![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,321 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
LỜI TÁC GIẢ
Tiểu Sử của đại đức Mahn Bhūridatta mà các bạn sắp đọc là kết quả của một công trình nghiên cứu lâu dài. Tôi đã tham khảo, đi gặp các vị đại đức đệ tử của ngài. Những người đã từng sống chung với ngài. Tôi đã góp nhặt, ghi lại và soạn ra thiên tiểu sử nầy. Tôi hoàn toàn không vừa ý khi soạn bản tiểu sử nầy, vì thật là rẩt khó để cho các Sư , các vị đã từng sống tiếp xúc với ngài diễn tả được hểt những kinh nghiệm sổng trong cuộc đời tu tập của ngài mà ngài đã nói 1ại cho các vị đó nghe. Nhưng nếu tôi chờ có đầy đủ tẩt cả những chi tiết mà các vị đó nhớ lại, thì không những e rằng thời gian sẻ làm chúng phai nhòa và mất đi, mà hi vọng ghi chép lại tiểu Sử vể ngài cũng không thành tựu được. Rẩt là khó, khi tôi phải cho hoàn thành một công việc mà mình chưa vừa ý, nhưng hi vọng của tôi là tập tiểu sử nầy giúp ích được phần nào các đọc giả quan tâm đến Phật giáo Tôi cố gắng mô tả tất cả những hoạt động của ngài theo thứ tự thời gian, và theo lối hành văn thuật lại đời sống của các vị Thánh Tăng như' đã được ghi trong các kinh điển, đồng thời cố ghi lại những bài pháp mà ngài đã giảng cho các đệ tử, mục đích là cho các thế hệ sau thấy tấm gương đạo hạnh của một bậc chân tu, người đã theo con đường chỉ dạy của đức Phật. Và cho thấy khả năng chứng đạo có thể đạt được như mô tả trong các kinh điển, nếu như có một sự gia sức, một sự nổ lực thành thật trong việc tu hành. Xin các đọc giả tha lổi cho tôi nếu như cách trình bày không có gì thích hợp. Tôi không như ý về tác phẩm nầy, nhưng vẩn xuất bản vì hi vọng các đọc giả Phật giáo có thể tìm thấy một sự lợi lạc trong việc đọc lại cuộc đời của ngài, đại đức Mahn Bhūridatta. Tỳ Khưu Mahā Bowa Ñāṇasampanno Oct, 1971 ![]() ![]() NHÀ XUẤT BẢN GIỚI THIỆU Chúng tôi hân hạnh được trình bày, nơi phụ tnương đặc biệt của tập san nầy, thiên tiểu sử của cố đại đức thiền Sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, bình sanh là vị thiền Sư nổi danh nhầt trong nước Thái, do một số các đệ tử đồng thời với ngài biên soạn. Tác giả là đại đức thiền sư Phra Ācham Boowa Ñāṇasampanno, tịnh cư trong rừng chùa Bahn Tard, thuộc tỉnh Udon , cách xa kinh đô Vọng Các (Thái Lan) lối 600 Km về phía đông bắc. Hiện nay có nhiều vị thiền sư trước đã tững là đệ tử của ngài, như đại đức thiền Sư Phra Ācham Chah đã được nêu tên trong bản của ông Douglax M. Bums nhan đề : chương trình và dự án thành lập Tăng già Mỹ . Đăng nơi trang 56 của tập san nầy, mặc dầu cố đại đức thuộc về phái tiểu thừa cải cách, do đức vua Monkut lừng danh trên thế giới lập nên, nhưng ngài có rất đông đệ tử thuộc cả hai phái, và đại đức thiền sư Phra Ācham Chah có lẻ là vị đệ tử ưu tú trong phái đại thừa vậy. Quí bạn đọc thiên tiểu sử nầy, chắc thế nào cũng quay lại bản kêu gọi kể trên của ông. Như đã nêu trên trong số tân niên của chúng tôi, quyễn sách bằng chử Thái là một đầu đề tranh luận, vừa bị đã đảo, vừa được hoan hô, giữa nhóm trí thức và nhóm bình dân, giữa phái thượng lưu và phái hạ lưu, giữa hàng vương giả và hạng bần cùng và giữa chư Tăng và các thiện tín. Như thế, không phải là vô cớ, bởi vì quyễn sách là một khuyến khích lớn cho hàng Phật tử hành thiền thấy rằng : Ngày nay, đạo quả cũng vẩn còn giác ngộ được, nhưng nó đòi hỏi những nổ lực thích ứng chân thành và mảnh liệt của những bực tu hành già giặn và chính chắn. Đối với những người chỉ thích lăn lóc trong vũng lẫy tuyệt vọng, một bản tuyên ngôn như thế làm cho họ đau khổ vô cũng, và họ ném đá đả đão đại đức tác giả, lại còn mẵng đại đức là kẻ khủng bố, là kẻ phá hoại Phật giáo nữa. Nhưng có vài người lắng tai nghe bản thông điệp của đại đức, tin tưởng rằng nếu tự họ chưa già giặn đủ để giác ngộ đạo quả ngay trong kiếp nầy, thì cũng có thể có những người khác đã đến trình độ đó. Những người nầy sẳn lòng chịu lầm lạc, nếu quả thật họ lầm lạc, chỉ vì tin quá lố – như thế còn tốt hơn phạm nhằm đại tội Ariyūpavāda là mạ lỵ , hay hủy báng một vị thánh thanh văn. Họ đặt tất cả niềm tin của họ trên cái sự kiện hiển nhiên là trong số những kẻ chỉ trích Ngài (Phra Ācham Mahn Bhūridatta) Không ai có tài năng bằng ngài, hoặc bằng phân nửa Ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh, thanh cao, giản dị và thanh khiết. Ký thác đức tin của ta nơi một người sống một đời chơn chánh thánh thiện, thay vì đặt ở nơi những người chỉ hứa giúp đở ngoài môi và còn thụ hưởng đủ thứ khoái cảm nhục lạc, há chẳng đáng khuyên hơn, được lợi ích hơn, và cũng đúng với Phật pháp hơn sao? Chúng ta tôn thờ và tin tưởng ngài, là người không bao giờ khao khát đệ tử, hoặc tìm cầu danh vọng, và làm gương cho bất luận pháp nào của ngài thuyết, há chẵng tốt đẹp nhiều hơn sao ? Chúng tôi tin rằng tác phẩm sau đây sẻ được đón tiếp nồng hậu và sẻ bị chỉ trích kịch liệt, bởi quần chúng độc giả đọc chử anh, không kém nồng hậu và kịch liệt hơn khi còn nguyên văn chử Thái. Và chúng tôi kính cẩn Xin cầu chúc : Mong Sao cho những người hằng miệt thị ngài (đại đức , hay cố đại đức ) cũng như những người hằng tôn kính ngài đều có khả năng làm được như ngài, hoặc bằng phân nửa ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh thanh cao và tinh khiết. Thiên tiểu sử vạch rõ phương pháp tu hành và nếp sống linh động trình bày nơi đây, chính là của cố Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, cung cấp bởi các đệ tử đồng thời với cố đại đức, đả từng tu tập dưới sự hướng dẫn của ngài, trong những thời kỳ khác nhau. Do đó sự chính xác của họ có thể tìn cậy được lắm, dẫu rằng theo lẽ đương nhiên, chúng ta không thể biết chắc là mổi vị đệ tử của ngài có nhớ được từng lời giáo huấn của ngài, và từng địa điểm, từng việc biến chuyễn trong đời ngài hay là không? Nhưng nói đi rồi, còn nói lại, chúng ta không thể chờ đợi cho tới lúc sẻ thành tựu hoàn toàn mỹ mản, chúng ta càng trì hoãn , thì chắc là những chi tiết hay ho, hửu lý càng phai mờ trong ký ức của những đệ tử của ngàì. Và những thế hệ mai sau ắt là thiếu một tấm gương giá trị mà họ có thể soi chung. Vì xét thấy sự kiện nầy mà chúng tôi trình bày. Thiên tiểu sử sau đây, hi vọng rằng thà còn ít còn hơn không có gì hết. Phương pháp trình bày nơi đây, noi theo gương các bậc soạn giả tiền bối đã ghi chép tiểu sử của các vị thánh Thanh Văn, trong nhiều bản kinh, với hi vọng lưu truyền những gương mẩu cho đoàn hậu tấn. Trong trường hợp, có điều gì bất nhả mà chính cố đại đức thiền sư đã tự thuật, thì soạn giả xin cáo lổi với quí độc giả, nơi đây. tác phẩm nầy được soạn ra với mục đích phụng sự những ai lưu tâm tới khía cạnh Phật gíáo. Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, lúc bình sanh là vị thiền Sư danh tiếng nhứt, được tất cả các đệ tử thân cận thật sự tôn kính. Qua các thời thuyết pháp nói đạo và những lời chỉ dạy về Pháp cao siêu của ngài, nhóm đệ tử thân tín tự nhiên thấy rõ là ngài hẳn đã chứng đắc quả vị nào rồi mới gây được cái ấn tượng sâu đậm trong tâm họ ngay từ ban đầu, và về sau luôn luôn dùng để trắc nhiệm sự kiện nầy. Đệ tử của ngài gồm đủ cả cư sĩ và Tỳ Khưu, có lẽ khắp trong nước Thái và luôn cả trong nước Lào, láng giềng. Lịch sử đời sống ngài thật là kỳ diệu, cả trong hai thời : khi còn là cư sĩ và lúc đả tu Tỳ Khưa, từ ngày đầu cho tới ngày cuối. Nó không có chút tỳ vết bợn nhơ, nên dẩu cho ngọc kim cương hoặc thứ trân bảo khác cũng không bì kịp sự hy hữa và tinh khiết của nó. Tháng 6 âm lịch, 1974 (Sư Pháp Minh) ![]() ![]() ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU Tôi có duyên khi đọc được một phần bản thảo tiểu sử của ngài đại đức Mahn Bhūridatta được viết tay trên cuốn vở học trò 100 trang của Cố Tỳ Khưu Pháp Minh. Thiền Sư Pháp Minh là một vị Tỳ Khưu được nhiều người biết tới trong Phật Giáo Nam Tông ở VN, vì là bậc chân tu khả kính. Thiển Sư Pháp Minh sanh năm 15-3-1918 tại làng phước Hải Huyện Long đất, Tỉnh Bà rịa , Vũng Tàu. Thế danh là Nguyễn Văn Long con của cụ Nguyễn Văn Tài và bà Phạm Thị Minh. Xuất gia làm Sa Di vào năm 1965 tại chùa Phổ Minh, Gò Vấp, Gia Định vào ngày 7 thắng 2. Sau đó ngày 6-1-1968, ngài thọ đại giới Tỳ Khưu tại chùa Pháp Bảo ở Mỹ Tho. Thầy Tế độ là Hòa Thượng Giới Nghiêm. Năm 1968, ngài rời chùa Bửu Quang ở Gò Dưa, đến núi nhỏ ở Vũng Tàu tìm nơi độc cư thiền định. Năm 1969 ngài trở lại về Tổ đình Bửu Quang để tiếp tục sự nghiệp tu hành. Tháng 12 năm 1974, ngài theo lời thỉnh cầu của ban trị Sự Thích Ca Phật đài ở Vũng Tàu tới đó để hoằng pháp. Năm 1975-76 ngài du hành xuống Tô Châu, Hà Tiên , Rạch Giá. Năm 1977 - 80, ngài trở lại Tổ Đình Bửu Quang để tu. Sau đó đến lúc mất ngài sống hạnh độc cư, trì bình khất thực tại cốc Bình Thủy, gò Dưa , Thủ Đức. Và ngài an nhiên thị tịch khi ngồi thiền định vào lúc 9 giờ ngày thứ tư, 27 tháng 1 năm 1993 (tức mùng 5 tháng giêng, năm Quí Dậu) Từ khi xuẩt gia ngài luôn thực hành pháp hạnh đầu đà khẩt thực, và nguyện không nằm. Ngài giử hạnh tri túc, thường ít nhận tứ sự cúng dường của chư Tăng và Phật tử. Ngài thông suốt nhiều ngoại ngữ như tiếng Pháp, Anh, Thái, Khơmer, Pali. Ngài Soạn dịch nhiều kinh điển : như bộ chủ giải kinh Pháp cú, Sưu tập kệ Pali. Trước tác nhiểu tác phẩm: Sổ tức quán thực tập, Lâm tuyển pháp, Cổng vào Niểt Bàn, Chiển Sĩ thượng thặng, Ba cách làm phước, Việc tập tâm, Tứ oai nghi, Hạnh nguyện bồ tát, Siêu pháp tiểt chế tình dục, Tùy bút pháp hành, Thiền luận, Kệ kinh Tam Bảo Pali, . . Bản thảo tôi có được của cố thiền sư Pháp Minh do một người bạn đưa thì chỉ có một phần, vì đây là quà tặng của cố thiền sư Pháp Minh cho thân sinh của vị đó – theo lời vị đó nói. Nhân duyên đưa đẩy, nên tôi xin lược dịch tiếp từ bản tiếngAnh, để hoàn thành. Tôi nghĩ cố đại đức thiền sư Pháp Minh khi dịch, thì ngài cũng là muốn cho đọc giả thưởng thức một tác phẩm hay của Phật giáo. Tôi hoàn thành tiếp việc lược dịch, những sai sót chắc là có là vì khả năng hạn hẹp của tôi trong ngôn ngữ , xin người đọc tha thứ. Tôi cũng thành tâm xin sám hối nểu có điều gì không phải thì do vô rninh không biết mà gây, chớ không chủ ý. Nguyện xin Phật Pháp được trường tồn. Chúng Sinh an Iạc Rocky Mountain Thạch Sơn 2004 NHỮNG NĂM ĐẦU Thầy Đại đức (Phra Acharn 1 ) Mahn Bhūridatta, sanh vào trong một gia đình Phật giáo vào thứ năm ngày 20 tháng 1 năm mùi, Phật lịch 2413 (năm 1870), tại làng Ban Khambong, quận KhongJiam thuộc tỉnh Ubon Ratchathani. Cha ngài là ông Khamduang, và mẹ ngài là bà Jun (Dung) họ Kaenkaew. Là anh cả trong 8 người con trong gia đình, tuy nhiên khi ngài khuất bóng thì chỉ có 2 người em còn sống mà thôi. Ngài là con đầu lòng, nhỏ thó , nước da trắng hồng. Ngài nhanh nhẹn và tráng kiện lại vừa thông minh, ngay từ thuở nhỏ. Đến năm 15 tuổi, ngài xuất gia tu Sa di , ở chùa làng Khambong. Nhờ ngài hâm mộ việc học hỏi Dhamma (pháp), cho nên không bao lâu ngài thuộc lầu những bài kinh của thầy ngài dạy. Tánh tình và hạnh kiểm của ngài củng đáng tín nhiệm, không bao giờ gây rắc rối cho bạn bè và bậc trưởng thượng. Nhưng, hai năm sau khi xuất gia tu sa di, ngài phải hoàn tục, để đáp lại lời thỉnh cầu của cha ngài đang cần đến ngài phụ giúp trong gia đình. Nhưng nếp sống thanh bạch đã có ảnh hưởng xâu xa trong tâm hồn ngài. Ngài không bao giờ quên nó được. Cho nên ngài lập chí nguyện sớm muộn gì ngài cũng sẻ trở lại đường tu. Đây rất có thể là mảnh lực của một đức tin bất thối chuyển, hoặc Saddhā (chánh tín) đã được gắn chặt vào tâm tánh ngài. Về sau, khi ngài 22 tuổi, tiếng gọi của đời tu phạm hạnh có vẻ thúc giục thiết tha. Ngài bèn cáo biệt song thân. Hai ông bà cũng sẳn lòng chấp thuận và sốt sắng lo liệu việc ngài xuất gia tu lên Tỳ Khưu. Hai ông bà thỏa thích chuẩn bị nhu dụng của Tỳ Khưu cho ngài, rối đưa ngài đi xuất gia tại chùa Liap trong thành phố của tỉnh Ubon Ratchathani. Có đại đức Phra Ariyakawi là thầy tế độ (Upajjhāya), đại đức Pha Khru Sitha là thầy Kiết ma ( Kammavācariya), và đại đức Phra Khru Prajuk Ubonkhun là thầy chỉ dẩn (anusāsanācariya) vào ngày 12 tháng 6 dương lịch (năm 2436 Phật lịch). Sau lể xuất gia, ngài có pháp danh là Tỳ khưu Bhūridatta 2. Xuất gia rồi ngài chăm lo học thiền Minh sát ( Vipassanā) với đại đức Sao 3 tại chùa Liap. ĐIỀM MỘNG TIÊN TRI Lúc mới khởi sự hành thiền minh sát với Thầy đại đức Sao, ngài Bhūridatta đã chọn pháp môn niệm Phật làm đề mục thiền quán mà ngài thích nhất. Ban đầu, không đem đến cho ngài sự tịnh lạc, an vui theo ý nguyện khiến cho lắm lúc ngài hoài nghi giá trị của nó. Nhưng ngài bền chí gia công niệm mãi, và cuối cùng, ngài đã đạt được một độ nhất tâm và hưởng được sự an vui tịnh lạc quá sức hy vọng của ngài. Thế rồi, một đêm nọ, ngài nằm chiêm bao: Ngài mơ thấy mình đi ra khỏi cổng làng, băng ngang một khu rừng rậm, có nhiều chổ cây cối mọc chi chít, chằng chịt, không chừa một lối đi. Nhưng ngài ráng sức vượt qua tất cả chướng ngại và sau cùng thoát ra khỏi khu rừng, để thấy một cánh đồng không mông quạnh, thẳng tắp tới tận chân trời, ngài lại tiếp tục cuộc hành trình với những nổ lực không ngừng. 1. Phra Acharn : Thầy đại đức ; tiếng Thái, dùng để tôn kính gọi Tăng 2. Bhūridatta : (có nghĩa là nhiều trí tuệ) là tên của vị Bồ tát, tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thực hành hạnh Ba la mật. Vì bồ tát muốn thoát kiếp làm rồng nên lên nhân gian thực hành tu bát quan trai giới, và tu thập thiện giới. Và Ngài đã phát nguyện rằng: "Kẻ nào mong được da, thịt, máu và xương trong thân thể ta, thì tùy sở thích". Do đó, tuy bị thầy rắn làm khổ sở đau đớn, nhưng thay vì dùng oai lực thần thông của mình để bảo vệ mình Ngài lại chấp nhận mọi sự khổ đau để giử lời nguyện, và thực hành được xâu xa pháp nhẩn nhục Ba la mật (Khanti pāramī). 3. Thầy Đại đức Sao Kantasīlo (1859-1942) : là người sanh ở tỉnh Ubon Ratchathani. Là vị thầy hướng dẩn giới thiệu ngài pháp tu thiền đề mục hay thiền nghiệp xứ (kamma-ţţhāna): Dọc đường, ngài gặp một cây đại thọ nằm chắn ngang lối đi. Cây nầy thổ ngử Thái gọi là Jāt 4 (hay cây Sanh). Thân cây rất to lớn, bị hạ đã nhiều năm qua, hiện còn nằm lún dưới đất một phần, vỏ và ruột đã mục nát hiện rõ nên ngoài. Ngài bèn trèo lên đi trên thân cây mục ấy, và quán sát thấy rỏ là nó đã hết phương mọc lại được nữa rồi. Khi ấy, ngài biết rằng sự sanh của ngài trong vòng tử sanh sẻ phải chấm dứt. Thân cây Jāti (sanh) ngã nằm đây ngài xem như những kiếp sanh của ngài trong vòng luân hồi. Thân cây đã hết phương mọc được tượng trưng cho sự sanh của ngài lần này sè là lần cuối, nếu ngài kiên tâm nổ lực không ngừng. Còn cánh đồng bao la, rộng khắp bốn phương trời, tượng trưng cho cái vòng tử sanh bất tận. Ngài còn đang đứng trầm ngâm quán sát những nghĩa lý nầy thì bổng hiện ra một con ngựa kim màu trắng to lớn đi về phía ngài và đứng bên thân cây sanh. Tự nhiên ngài mong muốn cỡi nó. thế là ngài lên ngựa, và nó tức khắc phi nước đại chạy đi. Ngài không có ý quyết định đi đâu hoặc làm gì cả, chỉ biết là mình đã đi được một quãng đường rất xa, trong cánh đồng mênh mông vô cùng tận. Trên đường, ngài nhìn thấy một cái tủ lộng lẩy chạm bạc công phu trong có chứa một bộ Tam tạng kinh. Dường như chiều theo ý ngài, con ngựa đưa ngài đến trước tủ đựng Kinh. Ngài xuống ngựa với mục đích là mở cửa tủ Kinh, thì lập tức con ngựa biến mất. khi ngài bước tới thì lại thấy chổ đang đứng là bìa một khu rừng rậm hoang vu, mịt mù khói tỏa, đầy gai góc, lùm bụi xoắn chặt nhau không thấy lối đi. Khi ấy ngài định mở cửa tủ Kinh để xem thì ngài thức dậy. Điềm tâm ảnh (Nimitta) nầy khiến cho ngài tin chắc rằng ngài sẻ có thể đạt đạo, chứng quả trong hiện kiếp, nếu như ngài không bỏ dở dang những nổ lực của ngài. Từ đó trở đi ngài càng tinh chuyên trì niệm danh hiệu Phật trong mọi lúc. Đồng thời ngài nghiêm trì những hạnh đầu đà mà ngài chấp thọ từ lúc thọ Tỳ Khưu, nghiêm chỉnh thực hành cho đến lúc mất. Đó là những hạnh :1.Mặc y phấn tảo, từ chối những y dâng đến tận tay _ 2. Đi bát hằng ngày không sót, trừ những ngày phát nguyện nhịn ăn _ 3. Không thọ vật thực đem đến sau _4. Chỉ thọ vật thực để trong bát khi ngài đi trì bình _5.Mổi ngày chỉ ăn một bửa, và độ trong bát _6. Chỉ mặc Tam y – ngài có dùng khăn mặt (dùng để lau thân mà đó là điều cần thiết trong thời đại nầy _7. Ngụ trong rừng, có nghĩa sống và ngủ trong rừng hay nơi hoang dã trong hang núi, hoặc dưới hòn đá cheo leo (trừ ra khi có người thỉnh ngài vào tỉnh thành trong một thời gian ngắn). Ngoài ra đôi lúc khi ngài có thể ngài cũng thọ thêm những hạnh khác trong 13 hạnh đầu đà. Tuy nhiên trong suốt cuộc đời ngài đã nghiêm trì 7 hạnh đầu đà trên và đó trở thành nhân cách sinh hoạt thường ngày, và khó có thể tìm được người như vậy. Ngài luôn lôn kiên trì và quả quyết không bao giờ đổi ý trong bất cứ việc gì mà ngài đã quan tâm nghĩ tới, dầu là pháp hành bên ngoài (hạnh đầu đà , v. v..) hoặc hoạt động nội tâm (Minh sát). Đời sống của ngài là sự hoàn toàn dùng cho mục đích giải thoát, với những nổ lực xả ly liên tục trong việc tiêu trừ phiền não bên trong. Có rất ít dịp may cho tánh cống cao ngã mạn lẻn được vào tâm trí ngài, mặc dầu thật tế , lúc bấy giờ ngài vẩn còn là hạng phàm phu như bao nhiêu người khác. Nhưng , ngài khác hẳn họ ở chổ : thay vì để tâm bay nhảy tự do, bị phiền não sai sử thì ngài thường trực ở trong tỉnh thức, phòng ngừa các thứ phiền não, và luôn khởi chiến và tấn công nó một cách can đảm. Điều nầy, về sau , ngài có thuật lại chúng tôi mới biết. Sau đó khi tâm ngài đã được thiết lập vững vàng, tiện dụng cho việc suy tư quán xét, ngài mới hồi tưởng đến điềm chiêm bao khi trước và dần dần hiểu rõ : nếp sống của một gia chủ, là nơi tụ tập của tất cả mọi thứ khổ, giống như khu rừng già là nơi chứa chấp mọi thứ tai nạn. Trái lại , nếp sống phạm hạnh tu theo pháp Phật , chuyễn hóa tâm thức khỏi thế giới độc hại hiểm nguy tới một khoảng không bao la là cảnh giới của sự an lạc, thoát khỏi những sợ hải, đau khổ . 4. Tương tự trong tiếng Pali là Jati nghĩa là sanh, (gồm luôn sự chết ) Còn con bạch mã cao lớn ngài cỡi chính là đường lối tu theo pháp Phật, là đường đạo giải thoát, nhờ nó mà đưa ngài đến nơi tự tại. Và khi gặp tủ bạc chạm trổ công phu, chứa Tam tạng kinh mà chỉ có thể nhìn, vì lẽ ngài còn bất toàn, nên chưa đủ khả năng học hiểu trọn cả bộ Tam Tạng, do đó ngài không thông suốt về mặt văn hóa của Phật giáo, như vậy ngài không trọn vẹn đạt tuệ thuộc về bốn loại đó là : 4 vô ngại biện tài 5 , cần thiết cho một vị pháp sư biện tài vô ngại, thông suốt nghĩa lý và phương pháp giáo hóa, có trí tuệ cao sâu như trời biển, khả dĩ làm thầy của tất cả chúng sanh trong tam giới 6. Theo lời ngài, thì ngài chưa đầy đủ pháp ba la mật để đạt được mục đích nầy, và đó là lý do khiến cho ngài chỉ được nhìn bên ngoài tủ kinh Tam tạng chứ không mở đọc thông suốt toàn bộ giáo lý bên trong. Ngài tiếp lời rằng : ”Khả năng dạy dỗ người khác của ngài chỉ có thể xem như là sơ đẳng hoặc nhập môn để chuyển tiếp tới những pháp tu cao hơn “. Về sự kiện nầy dầu cho nó hiển nhiên chăng nữa, thì đối với các đệ tử thân tín đã được học hỏi, và tu hành dưới sự hướng dẩn của ngài, thì có một việc rõ ràng là mổi đề tài giảng đạo, thuyết pháp của ngài đều phi thường và cảm kích làm sao, thật không thể dùng lời nào mà tả cho xiết ! Ở thời đại mới, người ta biết tìm đâu ra một lối giảng dạy Dhamma ăn sâu vào tâm thức mà không bao giờ quên được ? LINH ẢNH TRONG THIỀN ĐỊNH Trong thời gian ngài đang tham thiền, với đề mục niệm Phật (Buddho) ở tại chùa Liap. có một hôm tâm ngài lắng dịu và một linh ảnh hiện ra : trước mặt ngài, một tử thi thúi rục, sình chương, bị những con thú ăn dơ như là kên kên, quạ và chó tranh nhau sâu xé . .. và không bao lâu, tử thi ấy bị rứt ra từng mảnh, rải đi khắp cả mặt đất chung quanh, thấy vậy ngài xúc động mảnh liệt, vừa nhờm gớm, vừa mõi mệt. Sau khi tâm ngài rút ra khỏi từng thiền, ngài kềm giử cái linh ảnh trong tuệ nhản của ngài làm đề mục chánh trong mọi lúc cả ngày lẩn đêm, trong bốn oai nghi : đi, đứng, nằm, ngồi . Ngài tiếp tục quán tưởng cho đến một ngày kia, hình ảnh tử thi đó biến thành ra một cái đĩa tròn trong suốt lơ lững trước mặt, quán cái đĩa nầy lâu thì thấy hiện ra đủ thứ cảnh vật khác nhau, những hình ảnh không ngớt thay đổi liền liền, chắc là kết quả của tánh hiếu kỳ của ngài đang khao khát muốn coi thử cái gì sẻ tiếp theo. Có lúc, hình như ngài đang trèo lên những hòn núi cao, kế đó ngài lại thấy mình cầm một thanh kiếm và mang một đôi hia, rồi đi bách bộ trên núi, một lúc khác, trước mặt ngài bổng hiện ra một bức tường cao lớn có một cánh cửa, ngài mở cửa ra nhìn thấy một vài vị Tỳ Khưu đang tham thiền phía bên trong. Kế đó, phong cảnh mở rộng ra cho thấy những sườn núi cheo leo và hang đá gần đâu đó, trong vài cái hang lại có đạo sĩ ẩn cư. Lại một lúc khác nữa, ngài thấy món đồ giống như cái nôi hoặc cái thúng từ sườn núi thòng xuống. 5. Catu Paţisambhidā : Bốn tuệ vô ngại biện tài: 1. Biện tài về nghĩa ( attha-Paţisambhidā) trí về nghĩa: là biện tài giảng dạy minh bạch một giáo lý vắn tắt, có khả năng dự đoán tiên tri những hậu quả, quán thấy chuyện vị lai. Ngài Ca Chiên Diên (Katyayāna) là vị đệ nhất về nghĩa đế. 2. Biện tài về pháp (Dhamma-Patisambhida) trí biết về pháp: là khả năng ngược lại biện tài về nghĩa, có khả năng tóm gọm những chi tiết phức tạp, và mô tả dài dòng, để cho dễ nhắc sơ qua và ghi nhớ, quán thấy chuyện quá khứ. 3.Biện tài về ngôn từ (Nirutti- Paţisambhidā) trí biết về tất cả ngôn ngử , văn tự để trình bày pháp và nghĩa 4. Biện tài về trí (Paṭibhāna- Paţisambhidā) trí biết về các loại trí hoặc biện thuyết vô ngại: là thông suốt cách trình bày và giảng thuyết cho thích ứng với mọi trường hợp.biết áp dụng các phương tiện thiện xảo cho từng trường hợp. có khả năng giải quyết ổn thỏa một tình trạng khủng hoảng hay biến cố bất ngờ. 6. Tam giới : Là ba cõi sinh tữ : 1. Dục (có nam nữ dâm dục), 2. Sắc (không có nam nữ , tâm của chúng sanh nhập định hữu sắc, nghĩa là đề mục thiển định là vật hữu hình) và 3. Vô Sắc giới (không có sắc thân chỉ có thần thức, tâm của những chúng sanh đã nhập định vô sắc : nghĩa là đề mục không phải là vật hữu hình). Ngài thấy mình bước vào trong cái thúng ấy và được nhấc lên khỏi vực thẳm để thấy một chiếc thuyền to trên đó, trong thuyền có cái bàn vuông. Khi ấy, hòn núi bật sáng lên vì có ánh sáng phía sau nó. Và sao đó ngài lại thấy mình độ cơm trên đỉnh núi đó nữa. Đó là cách phong cảnh đổi thay biến hiện liền liền trước mặt ngài, như phim chớp bóng, chứ không dẩn ngài tới đâu cả. Ròng rả ba tháng trường, cứ hể ngồi thiền nhập định là ngài toàn thấy những cảnh tượng không đâu ra đâu, biến hiện không ngừng, không biết đến bao giờ mới dứt. Còn kết quả nội tâm thì chẳng có chi đích đáng cả. Sau những thời tọa thiền kiểu đó, thì tâm ngài trở nên xúc động mạnh đối với hình ảnh và âm thanh bên ngoài. Khiến cho ngài khi vui, khi buồn khi thì thích điều nầy, khi thì ghét điều kia. Hiển nhiên là ngài không thể giử được tâm bình đẳng, điềm tĩnh bằng cách ấy. Bấy giờ ngài tĩnh ngộ, tin chắc rằng đó không phải là chánh đạo đưa đến giải thoát. Nếu nó đúng thì tại sao không thể kiên định giử được trạng thái an nhiên, tự tại của tâm. Ngược lại tâm ngài lại bị phân tán, dao động trước những sắc bên ngoài mà tâm tiếp xúc – cũng giống như người bình thường không có tu tập gì cả . Rồi ngài kết luật rằng : “chắc chắn là việc săn đuổi, hoặc sự chú tâm hướng theo cảnh bên ngoài, là nghịch với nguyên tắc hành thiền, đoạt mất sự an lạc bên trong do hành thiền mang lại”. -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,321 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
của vị nầy đã phát triển đến mức nhạy bén. Vị này rất mộ đạo và tinh tấn, thuyết pháp rất hay, và hành xử rất thông minh, mặc dầu vị nầy “thất học” không biết chử. Không may vị nầy mắc bệnh sưng phổi cấp tính. Căn bệnh kéo dài, cho nên vào một buổi sáng khoảng 7 giờ, thì vị đó ra đi một cách bình thản, lúc đó tôi được chứng kiến sự ra đi một cách nhẹ nhành, thanh thản. Tôi rất kính phục vị nầy.
Lúc chết là lúc chính chúng ta kiểm soát số phận của chúng ta, không ai khác làm được, cho nên khi sống chúng ta phải làm tất cả để phát triển những khả năng để khi đó chúng ta sáng suốt mà đi tới nơi an toàn. Lúc vị đó sắp mất thì đại đức đang họp chúng để sắp sửa đi khất thực, ngài dừøng lại chứng kiến cảnh nầy. Ngưng một giây lát, ngài quán tưởng và sau đó ngài nói với các vị Tăng: “Các ông không nên lo cho vị nầy nữa, ông ta đã tái sinh vào cỏi Quang Âm thiên Abhasvara, là cõi thứ 6 trong Phạm thiên giới. Cũng tạm yên . Nhưng đó củng là một sự tũi thẹn, vì nếu ông ta sống lâu hơn một tí và với sựï tinh tấn hơn nữa ông ta có thể giác ngộâ thêm những chân lý nội tâm, mà có thể tái sinh vào một trong 5 cỏi của cảnh trời Vô Nhiệt Śuddhāvāsa. Ở đó thì ông ta sẻ tu tới cho tới khi hoàn toàn giải thoát. Không phải tái sinh vào trong vòng tử sanh nữa. Thế còn các ông, Sự tái sinh nào mà các ông chuẩn bị cho mình ? Là một trong các loài thú, loài ngạ quỉ, loài địa ngục, hay là loài người, loài Trời hay Niết Bàn. Là loài gì ? nếu muốn chắc biết thì hảy nhìn vào tâm mình, coi hướng đi của nó là đi đâu. Hảy xét nghiệm ngay bây giờ con đường mình đang đi, là tốt hay xấu. Bởi vì tới lúc chết thì không quay lại được. Ai củng biết lúc chết là xong, không thể làm gì hơn được nữa sau đó.” Cái chết thứ hai, là vị ở tỉnh Ubon Ratchathani. Người bị mắc bệnh sốt rét và tháng sau thì chết. Cái chết của vị nầy được một người bạn đồng tu sống trong chùa biết trước trong lúc định. sáng hôm sau vị đó găïp đại đức để nói về chuyện nầy: “ Trong khi ngồi định đêm qua, thì con thấy một hình ảnh kỳ lạ. Con thấy thầy đang đứng trước một giàn hỏa và nói , Thiêu vị Tăng đó tại đây, đây là nơi thích hợp. Con thật sự không hiểu, phải chăng là vị tăng đang bệnh sốt rét sẻ phải chết vì căn bệnh đó ? Con thấy tình trạng vị đó bết lắm” Đại đức liền trả lời:” Ta đã xét nghiệm trường hợp nầy từ lâu, và vị nầy mạng căn sắp chấm dứt, không làm gì được nữa. Nhưng ông ta không chết một cách vô ích, vì ta đã nhìn thấy tâm của ông ta : cũng rất tốt. Vị nầy tiến rất xa. Nhưng ta tuyệt đối cấm ông không được nói cho ai, hay ông ta vì nếu như biết được mình sắp chết thì ông ta sẻ thất vọng, làm tình trạng bệnh đi xuống nhanh và làm cho tinh thần dao động, việc nầy sẻ gây trỡ ngại cho việc tái sinh vào các cảnh giới tốt lành. Thất vọng là một cảm xúc rất có hại trong cách nầy, thì đây là rõ rệt.” Vài ngày sau đó , thì tình trạng bệnh của người nầy đột nhiên trỡ nên trầm trọng và vị đó ra đi một cách bình thản vào lúc 3 giờ sáng. Điều nầy nhắc nhở tôi rằng là đại đức đã điều tra các hiện tượng xuất hiện trong lúc định rất kỹ càng, và sau khi thấu triệt thì ngài bỏ qua để chúng theo con đường của chính nó. Có một hôm vào buổi sáng, một vị tăng sốt cao vì bệnh sốt rét cho nên vị ấy không đi khất thực mà ở lại chùa để dùng pháp dược để trị cơn đau, từ sáng cho tới khoảng 3 giờ trưa. Sau đó thì cơn đau giảm dần, cảm thấy mõi mệt vị đó chỉ tập trung vào những điểm bị đau thôi. Đại đức Mân đã dùng tâm mình xem sét bệnh trạnh của vị nầy, vào chiều hôm đó khi vị ấy thăm đại đức, thì rất ngạc nhiên khi nghe ngài nói: ”Làm sao ông lại quán như vậy hả . Làm sao mà ông hiểu được sự thật về thân , về cơn đau, và tâm khi ông chỉ tập trung vào một điểm. Hảy dùng các tuệ trực giác mà quán cả ba thứ. Trong cách đó thì ông sẻ hiểu rỏ bản chất của từng cái một. Cái cách của ông làm là cái tập trung