![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,051 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
LỜI TÁC GIẢ
Tiểu Sử của đại đức Mahn Bhūridatta mà các bạn sắp đọc là kết quả của một công trình nghiên cứu lâu dài. Tôi đã tham khảo, đi gặp các vị đại đức đệ tử của ngài. Những người đã từng sống chung với ngài. Tôi đã góp nhặt, ghi lại và soạn ra thiên tiểu sử nầy. Tôi hoàn toàn không vừa ý khi soạn bản tiểu sử nầy, vì thật là rẩt khó để cho các Sư , các vị đã từng sống tiếp xúc với ngài diễn tả được hểt những kinh nghiệm sổng trong cuộc đời tu tập của ngài mà ngài đã nói 1ại cho các vị đó nghe. Nhưng nếu tôi chờ có đầy đủ tẩt cả những chi tiết mà các vị đó nhớ lại, thì không những e rằng thời gian sẻ làm chúng phai nhòa và mất đi, mà hi vọng ghi chép lại tiểu Sử vể ngài cũng không thành tựu được. Rẩt là khó, khi tôi phải cho hoàn thành một công việc mà mình chưa vừa ý, nhưng hi vọng của tôi là tập tiểu sử nầy giúp ích được phần nào các đọc giả quan tâm đến Phật giáo Tôi cố gắng mô tả tất cả những hoạt động của ngài theo thứ tự thời gian, và theo lối hành văn thuật lại đời sống của các vị Thánh Tăng như' đã được ghi trong các kinh điển, đồng thời cố ghi lại những bài pháp mà ngài đã giảng cho các đệ tử, mục đích là cho các thế hệ sau thấy tấm gương đạo hạnh của một bậc chân tu, người đã theo con đường chỉ dạy của đức Phật. Và cho thấy khả năng chứng đạo có thể đạt được như mô tả trong các kinh điển, nếu như có một sự gia sức, một sự nổ lực thành thật trong việc tu hành. Xin các đọc giả tha lổi cho tôi nếu như cách trình bày không có gì thích hợp. Tôi không như ý về tác phẩm nầy, nhưng vẩn xuất bản vì hi vọng các đọc giả Phật giáo có thể tìm thấy một sự lợi lạc trong việc đọc lại cuộc đời của ngài, đại đức Mahn Bhūridatta. Tỳ Khưu Mahā Bowa Ñāṇasampanno Oct, 1971 ![]() ![]() NHÀ XUẤT BẢN GIỚI THIỆU Chúng tôi hân hạnh được trình bày, nơi phụ tnương đặc biệt của tập san nầy, thiên tiểu sử của cố đại đức thiền Sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, bình sanh là vị thiền Sư nổi danh nhầt trong nước Thái, do một số các đệ tử đồng thời với ngài biên soạn. Tác giả là đại đức thiền sư Phra Ācham Boowa Ñāṇasampanno, tịnh cư trong rừng chùa Bahn Tard, thuộc tỉnh Udon , cách xa kinh đô Vọng Các (Thái Lan) lối 600 Km về phía đông bắc. Hiện nay có nhiều vị thiền sư trước đã tững là đệ tử của ngài, như đại đức thiền Sư Phra Ācham Chah đã được nêu tên trong bản của ông Douglax M. Bums nhan đề : chương trình và dự án thành lập Tăng già Mỹ . Đăng nơi trang 56 của tập san nầy, mặc dầu cố đại đức thuộc về phái tiểu thừa cải cách, do đức vua Monkut lừng danh trên thế giới lập nên, nhưng ngài có rất đông đệ tử thuộc cả hai phái, và đại đức thiền sư Phra Ācham Chah có lẻ là vị đệ tử ưu tú trong phái đại thừa vậy. Quí bạn đọc thiên tiểu sử nầy, chắc thế nào cũng quay lại bản kêu gọi kể trên của ông. Như đã nêu trên trong số tân niên của chúng tôi, quyễn sách bằng chử Thái là một đầu đề tranh luận, vừa bị đã đảo, vừa được hoan hô, giữa nhóm trí thức và nhóm bình dân, giữa phái thượng lưu