà còn sự tái sanh ỡ tương lai cũng bị ảnh hưởng theo chiều hướng xấu. Ước nguyện vô lý như vậy phải từ bỏ. Xây dựng chùa tháp là để làm gì ? là tạo công đức chớ chẵng phải là gạch đá. Công đức xây tháp chính là công đứùùc từ hành động xây, ý nguyện muốn xây. Công đức nầy là của các ngươi , không gì có thể tước đoạt được. Các ngươi không nên quan tâm vào vật chất thô kệch như là gạch đá cái mà không thể thõa mản ước vọng của các ngươi. Mọi người ở khắp nơi tạo công đức từ những việc làm lành, khi ra đi họ mang chỉ mang theo công đức chớ chẵng mang theo vật chất mà họ cho ra. Thí dụ như xây phòng ốc cho Tăng Ni, xây giảng đường, xây đường xá, đào giếng hay là bố thí tiền bạc, tất cả chỉ là sự biểu hiện tấm lòng tốt của mình mong nuốn người khác được yên vui hạnh phúc, chớ chẵng phải do nhiều ít vật chất là tạo ra Niết bàn hay cảnh Trời. Cái thiện ý thúc đẩy người ta làm việc thiện đó chính là cái tạo công đức. Cái tâm tốt lành ấy, bản thân chính nó là công đức, là cao quí , mà có trong Thiên đường, có trong Đạo, trong Quả hay Niết Bàn. Cái tháp mà hai ngươi xây dang dở, là điều tốt nhưng thiếu cái thiện ý tốt. Các ngươi làm vì lòng tham muốn, điều đó làm trở ngại mặc dầu công việc là tốt. Bám víu vào nó không phải là điều tốt. Sự trì hoãn nầy sẻ gây trở ngại việc tái sinh vào cảnh giới tốt lành. Thay vì nhà ngươi muốn mang theo tất cả, thì hảy hoan hĩ với những công đức mình có được từ việc xây tháp, nếu vậy thì chắc chắn hai ngươi đã sanh về cỏi lành rồi. Nhân nào quả nấy, không khi nào sai khác. Công đức là công đức, Và nó không bao giờ bị phân hủy thành điều xấu.” “ Lổi lầm là quan tâm quá mức về chuyện ở quá khứ . Hai ngươi không khi nào có thể thực hiện hoàn thành công việc trong quá khứ được. Đó là điều hảo huyền , không hiện thực. Hảy xả bỏ đi. Hai ngươi đã làm việc thiện vì tương lai tốt đẹp. Cái lực của nhân tốt đó giờ đây cũng đã hiện ra, vì vậy hai ngươi mới ở đây bây giờ. Đừng phí thời gian nghĩ về quá khứ hay tương lai, mà bây giờ. hảy gặt hái kết quả tốt từ điều thiện đã làm, hảy suy nghĩ đúng dắn thì lập tức hai ngươi sẻ thoát khỏi cảnh “Lo Âu “ nầy. Hảy hướng về hiện tại, mà có tất cả những công đức cần thiết cho Đạo, Quả và Niết Bàn. Ta rất thương xót hai ngươi, chỉ vỉ bám víu vào gạch gói mà bị giam giử nơi đây. Hảy thành tâm xả bỏ những cố chấp đó mà tiến xa. Công đức các ngươi đã có đã phát khởi, chỉ chờ hai ngươi muốn là sẻ tái sanh vào chổ như muốn.” Sau đó thì đại đức thuyết giảng ngũ giới 19 cho hai vị đó. Khi thuyết xong thì , người em và người chị đều hoan hĩ , quì xuống cầu xin thọ giới, đại đức hoan hĩ ban cho. Sau khi thọ giới, đãnh lễ ngài thì hai chị em biến mất. Công đức xây tháp đã phát khởi và hai vị đó tái sanh vào cỏi Tam thập thiên (Đao Lợi) . Sau đó thì hai vị trời đó thường đến thăm viếng và nghe ngài thuyết pháp . Kể cây chuyện nầy đại đức giảng cho chúng tôi về vấn đề luyến ái, chấp thủ. Khi mà chúng ta sắp chết bất cứ quyến luyến về điều gì cũng đều là trở ngại. Lúc tâm thức lìa khỏi xác thân thì nếu tâm bám vào ý nghĩ nguy hại thì nó có thể làm cho ta sanh vào các cảnh không giới. Do đó chúng ta cần tu tập tâm cho tâm càng bớt luyến ái thì càng tốt cho chúng ta. Khi đại đức ở sâu trong rừng, cách xa các làng mạc. Đại