mà người ta thấy ở một vị du sĩ ngoại đạo, nó có tất cả các sức mảnh liệt tập trung của loài chó đang cắn lộn nhau. Đó không phải là cách hành đúng đắn của một vị Tỳ Khưu muốn tìm hiểu sự thật ở trong cái thân , cái đau và tâm. Lúc ban trưa ta xét nghiệm coi ông hành như thế nào để trị cái đau của cơn sốt, thì thấy ông lại chỉ tập trung vào cái đau. Không dùng chánh niệm và tuệ đề quán cả 3 thứ : Thân, cái đau, và tâm. Chỉ có cách nầy là hữu hiệu để chữa cơn đau, bệnh.” CỌP LÀ NGƯỜI THẦY HAY Khi đại đức nghĩ một lời khuyên nào mà có ích cho đệ tử thì ngài nói trực tiếp vơi người đó, nói ra một cách thẳng thừng. “Ông tốt hơn là đi tới cái hang đó để hành thiền thay vì ở trong chùa, vì tánh tình của ông thích hợp cho sự cứng rắn, sự áp lực. Hảy tìm một con cọp làm thầy của ông. Cái sợ cọp sẽ khuất phục cái tâm ông, làm tâm ông định . Giác ngộ pháp bằng cách nầy thì ông có thể có sự thõa mản. Ở đây trong chùa thì không tốt cho ông. Những kẻ bướng bỉnh, cứng đầu thì cần cái khó để làm mềm dẽo , để uốn nắn lại. Vì cọp là kẻ quấy rầy rất tốt. Ai mà sợ cọp thì hảy lấy cọp làm thầy , vì tốt hơn là lấy kẻ khác làm thầy mà không sợ. Nếu sợ ma thì lấy ma làm thầy để bắt tinh thần có kỷ luật. Sợ thứ gì nhất thì lấy kẻ đó làm thầy. Đây là cách mà kẻ thông minh áp dụng để bắt mình chịu tu.” Trước khi xuất gia , thì vị Tăng mà đại đức khuyên là một người táo bạo, một là một hai là hai, nếu vị đó nói làm, làm làm không sợ . Vị đó là người bướng bỉnh, nhưng theo cách của một vị Tăng. Sau khi nghe đại đức khuyên, vị nầy suy nghĩ và đi tới quyết định là phải đi. Và tới từ giả thầy. Vừa mới gặp đại đức liền hỏi :”Ông làm gì vậy, Y áo có vẻ tươm tất, bộ sẳn sàng đi chiến đấu hả?” “Con thì đi chết ở cái hang mà thầy nói” “Ông nói cái gì ? Ta nói ông đi chết hay là đi hành thiền”. “Dạ Thầy nói là con đi hành thiền ở đó, nhưng con nghe các Tăng khác nói là có một con cọp to đang sống ngay phía trên hang. Hang nó gần cái hang mà con sắp ở. Đi tìm mồi thì nó sẻ đi qua cái hang của con. Con nghĩ là mình khó sống, con chỉ muốn nói ra sự e sợ của con thôi”. “Nhiều vị Tăng đã ở đó trước kia, và nhiều lần như vậy rồi, mà không ai bị cọp ăn thịt. Tại sao tự nhiên bây giờ con cọp lại muốn ăn thịt ông ? Thịt của ông khác thịt người khác như thế nào mà con cọp thích ăn thịt ông ? Ở đâu mà ông có loại thịt ngon như vậy để mà cọp chỉ muốn vồ ông mà không vồ người khác ?” Đại đức giải thích bản tánh lừa bịp của tâm, mà đánh lừa người ta trong quá nhiều cách để mà biết được. “Nếu ông không xem xét mọi thứ , và thử nó với thái độ phê phán, phân biệt rõ ràng, thì ông khó mà điều phục tâm được. Ông sẻ bị đánh lừa bởi vô vàn mưu mẹo mà tâm nghĩ ra, ông sẻ không bao giờø có thể điều phục được nó. Ông sắp sửa ra đi, nhưng đã nghe lời thì thầm của phiền não rồi, mà không nghe lời của thầy ông. Làm sao mà ông có thể làm gì được ? Mọi người trên thế gian chưa chết, nhưng ai cũng sợ chết, còn sống là cái mồi nhữ người ta đi tới cái chết thì không ai sợ. Ai cũng ham sống. Ta không hiểu tại sao người ta lại đam mê sống như vậy. chỉ một kiếp sống trong thân thể thô trược nầy thì đã có quá nhiều đau khổ , và lo âu. Giả sử người ta mà giống như măng tre thì cái ham muốn sống của một người đã trồi lên hàng trăm, hàng ngàn người khác mà không sợ rằng tất cả cái sợ chết cộng lại ảnh hưởng như thế nà. Lúc đó cả thế gian ở trong tình trạng khủng hoảng mà không ai sống được. Ông là kẻ tu hành, một chiến sĩ được huấn luyện để can cường anh dũng trên mặt trận tâm linh. Thế mà ông lại sợ chết còn hơn người thường. Tại sao ông lại để phiền não quấy rối ông như vậy. Ông có chánh niệm, và tuệ để bảo vệ mình, tại sao lại không dùng nó , để tấn công, để đuổi nó những phiền não ranh ma ẩn náu trong tâm. Đến lúc đó thì ông mới thấy mình ngu như thế nào, chịu thua phục tòng phiền não, mới biết là nó đã cai trị chiếm được mình. Sự chiến thắng của một chiến sĩ thì phụ thuộc vào lòng quả cảm trên chiến trường. Nếu sợ chết thì đi chiến đấu làm gì ? Chỉ có cái vô úy, không sợ chết mới chiến thắng được kẻ thù. Nếu ông muốn giải thoát đau khổ , thì phải coi cái sợ chết là một dạng đau khổ, một sản phẩm của phiền não trong tâm của ông. Nếu ông muốn giải quyết vấn đề nầy thì phải đứng vững trên chiến trường như một kẻ chiến thắng, như ta nói. Hảy kiên trì thì ông sẻ thấy cái tai hại của cái sợ làm cho tâm thần người ta điên đão, và chỉ gây ra đau khổ . Tốt hơn là bây giờ đối mặt nó, chớ đừng bám giử , ôm nó trong lòng để nó đốt cháy ông từ từ và rồi ngày nào đó thì ông sẻ than khóc. Ông tin vào sự thiêng liêng cao cả ở thầy và ở pháp hay là ông tin vào cái sợ mà phiền não thải ra trong tâm ông, cái sợ cướp đoạt mất sự chánh niệm và tuệ cần thiết để trừ phiền não. Nhìn chung quanh thì chỉ thấy toàn là cọp đang chực ăn thịt mình. Thế là sao ? Hảy nghĩ kỹ về điều nầy. Ta biết chắc là đã nhờ cách huấn luyện nầy mà ta tu tập tốt.” Tâm vị đó bừng sáng lên, và vị đó hăng hái lên đường. Đến hang, sau khi bỏ đồ xuống, đi quan sát khu vực chung quanh thì thấy dấu chân cọp còn mớùi in, lúc này thì vị nầy toát mồ hôi vì sợ, bao nhiêu sự tự tin khi nghe thầy nói biến đâu mất. Cộng thêm nửa tự nhiên bệânh sốt rét lại tái phát. Cơn sốt , và cơn sợ làm cho vị đó muốn điên lên. Ngồi suy nghĩ kỹ về quyết định của mình làm, và lời khuyên của thầy. Vị nầy đi tới quyết định là ra trước vực sâu mà ngồi hành thiền, lưng quay về phía trong con đường mà cọp hay đi. Chớ không hành thiền trong hang chờ cọp tới. Vị đó nghĩ nếu không có giử được chánh niệm mà rơi xuống vực thẳm thì cũng khỏi làm phiền ai. Sau khi ngồi trước vực thẳm, thì vị đó niệm câu Buddho, một cách chú tâm như thể nếu sơ ý thì sẻ chết liền vậy. Ngồi niệm câu Budho, đồng thời tĩnh giác quan sát tâm. Khi biết rằng cái sợ rơi xuống vực sâu thì hơn là sợ cọp. Thì vị đó lập tức thu hết chánh niệm và tuệ để niệm câu Đức Phật Đà hay là quán về cái sợ chết, tùy theo cái nào khởi lên từng lúc trong tâm . Hành như vậy, bên bờø cái chết. Không bao lâu tâm vị đó trụ vào sự nhất tâm và tới Tịnh Chỉ định. Khi ấy thì vị đó hoàn toàn quên lãng đi những xáo trộn, rối loạn đã từ lâu ngự trị ở trong tâm. Còn lại chỉ là cái tĩnh giác về tâm, lúc đó thì cái sợ đã biến mất. Lúc đó là khoảng 10 giờ tối. An lạc trong Tịnh Chỉ định vị nầy không muốn ra , ở trong định cho tới 10 sáng này hôm sau. Mở mắt ra thì mặt rời đã mọc lên cao, quá trể cho việc đi khất thực. Nên ngày đó nhịn đói. Sau khi ra khỏi định thì vị ấy thấy mình không còn sợ nữa, mà thay vào đó là lòng can đãm mà trước kia chưa bao giờø kinh nghiệm qua. Đồng thời cơn sốt của bệnh sốt rét cũng hoàn toàn hết. Sau nầy vị đó không còn cơn bệnh sốt rét hành hạ nữa , hoàn toàn khỏi hẳn. Vị ấy thấy rằng Pháp dược đã chửa được cơn bệnh và nổi sợ cọp. Hai điều nầy không bao giờ phiền nhiễu vị nầy nữa. Vị nầy có thể đi bất cứ nơi nào, và sống bất cừ ở đâu. Trong những ngày sau đó, thỉnh thoảng vị đó muốn cọp thình lình xuất hiện để thử coi mình như thế nào, có còn sợ không ? Bây giờ thì vị nầy đã biết cái tâm hoạt động ra sao, và thầm cảm ơn đại đức Mân đã biết cách chỉ dạy mình. Khi mà biết nơi nào cọp hay đi qua thì vị đó ngồi ngay giữa đường mà hành thiền. Còn ở trong hang thì ban đêm không ngồi dưới cây dù có màn che muổi. Tuy không còn sợ nhưng vị ấy không đạt được định như ý muốn, tùy lúc tùy nơi mà có định sâu. Vào một đêm đang ngồi ngoài trời, thì tâm vị nầy không chịu vào định, mặc dầu hết sức . Ngồi đó trong sự thất vọng, thì vị đó nghĩ : không biết con cọp to lớn đang sống trong khu vực nầy đang ở đâu, nếu nó đi tới thì có lẽ mình nhập định được.” Khi nghĩ như vậy không lâu khoảng nữa tiếng đồng hồ thì vị ấy nghe tiếng chân của một con thú lớn. Lúc đó khoảng 2 giờ sáng. Và vị ấy bị kích động, và nghĩ : À giờ của ngươi đã tới, bây giờ thì ngươi vẩn bình thường, hay là sợ con cọp sẻ phóng tới, gặm vào cổ nhà ngươi? Nếu nhà ngươi không muốn làm bữa ăn cho cọp thì hảy chạy đi tìm nơi an toàn đi. Vị đó tập trung hết tinh thần vào hình ảnh con cọp phóng tới gặm vào cổ mình. Khi mới vừa có sự tập trung thì tâm vị đó vào Tịnh chỉ định rất sâu. Khi đó thì tất cả đều tan biết , người sợ , cọp hay cái sợ không còn nữa, chỉ còn lại là tâm và pháp hòa lẩn nhau . Một kinh nghiệm thật kỳ diệu, không bút nực nào tả nổi. Vị ấy an trú trong định như vậy cho tơi 10 giờ sáng hôm sau, tất cả là 8 tiếng đồng hồ. Khi xuất định thì mặt trời đã mọc cao rồi, nên vị đó không đi khất thực và ngày đó lại nhịn đói. Không biết có phải là mình nghe lầm không, vị đó đi quan sát thì thấy dấu chân cọp , dấu chân đi từ xa tới cửa hang, và quẹo qua phía khác. Toàn bộ sự kiện là điều kỳ lạ. Vào tịnh chỉ định thì khác nhau do cá tánh của mổi người , có người vào rất nhanh giống như rơi xuống vực xâu. Mọi hoạt động giác quan đều ngưng, có nghĩ là không biết gì về các dấu vết do ngoại cảnh tác động qua các giác quan. Tâm của vị đâây là một trường hợp. Như sau nầy vị Tăng nầy kể lại, thì lúc tâm vào định thì mọi thứ liên quan tới tâm qua các giác quan đều biến mất. Chỉ khi nào ra khỏi định thì các nhận thức bình thường mơi trở lại. Nhưng vị đó nói là khó mà nhập định như ý