IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Cuộc đời của ngài Achaan Mun, Thầy của ngài Achaan Chah
Diệu Minh
bài Dec 1 2011, 04:48 PM
Bài viết #1


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,057
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



LỜI TÁC GIẢ
Tiểu Sử của đại đức Mahn Bhūridatta mà các bạn sắp đọc là kết quả của một công
trình nghiên cứu lâu dài. Tôi đã tham khảo, đi gặp các vị đại đức đệ tử của ngài. Những
người đã từng sống chung với ngài.
Tôi đã góp nhặt, ghi lại và soạn ra thiên tiểu sử nầy. Tôi hoàn toàn không vừa ý khi
soạn bản tiểu sử nầy, vì thật là rẩt khó để cho các Sư , các vị đã từng sống tiếp xúc với
ngài diễn tả được hểt những kinh nghiệm sổng trong cuộc đời tu tập của ngài mà ngài đã
nói 1ại cho các vị đó nghe. Nhưng nếu tôi chờ có đầy đủ tẩt cả những chi tiết mà các vị đó
nhớ lại, thì không những e rằng thời gian sẻ làm chúng phai nhòa và mất đi, mà hi vọng
ghi chép lại tiểu Sử vể ngài cũng không thành tựu được.
Rẩt là khó, khi tôi phải cho hoàn thành một công việc mà mình chưa vừa ý, nhưng
hi vọng của tôi là tập tiểu sử nầy giúp ích được phần nào các đọc giả quan tâm đến Phật
giáo
Tôi cố gắng mô tả tất cả những hoạt động của ngài theo thứ tự thời gian, và theo lối
hành văn thuật lại đời sống của các vị Thánh Tăng như' đã được ghi trong các kinh
điển, đồng thời cố ghi lại những bài pháp mà ngài đã giảng cho các đệ tử, mục đích là cho
các thế hệ sau thấy tấm gương đạo hạnh của một bậc chân tu, người đã theo con đường
chỉ dạy của đức Phật. Và cho thấy khả năng chứng đạo có thể đạt được như mô tả trong
các kinh điển, nếu như có một sự gia sức, một sự nổ lực thành thật trong việc tu hành.
Xin các đọc giả tha lổi cho tôi nếu như cách trình bày không có gì thích hợp.
Tôi không như ý về tác phẩm nầy, nhưng vẩn xuất bản vì hi vọng các đọc giả Phật
giáo có thể tìm thấy một sự lợi lạc trong việc đọc lại cuộc đời của ngài, đại đức Mahn Bhūridatta.


Tỳ Khưu Mahā Bowa Ñāṇasampanno
Oct, 1971







NHÀ XUẤT BẢN GIỚI THIỆU

Chúng tôi hân hạnh được trình bày, nơi phụ tnương đặc biệt của tập san nầy, thiên
tiểu sử của cố đại đức thiền Sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, bình sanh là vị thiền Sư
nổi danh nhầt trong nước Thái, do một số các đệ tử đồng thời với ngài biên soạn. Tác giả
là đại đức thiền sư Phra Ācham Boowa Ñāṇasampanno, tịnh cư trong rừng chùa Bahn
Tard, thuộc tỉnh Udon , cách xa kinh đô Vọng Các (Thái Lan) lối 600 Km về phía đông
bắc.
Hiện nay có nhiều vị thiền sư trước đã tững là đệ tử của ngài, như đại đức thiền Sư
Phra Ācham Chah đã được nêu tên trong bản của ông Douglax M. Bums nhan đề : chương
trình và dự án thành lập Tăng già Mỹ . Đăng nơi trang 56 của tập san nầy, mặc dầu cố đại
đức thuộc về phái tiểu thừa cải cách, do đức vua Monkut lừng danh trên thế giới lập nên,
nhưng ngài có rất đông đệ tử thuộc cả hai phái, và đại đức thiền sư Phra Ācham Chah có
lẻ là vị đệ tử ưu tú trong phái đại thừa vậy. Quí bạn đọc thiên tiểu sử nầy, chắc thế nào
cũng quay lại bản kêu gọi kể trên của ông.
Như đã nêu trên trong số tân niên của chúng tôi, quyễn sách bằng chử Thái là một
đầu đề tranh luận, vừa bị đã đảo, vừa được hoan hô, giữa nhóm trí thức và nhóm bình dân,
giữa phái thượng lưu và phái hạ lưu, giữa hàng vương giả và hạng bần cùng và giữa chư
Tăng và các thiện tín. Như thế, không phải là vô cớ, bởi vì quyễn sách là một khuyến
khích lớn cho hàng Phật tử hành thiền thấy rằng : Ngày nay, đạo quả cũng vẩn còn giác
ngộ được, nhưng nó đòi hỏi những nổ lực thích ứng chân thành và mảnh liệt của những
bực tu hành già giặn và chính chắn.
Đối với những người chỉ thích lăn lóc trong vũng lẫy tuyệt vọng, một bản tuyên
ngôn như thế làm cho họ đau khổ vô cũng, và họ ném đá đả đão đại đức tác giả, lại còn
mẵng đại đức là kẻ khủng bố, là kẻ phá hoại Phật giáo nữa. Nhưng có vài người lắng tai
nghe bản thông điệp của đại đức, tin tưởng rằng nếu tự họ chưa già giặn đủ để giác ngộ
đạo quả ngay trong kiếp nầy, thì cũng có thể có những người khác đã đến trình độ đó.
Những người nầy sẳn lòng chịu lầm lạc, nếu quả thật họ lầm lạc, chỉ vì tin quá lố – như thế còn tốt hơn phạm nhằm đại tội Ariyūpavāda là mạ lỵ , hay hủy báng một vị thánh
thanh văn. Họ đặt tất cả niềm tin của họ trên cái sự kiện hiển nhiên là trong số những kẻ
chỉ trích Ngài (Phra Ācham Mahn Bhūridatta) Không ai có tài năng bằng ngài, hoặc bằng
phân nửa Ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh, thanh cao, giản dị và thanh
khiết. Ký thác đức tin của ta nơi một người sống một đời chơn chánh thánh thiện, thay vì
đặt ở nơi những người chỉ hứa giúp đở ngoài môi và còn thụ hưởng đủ thứ khoái cảm nhục
lạc, há chẳng đáng khuyên hơn, được lợi ích hơn, và cũng đúng với Phật pháp hơn sao?
Chúng ta tôn thờ và tin tưởng ngài, là người không bao giờ khao khát đệ tử, hoặc tìm cầu danh vọng, và làm gương cho bất luận pháp nào của ngài thuyết, há chẵng tốt đẹp nhiều hơn sao ?
Chúng tôi tin rằng tác phẩm sau đây sẻ được đón tiếp nồng hậu và sẻ bị chỉ trích
kịch liệt, bởi quần chúng độc giả đọc chử anh, không kém nồng hậu và kịch liệt hơn khi
còn nguyên văn chử Thái. Và chúng tôi kính cẩn Xin cầu chúc : Mong Sao cho những
người hằng miệt thị ngài (đại đức , hay cố đại đức ) cũng như những người hằng tôn kính
ngài đều có khả năng làm được như ngài, hoặc bằng phân nửa ngài, trong việc thực hiện
một đời sống phạm hạnh thanh cao và tinh khiết.
Thiên tiểu sử vạch rõ phương pháp tu hành và nếp sống linh động trình bày nơi
đây, chính là của cố Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, cung cấp bởi các đệ
tử đồng thời với cố đại đức, đả từng tu tập dưới sự hướng dẫn của ngài, trong những thời
kỳ khác nhau. Do đó sự chính xác của họ có thể tìn cậy được lắm, dẫu rằng theo lẽ đương
nhiên, chúng ta không thể biết chắc là mổi vị đệ tử của ngài có nhớ được từng lời giáo
huấn của ngài, và từng địa điểm, từng việc biến chuyễn trong đời ngài hay là không?
Nhưng nói đi rồi, còn nói lại, chúng ta không thể chờ đợi cho tới lúc sẻ thành tựu hoàn toàn mỹ mản, chúng ta càng trì hoãn , thì chắc là những chi tiết hay ho, hửu lý càng phai mờ trong ký ức của những đệ tử của ngàì. Và những thế hệ mai sau ắt là thiếu một tấm gương giá trị mà họ có thể soi chung. Vì xét thấy sự kiện nầy mà chúng tôi trình bày.
Thiên tiểu sử sau đây, hi vọng rằng thà còn ít còn hơn không có gì hết. Phương pháp trình bày nơi đây, noi theo gương các bậc soạn giả tiền bối đã ghi chép tiểu sử của các vị thánh Thanh Văn, trong nhiều bản kinh, với hi vọng lưu truyền những gương mẩu cho đoàn hậu tấn. Trong trường hợp, có điều gì bất nhả mà chính cố đại đức thiền sư đã tự thuật, thì soạn giả xin cáo lổi với quí độc giả, nơi đây. tác phẩm nầy được soạn ra với mục đích phụng sự những ai lưu tâm tới khía cạnh Phật gíáo.
Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, lúc bình sanh là vị thiền Sư danh
tiếng nhứt, được tất cả các đệ tử thân cận thật sự tôn kính. Qua các thời thuyết pháp nói
đạo và những lời chỉ dạy về Pháp cao siêu của ngài, nhóm đệ tử thân tín tự nhiên thấy rõ
là ngài hẳn đã chứng đắc quả vị nào rồi mới gây được cái ấn tượng sâu đậm trong tâm họ
ngay từ ban đầu, và về sau luôn luôn dùng để trắc nhiệm sự kiện nầy. Đệ tử của ngài gồm
đủ cả cư sĩ và Tỳ Khưu, có lẽ khắp trong nước Thái và luôn cả trong nước Lào, láng
giềng.
Lịch sử đời sống ngài thật là kỳ diệu, cả trong hai thời : khi còn là cư sĩ và lúc đả tu
Tỳ Khưa, từ ngày đầu cho tới ngày cuối. Nó không có chút tỳ vết bợn nhơ, nên dẩu cho
ngọc kim cương hoặc thứ trân bảo khác cũng không bì kịp sự hy hữa và tinh khiết của nó.