và phái hạ lưu, giữa hàng vương giả và hạng bần cùng và giữa chư Tăng và các thiện tín. Như thế, không phải là vô cớ, bởi vì quyễn sách là một khuyến khích lớn cho hàng Phật tử hành thiền thấy rằng : Ngày nay, đạo quả cũng vẩn còn giác ngộ được, nhưng nó đòi hỏi những nổ lực thích ứng chân thành và mảnh liệt của những bực tu hành già giặn và chính chắn. Đối với những người chỉ thích lăn lóc trong vũng lẫy tuyệt vọng, một bản tuyên ngôn như thế làm cho họ đau khổ vô cũng, và họ ném đá đả đão đại đức tác giả, lại còn mẵng đại đức là kẻ khủng bố, là kẻ phá hoại Phật giáo nữa. Nhưng có vài người lắng tai nghe bản thông điệp của đại đức, tin tưởng rằng nếu tự họ chưa già giặn đủ để giác ngộ đạo quả ngay trong kiếp nầy, thì cũng có thể có những người khác đã đến trình độ đó. Những người nầy sẳn lòng chịu lầm lạc, nếu quả thật họ lầm lạc, chỉ vì tin quá lố – như thế còn tốt hơn phạm nhằm đại tội Ariyūpavāda là mạ lỵ , hay hủy báng một vị thánh thanh văn. Họ đặt tất cả niềm tin của họ trên cái sự kiện hiển nhiên là trong số những kẻ chỉ trích Ngài (Phra Ācham Mahn Bhūridatta) Không ai có tài năng bằng ngài, hoặc bằng phân nửa Ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh, thanh cao, giản dị và thanh khiết. Ký thác đức tin của ta nơi một người sống một đời chơn chánh thánh thiện, thay vì đặt ở nơi những người chỉ hứa giúp đở ngoài môi và còn thụ hưởng đủ thứ khoái cảm nhục lạc, há chẳng đáng khuyên hơn, được lợi ích hơn, và cũng đúng với Phật pháp hơn sao? Chúng ta tôn thờ và tin tưởng ngài, là người không bao giờ khao khát đệ tử, hoặc tìm cầu danh vọng, và làm gương cho bất luận pháp nào của ngài thuyết, há chẵng tốt đẹp nhiều hơn sao ? Chúng tôi tin rằng tác phẩm sau đây sẻ được đón tiếp nồng hậu và sẻ bị chỉ trích kịch liệt, bởi quần chúng độc giả đọc chử anh, không kém nồng hậu và kịch liệt hơn khi còn nguyên văn chử Thái. Và chúng tôi kính cẩn Xin cầu chúc : Mong Sao cho những người hằng miệt thị ngài (đại đức , hay cố đại đức ) cũng như những người hằng tôn kính ngài đều có khả năng làm được như ngài, hoặc bằng phân nửa ngài, trong việc thực hiện một đời sống phạm hạnh thanh cao và tinh khiết. Thiên tiểu sử vạch rõ phương pháp tu hành và nếp sống linh động trình bày nơi đây, chính là của cố Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, cung cấp bởi các đệ tử đồng thời với cố đại đức, đả từng tu tập dưới sự hướng dẫn của ngài, trong những thời kỳ khác nhau. Do đó sự chính xác của họ có thể tìn cậy được lắm, dẫu rằng theo lẽ đương nhiên, chúng ta không thể biết chắc là mổi vị đệ tử của ngài có nhớ được từng lời giáo huấn của ngài, và từng địa điểm, từng việc biến chuyễn trong đời ngài hay là không? Nhưng nói đi rồi, còn nói lại, chúng ta không thể chờ đợi cho tới lúc sẻ thành tựu hoàn toàn mỹ mản, chúng ta càng trì hoãn , thì chắc là những chi tiết hay ho, hửu lý càng phai mờ trong ký ức của những đệ tử của ngàì. Và những thế hệ mai sau ắt là thiếu một tấm gương giá trị mà họ có thể soi chung. Vì xét thấy sự kiện nầy mà chúng tôi trình bày. Thiên tiểu sử sau đây, hi vọng rằng thà còn