nếu không có gì gây áp lực. và nói đó là lý do vị nầy hay đi tìm những nơi có vẻ sợ mà hành thiền. Vị nầy kề lại trong khi ở cái hang đó để tập tu định , thì có những hiện tượng lạ xảy ra. Là có các vị địa thần, đến thăm và nói chuyện. Điều lạ nữa là ai ở trong làng mà chết thì vị ấy đều biết . Vị ấy nói kiến thức như vậy không biết nó từ đâu đến. Nó chỉ tự động khởi lên trong tâm. Và lúc nào cũng đúng. Vị ấy nói :”Chổ tôi ở cách làng khoảng 5 dậm, vậy mà cũng có người tới mời tôi làm đám ở nghĩa địa. Điều nầy là cái phiền hà cho tôi. Nếu có ai vừa mói chết là tôi biết rằng ngày mai là sẻ có người tới mời tôi, và tôi sẻ phải đi. Đúng như vậy, khi có người chết là họ tới mời tôi. Họ nói Tăng ở vùng nầy hiếm. Họ không có cách nào khác là làm phiền tôi. Họ tin tưởng người chết sẻ có lợi khi có một vị Tăng làm lể ở nghĩa địa cho người chết. Tôi rất thương xót cho họ nên phải đi. Có những lúc tôi nhịn ăn để gia sức hành thiền, nhưng những chuyện như vậy thì làm tôi phải bỏ dỡ.” Vị đó nói con cọp đi kiếm ăn ban đêm như các con thú khác, nhưng nó thì không quan tâm đến vị đó, mặc dầu nó hay đi ngang qua trong lúc vị ấy hành thiền. Và nhờ nó mà thúc đẩy vị ấy tu. Khi ở Ban Nong Pheu , đại đức Mân rất hài lòng về tăng đoàn của mình. Có tới hai, ba chục vị ở với ngài trong mùa an cư nhưng không có một rắc rối nào. Tất cả đều hòa thuận như nước với sữa. Thật là một cảnh đáng khích lệ. Đến giờ đi bát , không ai bảo ai, tất cả đều xếp hàng một vào làng khất thực. Trong làng có một cái bàn dài dùng để chư tăng ngồi đọc kinh để chúc lành cho dân sau khi nhận thức ăn. Sau đó thì về chùa, cùng ngồi ăn chung theo thứ tự trên dưới mà ngồi, và ăn trong một sự im lặng. Khi ăn xong thì ai nấy đều rửa bát của mình, để khô rồi cất vào trong bao đựng bát và đem đi cất ở chồ để bát một cách ngăn nắp. Sau đó thì ai nấy tự động đi vào khu rừng chung quanh chùa, tìm nơi thích hợp, hoặc đi hoặc ngồi để tu, tới khoảng 4 giờ trưa thì ai nầy đều tụ tập lại giúp nhau dọn dẹp chùa và khu vực chung quanh, khi dọn dẹp xong thì đi xách nước ở giếng, đồ vào các lu nước khác nhau, cái dùng dùng đề uống, cái để rửa chân, cái để hay giặt y áo, và cái để rửa bát. Sau một buổi tắm chiều nhanh chóng ở ngoài giếng, thì ai nấy lại tiếp tục hành thiền cho tới giờ đi ngủ, nếu bửa nào không có họp chúng để nghe pháp. Đại đức thường thì cứ 7 ngày họp chúng một lần. Trong dịp nầy thì các đệ tử nghe pháp và hỏi nếu có gì thắc mắc trong việc hành thiền của mình. Mặc dầu ai cũng có thể gặp ngài vào những giờ ngài rảnh để hỏi những vấn đề gặp phải trong sự tu của mình. Thường thì ngài rảnh lúc sau khi thọ thực, và vào lúc 5 giờ chiều, và 8 giờ tối. Nghe đại đức Mân giảng pháp và trả lời các câu hỏi của các đệ tử là một kimh nghiệm rất thích thú. Không những các Tăng ở chung với ngài hỏi pháp và các vấn đề , mà các Tăng đang tu rải rác trong khu vực cũng tới hỏi pháp và các vấn đề mà cá nhân gặp phải trong lúc tu hành. Thỉnh thoảng đại đức kể lại những chuyện trong quá khứ vơi tính cách giáo dục. Đại đức kể các chuyện hồi nhỏ, những chuyện lúc ngài làm sa di, và thời gian làm Tỳ Khưu. Có những chuyện làm cho chúng tôi bật cười , nhưng có những câu chuyện làm chúng tôi rất thương xót cho thầy vì những gian khổ khó khăn mà ngài đã trải qua. Một vài câu chuyện về giác ngộ thì làm chúng tôi say mê. Được sống chung lâu dài với một vị thầy tốt thì có rất nhiều lợi ích. Vì người đệ tử phải dần dần thay đổi cách hành xử của mình cho phù hợp giống hay gần giống như Thầy của mình. Và môi trường an toàn mà vị thầy tạo cho học trò thì việc tu hành khó mà đi lầm lạc. Được nghe pháp thường xuyên làm cho pháp in sâu vào tâm. Hơn nữa sự hiện diện của thầy làm cho người đệ tử lo sợ, và việc la rầy giúp cho đệ tử tinh tấn cao, và có chánh niệm. Tất cả chúng tôi đều vui sướng khi được sống và tu chung vơi đại đức Mân. Giả sử nếu như mà chúng tôi có sự suy nghĩ không hợp lý, thì chắc niềm vui sướng đó sẻ trở thành nổi thất vọng và bực mình. Tôi chẵng thể nói dùm người khác được, riêng bản thân tôi thì cách giáo dục nghiêm khắc, hay la rầy của ngài là phương pháp rất thiện xảo trong việc giáo dục các người đệ tử. Đối với tôi đại đức Mân là một người đệ tử A La hán của đức Phật trong thời đại ngày nay. Ngài rất can đảm và tự chủ trong lối sống. Không bao giờ khuất phục trước quyền năng của phiền não . Ở tuổi già, ngài có thể nghỉ một chút, không cần phải ráng sức, nhưng việc đi kinh hành của ngài thì không giảm sút. Ngay cả người nhỏ tuổi cũng không bì kịp. Hoàn thành bổn phận giáo dục chúng sanh khác với lòng đại từ bi. Ngài luôn tin tưởng vào học trò. Lối giáo dục biểu hiện tánh kiên cường của ngài, biểu hiện cuộc sống đầy can đảm, nghị lực , phấn đấu của ngài trong việc giải thoát tử sanh . Lời nói của ngài thẳng thắn , trung thực, đánh mạnh vào tâm thức người học trò làm họ tinh tấn và quả cảm trong việc giải thoát đau khổ của chính họ. Ngài ít khi nào dể dãi, thỏa hiệp , nhân nhượng với cái dỡ của người học trò. Ngài thành tâm tôn kính lời giáo huấn của đức Phật, từ lý tới thực hành. Thật khó mà tìm người như vậy ở thời nay. Ngài đã làm sống lại 13 chi của hạnh đầu đà, mà người nay không còn quan tâm đến . Sư thật là Thầy của ngài là đại đức Sao và ngài đã làm khơi dậy cách tu nầy ở miền Đông bắc Thái Lan. Mổi hạnh đầu đà đều có một mục đích khác biệt. Nói chung, hạnh đầu đà gây dựng cho một vị Tỳ Khưu nào đúng đắn hiểu rõ ý nghĩa của hạnh đầu đà mà mình thọ, và thực hành đúng, một khả năng cao để trừ tất cảø các phiền não của vị đó. BỊ BỆNH LẦN CUỐI Vào tháng Ba năm 1949, thì đại đức Mân đã sống ở Ban Nong Pheu được 5 năm rồi. Đúng vào ngày 14 của tháng 4 âm lịch thì sức khẻo của ngài đi xuống thấy rỏ. Cho thấy dấu hiệu của sự sắp ra đi. Lúc đó thì ngài 79 tuổi. Đại đức bệnh nặng làm mọi người trong Tăng đoàn lo âu. Đại đức sốt cao và ho. Tình trạng ngày càng xấu. Ai cũng lo , nhưng đại đức thì biết rằng đã tới lúc ra đi. Từ đầu và những lần sau đại đức đã bảo với mọi người là ngài không dùng thuốc, và không cần chữa trị. Nếu có ai mang thuốc tới thì ngài không bằng lòng và nói rằng : “Đây là cơn bệnh của một kẻ già đã tới mức cuối của cuộc sống. Bất cứ uống thuốc gì đi nữa cũng không hết bịnh. Tất cả còn lại chỉ là hơi thở, đang chờ tơi lúc ngừng hẳn. Ta như cái cây đã chết, dù các ông có tưới nước, bón phân đi nữa cũng không làm nó ra hoa kết trái được. Cái cây già chết nầy chờ ngày nó ngã xuống. Đốn ngã bời căn bệnh nầy. Ta đã xét nghiệm tình trạng của ta từ lâu trước khi triệu chứng xuất hiện. Nên ta đã báo trước cho các ông: Chớ có tự mản. Nhanh chóng hảy tinh tấn lên, vì ngày nào ta còn sống thì ta còn giúp được các ông trong mọi vấn đề. Bỏ lỡ cơ hội nầy, thì các ông sẻ phí rất nhiều thời gian ở tương lai. Ta sẻ ở đây không lâu đâu. Ta sắp rời khỏi thế gian nầy, đúng như định luật vô thường, cái gì do các điều kiện mà hợp thành, thì sẻ phải tan rả , không có ngoại lệ. Ta đã báo cho các ông ba năm về trước, là ta không sống lâu hơn 3 năm nữa. Giờ thì nói gi đây ? Công việc làm của Ta Bà có trong mổi người, trong mổi loài hoạt động theo chương trình sẳn có của nó không thể khác được. Chỉ vài tháng là xong công việc của nó, làm sao mà nó có thể trì hoản được ?” Mổi ngày sức khẻo ngài càng đi xuống, đại đức rất bực mình khi người ta kẻ mang thứ thuốc nầy, người mang thứ thuốc khác xin ngài dùng, nhưng ngài đều từ chối và bảo rằng chỉ có giàn hỏa là chửa được căn bệnh nầy thôi. Các đệ tử người dân thường ai nấy đều nài ép ngài , đôi lần vì thương xót cho họ nên ngài dùng, và vì không muốn họ thất vọng vì nghĩ là ngài không chịu chữa bệnh. Tin ngài bệnh nặng lan truyền đi khắp nơi, tuy đường xá hiểm trở nhưng dân chúng, Tăng, cũng như người tín tâm quanh vùng ai nấy đều muốn tới thăm ngài, có kẻ đi không được cũng mướn xe bò đi tới. Do cá tánh của ngài , đại đức thích sống một mình. Ngay cả các Tăng sống chung với ngài cũng ít gặp ngài nếu không là chuyện cần thiết. Giờ một số đông người tới thăm bệnh lại càng làm cho bệnh tình thêm nặng. Khi ngài bệnh thì ngài không muốn cho đệ tử ngay cả người thân cận nhất chăm sóc. Ngài muốn tự làm một mình. Nếu ngài cho phép thì vị Tăng đó phải rất là thận trọng. Việc chọn người săn sóc rất là cẩn thận, chỉ có ai ngài cho phép mới làm. Khi sức khẻo ngài quá yếu thì có một vị Tăng được chọn để chăm sóc. Vì tánh ngài rất cẩn trọng và tỷ mĩ nên vị Tăng mổi lúc phải quyết định việc gì nên làm và theo sát các Tăng khác coi họ có thực hiện đúng như vậy không. Khi Tăng, và người Tín tâm đến thăm bệnh thì họ chờ ở chòi khách, chờ lúc thuận tiện vị Tăng làm phận sự nầy vào báo cho ngài biết và khi được cho phép thì vị Tăng dẩn khách đi theo vào cốc mà thăm hỏi. Sau khi thăm hỏi thì được dẫn ra. Ai tới cũng phải đều như vậy, chỉ trừ những bậc tôn giả có quan hệ mật thiết với ngài thì sau khi được thông báo, và chấp thuận thì họ đi thẳng vào trong phòng của ngài, thăm hỏi mà không có vị Tăng tri khách đi theo. Một tháng trôi qua, sức khẻo ngài giảm dần, mặc dầu triệu chứng bệnh không trầm trọng lắm. Ai nấy đều buồn vì ngài chiếm một vị trí quan trọng trong tâm tư của họ. Tuy sức khẻo yếu kém, nhưng ngài cũng không bỏ các cuộc nói pháp, nhưng lần này thì ngài không ban cho những cuộc nói pháp giống như trước nữa, sau khi giảng pháp, và trả lời thắc mắc, thì ngài đi thẳng về phòng mà nghỉ. Điều kỳ lạ là khi nói pháp trước đại chúng , thì ngài không tõ ra dấu hiệu suy yếu nào. Vẩn giọng nói to, hùng hồn, tinh thần nhạy bén. Khi nhấn mạnh điểm nào thì ngài thay đổi giọng nói mạnh bạo liền, không giử điều gì cả khi ngài nói. Chỉ sau khi xong ,thì mới thấy ngài rất mệt Vào một buổi chiều trước khi có triệu chứng bệnh, đó là vào rằm tháng giêng năm 1949. Đại đức họp chúng vào lúc 8 giờ tối để nói pháp và không chấm dứt vào lúc nữa đêm. Tất cả là 4 tiếng đồng hồ. Năng lực của pháp mà ngài ban cho trước một đám đông các Tăng đầu đà thậât là kỳ diệu. Ai nấy đều say mê không còn biết thời gian nữa. Tất cả không gian đều tan biến mất, còn lại chỉ là dòng pháp tuôn chảy từ tâm thanh tịnh của một vị giác ngộ đến các tăng nghe pháp. Ai nấy đều không biết gì hơn là ánh sáng từ bi của ngài đang tõa ra mọi phương. Ngài bày tõ lòng tôn kính đối với sự kiện 1250 vị tháng tăng A La Hán tự vân tập về, mà không ai bảo ai, vào ngày rằm tháng giêng 27 vào lúc đức Phật còn tại thế. “Vào ngày này lúc đức Phật còn tại thế, thì 1250 vị A La hán đồng tập hợp tại nơi Đức Phật ở tại chùa Trúc Lâm ở thành Vương xá (Ràgajaha), mà không ai bảo ai, không dự định trước. Tất cả họ đều là người hoàn toàn trong sạch, thanh tịnh và không còn phiền não. Vào ngày này thì chính đức Phật Thế Tôn đã cổ vủ giới bổn Tỳ Khưu Pātimokkhā. Khiến cho ngày nầy là ngày của sự Bố Tát thanh tịnh Visuddhi Uposatha. Đó là nghi thức cử hành bởi những vị Tăng hoàn toàn thanh tịnh. So sánh Tăng đoàn đó vơi Tăng đoàn đây. Các ông nghe đọc tụng giới, giữa các người hoàn toàn lem lố. Không một ai trong số các ông là hoàn toàn không có phiền não. Thật là điều buồn lòng, khi các ông được xuất gia thọ giới, đều cùng là con của đức Phật, như các Vị La hán đó cũng là con của đức Phật. Nhưng trường hợp các ông thì chỉ là giả danh , không có thật. Giống như người có cái tên gọi là “Hiền nhân” nhưng thật sự thì bị kéo chìm bởi hành vi xấu ác của mình. Vào thời đức Phật một vị tăng hành đúng theo pháp, và hiểu một cách đúng đắn, không có một tà lệch nào. Ngày nay thì danh tiếng và sự khen ngợi của một số vị cao hơn cả mặt trăng, mặt trời, nhưng hành vi thì lại chìm nặng sâu hơn cả địa ngục A tỳ. Nơi nào mà họ tìm thấy chân, thiện mỹ ? Họ chỉ tích chứa phiền não, tạo các ác nghiệp đề rồi mang đi theo, chớ không trừ khử phiền não trong tâm. Làm sao mà có sự Bố tát thanh tịnh. Khi được thọ giới làm Tăng, thì họ coi là điều hiển nhiên thanh tịnh, đạo đức. Họ không có một chút khái niệm thế nào là một vị Tỳ Khưu có đức hạnh. Nếu họ hiểu đúng việc tuyên ngôn của đức Phật về việc hành trì giới luật thì họ biết thế nào là đức hạnh. Đức Phật tóm gọn đức hạnh trong các ba điều sau : không làm các điều ác. Phải tu nhiều các hạnh lành, và trí tuệ, và thanh lọc tâm ý làm nó trong sáng. Đó là những điều cốt yếu mà đức Phật dạy. Không làm ác có nghĩa là gì ? Có người không làm ác, nhưng lại nói ác, có người có thể không nói ác, nhưng lại nghĩ ác. Họ tích tụ điều ác từ sáng đến tối, ngày nầy qua ngày khác không bao giờ tự mình quay lại nhìn hành xử của chính mình. Cứ nghĩ mình là người có đạo đứùc, rồi ngồi chờ thanh tịnh đến với mình. Họ không bao giờ tìm thấy được sự thanh tịnh, mà nếu thấy thì chỉ thấy sự ô uế, sự bất an. Đây là điều chắc chắn xảy ra cho những ai muốn tìm rắùc rối như vậy, và loại người dó thì không thiếu trong thế gian nầy.” Đây là cách đại đức nhấn mạnh căn bản của giới luật, mà hi vọng rằng các Tăng đang tu, thấy được phần nào sự thật trong đó. Và sau đó ngài giải thích cách tu định, và tu tuệ, từ căn bản cho tới hoàn toàn giải thoát , ngài chỉ dẩn căn kẻ, công khai không giử lại điều gì. Sau khi giảng xong thì ngài, cũng như lúc ở chùa Chedi Luang ở Chiang Mai trước đại chúng, ngài nói đây là bài pháp cuối mà ngài có thể trình bày một cách như vậy. Thật sự như lời tiên tri, sau đó thì ngài không giảng cho bài pháp vi diệu thâm sâu và dài như vậy nữa. Một tháng sau thì có triệu chứng bệnh và sức khẻo ngài suy yếu đi từ đó. Mặc dầu suy yếu nhưng ngài vần cứ muốn đi khất thực và ăn chỉ một bửa. Sau đó thì ngài không thể hoàn thành cuộc đi khất thực từ đầu làng cho tới cuối làng mà chỉ đi được nữa đoạn đường trong làng, sau khi nhận thức ăn xong rồi ngài về chùa. thấy việc đi bộ xa quá gây khó khăn cho ngài, nên một số cư sĩ và Tăng trưởng họp bàn là yêu cầu ngài chỉ đi tới cổng chùa thôi , vì người dân họ muốn mang tới cổng chùa cúng thức ăn. Nếu mà yêu cầu ngài đừng đi khất thực khi ngài còn nhấc chân nổi thì điều đó làm ngài không vừa ý , đó là điều tồi kỵ khi mà đề nghị với một người có cá tính như ngài. Không ai muốn làm phật ý ngài. Nên ngài đi bộ hàng ngày, khi bệnh tới cổng chùa để nhận thức ăn, và cuối cùng không đi được nữa thì ngài cũng chỉ ăn một bửa , và ăn từ trong bát của ngài, cho tới lúc ngài mất. 27. Rằm tháng giêng là ngày lễ lớn trong truyền thống Phật giáo, đánh dấu buổi nói kinh Giải thoát Giáo, coi như bản tuyên ngôn về tôn chỉ tu tập, và hoằng pháp của một vị Tỳ Khưu, trước một đại hội thánh tăng toàn là những vị hoàn toàn thanh tịnh, và các ngài hoàn toàn im lặng chấp thuận. Cũng là ngày kỹ niệm ngày đức Phật tuyên bố đạo tròn , duyên mãn, công việc hoằng pháp của ngài đã xong và trong 3 tháng nữa đức Phật sẻ ra đi. Và là ngày Pháp bảo, theo truyền thống Nam tông Phật Bảo là ngày rằm tháng 4, và Tăng Bảo là ngày rằm tháng mười, ngày lề dâng y Kathina. Điều nầy làm cho chúng tôi hết sức ngạc nhiên về khả năng chịu đựng của vị thánh tăng nầy. Không chịu khuất phục. Về sau bệnh tình rất trầm trọng, chúng tôi thay phiên nhau một nhóm 3,4 người ngồi dưới cốc của ngài để canh chừng bệnh tình. Điều nầy chúng tôi tự làm, không cho cho ngài biết vì biết chắc là ngài sẻ la khi chúng tôi làm như vậy, nhưng lòng yên mến đối với thầy của mình đã làm cho chúng tôi làm như vậy , thay phiên nhau mà canh chừng theo dõi bệnh tình của ngài. Khi tình trạng sức khẻo xuống quá , thì chúng tôi xin ngài cho phép hai vị tăng được ngồi hành thiền ở ngoài hiên bên ngoài cốc của ngài và hai vị được ngồi ở dưới gần đó, và ngài chấp thuận. Cuối cùng vào một ngày, đại đức tập họp tất cả các đại chúng có những vị Tăng đang sống chung với ngài và một số dân làng lại mà nói: “ Căn bệnh của ta đã tới giai đoạn cuối, bây giờ là lúc phải nghĩ cái gì sẻ xảy ra lúc ta chết. Phải có sự chuẩn bị. Như ta đã từng nói vơi các ông nhiều lần là ta sắp chết. Đây là điều chắc chắn. Cái chết của Ta là sự kiện lớn, không những ảnh hưởng tới dân chúng, mà còn tới loài thú. Ta muốn nói rõ cho các ông nghe là ta không muốn chết ỡ nơi đây tại Ban Nong Pheu. Nếu mà ta chết ở đây, thì sẻ phải sát sanh một số gia súc để nuôi miệng ăn các người tới đây dự đám tang. Ta chỉ là một kẻ sắp chết , mà cái chết của người nầy lại kéo theo cái chết của một số chúng sanh ở loài vật khác. Ở nơi đây là chổ hẻo lánh, không có chợ búa , không có thực phẩm để mà mua bán. Từ khi thọ giới làm Tỳ Khưu ta chưa bao giờ có ý nghĩ làm hại một loài thú vật nào, chớ đừøng nói là giết. Từ bi là căn bản của sự hiện hữu nhận thức của ta. Ta muốn tiếp tục trãi lòng từ và hồi hường công đức ta có được cho tất cả mọi loài không phân biệt. Ta chẳng thấy loài thú phải mất cái mạng mà chúng rất quí. Ta không muốn cái chết của ta là nguyên nhân của sự thù hằn giữa ta và loài thú. Ta muốn các ông mang ta tới Sakon Nakhon, là nơi thị tứ có chợ , nơi mà cái chết của ta không ảnh hường nhiều đến các loài thú. Ta bây giờ chưa chết mà Tăng cũng như dân chúng đã lũ lượt tới thăm, ngày càng gia tăng, bây giờ đã là vấn đề rồi. Tới lúc ta chết thì ra làm sao. Nhiều người tới thương tiếc cho cái chết của ta, nhưng đó không phải là điều ta quan tâm tới. Ta đã chuẫn bị cho cái chết từ lâu rồi, chết ở đâu và lúc nào thì không thành vấn đề. Ta chẵng tiếc rẽ cái thân nầy nữa. Ta đã xét nghiệm thấy rõ sự thật là cái gì do nhân duyên hợp các đại lại với nhau thì có lúc nó sẻ phải tan rả trở về bản tánh của chúng. Chẵng có gì đề mà phải bám víu ? Điều ta quan tâm ở đây là sự an toàn của các loài gia súc ở đây, chúng không cần phải tan rả bây giờ vì ta. Ta không muốn thấy người ta treo bán đầy đường các xác chết ở trong làng. Đó là cái cảnh đầy thương tâm. Nhưng còn may là bây giờ chúng ta có thể ngăn chặn được. Do đó ta muốn các ông phải sắp xếp đưa ta tới thành phố Saklon Nakhon ngay. Không được chậm trể. Ta muốn bày tõ là mạng sống của các gia súc ở đây được bảo vệ, các ông ở đây có ai muốn nói gì không ? Nếu muốn thì cứ nói ngay bây giờ “ Cả đại chúng đều im lặng, ai cũng buồn. Bây giờ thì ai cũng biết là ở đây tại Ban Nong Phue hay tại thành phố Sakon Nakhon thì ngài cũng chết. Như lời đức Phật dạy : Không đạt những gì mình muốn là một sự đau khổ . Tất cả đều im lặng chấp nhận sự yêu cầu của ngài. Trước buổi họp, thì dân chúng trong làng đã tới gặp các vị Tăng huynh trưởng và bày tõ ý định của họ là dù họ nghèo nhưng cũng đủ khả năng làm lể cho một người