Tháng 6 âm lịch, 1974
(Sư Pháp Minh)







ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU

Tôi có duyên khi đọc được một phần bản thảo tiểu sử của ngài đại đức Mahn
Bhūridatta được viết tay trên cuốn vở học trò 100 trang của Cố Tỳ Khưu Pháp Minh.
Thiền Sư Pháp Minh là một vị Tỳ Khưu được nhiều người biết tới trong Phật Giáo Nam Tông ở VN, vì là bậc chân tu khả kính.
Thiển Sư Pháp Minh sanh năm 15-3-1918 tại làng phước Hải Huyện Long đất, Tỉnh
Bà rịa , Vũng Tàu. Thế danh là Nguyễn Văn Long con của cụ Nguyễn Văn Tài và bà
Phạm Thị Minh.
Xuất gia làm Sa Di vào năm 1965 tại chùa Phổ Minh, Gò Vấp, Gia Định vào ngày
7 thắng 2. Sau đó ngày 6-1-1968, ngài thọ đại giới Tỳ Khưu tại chùa Pháp Bảo ở Mỹ Tho.
Thầy Tế độ là Hòa Thượng Giới Nghiêm.
Năm 1968, ngài rời chùa Bửu Quang ở Gò Dưa, đến núi nhỏ ở Vũng Tàu tìm nơi
độc cư thiền định. Năm 1969 ngài trở lại về Tổ đình Bửu Quang để tiếp tục sự nghiệp tu
hành. Tháng 12 năm 1974, ngài theo lời thỉnh cầu của ban trị Sự Thích Ca Phật đài ở Vũng
Tàu tới đó để hoằng pháp. Năm 1975-76 ngài du hành xuống Tô Châu, Hà Tiên , Rạch
Giá.
Năm 1977 - 80, ngài trở lại Tổ Đình Bửu Quang để tu. Sau đó đến lúc mất ngài
sống hạnh độc cư, trì bình khất thực tại cốc Bình Thủy, gò Dưa , Thủ Đức. Và ngài an
nhiên thị tịch khi ngồi thiền định vào lúc 9 giờ ngày thứ tư, 27 tháng 1 năm 1993 (tức
mùng 5 tháng giêng, năm Quí Dậu)
Từ khi xuẩt gia ngài luôn thực hành pháp hạnh đầu đà khẩt thực, và nguyện không
nằm. Ngài giử hạnh tri túc, thường ít nhận tứ sự cúng dường của chư Tăng và Phật tử.
Ngài thông suốt nhiều ngoại ngữ như tiếng Pháp, Anh, Thái, Khơmer, Pali.
Ngài Soạn dịch nhiều kinh điển : như bộ chủ giải kinh Pháp cú, Sưu tập kệ Pali.
Trước tác nhiểu tác phẩm: Sổ tức quán thực tập, Lâm tuyển pháp, Cổng vào Niểt Bàn,
Chiển Sĩ thượng thặng, Ba cách làm phước, Việc tập tâm, Tứ oai nghi, Hạnh nguyện bồ
tát, Siêu pháp tiểt chế tình dục, Tùy bút pháp hành, Thiền luận, Kệ kinh Tam Bảo Pali, . .
Bản thảo tôi có được của cố thiền sư Pháp Minh do một người bạn đưa thì chỉ có
một phần, vì đây là quà tặng của cố thiền sư Pháp Minh cho thân sinh của vị đó – theo lời
vị đó nói. Nhân duyên đưa đẩy, nên tôi xin lược dịch tiếp từ bản tiếngAnh, để hoàn thành.
Tôi nghĩ cố đại đức thiền sư Pháp Minh khi dịch, thì ngài cũng là muốn cho đọc giả
thưởng thức một tác phẩm hay của Phật giáo.
Tôi hoàn thành tiếp việc lược dịch, những sai sót chắc là có là vì khả năng hạn hẹp
của tôi trong ngôn ngữ , xin người đọc tha thứ. Tôi cũng thành tâm xin sám hối nểu có
điều gì không phải thì do vô rninh không biết mà gây, chớ không chủ ý.
Nguyện xin Phật Pháp được trường tồn. Chúng Sinh an Iạc


Rocky Mountain
Thạch Sơn
2004


NHỮNG NĂM ĐẦU

Thầy Đại đức (Phra Acharn 1 ) Mahn Bhūridatta, sanh vào trong một gia đình Phật giáo vào thứ năm ngày 20 tháng 1 năm mùi, Phật lịch 2413 (năm 1870), tại làng Ban Khambong, quận KhongJiam thuộc tỉnh Ubon Ratchathani. Cha ngài là ông Khamduang, và mẹ ngài là bà Jun (Dung) họ Kaenkaew. Là anh cả trong 8 người con trong gia đình, tuy nhiên khi ngài khuất bóng thì chỉ có 2 người em còn sống mà thôi. Ngài là con đầu lòng, nhỏ thó , nước da trắng hồng. Ngài nhanh nhẹn và tráng kiện lại vừa thông minh, ngay từ thuở nhỏ. Đến năm 15 tuổi, ngài xuất gia tu Sa di , ở chùa làng Khambong. Nhờ ngài hâm mộ việc học hỏi Dhamma (pháp), cho nên không bao lâu ngài thuộc lầu những bài kinh của thầy ngài dạy. Tánh tình và hạnh kiểm của ngài củng đáng tín nhiệm, không bao giờ gây rắc rối cho bạn bè và bậc trưởng thượng.
Nhưng, hai năm sau khi xuất gia tu sa di, ngài phải hoàn tục, để đáp lại lời thỉnh cầu của cha ngài đang cần đến ngài phụ giúp trong gia đình. Nhưng nếp sống thanh bạch đã có ảnh hưởng xâu xa trong tâm hồn ngài. Ngài không bao giờ quên nó được. Cho nên ngài lập chí nguyện sớm muộn gì ngài cũng sẻ trở lại đường tu. Đây rất có thể là mảnh lực của một đức tin bất thối chuyển, hoặc Saddhā (chánh tín) đã được gắn chặt vào tâm tánh ngài.
Về sau, khi ngài 22 tuổi, tiếng gọi của đời tu phạm hạnh có vẻ thúc giục thiết tha. Ngài bèn cáo biệt song thân. Hai ông bà cũng sẳn lòng chấp thuận và sốt sắng lo liệu việc ngài xuất gia tu lên Tỳ Khưu. Hai ông bà thỏa thích chuẩn bị nhu dụng của Tỳ Khưu cho ngài, rối đưa ngài đi xuất gia tại chùa Liap trong thành phố của tỉnh Ubon Ratchathani. Có đại đức Phra Ariyakawi là thầy tế độ (Upajjhāya), đại đức Pha Khru Sitha là thầy Kiết ma ( Kammavācariya), và đại đức Phra Khru Prajuk Ubonkhun là thầy chỉ dẩn (anusāsanācariya) vào ngày 12 tháng 6 dương lịch (năm 2436 Phật lịch). Sau lể xuất gia, ngài có pháp danh là Tỳ khưu Bhūridatta 2. Xuất gia rồi ngài chăm lo học thiền Minh sát ( Vipassanā) với đại đức Sao 3 tại chùa Liap.


ĐIỀM MỘNG TIÊN TRI

Lúc mới khởi sự hành thiền minh sát với Thầy đại đức Sao, ngài Bhūridatta đã chọn pháp môn niệm Phật làm đề mục thiền quán mà ngài thích nhất. Ban đầu, không đem đến cho ngài sự tịnh lạc, an vui theo ý nguyện khiến cho lắm lúc ngài hoài nghi giá trị của nó. Nhưng ngài bền chí gia công niệm mãi, và cuối cùng, ngài đã đạt được một độ nhất tâm và hưởng được sự an vui tịnh lạc quá sức hy vọng của ngài.
Thế rồi, một đêm nọ, ngài nằm chiêm bao: Ngài mơ thấy mình đi ra khỏi cổng làng, băng ngang một khu rừng rậm, có nhiều chổ cây cối mọc chi chít, chằng chịt, không chừa một lối đi. Nhưng ngài ráng sức vượt qua tất cả chướng ngại và sau cùng thoát ra khỏi khu rừng, để thấy một cánh đồng không mông quạnh, thẳng tắp tới tận chân trời, ngài lại tiếp tục cuộc hành trình với những nổ lực không ngừng.


1. Phra Acharn : Thầy đại đức ; tiếng Thái, dùng để tôn kính gọi Tăng
2. Bhūridatta : (có nghĩa là nhiều trí tuệ) là tên của vị Bồ tát, tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thực hành hạnh Ba la mật. Vì bồ tát muốn thoát kiếp làm rồng nên lên nhân gian thực hành tu bát quan trai giới, và tu thập thiện giới. Và Ngài đã phát nguyện rằng: "Kẻ nào mong được da, thịt, máu và xương trong thân thể ta, thì tùy sở thích". Do đó, tuy bị thầy rắn làm khổ sở đau đớn, nhưng thay vì dùng oai lực thần thông của mình để bảo vệ mình Ngài lại chấp nhận mọi sự khổ đau để giử lời nguyện, và thực hành được xâu xa pháp nhẩn nhục Ba la mật (Khanti pāramī).
3. Thầy Đại đức Sao Kantasīlo (1859-1942) : là người sanh ở tỉnh Ubon Ratchathani. Là vị thầy hướng dẩn giới thiệu ngài pháp tu thiền đề mục hay thiền nghiệp xứ (kamma-ţţhāna):
Dọc đường, ngài gặp một cây đại thọ nằm chắn ngang lối đi. Cây nầy thổ ngử Thái gọi là Jāt 4 (hay cây Sanh). Thân cây rất to lớn, bị hạ đã nhiều năm qua, hiện còn nằm lún dưới đất một phần, vỏ và ruột đã mục nát hiện rõ nên ngoài. Ngài bèn trèo lên đi trên thân cây mục ấy, và quán sát thấy rỏ là nó đã hết phương mọc lại được nữa rồi. Khi ấy, ngài biết rằng sự sanh của ngài trong vòng tử sanh sẻ phải chấm dứt. Thân cây Jāti (sanh) ngã nằm đây ngài xem như những kiếp sanh của ngài trong vòng luân hồi. Thân cây đã hết phương mọc được tượng trưng cho sự sanh của ngài lần này sè là lần cuối, nếu ngài kiên tâm nổ lực không ngừng. Còn cánh đồng bao la, rộng khắp bốn phương trời, tượng trưng cho cái vòng tử sanh bất tận.
Ngài còn đang đứng trầm ngâm quán sát những nghĩa lý nầy thì bổng hiện ra một con ngựa kim màu trắng to lớn đi về phía ngài và đứng bên thân cây sanh. Tự nhiên ngài mong muốn cỡi nó. thế là ngài lên ngựa, và nó tức khắc phi nước đại chạy đi. Ngài không có ý quyết định đi đâu hoặc làm gì cả, chỉ biết là mình đã đi được một quãng đường rất xa, trong cánh đồng mênh mông vô cùng tận. Trên đường, ngài nhìn thấy một cái tủ lộng lẩy chạm bạc công phu trong có chứa một bộ Tam tạng kinh. Dường như chiều theo ý ngài, con ngựa đưa ngài đến trước tủ đựng Kinh. Ngài xuống ngựa với mục đích là mở cửa tủ Kinh, thì lập tức con ngựa biến mất. khi ngài bước tới thì lại thấy chổ đang đứng là bìa một khu rừng rậm hoang vu, mịt mù khói tỏa, đầy gai góc, lùm bụi xoắn chặt nhau không thấy lối đi. Khi ấy ngài định mở cửa tủ Kinh để xem thì ngài thức dậy.
Điềm tâm ảnh (Nimitta) nầy khiến cho ngài tin chắc rằng ngài sẻ có thể đạt đạo, chứng quả trong hiện kiếp, nếu như ngài không bỏ dở dang những nổ lực của ngài. Từ đó trở đi ngài càng tinh chuyên trì niệm danh hiệu Phật trong mọi lúc.
Đồng thời ngài nghiêm trì những hạnh đầu đà mà ngài chấp thọ từ lúc thọ Tỳ Khưu, nghiêm chỉnh thực hành cho đến lúc mất.
Đó là những hạnh :1.Mặc y phấn tảo, từ chối những y dâng đến tận tay _ 2. Đi bát hằng ngày không sót, trừ những ngày phát nguyện nhịn ăn _ 3. Không thọ vật thực đem đến sau _4. Chỉ thọ vật thực để trong bát khi ngài đi trì bình _5.Mổi ngày chỉ ăn một bửa, và độ trong bát _6. Chỉ mặc Tam y – ngài có dùng khăn mặt (dùng để lau thân mà đó là điều cần thiết trong thời đại nầy _7. Ngụ trong rừng, có nghĩa sống và ngủ trong rừng hay nơi hoang dã trong hang núi, hoặc dưới hòn đá cheo leo (trừ ra khi có người thỉnh ngài vào tỉnh thành trong một thời gian ngắn).
Ngoài ra đôi lúc khi ngài có thể ngài cũng thọ thêm những hạnh khác trong 13 hạnh đầu đà. Tuy nhiên trong suốt cuộc đời ngài đã nghiêm trì 7 hạnh đầu đà trên và đó trở thành nhân cách sinh hoạt thường ngày, và khó có thể tìm được người như vậy.
Ngài luôn lôn kiên trì và quả quyết không bao giờ đổi ý trong bất cứ việc gì mà ngài đã quan tâm nghĩ tới, dầu là pháp hành bên ngoài (hạnh đầu đà , v. v..) hoặc hoạt động nội tâm (Minh sát).
Đời sống của ngài là sự hoàn toàn dùng cho mục đích giải thoát, với những nổ lực xả ly liên tục trong việc tiêu trừ phiền não bên trong. Có rất ít dịp may cho tánh cống cao ngã mạn lẻn được vào tâm trí ngài, mặc dầu thật tế , lúc bấy giờ ngài vẩn còn là hạng phàm phu như bao nhiêu người khác. Nhưng , ngài khác hẳn họ ở chổ : thay vì để tâm bay nhảy tự do, bị phiền não sai sử thì ngài thường trực ở trong tỉnh thức, phòng ngừa các thứ phiền não, và luôn khởi chiến và tấn công nó một cách can đảm. Điều nầy, về sau , ngài có thuật lại chúng tôi mới biết.
Sau đó khi tâm ngài đã được thiết lập vững vàng, tiện dụng cho việc suy tư quán xét, ngài mới hồi tưởng đến điềm chiêm bao khi trước và dần dần hiểu rõ : nếp sống của một gia chủ, là nơi tụ tập của tất cả mọi thứ khổ, giống như khu rừng già là nơi chứa chấp mọi thứ tai nạn. Trái lại , nếp sống phạm hạnh tu theo pháp Phật , chuyễn hóa tâm thức khỏi thế giới độc hại hiểm nguy tới một khoảng không bao la là cảnh giới của sự an lạc, thoát khỏi những sợ hải, đau khổ .