đức thấy một linh ảnh đặc biệt trong lúc định. Lúc khoảng 3 giờ sáng sau khi thức dậy, là lúc các đại của thân thể rất nhạy cảm, đại đức ngồi thiền định thì cảm thấy muốn hoàn toàn tĩnh lặng nên ngài nhập vào đại định, khoảng 2 giờ sau thì tâm ngài từ từ rút ra khỏi và ngưng ở cận hành định, thay vì trở về lại bình thường. Thì ngay lập tức ngài thấy sự kiện sau: 19. Ngũ giới : Không sát sanh, Không trộm cắp, Không tà dâm, Không nói dối, Không uống rượu. Một con voi to lớn đi đến trước ngài, và quì xuống như mời ngài cỡi nó. Thấy vậy ngài leo lên lưng và cỡi trên cổ nó. Khi ngồi yên rồi thì thấy hai vị Tăng trẻ cũng cởi voi đi theo sau. Hai con voi đó cũng rất to lớn , chỉ hơi nhỏ hơn voi của ngài đang cỡi. Ba con voi trông rất hùng dũng oai vệ, như voi của vua chúa cỡi. Con voi ngài cỡõi đi đầu, cả ba đều tiến tơi một rặng núi ở phía trước không xa mấy. Khung cảnh thì rất là kỳ diệu, giống như không phải ở thế giới nầy. Khi tới rặng núi, thì voi ngài cỡi dẩn tơi một cái hang ở trên một ngọn đồi bên rặng núi. Voi của ngài cỡi khi tới trước miệng hang thì quay ngược đầu lại, rồi lui dần vào trong động cho tới khi mông của nó dụng vào thành hang, đại đức vẫn ngồi trên cổ nó. Còn hai con voi hai vị Tăng trẻ đi tới quì hai bên hông con voi mà đại đức đang cỡi. Đại đức Mân nói với hai vị Tăng như là lời nói cuối cùng như sau: “Ta đã tới giờ phút cuối của cuộc đời. Mạng nầy chấm dứt, thì sự hiện hữu của ta trong thế giới tương đối qui ước nầy của sẻ bị diệt. Ta sẻ không bao giờ trở lại thế giới của sự sanh và chết nữa. Ta muốn hai vị đi về mà tiếp tục tu cho đến thành đạt, rồi không bao lâu hai vị sẻ cũng như ta thoát bỏ thế giới nầy, cũng như cách ta thoát khỏi cái thế giới nầy. Thế giới của vô vàn luyến ái ham muốn ràng buộc , cùng vô vàn sự đau khổ. Thoát ra khỏi nó là một việc rất khó làm, đòi hỏi một nghị lực phi thường. Các vị hảy dùng hết sứùc của mình, ngay cả phải bước tới ngưỡng của của thần chết để có tự do khỏi những nguy hiểm và lo âu. Lúc đó thì không còn phải xót xa, đau khổ vì sanh và chết. Ta đã hoàn toàn chuyễn hoá tất cả các cấu uế. Ta ra đi như tù nhân được phóng thích khỏi nhà tù. Không quyến luyến một mảy may nào cả về việc mất đi cái thân thể ô trược nầy. Không giống như đa số con người họ luyến tiếc cái thân, điều nầy gây cho họ nỗi đau đớn tột cùng lúc chết. Vì vậy chớ nên than khóc lúc ta ra đi. Không có lợi gì cả . Cho nên bậc trí giả không bao giờ tán đồng việc đó, nó chỉ gây phiền não mà thôi,” Sau khi nói xong thì đại đức bảo hai vị Tăng ra về, hai con voi cũng đứng im lặng như lắng nghe đại đức đức nói. Khi nghe lệnh, thì hai con voi chở hai vị Tăng đi lui ra khỏi hang. Khi ấy thì con voi đại đức cỡi lui lại đi sâu vào trong tường đá. Lúc đó thì đại đức xuất thiền. Đại đức phân tích điềm linh ảnh thì thấy : 1. Sau khi ngài chết có hai vị Tăng đệ tử cũng giác ngộ nhưng ngài không nêu tên ra. 2. Định và Minh sát tuệ là hai vật sở hữu vô giá của bậc A La Hán từ lúc giác ngộ cho tơi lúc mất. Trong suốt giai đoạn nầy thì vị A La hán phải dựa vào Định (Samatha) và Minh sát tuệ ( Vipassanā) như là Pháp trụ. Để làm dịu bớt những kinh nghiệm khó chịu giữa tâm và ngũ uẩn. Khi chết thì hai thứ , tâm và ngũ uẫn rời nhau. Định và Minh sát tuệ không còn hoạt động nữa khi chết, Chúng biến mất, giống như các thứ thô trước khác, không thật. Đại đức không nói gì về tên hai vị Tăng đó, chúng tôi cũng không ai dám hỏi ngài. Tôi để ý điều đó cho tới lúc khi ngài mất và viết lại tập tiểu sử của ngài cũng không biết là ai. Không ai mà nói mình chứng đắc trước công chúng. Ở trình độ trí tuệ như vậy mà công khai nói ra giữa công chúng thì chỉ làm kẻ ngu cười cho là không có, còn kẻ trí thì chê. Tôi nơi đây xin sám hối vì viết lại những gì mà chỉ có đại đức và số ít đệ tử thân tín biết mà thôi, những điều mà ngài chưa bao giờ nói cho người ngoài nghe. Mục đích không gì khác là muốn cho đại chúng hưởng các điều lợi ích từ cuộc đời ngài và các lời dạy của ngài. Nếu tôi có gì không phải, thì xin đại chúng từ bi tha lổi cho. NGẠ QUỈ Dạy dổ , giúp đỡ các loại chúng sanh ở các cảnh giới khác là bổn phận nhiệm vụ theo lời của đại đức. Ngài tiếp xúc với các loại chúng sanh khác, đặc biệt là rất nhiều khi ngài ở trong rừng núi. Đoàn nầy tới đoàn kia lủ lượt tới thăm viếng ngài. Ngay cả các loài ngạ quỉ đang chờ thân nhân hồi hướng công đức cho mình cũng đến gặp ngài. Thật khó mà có thể xác định họ chết từ bao giờ, gia đình , dân tộc trước đó là ai, hay là có còn thân nhân trên đời hay là không. Họ gặp đại đức là muốn vì lòng từ bi mà đại đức giúp họ tìm kiếm thân nhân của họ, và bảo cho thân nhân của họ làm phước, bố thí và hồi hướng một phần công đức cho họ để họ bớt khổ vì cuộc sống đói khát, đau khổ của kiếp ngạ quỉ (Quỉ đói) cho họ. Một số họ đã ở lâu trong cõi nầy mà sự thống khổ thật là kinh khủng, họ ở rất lâu ở cõi nầy mà khó có thể so sánh với thời gian tính theo năm tháng của loài người. Khi mà họ thoát được lại rơi vào cảnh khổ khác mà cũng phải chịu đựng các nổi khổ , các bất hạnh triền miên bất tận. Hầu như không thay đổi gì được khi mà các chúng sanh đó sanh vào các đường dữ do ác nghiệp mà mình đã tạo trước đó. Khó mà giúp cho họ vơi bớt nổi khổ đau. Các ngạ quỉ thường than khóc với ngài là họ không biết khi nào mơi thoát khỏi cuộc sống quá đau khổ nầy vì trước đã tạo ác nghiệp. Tất cả chỉ bám víu vào hi vọng là các thân nhân của họ làm việc công đức mà hồi hướng phần nào cho họ để họ sớm thoát cảnh sống đày đọa nầy. Khi ngài bảo họ thân nhân của họ ở đâu thì tất cả đều mơ hồ nói về thế giới mà họ sống trước kia, không rõ ràng đại đức không thể hiểu họ. Có những người sống ở đó khi chết lại đọa vào cõi địa ngục, có những kẻ đã sống ở đó hàng vạn ức năm tính theo thời gian của nhân gian, rồi lại rơi vào cảnh xấu khác mà trả nghiệp. Có những người ở đó ít nhất hàng vạn , hàng trăm ngàn năm, nên rất khó mà truy tìm họ hàng thân thích. Thật là điều khủng khiếp của ác nghiệp, khi nghiệp lực đó suy yếu (hay nói cách khác là họ đã trả gần hết nghiệp ác) họ sanh vào loại ngạ quỉ mà có thể hưởng được phần nào phước báo mà thân nhân của họ hồi hướng cho, thế nhưng lúc đó thì không còn thân nhân nào nữa , họ mong đợi từng giờ phút và chịu đựng sự thống khổ đói khát, nổi đau đớn hành hạ của thân. Chỉ có một số ít trong loài ngạ quỉ là có nhận được sự giúp đở là các người mới chết bị đọa lạc vào, và nghiệp lực ác không quá mạnh mẻ – nên họ mới có thể nhận hưởng phước báo mà thân nhân họ hồi hướng. Trong trrường hợp