như đại đức Mân, họ sẽ hết lòng chu cấp cho đám tang. Họ không muốn người khác nói cái làng nầy không đủ sức để lo cho một vị tôn giả như ngài. Bất cừ gì xảy ra thì họ cũng đều thật tâm muốn cúng dường tất cả những gì họ có, thân và tâm. không từ chối điều gì. và họ sẳn sàng làm mọi cách để giử thi thể ngài lại ở đây. Khi nghe ngài tuyên bố như vậy thì dân chúng rất buồn , nhưng họ không làm gì được vì đây là ý muốn của đại đức. Khi nghe ngài nói như vậy thì vị tăng trưởng nhất vội sửa soạn ngay, họ cùng bàn cách làm cái cáng để mang ngài đi. Sáng hôm sau thì dân chúng và chư Tăng mang cái cáng được làm xong đứng chờ ngài tại cốc. Ai nấy đều buồn thảm vì sắp phải xa một người mà họ rất tôn kính. Sau khi dùng bữa cơm sáng thì mọi người tụ tập tạt chùa để đưa tiển ngài. Sự xúc động dâng cao khi dân chúng tụ tập đông đủ, nhiều người rơi lệ , có cả những vị Tăng không kiềm chế được sự xúc động. Một lúc sau đại đức xuất hiện, được các tăng dìu đi xuống cầu thang và lên cáng nằm. Lúc nầy thì mọi người không còn kềm chế được nữa. Ai nấy đều khóc. Ngay cả tôi là người đi tháp tùng theo ngài cũng không giử được cảm xúc. Dân chúng khóc, cầu xin ngài hảy khẻo lên để đừng bỏ họ. Nhưng chuyện ra đi là điều không thể tránh được, không ai có thể làm gì được trong lúc này. Sau khi rời khỏi làng thì vẩn còn nghe tiếng khóc . Hàng trăm người dân chúng cũng như Tăng sĩ đi theo đoàn một hồi lâu, mới trở về. Bệnh tình của ngài đứng yên, không suy giảm nữa trong suốt cuộc hành trình. Ngài không tỏ ra là người bị bệnh, thật ra thì có vẻ như ngài đang ngủ say, nhưng thật là thì không phải vậy. Khi chúng tôi ngừng nghỉ ở dưới một tàn cây lớn để thì ngài lập tức hỏi:” Chúng ta đang ở đâu vậy” Câu hỏi làm chúng tôi không chuẩn bị kịp ai nấy đều giật mình. Cuộc hành trình tới Sakon Nakhon được chia ra làm hai giai đoạn. Giaiđọan đầu là đi nhanh cho tới chùa Ban Phu ở quận Phanna Nikhom, và nghĩ ở đó vài ngày để dưỡng sức và để đại đức Mân được tịnh dưỡng sau nhiều giờ nằm trên cáng. Chúng tôi 9 giờ sáng khởi hành thì đến tối mơi tới được chùa Ban Phu. Đi lâu vì chúng tôi phải tránh các chổ gập ghềnh vì sợ ngài bị dằn , và sợ khó nhọc cho một số người dân già cả đi theo đoàn. Ở chùa Ban Phu nhiều ngày, thì bệnh tình của ngài càng trở nên xấu, lúc nầy thì dân chúng cùng tăng sĩ đến thăm, đi đưa ngày càng nhiều. Ban đêm cũng có người tới chùa. Phần lớn chẵng ai biết ngài trước đó, họ chỉ nghe tin là có một A La Hán sắp nhập Niết Bàn, họ tin lời đồn rằng gặp được một vị A La Hán thì có lợi ích cho nên ai, họ cũng tới đãnh lễ vì sẻ có phước cho tương lai. Ngay sáng hôm sau tại chùa Ban Phu thì đại đức đã nhắc chún gtôi là ngài không muốn chết ỡ đây, phải nên đi gấp. Vị Tăng trưởng trả lời là muốn ngài nghĩ một thời gian trước khi lên đường. Ngài im lặng không nói gì. Sáng hôm sau ngài lại hỏi chừng nào lên đường vị huynh trưởng lảo lại trả lời là muốn ngài nghỉ ở đây cho khoẻ trước khi lên đường và ngài lại im lặng. Ngày nào ngài củng hỏi như vậy, cuối cùng sau 4, 5 ngày như vậy thì họ yêu cầu ngài xin được ở tại chùa Ban phu 10 ngày rồi lên đường. Ngài la các Tăng:”Bộâ các ông muốn ta chết ở đây hay sao ? Ta đã nói từ đầu là ta muốn chết ở Sakon Nakhon. Đã sắp tới giờ rồi, hảy nhanh lên, đừøng chần chờ .” Còn khoảng 3 ngày nữa thì ngài liên tục nhắc nhở , và vào đêm cuối thì ngài không chịu nằm, mà nhờ người vực dậy ngồi kiết già nhập định, quay mặt về phía Sakon Nakhon, sau khi xuất định bảo chúng tôi chuẩn bị đi ngài không thể chờ được nữa, thấy vậy chúng tôi vộâi đi kêu các vị tăng trưởng lảo, vào họ hứa với ngài là sáng mai đi. Tuy vậy ngài vẩn không chịu nằm xuống, mà nói rằng: “Giờ điểm của ta đã tới, ta không thể chờ nữa, ta muốn đi ngay đêm nay, vì chắc là sẻ tới Sakon Nakhon đúng lúc. Ta không muốn gánh cái thân thể nặng nề nầy nữa. Ta muốn vứt bỏ đi lần nầy là lần cuồi, cái thân thể đầy đau khổ và bất hạnh. Các ông là Tăng bộ không biết là ta sắp chết sao. Thân ta lúc này vô dụng rồi. Không có lý do nào để mà giử cái thân rắc rối nầy nữa. tai sao các ông lại muốn trể nãi cuộc hành trình. Đã tới Sakon Nakhon chưa, tại sao mà còn ở đây ? giử cái xác vô dụng nầy làm gì chẳng lợi cho ai cả, ngay cả làm nước mắm cũng không được ? Ta đã nói với các ông rồi, là thân thể nầy đã tơi mức giới hạn của nó rồi, thế tai sao không ai nghe ta , không còn muốn làm theo lời ta. Ta đã nói ra ý của ta, nhưng các ông lại không nghe theo, lại làm theo ý của mình. Nếu còn giử thái độ như vậy thì làm sao các ông hiều rõ sự thật. Có mặt ta ở đây, ta còn sống mà không chịu nghe theo, làm sao các ông trở thành người tốt được khi ta chết đi. Ta đã nói rõ cho các ông, thế mà các ông lại bướng bỉnh không chịu nghe theo. Ta bắt đầu mất niềm tin là sẻ có người trong số các ông tin hiểu đúng mà gìn giử giáo pháp.” Đại đức rất kiên quyết không chịu đi ngủ suốt đêm đó, mà ngồi định. Tôi nghỉ rằng chắc ngài không muốn ngủ vì sợ không thức dậy nổi, nhưng sau nầy thì tôi mới vở lẽ biết lý do. Sáng hôm sau khoảng 7 giờ thì đoàn xe vận tải của bộï giao thông tới, dần đầu là bà Nun Chuwanon, bà ta mời ngài lên xe, ngài chấp thuận vơi điều kiện là phải chở theo tất cả các Tăng cùng đi tháp tùng theo ngài. Họ trả lời là có 3 xe vận tải lớn, nếu như không chở đủ thì họ sẻ vòng trở lại chở những người sót lại. Ngài im lặng chấp thuận. Sau khi phái đoàn ăn sáng xong thì mọi người lên đường . Một vị bác sĩ tiêm cho ngài một liều thuốc ngủ để ngài không bị hành hạ trênn đường đi. Vì thời đó đường xe có rất nhiều ổ gà, không bằng phẳng như bây giờ. Sau khi ngài đi ngủ thì phái đoàn lên đường. Đúng trưa thì tới Sakon Nakhon. Họ khiêng cáng ngài vô trong chùa Suddhawat, vô trong cốc thì ngài vẩn chưa tỉnh ngủ. Đến nửa đêm thì ngài thức dậy, chỉ một giờ sau đó, thì dấu hiệu chết bắt đầu hiện rõ, như lời báo trước của ngài với các vị đệ tử mù, điếc không chịu nghe theo lời của ngài, những dấu hiệu hiện rõ như lời nói : Thấy chưa, đó là lý do tại sao ta kêu các ông hảy nhanh chóng mang ta tới đây Sakon Nakhon . Ta muốn nhanh chóng vưt bỏ cái đống đau khổ nầy. Dấu hiệu hiện rõ ra , nếu các ông chưa hiểu tin thì hảy nhìn kỹ, nếu các ông chưa tin lời ta thì giờ hảy nhìn kỷ coi, ta có nói sai không ? Hảy đùng làm kẻ đui mù điên khùng nữa, nếu không thì sẻ không khi nào tìm thấy trí tuệ để mà cứu các ông. Hảy nhìn đây lấy đó làm bài học. Hảy tinh tấn lên. Có những vị đại đức quan trọng tới chứng kiến, như đại đức CHao Khun Dhammachedi ở chùa Bodhisomphom ở Udon Thani. Khi nghe tin thì khẩn cấp tới. Tất cả ngồi im lặng ngay ngắn nhìn về phía đại đức nằm, vị cao tuổi hạ ngồi phía trên, nhỏ tuổi thì ngồi dưới. Tất cả có ba hàng người ngồi. Lúc đó ngài nằm theo thế sư tử. Sợ ngài kiệt sức nên vài vị kéo chiếc gối đở ngài để ngài nằm thẳng trên lưng nhưng ngài biết liền trở mình về phía phải, nhưng không đủ sức nữa . Thấy vậy một vài vị tôn giả định kê chiếc gối lại để đở ngài về chổ củ, nhưng không dám vì sợ làm tình trạng xấu hơn. nên cuối cùng thì ngài ra đi không nằm xấp, cũng không nằm hẳn về phía phải. Ai cũng chăm chú nhìn ngài, hơi thở của ngài yếu dần cho tới lúc khó mà phận biệt, và cuối cùng thì dường như ngưng hẳn. Không ai biết lúc nào ngài ra đi. Cái chết của ngài khác hẳn người bình thường. Mặc dầu có rất nhiều vị chứng kiến nhưng không ai biết đích xác là ngài ra đi từ lúc nào, có thể biết được là ngài còn thở nữa không . Chờ hồi lâu không thấy một sự sống nào, thì đại đức Dhammachedi ngập ngừng tuyên bố là ngài đã ra đi, lúc đó là 2:23 phút sáng 28 . Lời tuyên bố làm cho mọi người trong phòng xúc động mạnh. Có vài tiếng nấc mạnh, rối thì sau đó im lặng. Bản thân tôi lúc đó thì gần như muốn vở tim vì buồn và xúc động. Sau một hồi lâu im lặng, thì các vị đệ tử trưởng lảo bảo các vị tăng khác làm giường đởû ngài nằm ngay lại. Chờ ngày mai bàn chuyện làm đám . Sau đó thì mọi người đều ra khỏi phòng, chỉ có vài vị là ngồi ở bên ngoài hiên, mặc dầu cả chùa đều có lồng đèn để soi sáng, nhưng ai nấy như kẻ mất hồn không biết đi đâu, cứ đi tơi 1đi lui, còn có vài vị thì ngất xỉu. Bản thân tôi lần đầu tiên trong cuộc đời tu hành, tôi cảm thấy trống trải, buồn và bối rối không biết mình sẻ làm gì bây giờ. Mổi khi nhìn thấy thân thể bất động của ngài thì nước mắt lại trào ra. 28. Đại đức Mân ra đi vào ngày 10 tháng 11 năm 1949, tính theo dương lịch. ĐÁM TANG Sáng hôm sau thì tin ngài mất được lan truyền đi khắp nơi các chư tăng và nhân viên chính phủ ai cũng hay và họ lần lượt tới viếng và đảnh lể thi thể của ngài. Sau khi bàn thảo với các vị đệ tử trưởng lảo, thì họ đi tơi quyết định là làm lễ long trọng cho xứng đáng vơi danh phận của ngài. Họ thông tin qua đài truyền thanh, và nhắc tin trong báo ở trong khắp cả nước để báo tin ngài chết. Biết tin từng đoàn người ở khắp nơi về để viếng thăm thi thể của ngài. Khi ngài còn ở chùa Ban Phu dân chúng tơi thăm cúng dường phẩm vật rất nhiều không kể hết, kỳ này thì ngoài sức tưởng tượng. Trong đời sống thì lúc nào ngài cũng được người tín tâm cúng dường dù cho ngài ở trong rừng sâu thì cũng có người lặn lội vào tìm mà cúng dường những phẩm vật quí hiếm. Nhưng đại đức