4. Tương tự trong tiếng Pali là Jati nghĩa là sanh, (gồm luôn sự chết )
Còn con bạch mã cao lớn ngài cỡi chính là đường lối tu theo pháp Phật, là đường đạo giải thoát, nhờ nó mà đưa ngài đến nơi tự tại. Và khi gặp tủ bạc chạm trổ công phu, chứa Tam tạng kinh mà chỉ có thể nhìn, vì lẽ ngài còn bất toàn, nên chưa đủ khả năng học hiểu trọn cả bộ Tam Tạng, do đó ngài không thông suốt về mặt văn hóa của Phật giáo, như vậy ngài không trọn vẹn đạt tuệ thuộc về bốn loại đó là : 4 vô ngại biện tài 5 , cần thiết cho một vị pháp sư biện tài vô ngại, thông suốt nghĩa lý và phương pháp giáo hóa, có trí tuệ cao sâu như trời biển, khả dĩ làm thầy của tất cả chúng sanh trong tam giới 6. Theo lời ngài, thì ngài chưa đầy đủ pháp ba la mật để đạt được mục đích nầy, và đó là lý do khiến cho ngài chỉ được nhìn bên ngoài tủ kinh Tam tạng chứ không mở đọc thông suốt toàn bộ giáo lý bên trong. Ngài tiếp lời rằng : ”Khả năng dạy dỗ người khác của ngài chỉ có thể xem như là sơ đẳng hoặc nhập môn để chuyển tiếp tới những pháp tu cao hơn “. Về sự kiện nầy dầu cho nó hiển nhiên chăng nữa, thì đối với các đệ tử thân tín đã được học hỏi, và tu hành dưới sự hướng dẩn của ngài, thì có một việc rõ ràng là mổi đề tài giảng đạo, thuyết pháp của ngài đều phi thường và cảm kích làm sao, thật không thể dùng lời nào mà tả cho xiết ! Ở thời đại mới, người ta biết tìm đâu ra một lối giảng dạy Dhamma ăn sâu vào tâm thức mà không bao giờ quên được ?
LINH ẢNH TRONG THIỀN ĐỊNH

Trong thời gian ngài đang tham thiền, với đề mục niệm Phật (Buddho) ở tại chùa Liap. có một hôm tâm ngài lắng dịu và một linh ảnh hiện ra : trước mặt ngài, một tử thi thúi rục, sình chương, bị những con thú ăn dơ như là kên kên, quạ và chó tranh nhau sâu xé . .. và không bao lâu, tử thi ấy bị rứt ra từng mảnh, rải đi khắp cả mặt đất chung quanh, thấy vậy ngài xúc động mảnh liệt, vừa nhờm gớm, vừa mõi mệt. Sau khi tâm ngài rút ra khỏi từng thiền, ngài kềm giử cái linh ảnh trong tuệ nhản của ngài làm đề mục chánh trong mọi lúc cả ngày lẩn đêm, trong bốn oai nghi : đi, đứng, nằm, ngồi . Ngài tiếp tục quán tưởng cho đến một ngày kia, hình ảnh tử thi đó biến thành ra một cái đĩa tròn trong suốt lơ lững trước mặt, quán cái đĩa nầy lâu thì thấy hiện ra đủ thứ cảnh vật khác nhau, những hình ảnh không ngớt thay đổi liền liền, chắc là kết quả của tánh hiếu kỳ của ngài đang khao khát muốn coi thử cái gì sẻ tiếp theo. Có lúc, hình như ngài đang trèo lên những hòn núi cao, kế đó ngài lại thấy mình cầm một thanh kiếm và mang một đôi hia, rồi đi bách bộ trên núi, một lúc khác, trước mặt ngài bổng hiện ra một bức tường cao lớn có một cánh cửa, ngài mở cửa ra nhìn thấy một vài vị Tỳ Khưu đang tham thiền phía bên trong.
Kế đó, phong cảnh mở rộng ra cho thấy những sườn núi cheo leo và hang đá gần đâu đó, trong vài cái hang lại có đạo sĩ ẩn cư. Lại một lúc khác nữa, ngài thấy món đồ giống như cái nôi hoặc cái thúng từ sườn núi thòng xuống.


5. Catu Paţisambhidā : Bốn tuệ vô ngại biện tài: 1. Biện tài về nghĩa ( attha-Paţisambhidā) trí về nghĩa: là biện tài giảng dạy minh bạch một giáo lý vắn tắt, có khả năng dự đoán tiên tri những hậu quả, quán thấy chuyện vị lai. Ngài Ca Chiên Diên (Katyayāna) là vị đệ nhất về nghĩa đế. 2. Biện tài về pháp (Dhamma-Patisambhida) trí biết về pháp: là khả năng ngược lại biện tài về nghĩa, có khả năng tóm gọm những chi tiết phức tạp, và mô tả dài dòng, để cho dễ nhắc sơ qua và ghi nhớ, quán thấy chuyện quá khứ. 3.Biện tài về ngôn từ (Nirutti- Paţisambhidā) trí biết về tất cả ngôn ngử , văn tự để trình bày pháp và nghĩa 4. Biện tài về trí (Paṭibhāna- Paţisambhidā) trí biết về các loại trí hoặc biện thuyết vô ngại: là thông suốt cách trình bày và giảng thuyết cho thích ứng với mọi trường hợp.biết áp dụng các phương tiện thiện xảo cho từng trường hợp. có khả năng giải quyết ổn thỏa một tình trạng khủng hoảng hay biến cố bất ngờ.
6. Tam giới : Là ba cõi sinh tữ : 1. Dục (có nam nữ dâm dục), 2. Sắc (không có nam nữ , tâm của chúng sanh nhập định hữu sắc, nghĩa là đề mục thiển định là vật hữu hình) và 3. Vô Sắc giới (không có sắc thân chỉ có thần thức, tâm của những chúng sanh đã nhập định vô sắc : nghĩa là đề mục không phải là vật hữu hình).
Ngài thấy mình bước vào trong cái thúng ấy và được nhấc lên khỏi vực thẳm để thấy một chiếc thuyền to trên đó, trong thuyền có cái bàn vuông. Khi ấy, hòn núi bật sáng lên vì có ánh sáng phía sau nó. Và sao đó ngài lại thấy mình độ cơm trên đỉnh núi đó nữa. Đó là cách phong cảnh đổi thay biến hiện liền liền trước mặt ngài, như phim chớp bóng, chứ không dẩn ngài tới đâu cả.
Ròng rả ba tháng trường, cứ hể ngồi thiền nhập định là ngài toàn thấy những cảnh tượng không đâu ra đâu, biến hiện không ngừng, không biết đến bao giờ mới dứt. Còn kết quả nội tâm thì chẳng có chi đích đáng cả. Sau những thời tọa thiền kiểu đó, thì tâm ngài trở nên xúc động mạnh đối với hình ảnh và âm thanh bên ngoài. Khiến cho ngài khi vui, khi buồn khi thì thích điều nầy, khi thì ghét điều kia. Hiển nhiên là ngài không thể giử được tâm bình đẳng, điềm tĩnh bằng cách ấy.
Bấy giờ ngài tĩnh ngộ, tin chắc rằng đó không phải là chánh đạo đưa đến giải thoát. Nếu nó đúng thì tại sao không thể kiên định giử được trạng thái an nhiên, tự tại của tâm. Ngược lại tâm ngài lại bị phân tán, dao động trước những sắc bên ngoài mà tâm tiếp xúc – cũng giống như người bình thường không có tu tập gì cả . Rồi ngài kết luật rằng : “chắc chắn là việc săn đuổi, hoặc sự chú tâm hướng theo cảnh bên ngoài, là nghịch với nguyên tắc hành thiền, đoạt mất sự an lạc bên trong do hành thiền mang lại”.