nếu thân nhân ở gần khu vực của ngài thì ngài tìm cách cho thân nhân đó biết, và chỉ cho họ biết làm cách nào mà giúp đỡ. Các loại ngạ quỉ có phước hưởng được phần công đức mà thân nhân hồi hướng cũng là loại có thể hưỡng được phần nào công đức có được do các người cúng dường thực phẩn cho chư Tăng, mặc dầu không phải là thân nhân của họ. Do nghiệp ác mà họ tạo, có loài chỉ nhận được từ thân nhân còn có loại thì nhận được từ mọi người. Bố thí và tạo các loại công đức khác rất trọng yếu, nó xây dựng nền tảng cho chúng ta sau nầy. Chúng sanh trong Tam giới là do nghiệp lực phát động mà sanh vào cảnh giới nầy hay cảnh giới kia, cho nên mình làm nghiệp nào thì phải lảnh chịu nghiệp đó, trách nhiệm là của mình, không ai có thể gánh chịu dùm cho mình. Không khi nào người khác làm mà mình gánh chịu. Ngay cả những ai không muốn hưởng phước báo của mình thì cũng không được. Những cây chuyện mà ngài kể lại làm cho chúng tôi rợn mình, Đại đức nói những ai mà thấy nghiệp ác , tốt của mình và của người khác như thấy đồ vật trên tay mình cầm thì sẽ không bao giờ dám tạo ác nghiệp mà chỉ dám làm điều thiện mà thôi. Khi nói về các cảnh giới của các loài chúng sanh khác như cho các đệ tử nghe thì một đệ tử cao niên hỏi ngài như sau: “ Kính thưa Thầy, những con người khác họ không thấy các chúng sanh ở cõi khác như là cõi trời, thần, ngạ quỉ, ma, rồng , hay Kim Sí điểu cho nên họ không thể hiễu rõ hậu quả của việc họ làm, còn thầy thì thấy biế rõ mọi việc . Phải chăng là điều hay, khi chỉ dạy cho họ biết về các hiện tượng nầy. Những hiện tượng tự nhiên mà Phật và các thánh A La Hán đều biết rõ tường tận . Con nghĩ không ai phản đối việc nầy , cũng như chúng con đây ai cũng biết ơn về điều dạy nầy”. Đại đức thì nghiêm nghị trả lời :”Đề nghị điên khùng nầy thì làm hại cả hai chúng ta. Ta chưa bao giờ ở giữa công chúng mà nói điều nầy. Nếu làm như vậy thì ta e rằng ta và các Tăng đang ngồi ở đây trở thành những kẻ điên rồ mất. Tu viện nào mà dám chứa những kẻ điên rồ. Giáo pháp được tuyên dương và chỉ dạy một cách thận trọng, chẳng phải tùy tiện. Giáo pháp phải được học, hành , và nói một cách thận trong. Đề nghị vô lý như vậy , là thận trọng hay sự điên rồ liều lỉnh. Theo ta thì ý kiến đó thật là dại dột . Ngay cả dân chúng họ nếu không chết khi nghe chúng ta nói về những điều đó, thì chúng ta cũng không khá được. Ông hảy nghĩ coi, những điều thấy, nắm được thì con người họ tiếp thu một cách thích hợp, cũng không khó khăn mấy. Mặc dầu Pháp là chân lý tuyệt đối nhưng cũng vẩn không tách rời xả hội, quần chúng trên thế giới. Đức Phật là người đầu tiên hiểu biết rõ ràng tất cả các hiện tượng trong vũ trụ . Ngài hoàn toàn tự tin khi nói về những điều đó, nhưng đức Phật thì hoàn hảo trong việc tuyên nói những điều nầy. Khi mà Đức Phật nói những chuyện nầy trước công chúng, thì ngài luôn luôn nói trong những trường hợp hoàn cảnh và người nghe thích hợp. Trí tuệ về những hiện tượng siêu hình nầy là đặc quyền của người sởû hữu nó, nhưng mà phát biểu bừa bải cẩu thả là điều không bình thường. Người bình thường thì khó tin những điều siêu hình nầy. Ở đây không phải là phê bình ai cả. Mà hảy nhớ lấy rằng những ai mà có trí hiểu về những điều nầy thì phải nên xử dụng cho đúng theo pháp, nghĩa