ít còn hơn không có gì hết. Phương pháp trình bày nơi đây, noi theo gương các bậc soạn giả tiền bối đã ghi chép tiểu sử của các vị thánh Thanh Văn, trong nhiều bản kinh, với hi vọng lưu truyền những gương mẩu cho đoàn hậu tấn. Trong trường hợp, có điều gì bất nhả mà chính cố đại đức thiền sư đã tự thuật, thì soạn giả xin cáo lổi với quí độc giả, nơi đây. tác phẩm nầy được soạn ra với mục đích phụng sự những ai lưu tâm tới khía cạnh Phật gíáo. Đại đức thiền sư Phra Ācham Mahn Bhūridatta, lúc bình sanh là vị thiền Sư danh tiếng nhứt, được tất cả các đệ tử thân cận thật sự tôn kính. Qua các thời thuyết pháp nói đạo và những lời chỉ dạy về Pháp cao siêu của ngài, nhóm đệ tử thân tín tự nhiên thấy rõ là ngài hẳn đã chứng đắc quả vị nào rồi mới gây được cái ấn tượng sâu đậm trong tâm họ ngay từ ban đầu, và về sau luôn luôn dùng để trắc nhiệm sự kiện nầy. Đệ tử của ngài gồm đủ cả cư sĩ và Tỳ Khưu, có lẽ khắp trong nước Thái và luôn cả trong nước Lào, láng giềng. Lịch sử đời sống ngài thật là kỳ diệu, cả trong hai thời : khi còn là cư sĩ và lúc đả tu Tỳ Khưa, từ ngày đầu cho tới ngày cuối. Nó không có chút tỳ vết bợn nhơ, nên dẩu cho ngọc kim cương hoặc thứ trân bảo khác cũng không bì kịp sự hy hữa và tinh khiết của nó. Tháng 6 âm lịch, 1974 (Sư Pháp Minh) ![]() ![]() ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU Tôi có duyên khi đọc được một phần bản thảo tiểu sử của ngài đại đức Mahn Bhūridatta được viết tay trên cuốn vở học trò 100 trang của Cố Tỳ Khưu Pháp Minh. Thiền Sư Pháp Minh là một vị Tỳ Khưu được nhiều người biết tới trong Phật Giáo Nam Tông ở VN, vì là bậc chân tu khả kính. Thiển Sư Pháp Minh sanh năm 15-3-1918 tại làng phước Hải Huyện Long đất, Tỉnh Bà rịa , Vũng Tàu. Thế danh là Nguyễn Văn Long con của cụ Nguyễn Văn Tài và bà Phạm Thị Minh. Xuất gia làm Sa Di vào năm 1965 tại chùa Phổ Minh, Gò Vấp, Gia Định vào ngày 7 thắng 2. Sau đó ngày 6-1-1968, ngài thọ đại giới Tỳ Khưu tại chùa Pháp Bảo ở Mỹ Tho. Thầy Tế độ là Hòa Thượng Giới Nghiêm. Năm 1968, ngài rời chùa Bửu Quang ở Gò Dưa, đến núi nhỏ ở Vũng Tàu tìm nơi độc cư thiền định. Năm 1969 ngài trở lại về Tổ đình Bửu Quang để tiếp tục sự nghiệp tu hành. Tháng 12 năm 1974, ngài theo lời thỉnh cầu của ban trị Sự Thích Ca Phật đài ở Vũng Tàu tới đó để hoằng pháp. Năm 1975-76 ngài du hành xuống Tô Châu, Hà Tiên , Rạch Giá. Năm 1977 - 80, ngài trở lại Tổ Đình Bửu Quang để tu. Sau đó đến lúc mất ngài sống hạnh độc cư, trì bình khất thực tại cốc Bình Thủy, gò Dưa , Thủ Đức. Và ngài an nhiên thị tịch khi ngồi thiền định vào lúc 9 giờ ngày thứ tư, 27 tháng 1 năm 1993 (tức mùng 5 tháng giêng, năm Quí Dậu) Từ khi xuẩt gia ngài luôn thực hành pháp hạnh đầu đà khẩt thực, và nguyện không nằm. Ngài giử hạnh tri túc, thường ít nhận tứ sự cúng dường của chư Tăng và Phật tử. Ngài thông suốt nhiều ngoại ngữ như tiếng Pháp, Anh, Thái, Khơmer, Pali. Ngài Soạn dịch nhiều kinh điển : như bộ chủ giải kinh Pháp cú, Sưu tập kệ Pali. Trước tác nhiểu tác phẩm: Sổ tức quán thực tập, Lâm tuyển pháp, Cổng vào Niểt Bàn, Chiển Sĩ thượng thặng, Ba cách làm phước, Việc