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
Diệu Minh
bài Dec 1 2011, 04:59 PM
Bài viết #2


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,057
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



TIỀN KIẾP

Khi ở Udon Thani, cũng như ở những nơi khác, dân chúng và các Tăng sĩ thường tìm đến gặp ngài hỏi pháp. Có những câu hỏi giống những câu hỏi trước mà đại đức gặp, nhưng cũng có những câu hỏi khác thường ở một số cá nhân. Trong số đó có những câu hỏi liên quan tới tiền kiếp. Liên quan tới việc những người đã tu tập nhiều kiếp trước, và cách nào những đặc tính đó di truyền cho tới đời nay. những câu hỏi về tiền kiếp của đờøi sống vợ chồng, con cái. Đại đức nói rất nhiều người gặp ngài để hỏi về vần đề này.
Đại đức không trả lời chi tiết mà chỉ nói một cách tổng quát khi người ta hỏi ngài vế các vấn đề này. Ngài trả lời câu hỏi liên quan tới việc kiếp trước tu :”Chuyện như vậy thì phải bắt nguồn với sự thiết lập của ý chí chủ đích. Cái ý chí đó quyết định cách sống của những cá nhân nào đó trở nên liên quan với nhau”
Vế vần đề liên quan tới nhân duyên của vợ chồng, phải chăng trước đó đã có tình thương nên kiếp này làm vợ chồng, thì ngài trả lời:” Thật khó mà xác định chắc chắn tình thương yêu của chúng ta đối với người này, hay quan hệ đối với người khác bắt nguồn từ cái rể thương nhau lâu đời trong nhiều kiếp trước. Phần lớn thì con người ta thương nhau và lập gia đình một cách mù quáng. Khi đói thì người ta thường có khuynh hướng tìm kiếm ăn cái gì cho đỡ cơn đói. Họ ăn bất cứ cái gì mà ăn được cho qua cơn đói. Cũng có thể áp dụng nguyên lý nầy cho mối quan hệ kiếp trước với nhau. Mối quan hệ nầy thì thông thường trên thế gian, nhưng không dễ tìm trường hợp chân thật là hai người gặp nhau , thương yêu nhau và lập gia đình vì trước đó đã thương yên nhau, đã có mối quan hệ dài lâu đó trong nhiều kiếp rồi. Vấn đề là phiền não làm cho người ta yêu nhau, và chắc chúng không chờ những mối quan hệ thương nhau từ kiếp trước mở lời. Phiền não thì không cần gì mà chỉ cần một người khác phái thích ứng với sự tưởng tượng của nó. Những phiền não nầy làm cho người ta thương nhau, và biến người ta trờ thành những kẻ “đánh nhau” . Họ tranh giành, đấu tranh làm khổ lẩn nhau. Ngay cả khi họ thấy lổi của mình, họ cũng không chấp nhận . Đây là những phiền não làm cho người ta thương yêu nhau.
Ai mà muốn làm người biết điều, có trách nhiệm thì đừng cho loại phiền não nầy dẩn dắt. Phải rèn luyện tính tự chủ. Cho dù anh không biết gì về mối quan hệï kiếp trước, anh cũng vẩn phải có phương tiện để kiềm chế . Trừ phi anh có một trình độ thiền khá vững chắc và có khiếu để biết các hiện tượng thì rất khó mà xửû đoán các tri thức về tiền kiếp. Lúc nào cũng phải nên tự chủ kiểm soát đừøng để nó tràn bờ cuốn trôi đi vào cái vũng lầy yêu thương thả lõng.”
Người hỏi:”Khi hai vợ chồng đời này rất thương yêu nhau, cả hai đều muốn kiếp sau nầy lại làm vợ chồng, như vậy cái nguyện ước của cả hai nầy có thể bảo đảm cho cả hai ở đời sau gặp lại đề thành vợ chồng không ?”
Trả lời:”Ước muốn thì chỉ tạo ra viển tưởng thành ý nguyện. Nếu mong muốn mà không kèm theo hành động thích hợp thì cũng không mang lại kết quả. Thí dụ như một anh muốn giàu, nhưng lại làm biếng không chịu đi làm việc, thì cũng không bao giờø giàu, dù cho anh ta rất mong muốn. Cũng như vậy đối với một cặp vợ chồng họ muốn giữ mối quan hệ hạnh phúc như vậy cho tới kiếp sau thì họ phải có cùng một quan điểm , phải trung thành với nhau. Không lợi dụng lẩn nhau vì điều nầy phá vở mối quan hệ tương đồng, gây sự bất mản. Họ cũng phải cư xử thích hợp, tính tình vui vẽ hài hòa, tin tưởng lẩn nhau, và cố gắng làm những gì mà có lợi cho việc gìn giử mối quan hệ bền chặc, gắn bó. Thì họ có thể thành ước nguyện vì nó nằm trong quyền hạn của họ. Nếu không thì chẵng thể được. Nếu một trong hai người tương phản, như người chồng làm xấu, người vợ làm tốt, hay một trong hai người chỉ làm những gì mình thích thì cho dù họ nguyện ước cả trăm lần thì cũng không được.
Thế anh có ước là đời sau được sống chung lại với vợ không, hơn các điều ước muốn khác không ?”
Người hỏi:”Con không ước muốn điều gì hơn ? Tiền bạc, danh vọng, địa vị, hay thành quả tâm linh thì không có nghĩa gì nếu mà không có vợ con ở bên cạnh. Là tình yêu thực sự . Đó là điều ai cũng muốn. Nên con muốn có người vợ chân thật trước khi muốn các điều khác. Chính vì vậy mà con hỏi Thầy câu hỏi nầy. Lúc đầu con cũng e dè, và sợ thầy la. Nhưng đó là sự thật trên thế gian, nhưng mọi người mắc cỡ không ai muốn nói.”
Đại đức Mân:”Trong trường hợp nầy thì anh lúc nào cũng mang vợ đi theo, phải không ?”
Người hỏi:”Con thật sự xấu hổ khi nói ra vì quan tâm tới vợ mà con không thể đi tu được. Con sợ vợ con buồn đơn độc một mình không ai an ủi. Các con thì cũng chỉ làm phiền vợ con vì chúng chỉ muốn tiền. con không thấy chúng để cho vợ con yên. Con thì luôn lo lắng về vợ con.
Có một điều con không hiểu, là Pháp dạy rằng có những cỏi trời, trên đó có trời nam trời nữ. Giống như thế gian. Họ hưởng các lạc thú, đời sống rất là sung sướng, nghe có vẽ rất muốn tới. Nhưng ở cõi phạm thiên thì không có gì phân biệt giữa nam và nữ . Chắc ở đó buồn tẽ, con muốn nói là không có ai để an ủi khi mà buồn. Còn Niết Bàn thì tệ hơn , không có quan hệ với ai. Cái gì cũng tự mình. Không nhờ ai cả. Những người ở Niết Bàn họ không hảnh diện hay được các người ở đó khen hay đề cao hay sao? Ở thế gian thì những ai có tiền và địa vị thì được người khác khen , trọng vọng. Điều ấy làm con nghĩ ở những nơi tĩnh lặng như vậy làm sao có hạnh phúc thật sự. Xin Thầy tha lổi cho con câu hỏi điên khùng, dị hợm nầy. Nhưng trừ phi con tìm ra người có thể trả lới câu hỏi nầy, nếu không thì con đến chết cũng còn nghi hoặc.”
Đại đức Mân:”Cỏi trời, cỏi phạm thiên hay Niết Bàn không dành cho những người hoài nghi như anh. Mà chúng dành cho những ai giác ngộ được giá trị thật bên trong mình. Chì có những người như vậy mới hiểu rõ giá trị của các cỏi trời, các cỏi phạm thiên và Niết Bàn . Bởi vì họ hiểu rằng mổi tầng đi lên như vậy đều liên quan tới công đức tu tập. Còn như anh thì khó mà mơ tưởng có được những cảnh giới đó . Giả sử như có muốn đi thì anh cũng không thể đi được vì còn vợ. Nếu vợ chết, thì có lẽ anh than khóc hoài muốn gặp vợ lại chẳng có ước muốn về cõi trời. Tình thương yêu của anh đối với vợ, các Trời Phạm thiên, hay những người ở Niết Bàn cũng không tranh lại. Họ không thể săn sóc cho anh như vợ anh làm được. Do đó anh không muốn đi vì anh sợ không có ai săn sóc, cho anh những cái anh cần như vợ anh được.”
Khi nói xong thì cả hai, đại đức Mân và người hỏi đều cười lớn tiếng. Ngài tiếp:
“Ngay cả những điều gọi là hạnh phúc, sung sướng ở trên thế gian cũng tùy thuộâc theo quan điểm của mổi người. Cũng như các thứ mà các giác quan trên thân nhận thức các xúc khác nhau. thí dụ như mắt thì thích hình dáng. Tai thì thích âm thanh, mủi thì thích mùi, lưởi thì thích vị, thân thì thích xúc chạm còn ý thì thích các ý tưởng. Chúng không mong có chung một sở thích. Có những vui thích ở thế gian, có những loại vui thích ở cõi trời, những loại vui thích ở cõi Phạm thiên. Và có những “vui thú” mà người người Niết Bàn kinh nghiệm, cái sướng hạnh phúc của họ thì hoàn toàn khác cái sung sướng của những người còn phiền não.
Thế anh thích sống với vợ thì tại sao phải thấy , nghe những thứ khác. Tại sao phải ăn, ngủ, hay tạo phước, giử giới, ngồi thiền. Anh chỉ cần sống bên vợ chỉ cần cái hạnh phúc đó là đủ cần gì các thứ hạnh phúc khác. Như vậy thì không phải lo hay bận tâm. Thế anh có làm được không ?”
Người hỏi :”Ồ, Không được thưa thầy. làm sao có thể được, Vậy còn những lúc cải nhau với vợ , làm sao con có thể hoàn toàn phụ thuộc vào vợ. Điều đó làm cuộc sống con rắc rối thêm.”
Đại đức nói vị cư sĩ nầy liều và thẳng thắn, rất muốn làm người tốt. Anh ta rất thương vợ con, và cũng rất kính mến đại đức. Rất thường đi chùa, khi gặp đại đức tiếp khách thì đứng ngoài đảnh lễ rồi đi giúp các tăng làm việc lặt vặt. Nếu khi thấy đại đức một mình thì hay thăm và đặt câu hỏi. Đại đức cũng từ bi tốt bụng trả lời.
Trong thời gian đại đức ở chùa Non Niwer, nhiều người tới thăm và học hỏi. Thời đó thì cảnh chùa Non Niwer không ồn ào, ít người tới viếng thăm. Phần lớn họ tới đều muốn tạo công đức và học hỏi để tu. Đại đức thường hay giảng pháp cho Tăng vào buổi chiều, bắt đầu ngài giảng đại cương về giới luật, sau đó tới định và Tuệ. Và các thứ lớp của tiến trình tu, từ thấp cho tới giác ngộ hoàn toàn. Cách thức tu tập và chi tiết từng trình độ tu.
“ Chỉ có vị Tăng nào chắc trong giới, tôn kính tất cả giới luật mới có thể chính thức là một vị Tỳ Khưu. Người đó không phạm những giới nhỏ vì cho rằng chúng không quan trọng. Sự phúng túng như vậy chứng tõ người đó không xấu hổ về các điều đồi bại, mà có thể dẩn tới phạm các lổi nặng hơn. Vị Tỳ Khưu phải nghiêm ngặt theo đúng giơí luật và bảo đảm hành vi đạo đức của mình không bị rách, thủng. Được như vậy thì vị Tỳ Khưu sẻ cảm thấy an ổn, tự tin mà sống trong Tăng đoàn. Vị đó không bao giờ phải lo âu, bất an vì thầy hay vị Tăng khác phê bình hay chỉ trích. Hảy làm một vị Tỳ Khưu bên trong để đi tới hoàn hảo. Từ Tu Đà Hoàn 26 thăng tiến tới A La Hán. Các ông phải luôn sẳn sàng và hăng say trong nổ lực để đạt được các giai đoạn thứ lớp của định và tuệ. Nếu các ông kiên nhẩn trong cách nầy thì những khả năng nầy sẻ phát khởi và phát triển cho đến lúc các ông có thể dùng chúng mà tẩy trừ tất cả các cấu uế trong tâm.
Lời nói và việc làm của một vị Tỳ Khưu phải trên hết mọi chỉ trích. Tâm vị đó phải hoàn toàn xuất sắc dựa theo các phẩm chất của pháp mà vị đó lần lượt phát triển : Định , tuệ, giải thoát và hoàn toàn giác ngộ giải thoát. Một vị Tăng không bao giờ sầu thảm, buồn. Không bao giờ trông có vẻ không đúng đắn, và xa lánh các bạn đồng tu vì mặc cảm tội lổi đang ăn dần bên trong, làm tâm bất an. Đây thì trái ngược với cách của Đức Thế Tôn, cách hành xử bên trong cũng như bên ngoài đều hoàn hảo, không ai chỉ trích được.
Theo chân đức Phật, một vị Tỳ Khưu phải tập trung lòng quả cảm cương quyết chỉ làm các hạnh lành , từ bỏ các việc xấu. Phải là người chánh trực, chân thật với chính mình và các bạn đồng tu. Do đó người đó sẽ được giúp đõ khi ở bất cứ nơi nào vì sự mẩu mực. Áng sáng của chánh niệm và tuệ sẽ dẩn đường , và trong khi đó tâm sẻ thấm nhuần pháp vị. Người đó sẻ không thấy mình bị mắc bẩy bởi ảo tưởng mà không thấy lối ra. Đó là những đặc tính vốn gắn liền với người Phật tử. Hảy học kỷ và ghi nhớ. Bám sát theo chúng như là cơ bản cho một tương lai sáng lạng và an ổn. để rồi chúng thật sự là của mình.”
Đó là những gì đại đức Mân thường dạy các đệ tử
Những ai có nghi ngờ thì có thể gặp đại đức vào những giờ thuận tiện không xáo trộn thời khoá của ngài. Trong khi ở chùa Non Niwer thì thời khóa mà ngài tuân thủ hầu như không bao giờ lơi lõng như sau:. Rời khỏi sàng thiền vào sáng sớm, thì ngài đi kinh hành ở ngoài cốc của ngài cho tới giờ đi khất thực. Sau khi đi bát ở trong làng và ăn xong bửa thì đại đức lại đi kinh hành cho tới. Sau đó nghĩ , lúc nghĩ thì ngài ngồi định khoảng một lúc, xong lại đi kinh hành cho tới 4 giờ chiều.
Sau đó ngài quét dọn khu vực chung quanh ngài ở, rồi đi tắm và lại đi kinh hành trong nhiều giờ . Khi rời khỏi đường đi kinh hành thì ngài vô cốc đọc kinh hàng giờ, rồi mới ngồi định hàng giờ cho tới nửa đêm. Đại đức thì ngủ không quá 4 tiếng. Có nhiều lúc ngài ngồi định cho tơi sáng. Lúc trẻ thì ngài rất tinh tấn mà không ai sánh bằng, giờ già thì ngài hơi thả lỏng một chút vì sức khẻo ngày càng giảm. Tuy nhiên ngài khác chúng ta là trí ngài rất sắc bén , không có lộ vẽ chút gì già nua cả. Sự khác biệt giữa ngài và chúng ta là ở mức độ của sự tinh tấn và lòng quyết định kiên quyết mà ngài áp dụng trong việc truy đuổi trí và tuệ. Một nổ lực chắc chắn trong 4 Như y túc : Dục , Cần, Tâm và Quán. Khi nhân khác nhau thì quả cũng khác nhau.