là lợi mình và lợi người chung quanh. Khi chúng ta tin hiểu về những điều kỳ lạ nầy thì đó không đủ lý do mà ta tuyên bố một cách cẩu thả mà có thể làm cho người ta điên khùng. Những ai mà thích nghe về những chuyện nầy bởi vì đạo của họ dựa trên những điều nầy là những kẻ sắp bị khùng. Do đó ta không tán thành đề nghị nầy. Chúng ta hảy nên học cách cẩn trọng mà Đức Phật dạy chúng ta. Mặc dầu chúng ta không khôn cho lắm, nhưng cũng đủ để biết đó là quyết định đúng, để gìn giử những lời giáo huấn cho thế hệ sau. Ta hỏi sư như vầy : giả sử ông có một số tiền lớn, nó có lợi ích khi mà ông thông minh, và có hại khi không thông minh. Bằng cách nào mà khi ông đi vào đám đông mà bảo đảm cho mình và số tiền đó được an toàn?” Người đệ tử cao niên trả lời rằng:”Thưa Thầy, con sẻ cẩn thận gìn giử nó ” “Hảy nói rõ cho ta biết gìn giử như thế nào ở chổ đông người mà tránh được nguy hiểm?” “Dạ , thưa thầy, nếu con phải chi tiêu ở chổ đông người thì còn đếm tiền trước và trả mà không cho ai thấy con đang mang theo một số tiền lớn trong người. Con cố gắng không cho ai thấy vì có thể nguy hiểm cho bản thân” Đại đức Mân nói :”Như vậy à, bây giờ giả sử ông sở hửu một kiến thức, một trí tuệ về loài ma, hay các loài siêu hình thì ông xử dụng nó như thế nào mà có lợi nhưng không gây sự dị nghị đàm tiếu sâu rộng trong quần chúng mà chỉ có hại cho ông và giáo pháp mà thôi.” “Da, Thưa Thầy. Con xử dụng cũng giống như con đang mang theo một số tiền lớn mà xài tiền giữa chổ đông đảo người qua lại” “Thế mà ông trước đó không lâu đề nghị ta tuyên bố rộng rãi những điều ta biết cho công chúng hay mà không đo lường hậu quả của nó. Tại sao vậy ? Ta nghĩ một người bình thường không khi nào lại nói những lời đề nhị như vậy . Lời phát biểu của ông không có một chút lý lẽ nào mà người khác phải kính nể. Ta cũng vậy không thấy có điều gì nể phục trong cách suy nghỉ của ông. Nếu có ai chất vấn ông về những sựï thiếu quyết đoán căn cứ nầy, thì làm sao ông có thể bảo vệ được lại những lời buộc tội. Trên đời kẻ khôn và người ngu ai nhiều hơn ? Làm sao ai mà có thể gìn giử , bảo vệ được lời giáo huấn vì lợi ích chúng sanh mà lại làm theo lời đề nghị ý của ông?” Người đệ tử trả lời:”Thưa Thầy ! Bây giờ suy nghĩ con biết là hoàn toàn sai trái. Con đã đề nghị vì khi mới nghe về những điều kỳ lạ hấp dẫn nầy làm con phấn khởi tin tưởng muốn cho người khác cũng hưỡng được những tri thức nầy như con. Con nghĩ rằng chắc họ cũng có sự lợi ích lớn khi tin hiểu những điều nầy cũng như con vậy. Nhưng con không suy xét hậu quả tai hại của nó đối với toàn thể giáo pháp. Con xin thầy từ bi cho con được sám hối , để cái nhân cẩu thả , tùy tiện nầy không còn có trong con nữa. Con sẻ cố gắng suy lường thật sâu trước khi nói điều gì.” “Nếu có ai chất vấn ta về sự vô căn cứ nầy , thì ta cũng vui vẻ nhận lổi , bởi vì đó là đáng trách. Trước khi ông yêu cầu ta, ta cũng không quan tâm mấy về kẻ khôn, người dại ai nhiều hơn ai, nhưng bây giờ thì ta thấy kẻ dại rất nhiều, là bởi vì trong cộng đồng của chúng ta cũng ít có kẻ khôn, suy nghĩ về vấn đề đạo đức. Phần lớn họ không biết tại sao họ ở đây, và họ đang đi về đâu. Không mấy ai biết mình đang làm gì , và tại sao đang làm việc đó, không biết đâu là đúng, hay sai. Chỉ thõa mản vơi những gì dể dàng, tiện lợi nhất thời mà thôi. Bây giờ thì ta hiểu những ai có khả năng gìn giử bảo vệ chánh pháp để làm lợi lạc là chỉ là những kẻ có trí sáng suốt biết phân biệt để dẫn dắt người khác một cách bình đẵng, hài hòa, làm gương tốt cho kẻ khác noi theo, mà được lợi lạc. Người thầy khôn, sáng suốt biết phân biệt là nền tảng cho mọi sự thành công cũng như các nhà lảnh đạo có tài, khả năng. Bây giờ ông đã biết người khôn là cần thiết cho bất cứ nổ lực nào được thành công, Thì tại sao ông không nghĩ về cái gì là quan trong việc nổ lực tu tập của một vị Tỳ Khưu . Những nổ lực tinh thần thì tinh tế , khó mà hiểu rõ , cho nên chỉ có kẻ khôn ngoan sáng suốt biết phân biệt mới gìn giử tu tập theo giáo pháp mà thôi. Ở đây ta không nói về cái khôn ngoan , sáng suốt làm hại thế giới, làm hại giáo pháp, mà cái khôn ngoan sáng suốt biết phân biệt, quyết đoán làm những gì có lợi cho tinh thần và thể xác. Đó là cái khôn được Đức Phật chỉ dạy trong Bát chánh đạo : Chánh kiến và Chánh tư duy. Kẻ khôn là những ai đi theo nguyên lý nầy. Ngay cả định củng phụ thuộc vào trí tuệ phân tích, truy xét của chánh kiến, nếu không là “định của gổ, đá” . Khi mà tâm tập trung cao độ (định ) thì trí tuệ phải có mặt để giúp đỡ. Nếu không thì làm sao những ai dành trọn cuộc đời để tìm hiểu bản chất thật của sự vật mà khi đối phó vơi tất cả các điều phát khởi từ tâm mà không sai lầm. Những hiện tượng, sự việc ở trong và ngoài liên quan tới định thì vô lượng không kể xiết. Nhưng chỉ có một số ít có khả năng, khuynh hướng nhận biết được về những điều đó. Không ai ngăn cấm những ai có khả năng thiên phú hay do rèn luyện nhậân biết tiếp xúc với các hiện tương đó. Nhưng điều quan trọng ở đây là trí tuệ. Lúc đó thì biết sáng suốt phân biệt chọn cái nào để tập trung vào, những cái khác thì bỏ qua. Nếu không có trí tuệ nầy thì khó mà thành công trong việc tu định. Khi đó thì sẻ thích cái nầy, ghét cái kia, hoan lạc về điều nầy , chán chường về ø cái kia, như vậy tâm sẻ trở nên bị ràng buộc chấp trước. Không có sự sáng suốt thì không thể trừø khử các cảm xúc như vậy. Chúng ta đi tu làm Tỳ Khưu, là để tu định và tuệ, nhờ đó giúp ta phát triển các phẩm chất cao quí mà người khác thấy thì thán phục, chớ chẵng phải đi diễn hành phô bày cái cẩu thả, ngu si trước mặt phiền não, để nó sai xử. Mà là phát triển cách để chống lại, trừ khử phiền não. Nếu mà không có gì bảo vệ thì chúng ta sẻ ỡ trong tình trạng rất hiểm nguy. Giáo pháp và giới luật là áo giáp bảo vệ Tỳ Khưu, còn định và tuệ là vủ khí dùng để bảo vệ của người tu. Nếu như ta muốn lúc nào cũng an nhiên tu hành , bất chấp mọi hoàn cảnh thì ta phải có chánh niệm và trí tuệ trong mọi sinh hoạt hằng ngày. Không có trường hợp ngoại lệ. Những ai mà muốn thoát khỏi Ta bà thì là những ai hết sức tinh tấn và sáng suốt. Không có công việc nào khó hơn là giải thoát tâm ra khỏi sự đau khổ của Ta bà. Đời hỏi người đó phải nổ lực đối phó với mọi mặt. Ngay cả mạng sống của mình. Tin tưởng giao phó mạng sống của mình vào sự nổ lực tinh tấn của mình trong việc tu tập theo giáo pháp. Phải hi sinh mạng sống của mình mà sống theo đúng giáo pháp, không có cách nào khác hơn. Chỉ khi nào dám hi sinh mạng sống mà để chuyễn hóa thế giới Ta bà , thì