là người rộng lượng, ngài cho tất cả những thứ mà ngài nhận để giúp đở người khác, không cần biết nó hiếm và giá trị như thế nào. Ngài không giử lại một thứ gì, nếu so sánh về vật chất sở hữu thì không có vị Tăng nào có thể nghèo hơn ngài được. Nhưng nếu mà tính các thứ mà người ta cúng dường cho ngài thì thật là đồ sộ vĩ đại. Nếu được ai cúng dường, thì ngài liền cho người khác những ai đang cần. Những cái mà ngài cho còn nhiều hơn là ngài nhận được, vì khi không có vật chất để cho thì ngài lại nghĩ những cái khác giúp, và ngài làm mà không ai biết, những ngôi chùa chung quanh khu vực ngài ở thì đều không khi nào bị thiếu thốn. Kết quả của một đời sống hi sinh vì người khác, mà lúc ngài chết thi thể quàn tại chùa Suddhawat, mà người ta lũ lượt mang phẩm vật tới cúng đường. Những vị tăng lỗi lạc thảo luận cùng chính phủ và họ quyết định dời ngày hỏa thiêu thi thể của ngài cho tới ngày 31 tháng 1 năm 1950 tính theo dương lịch , đó là một ngày trăng tròn sáng. Và họ làm một quan tài đặc biệt để giử thi thể ngài. Vàolúc 4 giờ trưa thì một số đông quan khách và chư Tăng, Sa di dự lễ khâm liệm thi thể ngài. Thi thể được mặc khoát y mà ngài thường mặc, và sau đó thì được quấn nhiều lần vải trắng ở bên ngoài. Và được đặt vào trong cổ quan tài đặc biệt mà phía trước làm bằng kiếng. Để ai chưa bao giờ thấy ngài được thấy thân, không phải thất vọng. Tăng đoàn, hướng dẩn bởi đại đức Dhammachedi tổ chức các buổi đọc kinh ban đêm vào giảng pháp để truy điệu ngài. Dân chúng địa phương cũng như chính phủ tự họ cũng tồ chức các buồi lễ truy điệu ngài. Từ lúc ngài mất, hằng trăm, hàng ngàn vị tới Sakon Nakhon để đảnh lễ thi thể ngài, có những vị sau đó ở lại. Riêng trong chùa cũng hơn 100 vị ở đề lo cho việc tang lễ và chuẩn bị sang năm làm lề hỏa thiêu . Tuy nhiên người dân trong vùng ai nấy hết lòng cúng dường nên không bao giờ thiếu. Cảnh tượng người dân hết lòng phụng sự làm cho tôi luôn ghi nhớ sự kiện nầy. Lúc gần tới ngày hỏa thiêu thì số người tới rất đông riêng các chư Tăng và Sa di đang cắm trại ở trong rừng quanh chùa cũng đã lên tơi 800 người, chưa kề con số hơn 700 các vị Tăng khác đang ở trong các ngôi chùa lân cận. dân chúng thì không kề xiết ở ở khắp nơi, ở trên đường phố, trong rừng, ngoài đồng, vì khách sạn không đủ chổ. Vơi một số người đông như vậy nhưng lúc làm lể hỏa thiêu thì ai nấy đều giử gìn trật tự không ồn áo, chỉ thấy có nghe tiếng từ máy phát thanh vang dội tường trình buồi lễ mà thôi. Người ta được đoán là có vài chục ngàn người tham dự lể. Buổi lễ được thựïc hiện theo đúng nghi thức truyền thống của Tỳ Khưu tu theo thiền nghiệp xứ. Không có màn trình diễn nghi thức nào khác. Thức ăn, thức uống được người tín tâm cúng dường cho đại chúng dự buổi lễ chất cao như núi. Vải và gạo được cúng dường cho mọi người thì chất cao như núi. Bản thân tôi là người Thái, thì thấy Thái Lan tuy Thái Lan là một nước nhỏ, nhưng dân chúng Thái Lan được nhiều người biết tới vì lòng hảo tâm, vì sự cúng dường. Trong suốt thời gian hành lể thì không có một vụ xô xát , cải nhau, hay mất đồ, móc túi xảy ra. Khi tìm thấy vật rơi thì họ mang tới chùa. và chùa giử dùm, thông báo cho người mất tơi nhận. Nếu là tiền thì chùa chỉ thông báo chung là có số tiền đánh rơi chớ không nói chính xác là bao nhiêu hay đựng trong ví nào, để người chủ đánh rơi đến nhận mà không phài là kẻ giả mạo. Buổi lể truy điệu ngài mất 4 ngày 3 đêm trước khi xác ngài được mang đi hỏa thiêu. Hàng đêm vào khoảng 8 giờ tối thì chư Tăng tụng kinh để truy điệu ngài , sau đó thì giảng pháp cho Tăng và dân chúng. Sau thời pháp thì dân chúng cúng dường vị pháp sư. Sau đó vào buổi sáng, sau khi thọ thực xong thì người dân tín tâm họ đi cúng đường vải may y áo cho chư Tăng và thời gian cúng dường kéo dài suốt buổi. Người tín tâm ở khắp mọi nơi đến mong muốn cúng dường các chư Tăng. Để tiện viêc cúng dường, thì ban tổ chức dùng hệ thống phát thanh công cộng. Khi người tín tâm muốn cúng dường một vị Tăng hay một nhóm Tăng nào đó , thì tên của vị đó, nhóm đó được thông báo trên loa phát thanh, và được mời tới giảng đường để cho kẻ tín tâm được cúng dường. Vì không thể nào dể tìm được người muốn gặp ở trong một số lượng người đông như vậy, cho nên ban tổ chức có một danh sách những vị Tăng, Sa di đến dự lể. Khi một vị Tăng, Sa di nào tơi thì ban tổ chức đều yêu cầu xin ghi tên đăng ký. Cho nên việc cúng dường được thực hiện rất chu đáo trong vòng trật tự và trang nghiêm. Việc cúng dường thực phẩm trong suốt 4 ngày lể cũng rất đầy đủ. Tất cả các vị Tăng đều ăn chung từng nhóm từ ba, bốn chục người cho tới năm sáu chục người, ở những khu vựïc ban tổ chức sắp xếp dành riêng cho, vì số lượng người đông. Nhóm nhỏ thì ăn ở trong khu vực phòng ốc mình đang ở. Khi thức ăn được mang ra thì chư Tăng tự lấy cho mình, bắt đầu từ người lớn tuổi hạ nhất rồi dần cho tới người nhỏ tuổi nhất. Và phần lớn là các sư tu thiền nghiệp xứ, nên họ không cần thìa muổng, hay chén bát cá nhân, họ bỏ chung tất cả cơm, canh, hay chè vào trong bình bát. Chỉ có một số ít vị chưa quen ăn kiểu nầy, thì được cung cấp các dụng cụ ăn. Chỉ vào ngày hỏa thiêu thì dân chúng yêu cầu được tự tay cúng dường các chư Tăng ở khu vực gần chùa. Cho nên vào ngày đó thì đoàn Tăng, Sa di xếp hàng đi khất thực, dân chúng hai bên thành kính cúng dường thức ăn. Buổi lể bắt đầu vào sáng ngày 10 âm lịch và kết thúc vào nữa đêm ngày 13 âm lịch là lúc hỏa thiêu xác ngài. Quan tài của ngài được đặt trên giàn hỏa được xây dựng đặc biệt, khu đất đó bây giờ là giới đường của chùa ngày nay. Bốn cột của giàn hỏa được chạm chổ. Nếu tôi nhớ không lầm thì đó là vào ngày 11 âm lịch. Trước khi dời quan tài của ngài từ nhà rạp tới giàn hỏa, một nghi thức nhỏ được thực hiện để sám hối những lổi lầm về việc di dời thi thể ngài. Sau đó thì được di chuyễn tơi giàn hỏa. Nhìn theo hai bên đường tất cả ai cũng buồn rầu, nhiều kẻ khóc nức nở. Tất cả còn lại là xác thân mà sắp bị thiêu hủy. Nhiều người không có may mắn thân cận đại đức nhưng họ cũng còn may mắn là chứng kiến , tham dự được buổi lễ trà tỳ cũa một vị Tỳ Khưu, người đã hoàn toàn được giải thoát. Khi quan tài được đặt lên giàn hỏa thì sự im lặng trở về. Vào cái đêm hỏa thiêu thì số lượng người đến quãng trường quá đông đứng chật cứng. Một điều kỳ lạ xảy ra khi ngọn lửa đầu tiên được đốt lên, và bùng lên thì trên trời bổng xuất hiện một đám mây, mưa rơi lất phất. Và đêm đó thì trời trong, trăng tròn , tất cả chung quanh đều sáng trong, chỉ có khu vực giàn hỏa là mưa phùn rơi lất phất. Khoảng 15 phút thì tạnh và đám mây kéo đi. Nếu bạn cho không có gì là lạ thì vào thời điểm nầy, thường thì bầu trời trong sáng chỉ có mặt trăng và tinh tú , ngay cả đêm hỏa thiêu cũng vậy, và ngay trước đó trời cũng trong sáng không một đám mây. Chỉ khi ngọn lửa đầu tiên bùng lên thì đột nhiên có một đám mây và mưa phùn nhẹ. Sự kiện nầy có thể kiểm chứng với những ai có mặt tại buổi lể đêm đó. Thay vì dùng cũi thường thì giàn hỏa được làm bằng gổ cây trầm hương. Mà Phật tử tín tâm bên kia biên giơiù ở nước Lào mang sang. Khi xác ngài được thiêu xong và thu góp các xá lợi thì toàn bộ tiến trình được giám sát bởi các vị đại diện chính phủ và Chư Tăng. Sáng hôm sau khoảng 9 giờ là lúc thu nhặt xá lợi, Các mảnh xương xá lợi được chia đều cho Chư Tăng đại diện ở các tỉnh thành, với mục đích là sẻ được an trí ở những nơi tôn kính để dân chúng chiêm ngưỡng sau nầy. Sau đó các mảnh vụn xương được chia cho các đại diện dân chúng, nhưng số người quá đông nên cũng không đủ. Nếu tôi nhớ không lầm thì có khoảng 20 đại diện các tỉnh thành nhận được xương xá lợi, Khi ban tổ chức và chính quyền làm xong nhiệm vụ thu nhặt xá lợi thì một cảnh tượng không khi nào tôi quên là dân chúng đổ xô vào khu vực thiêu ngài để lượm các thứ để làm kỷ niệm ngài sau nầy, người hốt tí tro, người nhặt cái que củi cháy dỡ, v.v. ...Cuối cùng thì toàn thể khu vực thiêu sạch trơn không còn sót thứ gì. Ai nấy đều hớn hở cầm chắc trong tay những kỹ vật mà mình có, như sợ người khác giật lấy không bằng. Trước khi ra về ai nấy đều quì lạy ba lạy ở nơi thiêu ngài. Chứng kiến cảnh như vậy tôi thầm biết ơn vị Tăng mà đức hạnh vượt quá xa tất cả mọi người . Việc dân chúng lể lạy chổ thiêu ngài không chỉ ở hôm sau khi thiêu xác ngài mà còn tiếp tục nhiều hôm sau nữa . Điểm quan trọng ở đây là cái tâm con người. Tâm con người là động lực thúc đầy mọi sự kiện xảy ra. Hàng chục ngàn người Tăng và dân chúng tới dự lể cũng xuất phát từ tâm của họ, hấp dẫn lôi kéo bởi cái tâm thanh tịnh của đại đức Mân. Mặc dầu họ vần chưa có đủ các đức hạnh mà họ mong muốn nhưng củng gây cái nhân tốt mạnh đề họ được tái sinh vào cõi người. Tất cả đều phát xuất từ tâm. Tâm kiến tạo thế giới mà họ đang sống và quyết định con đường đi tới trước. Nếu mà tâm họ luôn thiên về điều thiện thì chắc chắn mọi hành động sẻ là điều tốt. Và tất cả các con đường phát xuất từ con đường thiện thì đều mang lại an lành cho kẻ lữ hành, và cho đến một ngày nào đó khi phẩm chất thiện được đầy đủ thì chắc sẽ về tơi được nhà yên vui. -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 5th August 2025 - 06:11 AM |