26. Tu Đà Hoàn (Sotāpađđa) : người đạt được quả vị đầu tiên trong 4 thánh quả, người đã có chánh kiến.
Cuộc đời ngài là một tâm gương sáng, xứng đáng cho loài người tôn kính. Thật là điều bất hạnh, vì có rất nhiều Phật tử thật tâm cầu đạo nhưng không bao giờ biết và gặp được ngài. Có lẻ là vì ngài không thích ở chốn đông người, chỉ thích sống trong rừng núi. Ngay cả những vị tăng thành tâm tu đạo cũng gặp rất nhiều khó khăn để có cơ hội gần gũi vơi ngài. Vì thời đó đường xá đi lại khó khăn, lại không có xe cộ như giờ. Muốn đi tới nơi phải đi bộ nhiều ngày trời, có khi cả hàng tuần, cho nên những ai không quen đi du hành thì khó mà thực hiện được. Có những vị vì không thích hợp với lối giáo dục nghiêm khắc của ngài, hoặc có những vị sợ thức ăn không đủ và các thứ cần thiết cho đời sống không đủ , hoặc là vì không thể ăn được một bửa cho nên họ không có cơ hội sống và học ở ngài, mặc dầu họ thực tâm tu hành. Họ chỉ nhận ra được con người phi thường của ngài khi ngài đã mất, khi danh tiếng của ngài được lan truyền khắp mọi nơi.
Đại đức Mân là một vị A La Hán trong thời cận đại, ngài mất vào ngày 10 tháng 11 năm 1949. Câu chuyện về cái chết của ngài sẻ đề cập ở phần sau. Ngài đã sanh thì phải chết. Cái tồn tại không thay đổi là cái phi thường, kỳ diệu của sự Từ bi, Trí truệ và sự Giải thoát của đức Phật, mà được trân trọng cất giử trong giáo pháp của ngài để lại, và theo đó mà các vị A La hán đã hành trì và cũng đạt được những phẩm chất cao quí đó. Do đó những người như chúng ta cũng phải nên thành tâm đi theo con đường của Phật đãû chỉ bày, và mức độ thành công là tùy theo mức độ thời gian và công sức của chúng ta hành trì. Không gắng sức làm, thì sẻ không có kết quả.