khi đó mới có thể tự do thoát khỏi đau khổ của phiền não mà thôi. Bản thân ta, chưa bao giờ nghĩ rằng ta sẻ sống sót và trở thành một vị thầy, bởi vì quyết định chuyễn hóa đau khổ quá mạnh để ta không còn nghĩ gì tới mạng sống trong khi tu tập theo lời Phật dạy. Tất cả các nổ lực trong mọi hoàn cảnh đều hướng về mục đích ở bên ngoài sự sống chết. Không bao giờ ta để sự hối tiếc về mạng sống làm ta chùn bước. Cái mong mnuốn đi trên con đường đạo rất mạnh khiến lúc nào cũng gây áp lực làm ta đi tới. Ta đã đi tới quyết định rằng nếu thân thể không chịu đựng, ta chết đi thì cũng như ta đã từng chết trong vô vàn kiếp sống trước đó mà thôi. Những cái chết vô vị, mà ta rất chán sợï. Còn nếu sống thì ta chỉ sống vì giáo pháp , vì ta muốn có được pháp mà đức Phật đã giác ngộ được. vì muốn thoát khỏi vòng luân hồi tử sanh. Chớ ta chẵng có mong muốn gì cả, bởi vì ta đã có tất cả, đã chán rồi không muốn nữa. Nổ lực của ta trong đạo pháp thì ví như chong chóng, hay bánh xe pháp quay tít liên tục, ngày đêm cắt bỏ cắt bỏ gốc rể phiền não, chỉ trừ khi ta ngủ thì mơi tạm ngưng hể khi thức dậy là ta lại bắt đầu vào công việc, dùng chánh niệm, tuệ, tín, tinh cần mà nhổ bỏ các tàn dư gôc rể của phiền não. Ta làm liên tục như vậy cho đến khi phiền não hoàn toàn trừ diệt. Thì lúc đó ta mới nghỉ ngơi. Ta biết chắc rằng chúng không còn nữa đề mà trở lại gây rối cho ta. Tất cả đã tan biến, duy chỉ có cái thân xác thô trược nầy là chưa biến theo phiền não mà thôi. Đây là điều mà các ông nên suy nghĩ kỹ về. Muốn hiên ngang, dũng cảm đối diện vơi thần chết , và tinh tấn tu hành bỏ lại sau lưng những nổi bất hạng ê chề đã lâu ngự trị trong tâm, hay là lúc nào cũng vẩn còn hối tiếc sợ chết, sợ chết sớm phải để bị dọa vào các cảnh không lành? Hảy nhanh chóng quyết định , chớ bỏ phí cơ hội quí báo nầy, bỏ đi thì sẻ rất ân hận lâu xa về sau. Chớ bảo rằng ta không báo trước. Trong cuộc chiến đấu chống lại phiền não mà có trong mồi người, thì Tuệ, Tín và Tinh tấn là vủ khí thích hợp dùng để tìm đường sống. Và điều rất tại hại là một vị Tỳ Khưu nghĩ rằng mình còn khỏe, còn trẻ, còn nhiều thời gian . Hảy từ bỏ ý tưởng như vậy. Tâm là quan trọng nhất, hảy tập trung vào nó, đừøng vào nơi nào khác. Nó luôn hoạt động, cho nên lúc nào củng suy nghĩ , kiểm soát về những lời nói, hành vi, ý tưởng của mình. Xét xem kết quả của chúng sản sinh ra là gì . Chúng sinh ra pháp dược để chống lại độc tố của sự dững dưng, không từ bi, sự đam mê dục lạc, hay là nó sản sinh độc tố mới nuôi dưỡng những ảo ảnh, gây đau khổ, làm tăng thêm năng lực tái sinh trong vòng luân hồi. Bất cứ là gì, các ông phải xem sét kỷ lưỡng chi tiết hành vi của thân khẩu và ý. Nếu không các ông sẽ không gặp gì cả ngoại trừ sự thất bại ê chề , và không bao giờ có thể thoát khỏi nổi đau khổ của thế giới nầy.” Đó là cách đại đức đã trả lời lại đề nghị của một vị Tăng về việc yêu cầu ngài giảng rông cho dân chúng biết về những điều siêu hình, người thường không thấy. Đây là khả năng đặc biệt của ngài, biến một câu chuyện, đề tài thành một bài pháp. Có lẽ vị Tăng không đáng để trách như vậy, nhưng đó là cách chỉ dạy của đại đức. Theo tôi thì thường, nếu không có gì đặc biệt , thì ngài nói năng rất nhỏ nhẹ. Đặc biệt là lúc nói những điều