tập tâm, Tứ oai nghi, Hạnh nguyện bồ tát, Siêu pháp tiểt chế tình dục, Tùy bút pháp hành, Thiền luận, Kệ kinh Tam Bảo Pali, . . Bản thảo tôi có được của cố thiền sư Pháp Minh do một người bạn đưa thì chỉ có một phần, vì đây là quà tặng của cố thiền sư Pháp Minh cho thân sinh của vị đó – theo lời vị đó nói. Nhân duyên đưa đẩy, nên tôi xin lược dịch tiếp từ bản tiếngAnh, để hoàn thành. Tôi nghĩ cố đại đức thiền sư Pháp Minh khi dịch, thì ngài cũng là muốn cho đọc giả thưởng thức một tác phẩm hay của Phật giáo. Tôi hoàn thành tiếp việc lược dịch, những sai sót chắc là có là vì khả năng hạn hẹp của tôi trong ngôn ngữ , xin người đọc tha thứ. Tôi cũng thành tâm xin sám hối nểu có điều gì không phải thì do vô rninh không biết mà gây, chớ không chủ ý. Nguyện xin Phật Pháp được trường tồn. Chúng Sinh an Iạc Rocky Mountain Thạch Sơn 2004 NHỮNG NĂM ĐẦU Thầy Đại đức (Phra Acharn 1 ) Mahn Bhūridatta, sanh vào trong một gia đình Phật giáo vào thứ năm ngày 20 tháng 1 năm mùi, Phật lịch 2413 (năm 1870), tại làng Ban Khambong, quận KhongJiam thuộc tỉnh Ubon Ratchathani. Cha ngài là ông Khamduang, và mẹ ngài là bà Jun (Dung) họ Kaenkaew. Là anh cả trong 8 người con trong gia đình, tuy nhiên khi ngài khuất bóng thì chỉ có 2 người em còn sống mà thôi. Ngài là con đầu lòng, nhỏ thó , nước da trắng hồng. Ngài nhanh nhẹn và tráng kiện lại vừa thông minh, ngay từ thuở nhỏ. Đến năm 15 tuổi, ngài xuất gia tu Sa di , ở chùa làng Khambong. Nhờ ngài hâm mộ việc học hỏi Dhamma (pháp), cho nên không bao lâu ngài thuộc lầu những bài kinh của thầy ngài dạy. Tánh tình và hạnh kiểm của ngài củng đáng tín nhiệm, không bao giờ gây rắc rối cho bạn bè và bậc trưởng thượng. Nhưng, hai năm sau khi xuất gia tu sa di, ngài phải hoàn tục, để đáp lại lời thỉnh cầu của cha ngài đang cần đến ngài phụ giúp trong gia đình. Nhưng nếp sống thanh bạch đã có ảnh hưởng xâu xa trong tâm hồn ngài. Ngài không bao giờ quên nó được. Cho nên ngài lập chí nguyện sớm muộn gì ngài cũng sẻ trở lại đường tu. Đây rất có thể là mảnh lực của một đức tin bất thối chuyển, hoặc Saddhā (chánh tín) đã được gắn chặt vào tâm tánh ngài. Về sau, khi ngài 22 tuổi, tiếng gọi của đời tu phạm hạnh có vẻ thúc giục thiết tha. Ngài bèn cáo biệt song thân. Hai ông bà cũng sẳn lòng chấp thuận và sốt sắng lo liệu việc ngài xuất gia tu lên Tỳ Khưu. Hai ông bà thỏa thích chuẩn bị nhu dụng của Tỳ Khưu cho ngài, rối đưa ngài đi xuất gia tại chùa Liap trong thành phố của tỉnh Ubon Ratchathani. Có đại đức Phra Ariyakawi là thầy tế độ (Upajjhāya), đại đức Pha Khru Sitha là thầy Kiết ma ( Kammavācariya), và đại đức Phra Khru Prajuk Ubonkhun là thầy chỉ dẩn (anusāsanācariya) vào ngày 12 tháng 6 dương lịch (năm 2436 Phật lịch). Sau lể xuất gia, ngài có pháp danh là Tỳ khưu Bhūridatta 2. Xuất gia rồi ngài chăm lo học thiền Minh sát ( Vipassanā) với đại đức Sao 3 tại chùa Liap. ĐIỀM MỘNG TIÊN TRI Lúc mới khởi sự hành thiền minh sát với Thầy đại đức Sao, ngài Bhūridatta đã chọn pháp môn niệm Phật làm đề mục thiền quán mà ngài thích nhất. Ban đầu, không đem đến cho ngài sự tịnh lạc, an vui