NHỮNG NĂM CUỐI

Khi rời Chiang Mai tới tỉnh UdonThani, thì đại đức trải qua 2 mùa an cư ở chùa Non Niwer.
Sau mùa thứ hai thì đại đức Khun Mae Num Chuwanon ở tỉnh Sakon Nakhon, người đệ tử lâu đời của ngài, cùng một số đông cư sĩ đến mời ngài tới chổ họ. Ngài đồng ý và tới Sakon Nakhon vào cuối năm 1941. Đầu tiên ngài ở chùa Suddhawat. Lúc đó thí có một vị cư sĩ mang theo máy hình và xin ngài được chụp hình ngài. Đại đức đồng ý và cho vị đó chụp. Đó là một trong 3 lần ngài cho phép. Trước đó là lúc ngài ở Nakhon Ratchasima, và sau nầy ở Ban Fang Daeng ở quận That Phanin của tỉnh Nakhon Phanom khi ngài tơi dự đám tang của thầy mình là đại đức Sao. Tất cả các tấm hình ngài sau nầy đều từ các tấm hình chụp từ ba lần này mà sao chép lại.
Đại đức ở chùa Suddhawat một khoảng thời gian , thì ngài tơi ngôi chùa ở trong một khu rừng nhỏ thuộc làng Ban Na Mon, nơi đây rất là yên tĩnh. Cảnh các vị Tăng và Sa di sống vơi ngài thì rất gây ấn tượng. Ho nói rất ít nhưng mà đoàn kết như một nắm tay. Như là thay vì tán ngẩu với nhau thì ai cũng tinh tấn tu hành. Hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, vào lúc 4 giờ chiều thì tất cả đều từ khu vực của mình ra ngoài cùng nhau quét dọn, sau đó họ cùng nhau đi xách nước ở giếng để đổ vào các lu nước để dùng. Sau đó họ ra giếng tắm trong một cách im lặng và điềm tĩnh rất đáng phục. Họ làm gì cũng có thái độ tự kiểm soát, chẵng thấy ai nói chuyện tầm phào. Sau khi hoàn tấât việc làm của hằng ngày thì ai nấy về khu vực của mình mà đi kinh hành hoặc ngồi định. Lúc đó thì chùa có vẻ như không có ai ở. Chỉ khi nào người tới thăm chùa mà đi lang thang vào khu vực các tăng ở thì mới thấy có kẻ hoặc đi hoặc ngồi.
Đại đức Mân có biệt tài là đọc kinh. Mổi đêm ngài đọc kinh hàng giờ không bỏ bửa nào. Ngài thường đọc những bộ kinh dài như kinh Chuyễn Pháp Luân, kinh Đại hội. Có những lúc ngài giải thích kinh vì lợi ích của chúng tôi. Ngài nói trực tiếp nghĩa , không thông qua lề lối pháp ngữ của tiếng Pali. Sự trong sáng trong cách giải thích mà không ai phủ nhận đã giúp chúng tôi có cơ hội có cái nhìn thoáng qua ý nghĩa căn bản của những thông điệp trong các bộ kinh xưa. Măc dầu ngài chưa bao giờø học qua tiếng Pali nhưng ngài dịch rất sắc xảo không ai sánh kịp. Khi đọc tới đoạn nào thì ngài dịch ngay đoạn đó không ngập ngừng. Thí dụ như đoạn Vātā rukkhā na pabbato thì ngài dịch là : sức mạnh của cơn bảo có thể nhổ cả cây, nhưng không thể dời một ngọn núi đá.
Sau đó thì ngài Ban Na Non đi tới Ban Khok chỉ cách chổ củ có một dậm đường, để an cư vì không tìm chổ thích hợp khác. Chổ này chỉ cách làng xóm dân ở khoảng nữa dậm nhưng cũng yên tỉnh , không quá ồn ào. Số tăng ở với ngài có giới hạn khoảng 10 tới 12 người vì số cốc giới hạn. Lúc này thì tôi đến gặp ngài và được ngài từ bi chấp thuận cho ở. Tôi nghĩ lại thật là xấu hổ , một kẻ vô dụng như tôi mà sống gần một vị thánh Tăng rạng ngời như ngài.
Không thay đổi nhiều, nhưng lúc này thì tôi cảm thấy dể chịu hơn khi viết tiểu sử của ngài từ đoạn nầy trở về sau. Vì phần trước thì phần lớn những tin tức là do qua người thứ hai, qua các vị đệ tử của ngài kể lại. Tôi đã bỏ nhiều năm trời đi gặp các vị đệ tử của ngài để họ kể lại, mà ghi chép mà thâu băng. Để rồi tôi sắp xếp theo thứ tự năm tháng của đời ngài. Từ phần nầy trở đi là tôi ghi lại những sự kiện chính tôi thấy nghe.
Đại đức cùng chư tăng an cư tại đây, trong suốt thơi gian 3 tháng đó ai cũng mạnh khẻo và hài lòng. Đại đức họp chúng mổi tuần, 1 lần , trong suốt thời gian an cư cũng như thời gian sau mùa an cư. Đại đức dạy chúng tôi phải luôn luôn có chánh niệm trong mọi việc làm, trong mọi lúc. Chánh niệm phải được xử dụng mạnh ở giai đoạn bắt đầu để phát triển định, sự nhất tâm sau đó thì phải có tuệ đi kèm theo song song. Ngài dạy chúng tôi lòng kiên quyết và dũng cảm khi tu. Những ai không thành tâm gắng sức tu thì không ai ở được với ngài lâu.
Mổi tuần họp chúng một lần để nghe pháp, buổi pháp thường là từ 2 tới 4 giờ đồng hồ những ai nấy đều cảm thấy rất là ngắn, tâm thần chẵng thấy mõi mệt. Ngoài các thời gian khác ngài muốn chúng tôi ai cũng phải tinh tấn. Nếu có ai có điều gì nghi hoặc thì có thể gặp ngài hỏi mà không phải đợi tới kỳ giảng tới.
Đại đức Mân thì đọc kinh hằng ngày vào buổi tối trước khi đi ngủ. Nếu hôm nào không có họp chúng thì ngài ngưng đi kinh hành vào khoảng 8 giờ tối và đọc kinh, còn những hôm giảng pháp thì thời khóa đó bị dời tới sau khi cuộc họp chúng xong, lúc đó thì ngài đó ngài đọc kinh cho tới giữa khuya hay tới 1 giờ sáng.
Có hôm vào buổi tốùi khi tôi nghe tiếng ngài đọc kinh ở trong cốc thì tôi rón rén lại gần để xem ngài đọc kinh gì, thì khi tơi gần thì ngài ngưng đọc, thấy không xong tôi vội lùi ra xa, thì lại nghe tiếng ngài đọc kinh tiếp. Tôi lại rón rén lại gần thì thấy tiếng đọc kinh ngừng lại. Tôi vội quay đi , vì nếu tiếp tục muốn nghe xem ngài đọc gì chắc chuyện chẵng lành sẻ xảy ra.
Buổi giảng pháp kế tôi tránh không nhìn thẳng vào ngài, nhưng ngài lại nhìn trừng trừng vào tôi. Ngài chờ xem coi kẻ ngu ngốc nầy sẻ nghĩ làm gì tiếp, trước khi cho một trận la rầy. Thật may là tôi không dám nghĩ gì mà chỉ tập trung nghe pháp.
Khi mới tới , sống chung với ngài, có một buổi trưa tôi đi ngủ, thì trong giấc mơ tôi thấy ngài nhìn tôi và hét lớn :”Ông đang làm gì vậy, Tại sao lại ngũ say như heo vậy, nơi đây không phải là trại heo. Ta không tha thứ cho những ai tới đây học theo thói làm heo. Ông biến chổ nầy thành trại nuôi heo hả”. Nghe vậy tôi giật mình thức dậy, nhìn ra ngoài nghĩ là sẻ gặp ngài, người toát nồ hôi. Tôi rất sợ ngài, nhưng cũng cố gắng theo ngài, vì tôi nghĩ đây là điều đúng thế thôi.
Khi gặp ngài tôi kể lại thì ngài trấn an rằng tại vì tôi mới tới sống , và muốn tinh tấn nên điều nầy tác động lên tâm thức làm tôi mơ khi đi ngủ trưa. Đó là pháp nhắc nhở cho tôi chớ mang các phẩm chất của loài heo vào trong Tăng đoàn , vào trong giáo pháp . Ngài lại khuyên tôi chớ đừng quá sợ thầy, vì không có lợi gì cả . Bổn phận của người thầy là phải dùng mọi phương tiện để giáo dục người học trò trỡ thành người tốt. Chẵng nên sợ thầy mà chỉ nên sợ các điều xấu, ác. Hảy để tâm thoải mái mà tu chớ có sợ hải thái quá về thầy. Pháp thì thuộc về tất cả những ai mong muốn pháp . Đức Phật tuyên dương, chỉ bày pháp không phải chỉ cho một số người mà cho toàn thể nhân loại.
Tôi thường gặp ngài vì trình độ tu của tôi trồi sụt bất thường. Ngay sau khi đảnh lể ngài thì ngài hỏi ngay tâm của tôi dạo này ra sao, khi tôi trình bày đang tiến triển thì ngài khích lệ, và khi đi xuống mọi sự an lạc dường như biến mất thì ngài an ủi: “Vậy hả, tệ ghê, nhưng chúng đi đâu, ông hảy gắng sức tu thì chúng sẻ trở lại chắùc như vậy. Nếu ông gia tăng thì chúng sẻ trở lại. Tâm giống như con chó lúc nào cũng đi theo chủ chớ không bỏ. Nó không bỏ chạy đâu. Hảy gắng sức thêm, tâm lúc đó nhất định sẻ trở lại. Chớ có phí thì giờ xem nó đi đâu. Nếu muốn nó trở lại nhanh thì hảy thật gắng sức . Bất cứ thất vọng nào đều làm tăng thêm cái ngã của tâm mà thôi . Đừng để ý tâm nó bị mất hay đi đâu, chỉ nhớ niệm câu Buddho, liên tục không gián đoạn, cứ như vậy liên tục mà làm lúc đã chắc thì tâm nó sẻ trở lại. Lúc đó thì cũng không buông bỏ câu Buddho, vì Buddho là thức ăn của tâm. Khi mà có thức ăn thì tâm sẻ chạy lại. Cho nên hảy niệm Buddho cho tâm nó ăn thật no, khi ăn no, nó nghỉ, thì lúc đó ông sẻ cảm thấy thõa mản. Hảy làm như vậy cho đến khi ông muốn đuổi nó đi, nó cũng không đi. Đây là phương pháp tốt nhất để dùng cho những ai mà tâm nó luôn cồn cào không thỏa mản. Chừng nào có thức ăn thì nó không bỏ đi ngay cả ông đuổi nó, nó cũng không đi. Hảy nghe lời khuyên của ta, và tâm ông sẽ không bao giờ bị hỏng. Câu Buddho là điểm cốt yếu. Chừng nào có thức ăn thì tâm nó không đi hoang đâu. Nghe lời của ta thì ông sẻ không bao giờ buồn vì tâm của ông trồi sụt bất thường, đi xuống”.
Đây là một phương pháp khác mà đại đức Mân áp dụng cho những kẻ quá ngu như tôi. Tuy nhiên tôi tin vào ngài trong cách ngu của tôi. Nếu không thì chắc tôi cũng cứ vẩn đi đuổi cái tâm, nhưng mà ai có thể bắt kịp được nó chớ.
Tôi viết ra đây để cho đọc giả có thể lượm lặt vài sáng kiến của một người thông minh chỉ dạy cho một người ngu. Mục đích ở đây tôi chẳng phải là tôi tự hào kheo khoang về cái ngu của mình, hay cách đối xử nhân hậu của đại đức Mân đối với tôi.
Sau mùa an cư, Đại đức Mân trở về Ban Na Mon một lúc, rồi tới Ban Huay Kaen ở khu rừng bên cạnh trong thời gian ngắn, rồi ngài tới một ngôi chùa bỏ hoang ở dưới chân núi ở đó nhiều tháng, và ngài bị sốt nhiều ngày, và như các lần trước ngài tự chữa bịnh bằng pháp dược.
Vào tháng 4 năm 1942 đại đức tới Ubon Ratchathani để dự đám tang thầy của ngài là đại đức Sao. Sau khi lễ trà tỳ xong thì ngài về lại Ban Na Mon để an cư. Trong thời gian nầy thì đại đức áp dụng rất nhiều phương pháp đề bắt các đệ tử gia thêm công sức, cổ vũ các đệ tử tinh tấn trong việc tu tập.