ý nghĩ sâu xa, ngài nói nhẹ nhàng, dể chịu. Nếu có ai hỏi ngài , hay ngài nghe Tăng nói pháp một cách mơ hồ, hay cuộc trò chuyện làm ngài chú ý, thì pháp trong tâm ngài trổi dậy và phát khởi. Và bài pháp của ngài trở nên nóng bỏng và hấp dẩn lôi cuốn. Có lần , Đại đức và 3,4 vị tăng ở một cái hang động sâu trong rừng ở tỉnh Chiang Dao. Sau khi ở đó ba ngày. Đại đức nói với các vị Tăng là có một cái hang rất rộng rải thoáng mát, ở trên một ngọn núi cao hiểm trở, trong quá khứ đã có vài vị độc giác Phật tu tại đó. Nhưng nay thì không có Tăng nào ở vì đường lên quá dốc, phải trèo, và lại ở xa xóm làng không thể đi khất thực. Đại đức bảo các Tăng lên coi thử, và bảo Tăng phải nên mang theo thực phẩm. Các Tăng nghe theo, và cùng với vài người dân họ leo lên núi và quả thật thấy một cái động nằm gần đỉnh ngọn núi. Đúng như lờøi đại đức mô tả nơi đây thoáng mát, không khí trong lành và rất gợi cảm cho việc tu hành. Họ rất vui mừng với sự khám phá nầy. Họ muốn mãi mãi ở nơi đây, nhưng hết thực phẩm họ phải trở về nơi đại đức Mân ở. Đại đức hỏi :” Sao cái động đẹp quá phải không ? Ta thấy hình ảnh của nó trong lúc định. thấy nó quá đẹp nên bảo các sư đi xem. Ta chắc là các sư thích nó. Ban đầu ta không để ý mấy, nhưng vài ngày sau ta điều tra thì thấy cái hang mà các sư lên thăm được các địa thần luôn luôn canh gác bảo vệ. Lúc các sư đi, ta quên nhắc là phải nên cẩn thận trong các hành vi, vì nếu không hành xử đúng đắn theo cách của một vị Tỳ Khưu thì các địa thần sẻ không vui , và các sư sẻ bị rắc rối.” Các Tăng rất muốn lên đó ở, nhưng đại đức không cho phép vì không gần làng để có thể đi khất thực mà sống. Mặc dầu là ngài chưa bao giờ lên vì nó quá hiểm trở, nhưng Đại đức nói về cái động như ngài đã từng ở đó, ngài nói rất là tự tin vì tri thức qua định , không phải là ảo tưởng. Đại đức thường khuyên các tăng nên kiểm soát cử chỉ hành vi của mình, bỏi vì ở những nơi xa sôi hẻo lánh, thì các địa thần thích ngăn nắp, trật tự. Họ có lần nói vơi ngài rằng: ”Tăng thì chiếm một vị trí quan trọng, tôn kính trong tâm khảm của mọi loài chúng sanh. Do đó hành vi cử chỉ phải được kiểm soát , bảo vệ trong mọi lúc , ngay cả khi ngủ cũng phải hết sức thu thúc. Chúng tôi không thích các vị Tăng hành vi bừa bải , cẩu thả, cư xử giống như người thường , không cần biết hậu quả ra sao. Đặc biệt, hành xử phải tương xứng với địa vị tôn kính. Không phải là chủ đích của chúng tôi là phê bình. Trơi, Thần ở mọi nơi đều rất biết ơn khi có được cơ hội đề qui y , tiếp xúc vơi các vị Tăng mô phạm, gương mẩu. Bởi vì chúng tôi rất biết kính trọng đức hạnh và giáo pháp. Chúng tôi nói ra điều nầy để Thầy nhắc các Tăng luôn kiểm soát hành vi của mình sao cho trời người đều mến phục.” Để đáp ứng lời yêu cầu của các địa Thần, đại đức dặn bảo các Tăng phải sống ngăn nắp khi ở trong rừng núi. Các vậtdụng của Tỳ Khưu phải xếp ngay ngắn thứ tự, ngay cả miếng giẽ chùi chân cũng phải gắp gọn lại chớ không vất bừa bải, chất thành đống. Việc đi vệ sinh cũng phải ở một chổ nhất định, và rảnh hố đào vệ sinh cũng phải nghiên cứu suy xét kỹ . Đại đức không bao giờ cho làm chổ đi vệ sinh ở chổ mà các địa thần ở , hay đi ngang qua. -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 17th June 2025 - 01:40 AM |