theo ý nguyện khiến cho lắm lúc ngài hoài nghi giá trị của nó. Nhưng ngài bền chí gia công niệm mãi, và cuối cùng, ngài đã đạt được một độ nhất tâm và hưởng được sự an vui tịnh lạc quá sức hy vọng của ngài. Thế rồi, một đêm nọ, ngài nằm chiêm bao: Ngài mơ thấy mình đi ra khỏi cổng làng, băng ngang một khu rừng rậm, có nhiều chổ cây cối mọc chi chít, chằng chịt, không chừa một lối đi. Nhưng ngài ráng sức vượt qua tất cả chướng ngại và sau cùng thoát ra khỏi khu rừng, để thấy một cánh đồng không mông quạnh, thẳng tắp tới tận chân trời, ngài lại tiếp tục cuộc hành trình với những nổ lực không ngừng. 1. Phra Acharn : Thầy đại đức ; tiếng Thái, dùng để tôn kính gọi Tăng 2. Bhūridatta : (có nghĩa là nhiều trí tuệ) là tên của vị Bồ tát, tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thực hành hạnh Ba la mật. Vì bồ tát muốn thoát kiếp làm rồng nên lên nhân gian thực hành tu bát quan trai giới, và tu thập thiện giới. Và Ngài đã phát nguyện rằng: "Kẻ nào mong được da, thịt, máu và xương trong thân thể ta, thì tùy sở thích". Do đó, tuy bị thầy rắn làm khổ sở đau đớn, nhưng thay vì dùng oai lực thần thông của mình để bảo vệ mình Ngài lại chấp nhận mọi sự khổ đau để giử lời nguyện, và thực hành được xâu xa pháp nhẩn nhục Ba la mật (Khanti pāramī). 3. Thầy Đại đức Sao Kantasīlo (1859-1942) : là người sanh ở tỉnh Ubon Ratchathani. Là vị thầy hướng dẩn giới thiệu ngài pháp tu thiền đề mục hay thiền nghiệp xứ (kamma-ţţhāna): Dọc đường, ngài gặp một cây đại thọ nằm chắn ngang lối đi. Cây nầy thổ ngử Thái gọi là Jāt 4 (hay cây Sanh). Thân cây rất to lớn, bị hạ đã nhiều năm qua, hiện còn nằm lún dưới đất một phần, vỏ và ruột đã mục nát hiện rõ nên ngoài. Ngài bèn trèo lên đi trên thân cây mục ấy, và quán sát thấy rỏ là nó đã hết phương mọc lại được nữa rồi. Khi ấy, ngài biết rằng sự sanh của ngài trong vòng tử sanh sẻ phải chấm dứt. Thân cây Jāti (sanh) ngã nằm đây ngài xem như những kiếp sanh của ngài trong vòng luân hồi. Thân cây đã hết phương mọc được tượng trưng cho sự sanh của ngài lần này sè là lần cuối, nếu ngài kiên tâm nổ lực không ngừng. Còn cánh đồng bao la, rộng khắp bốn phương trời, tượng trưng cho cái vòng tử sanh bất tận. Ngài còn đang đứng trầm ngâm quán sát những nghĩa lý nầy thì bổng hiện ra một con ngựa kim màu trắng to lớn đi về phía ngài và đứng bên thân cây sanh. Tự nhiên ngài mong muốn cỡi nó. thế là ngài lên ngựa, và nó tức khắc phi nước đại chạy đi. Ngài không có ý quyết định đi đâu hoặc làm gì cả, chỉ biết là mình đã đi được một quãng đường rất xa, trong cánh đồng mênh mông vô cùng tận. Trên đường, ngài nhìn thấy một cái tủ lộng lẩy chạm bạc công phu trong có chứa một bộ Tam tạng kinh. Dường như chiều theo ý ngài, con ngựa đưa ngài đến trước tủ đựng Kinh. Ngài xuống ngựa với mục đích là mở cửa tủ Kinh, thì lập tức con ngựa biến mất. khi ngài bước tới thì lại thấy chổ đang đứng là bìa một khu rừng rậm hoang vu, mịt mù khói tỏa, đầy gai góc, lùm bụi xoắn chặt nhau không thấy lối đi. Khi ấy ngài định mở cửa tủ Kinh để xem thì ngài thức dậy. Điềm tâm ảnh (Nimitta) nầy khiến cho ngài tin