Đại đức họp chúng cứ 4 ngày 1 lần trong suốt mùa an cư. Ngài đã giúp rất nhiều các đệ tử tiến triển trong việc tu hành và nhiều người chứng các chân lý nội tâm mà họ báo cáo cho đại đức biết. Tôi có đặc ân là được ngồi dự, nghe các kinh nghiệm chứng đắùc của các đệ tử mặc dầu tôi chưa tới trình độ đó.
Đại đức đã áp dụng phương pháp rất nghiêm khắc trong kỳ an cư nầy, ngài đối xử chúng tôi như các giẻ rách. Trước đó thì ngài không khắt khe lắm, nhưng kỳ này chắc có lẽ ngài cảm thấy đã đến lúc phải cứng rắn. Nếu mà ngài cứ khoan dung những sa ngã của chúng tôi, thì lúc nào ngài cũng cảm thấy gánh nặng, và các học trò sẻ không bao giờ tỉnh giấc để mở mắt ra nhìn bầu trời, đất đai, trăng, sao. Kết quả là ai cũng hăng hái tu tập, ai cũng tiến bộ. Họ hăng say kể lại những tiến bộ của mình cho ngài nghe, ngài xem xét và chỉ bảo thêm để hoàn hảo. Đại đức trả lời hết câu hỏi nầy liên quan tới câu hỏi kia để làm sáng tõ các kinh nghiệm nội tâm mà các đê tử gặp.
Đại đức giảng về nhiều đề tài tron gbuổi họp chúng, ngài nói về những chuyện trong quá khứ của ngài, nói về sự khó khăn trong lúc đầu tu, và phương pháp nào ngài dùng để vượt qua, các kinh ngiệm khi tiếp xúc với các cảnh giới trong lúc định, kể rõ phương thức nào mà ngài dùng để thoát vũng lầy Ta bà bước lên con đường tốt để mà chuyễn hóa được thế giới hiện thực tương đối nầy. Ai nấy đều được khích lệ khi nghe , thấy trước mất một con người đã thoát khỏi Ta bà, và càng tin tưởng vào giáo pháp của Phật đà.
Đức Phật dạy chúng ta hảy thân cận với bậc thiện tri thức. Hiển nhiên là chúng ta thấy trong trường hợp học trò được sống chung với một người thầy giỏi. Họ được khuyến khích, thúc đẩy đi lên bởi những điều dạy bảo. Mặc dù có thể không bằng thầy, nhưng họ cũng sống theo khuôn mẩu của thầy đã chỉ dạy. Còn điều ngược lại cũng đúng vì nếu chúng ta thân cận kẻ xấu, thì chúng ta càng ngày càng tệ. Đức Phật đã nói nếu chúng ta thân cận người tốt thì ta sẻ thành tốt , còn gần gũi kẻ xấu thì chúng ta sẻ xấu.
Ở đây tôi muốn nói kẻ xấu không chỉ những người ta gặp bên ngoài, mà còn là những cái xấu bên trong mổi chúng ta.
Đại đức ở Ban Na Mon cho tới gần mùa an cư kế thì ngài về Ban Khok nhưng không ở chổ trước kia mà ở một ngôi chùa mới xây dựng, hiến cúng cho ngài bởi đại đức Kongma Chirapuňňo. Chổ nầy rất thích hợp với ngài, và ngài mạnh khẻo trong suốt thời gian an cư. Cũng vậy ngài họp chúng thường xuyên để chỉ dạy.
Tóm gọn thì đại đức ở ba năm liền ở khu vực Ban Huay Kaen, Ban Na Sinuan, Ban Khok, Ban Na Mon của quận Tong khop tỉnh Sakon Nakhon. Và dự 3 mùa an cư .Trong thời gian nầy thì ít các chư thiên, địa thần tơi thăm ngài học pháp. Nhưng họ tới vào những ngày lể lớn.
Các chư Tăng cũng đến xin ngài chỉ giáo cũng nhiều, nhưng số sống chung thì ít vì số cốc có hạn. Sau mùa an cư thứ 3, thì dân vùng Ban Nong Pheu thỉnh ngài về sống ở khu vực họ, đại đức chấp thuận. Thế là thầy tròø đi mất mấy ngài đường qua các khu rừng rậm rạp mới tới nơi. Ban đêm phải ngủ trong rừng.
Khi đại đức tới nơi thì ngài mắc phải bệnh sốt rét. Con sốt nóng, lạnh luân phiên hành hạ người bệnh, kéo dài hàng nhiều tháng. Ai mà mắc phải bệnh nầy thì rất khổ vì căn bệnh không trừ hết mà hay tái phát.Hết rồi cả hàng tháng, sau đó thì căn bệnh trở lại. Phần lớn các du tăng đầu đà ai cũng mắc phải. Bản thân tôi cũng vậy, rất đau khổ về căn bệnh nầy.
Ở chung vơi ngài kỳ này có khoảng hai, ba chục vị, nhưng số theo thọ học ở từng nhóm nhỏ rãi rác chung quanh cũng khoảng ba ,bốn chục vị. Những ngày bố tát thì lên tơi năm sáu chục vị. Sau mùa an cư thì con số tăng thêm vì các tăng vùng lân cận tới.
Thời đó phần lớn cả khu vực của quận Phanna Nikhom, nằm ở phía nam tỉnh Kalasim là khu rừng, có đồi núi rãi rác bao quanh, có những khu rừng rộâng hằng chục mẩu, rất thích hợp cho việc tu hạnh đầu đà. Trong mùa khô thì các dệ tử của ngài đi du hành trong rừng núi, sống gần những thôn nhỏ có chừng năm , ba gia đình, đủ để đi khất thực. Mặc dù có những thôn xóm đông khoảng vài ba chục gia đình nhưng họ không ở gần.
Làng Ban Nong Pheu ở một thung lũng rộng chung quanh là rừng, núi. Thiích hợp cho các du tăng đầu đà sống rãi rác chung quang tới thọ giáo khi ggạp vấn đề. Dân ở đây họ làm vườn, làm ruộng. Đường mòn từ quận tới làng khoảng 12 dậm, đi vòng chung quanh núi mấùt thêm khoảng 3 dậm nửa mới tới làng. Nếùu ai không quen đi thì cảm thấy khó vì không có khu vực dân ở trên đường đi tới làng. Nếu có thì là những thôn cách đường mòn cũng khá xa, không tiện.
Những Tỳ Khưu nghiệp xứ đầu đà được thúc đẩy bởi lòng ưa thích pháp, nên họ chịu đựng được các gian khổ. Thật khó cho họ tìm thấy những ai như là đại đức Mân, cho nên mổi khi gặp được ngài thì họ vui thích như con ở xa về thăm cha mẹ. Họ rất tôn kính đại đức Mân mặc dầu họ không sống chung với ngài. nhưng trong tâm khảm họ đây là vị thầy mà họ có thể hi sinh vì, ngay cả phải chết khi thầy bảo họ chết.
Thật là thích thú khi nghe những vị sư đầu đà kể lại cách tu của họ. Họ dùng mọi cách để gia tăng việc hành thiền, và tìm phương thức thích hợp cho họ để điều phục tâm : Họ thử không ngủ, bớt ăn , hay nhịn đói nhiều ngày, đi kinh hành suốt đêm, ngồi định nhiều giờ, và ngồi định suốt đêm từ tối cho tới sáng, ngồi hành thiền ờ những nới cọp qua lại, ở những nơi có nhiều cọp, ngồi hành thiền bên bờ vực sâu, hay trên chóp núi, ban đêm vào những nơi mà họ sợ để hành thiền, hành thiền ở nghĩa địa ban đêm , v v. . .
Sựï gian khổ mà người tu kinh nghiệm thì quan trọng khi so sánh kết quả đạt được: Đức hạnh, giới thể, sự thỏa mản, vào cái chắc trong pháp, cái mà kiểm soát và gìn giử mạng sống của người tu.
Chừng nào còn người ham thích tu tập đúng đắn theo giáo pháp thì chừng đó Phật pháp còn ở trên thế gian.
Cách tốt nhất mà để phát triển chánh niệm và tuệ, và để xử dụng khả năng thật của chúng là ta khéo léo kinh nghiệm những phương pháp khác nhau, để tìm ra cái thích hợp nhất cho mình.
Trong những ngày Bố tát, ngày đọc tụng giơi 1uật và phát lồ sám hối, các Tỳ Khưu ở các nơi về , thì bài pháp của ngài khác với bài pháp mà ngài giảng cho các vị Tăng. Mặc dầu mạnh mẻ và thâm sâu nhưng không sánh bằng các bài giảng mà ngài chỉ giảng cho các Tăng ở chung với ngài. Những bài giảng mạnh mẻ , năng động và hùng hồn, như khiến người nghe phiền não tiêu trừ . Tác động mạnh lên tâm thức người nghe mà những ngày sau đó còn ảnh hưởng.
Những vị tu tập có thể xác định chính xác trình độ của bạn đồng tu, hay ngay cả thầy của mình nữa, khi họ lắng nghe cuộc thảo luận về việc hành thiền. Kiến thức nẩy nuôi dưỡng tình thân vòng những người tu hành vơi nhau.
Khi mà một vị tăng mô tả kinh nghiệm và các tầng lớp mà họ trãi qua thì có thể biết trình độ vị ấy. Một người học trò khi nói cho thầy nghe về kinh nghiệm của mình, hay về một vấn đề nào đó, thì người học trò có thể đánh giá mức độ giác ngộ của thầy mình, nếu người thầy đã trãi qua giai đoạn đó thì vị thầy đã quen với các kinh nghiệm như vậy nên có thể dựa vào kinh nghiệm đó của mình mà hướng dẩn học trò đi tới. Nếu là một vấn đề thì vị thầy có thể chỉ rõ nguyên nhân và cách giải quyết một cách chính xác, làm cho người học trò hoan hỉ chấp nhận không hoài nghi. Hoặc giả sử người học trò ảo tưởng rằng mình đã chứng đạt những điều như vậy thì người thầy dựa vào kinh nghiệm của mình biết đó là không thực nên có khả năng chỉ rõ chổ sai, và giải thích tại sao người học trò nghĩ như vậy.
Những cuộc thảo luận như vậy giữa đại đức Mân và các người đệ tử đã tạo tình thân giữa thầy trò. Ai cũng tin tưởng vào thầy, và làm đúng theo những gì ngài chỉ, luôn luôn thành thật , và không bao giờ nó dối.
Tôi là kẻ cứng đầu, ít khi nào chấp nhận ngay lời phê bình. Có những lúc thảo luận vơi 1thầy rất sôi nổi mà tôi quên đi mình là người học trò. Càng lý 1uận với thầy thì càng thấy thầy mình đúng và cuối cùng tôi bị “băm ra từng mảnh nhỏ”. Khi xong thì tôi hoàn toàn chấp nhận các sự thật đó.
Mặc dù tôi là kẻ có nhiềy “ý kiến” nhưng đại đức không la rầy hay muốn thay đổi thái độ của tôi. Mổi lần thấy tôi là ngài hay cười. Có1ẽ ngài nghĩ làm sao mà tôi có thể chịu đựng được sự thua cuộc, hay có lẽ thương xót kẻ ngu nầy vì hay ngoan cố cãi lý. Tuy nhiên tôi cũng rút ra nhiều bài học quí giá từ sự cải lý nầy.
Khi rời khỏûi khu rừng núi Chiang Mai, cũng là lúc ngài rời khỏi khu rừng rậm rạp của tử sanh, tuy ngài không nói ra, nhưng chắc hẳn là có lý do mà ngài ngụ ở những nơi nầy trong một thời gian lâu. Nakhon Ratchisima là một trong những lý do. Tăng và cư sĩ vùng nầy thì rất tiến triển trong việc tu tập, rất nhiều hành giả có trình độ cao đến tu học với ngài và sau nầy có nhiều vị đi theo ngài tơi Udon Thani, và Sakon Nakhon tu tập vơi ngài cho tới lúc ngài mất.
Khi ở tại Udon Thani, ngài an cư ở chùa Bodhisomphon với vị đệ tử đại đức Dhammachedi. Ở đó ngài cũng mang lợi lạc cho nhiều người.
Và ở Ban Na Mon của tỉnh Sakon Nakhon thì ngài cũng giúp đở nhiều, trong số đó có một vị ni, người tu mặc áo trắng, vị Ni nầy trụ trì một ngôi chùa làng. Đây là lý do chính mà ngài ở lâu tại đây. Vị Ni già nầy thì tu rất cao. đã có chân đúng vững trong giáo pháp. Đại đức nói với chúng tôi rằng khó tìm thấy vị nào có trình độ như vậy.
Cũng ở tại Ban Nong Pheu, trong làng nầy có một vị cư sĩ tại gia, bà ta rất già cũng thường đến ngài cầu học, trình độâ tu của bà ta cũng rất cao, cũng như vị sư Ni ở tại Ban Na Mon.
Chống gậy đi bộ từ nhà tới chùa, bà ta phải dừng nghĩ bốn năm bận, và khi tới gặp đại đức thì gần như muốn đứùt hơi phải ngừng hồi lâu để thở. Chúng tôi rất thương bà ta, khi đại đức thấy vậy cũng thường nói:”Tại sao phải lặn lội tơi đây, bà có biết bà mệt không? Ngay cả con nít cũng còn biết mệt. Giờ đã tám chín chục tuổi rồi , mà còn không biết mệt, tại sao lại phải đi tới đây”.
Bà ta trả lơi rất thẳng thắn và chân thật không sợ. Ngài hỏi thăm về cách tu của bà và chỉ điểm cho bà ta . Không những bà ta có căn bản vững chắc trong hành thiền mà bà ta còn có tha tâm thông biết được ý nghĩ tốt xấu của người khác. Ngoài ra bà ta còn có thể nhận biết được các loài hữu tình khác, ở các cảnh giơi khác. Khi thưa chuyện với đại đức, bà ta thành thật nói về các điều sở đắc một cách thành thật và tự nhiên, và rất tự tin. Khiến đại đức phải bật cười về tánh bất khuất, thẳng thắn của bà ta.
“Tâm ngài đã từ lâu vượt qua rồi” Bà ta mạnh dạn tuyên bố.
“Tôi đã để ý tới tâm của thầy từ lâu. Hoàn toàn tuyệt đối không thể so sánh được. Tâm của thầy đã thanh tịnh, tại sao làm sao thầy còn hành thiền nữa.”
Đại đức trả lời :” Tôi sẻ tiếp tục tinh tấn hành thiền cho tới lúc tôi chết. Một người Phật tử không bao giờ giải đãi.”
Nghe vậy bà ta nói:” Nếu ngài còn có cái để đạt thì tôi không thắc mắc, nhưng tâm ngài đã tràn ngập hào quanh chói lòa. Thầy làm sao có thể đạt gì hơn nữa trong việc hành thiền. Tôi thấy tâm ngài sáng chiếu khắp cả thế giới. Sự nhận thức của ngài ở khắp nơi , không có gì chướng ngại nó. Nhưng tôi thì không có những phẩm chất đó , cho nên tôi mới đến gặp ngài xin ngài giúp. Để xin thầy giúp cho tôi để tôi có được như ngài”
Khi nghe bà ta thảo luận với đại đức Mân thì thấy thật sự là bà ta có một trình độ tu rất cao. Mổi khi gặp vấn đề thì bà ta lại lê từng bước tới chùa gặp đại đức để hỏi. Đại đức đặc biệt quan tâm tới bà nên rất vui vẻ sẵn lòng tiếp chuyện mổi khi bà ta tới. Những khi như vậy thì các tăng ở bên cạnh giảng đường, giảng đường là nơi ngài tiếp khách, nghe lén câu chuyện thảo luận giữa hai người. Bởi vì những câu hỏi phát xuất từ chính kinh nghiệm bản thân của bà ta nên câu chuyện rất là hấp dẫn.
Có những câu hỏi thuộc bên trong , như là các câu hỏi về Tứ Diệu đế. Có những câu hỏi về các cảnh giới của Trời, Phạm thiên. Nếu đại đức chấp nhận sự hiểu biết của bà ta vế các vấn đề này, thì đại đức khuyến khích bà ta tiếp tục phân tích điều tra. Còn khi đại đức không chấp thuận thì bảo bà ta bỏ đi đùng truy xét và giải thích làm sao mà phải bỏ và phải theo cách thức mới như thế mới đúng.
Bà ta tuyên bố là biết được người khác nghĩ gì . Điều nầy gợi tánh tò mò của các Tăng, muốn nghe bà ta nói về mình, nhưng lại sợ những điều tiết lộ. Nhưng bà ta luôn diễn tả cảnh rất gây ấn tượng: Là các vị ở trong chùa ai cùng có hào quang sáng, từ vị Sa di cho tơi đại đức Mân. Giống như các vì sao và tinh tú. Có người chiếu sáng rực , có vị tõa chiếu yếu hơn. Thật là cảnh uy nghi rất đẹp, ngay cả các vị Sa di cũng không lu mờ ảm đạm. Mổi vị tăng đều đáng khâm phục, vì ai cũng hết sức tinh tấn trong khả năng của mình để trau dồi tâm.
Có lần bà ta tới viếng Brahmaloka (Phạm thiên giới). Nhưng chỉ thấy toàn là Tăng, không thấy cư sĩ nên bà ta thắc mắc hỏi đại đức. Đại đức trả lời:
“ Cõi Brahmaloka thì hầu như là nơi chỉ có tăng cư ngụ , là những vị đã chứng quả bất lai. Đó là tại sao. Khi một vị tăng chứng quả bất lai và lúc chết thì tái sinh vào cõi Phạm thiên nầy. Rất hiếm có cư sĩ đạt được trình độ nầy, cho nên không thể sanh vào cõi phạm thiên được . Đó là ý do bà chỉ thấy tăng chứ không thấy cư sĩ. Còn một điều : nếu bà thắc mắc tại sao không hỏi một trong những vị tăng ở đó . Quên không chịu hỏi khi ở đó bây giờ lại kiếm tôi để hỏi”.
Bà ta cười:”Tôi quên hỏi họ, Tôi không nghĩ ra, đến lúc xuống mới thắc mắc. Kỳ này nhớ, lần sau khi gặp tôi sẻ hỏi”
Cách giải thích của đại đức Mân có hai mục đích : một là trình bày sự thật, hai là phá bỏ nghi hoặc. Sau nầy đại đức ngăn cản không cho bà ta hướng tâm đi truy xét những hiện tượng bên ngoài, vì phí đi thời gian qúi báu cần đẻ truy xét các hiện tượng bên trong, và những nguyên lý cơ bản của chúng. chỉ có những truy xét nầy mới dẫn đến chứng Đạo và Quả. Bà ta vâng lời. Đại đức nói ít ai trong số các đệ tử của ngài có thể như bà cụ già nầy.
Đây là một lý do ngài ở tại Ban Non Pheu lâu, Ngài sống tại chùa ở làng Ban Nong Pheu năm trời, thời gian lâu nhất ở tại một nơi trong đới sống tu hành của ngài. Và hơn nữa nơi đây khung cảnh thích hợp cho các du tăng đầu đà ở chung quanh tới hỏi pháp.
Lúc nầy ngài đã 75 tuồi, ngài không cón đi du hành nữa mà chỉ ở trong chùa. Các loài hữa tình khác cũng ít đến thăm, học đạo vì ngài dành hết thời giờ cho việc giáo dục các chư Tăng.
Chùa ở Ban Nong Pheu thì nằm giữa khu rừng già rậm rạp. Nên đến mùa an cư thì đại đức bảo những chư Tăng ở xa tới cầu học, hảy về trụ xứ của họ vì nơi đây là nơi hoành hành của bệnh sốt rét. Những vị Tăng ở chung với ngài nếu ai mắc bệnh thì phải tự chữa bằng pháp dược, thời đó thuốc chống sốt rét rất hiếm. Chửa bằng pháp dược nghĩa là họ dùng chánh niệm và tuệ để truy xét thọ khổ, mổi khi cơn bệnh hành hạ thân. Một vị Tăng can dảm dùng phương pháp nầy thì tạo cho mình một chổ dựa vững chắc khi có bệnh , và cả ngay khi mạnh khẻo. Tới lúc chết vị Tăng đó không yếu đuối và sợ vì đã làm chủ được cơn đau, chấp nhận cái tiến trình mà chúng ta gọi là chết. Chánh niệm và trí tuệ đã giúp cho vị đó biết rõ Khổ trong ïcuộc tử sanh, đã thuần thục cho việc quán đau khổ, cho nên vào phút cuối không bị nổi đau làm tâm trí mê mờ, vị đó có chánh niệm và tuệ để đi tới chổ an toàn. Sự thật là : Cái đau, thân và tâm là 3 cái hiện hửa , hay có một cách riêng biệt. mổi thứ hiện thực tron glảnh vực của chính nó. Không khi nào can thiệp hay tranh giành lẫn nhau. Bằng sức mạnh của sự giác ngộ nầy thì nguyên nhân gây ra sự đau khổ - tập Đế một trong Tứ Diệu đế , bị chinh phục. Thì cái đau, tình trạng căn bệnh hay viễn tượng về cái chết cũng biến mất.
Ai mà tín tâm dùng pháp dược để trị bệnh thì cho dù cơn đau như thế nào đi nữa, ngay cả phải chết, thì người đó không bao giờ thua. Bởi vì Chánh niệm và tuệ đã giúp họ tới nơi an ổn khi mà mạng căn đã chấp dứt. Không thể nào giử thân thể nầy và tâm lại vơi nhau được nữa.
Những ai hành và giác ngộ được Sự Thật mà đức Phật tuyên dươn, thì ai cũng tuyệt đối chắc chắc xác định các giá trị của nó. Đó là Sự Thật.
Ai mà hành trì một cách kiên định , không bị dao động theo đúng nguyên lý cơ bản của Sự Thật thì người đó chắc chắn nhân cách hóa được câu châm ngôn: Pháp bảo vệ những ai hành theo một cách tín tâm, Dhammo have rakkhati dammacāri.
Đại đức Mân luôn áo dụng cách khuyến khích , tánh can cường của một chiến sĩ anh dủng không sợ chết cho các vị tăng, dù vị đó đang bệnh hay mạnh khẻo.
“Hảy tưởng tượng cảnh lộân xộn không ra gì như sau: Một vị Tăng nằm lăn lộn , than kêu giống như một con thú sắp chết. Các ông là các Tỳ Khưu đanh tu hành thì đừng có theo thói của loài thú vật. Nếu mà nghĩ và làm như loài thú thì đạo sẻ phát triển các tánh thú, lúc đó thì sẽ lan tràn khắp nơi. Đó chắc chắn không phải là cách mà đức Phật đã dạy chúng ta.
Chúng ta thì lúc nào cũng bệnh , không lúc này thì cũng lúc khác. Chúng ta cũng biết khi người khác bị bệnh, họ cảm thấy như thế nào. Bộ cần thiết để cho người khác biết là mình đang bị đau, khó chịu khi bị bệnh à . Nếu rên la mà chữa khỏi bệnh thì cần gì dùng thuốc. Mổi khi bệnh thì cứ lăn qua, lăn lại rên thì khỏi, dể như vậy phải không ? Chẵng cần tốn thì giờ và thuốc men để chữa người bệnh. Rên than có chữa được bệnh không ? Nếu không thì tại sao lại làm người khác kinh tởm, mà không tĩnh táo tìm cách trị“. Đó là một trong các thí dụ, ngài nói cho người không có can đảm khi bị bệnh.
Trong khi ngài ngụ tại Ban Nong Pheu thì có hai vị Tăng chết tại chùa, và một vị nữa chết ở gần đó tại Ban Na Nai. Vi đầu tiên là một vị Tăng trung niên chuyên hành thiền. Vị nầy là đệ tử của đại đức khi ở Chiang Mai, sau đó theo thầy tới Udon Thani và Sakon Nakhon, tại đây thì có khi ở chung với ngài , có khi đi du hành tu một mình, và cuối cùng thì về chết tại chùa ở Ban Nong Pheu. Vị nầy có trình độ tu khá cao. Luôn được sự nhắc bảo và chỉ dạy của đại đức Mân nên tu tuệ


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 17th June 2025 - 10:25 AM