chắc rằng ngài sẻ có thể đạt đạo, chứng quả trong hiện kiếp, nếu như ngài không bỏ dở dang những nổ lực của ngài. Từ đó trở đi ngài càng tinh chuyên trì niệm danh hiệu Phật trong mọi lúc. Đồng thời ngài nghiêm trì những hạnh đầu đà mà ngài chấp thọ từ lúc thọ Tỳ Khưu, nghiêm chỉnh thực hành cho đến lúc mất. Đó là những hạnh :1.Mặc y phấn tảo, từ chối những y dâng đến tận tay _ 2. Đi bát hằng ngày không sót, trừ những ngày phát nguyện nhịn ăn _ 3. Không thọ vật thực đem đến sau _4. Chỉ thọ vật thực để trong bát khi ngài đi trì bình _5.Mổi ngày chỉ ăn một bửa, và độ trong bát _6. Chỉ mặc Tam y – ngài có dùng khăn mặt (dùng để lau thân mà đó là điều cần thiết trong thời đại nầy _7. Ngụ trong rừng, có nghĩa sống và ngủ trong rừng hay nơi hoang dã trong hang núi, hoặc dưới hòn đá cheo leo (trừ ra khi có người thỉnh ngài vào tỉnh thành trong một thời gian ngắn). Ngoài ra đôi lúc khi ngài có thể ngài cũng thọ thêm những hạnh khác trong 13 hạnh đầu đà. Tuy nhiên trong suốt cuộc đời ngài đã nghiêm trì 7 hạnh đầu đà trên và đó trở thành nhân cách sinh hoạt thường ngày, và khó có thể tìm được người như vậy. Ngài luôn lôn kiên trì và quả quyết không bao giờ đổi ý trong bất cứ việc gì mà ngài đã quan tâm nghĩ tới, dầu là pháp hành bên ngoài (hạnh đầu đà , v. v..) hoặc hoạt động nội tâm (Minh sát). Đời sống của ngài là sự hoàn toàn dùng cho mục đích giải thoát, với những nổ lực xả ly liên tục trong việc tiêu trừ phiền não bên trong. Có rất ít dịp may cho tánh cống cao ngã mạn lẻn được vào tâm trí ngài, mặc dầu thật tế , lúc bấy giờ ngài vẩn còn là hạng phàm phu như bao nhiêu người khác. Nhưng , ngài khác hẳn họ ở chổ : thay vì để tâm bay nhảy tự do, bị phiền não sai sử thì ngài thường trực ở trong tỉnh thức, phòng ngừa các thứ phiền não, và luôn khởi chiến và tấn công nó một cách can đảm. Điều nầy, về sau , ngài có thuật lại chúng tôi mới biết. Sau đó khi tâm ngài đã được thiết lập vững vàng, tiện dụng cho việc suy tư quán xét, ngài mới hồi tưởng đến điềm chiêm bao khi trước và dần dần hiểu rõ : nếp sống của một gia chủ, là nơi tụ tập của tất cả mọi thứ khổ, giống như khu rừng già là nơi chứa chấp mọi thứ tai nạn. Trái lại , nếp sống phạm hạnh tu theo pháp Phật , chuyễn hóa tâm thức khỏi thế giới độc hại hiểm nguy tới một khoảng không bao la là cảnh giới của sự an lạc, thoát khỏi những sợ hải, đau khổ . 4. Tương tự trong tiếng Pali là Jati nghĩa là sanh, (gồm luôn sự chết ) Còn con bạch mã cao lớn ngài cỡi chính là đường lối tu theo pháp Phật, là đường đạo giải thoát, nhờ nó mà đưa ngài đến nơi tự tại. Và khi gặp tủ bạc chạm trổ công phu, chứa Tam tạng kinh mà chỉ có thể nhìn, vì lẽ ngài còn bất toàn, nên chưa đủ khả năng học hiểu trọn cả bộ Tam Tạng, do đó ngài không thông suốt về mặt văn hóa của Phật giáo, như vậy ngài không trọn vẹn đạt tuệ thuộc về bốn loại đó là : 4 vô ngại biện tài 5 , cần thiết cho một vị pháp sư biện tài vô ngại, thông suốt nghĩa lý và phương pháp giáo hóa, có trí tuệ cao sâu như trời biển, khả dĩ làm thầy của tất cả chúng sanh trong tam giới 6. Theo lời ngài, thì ngài chưa đầy đủ pháp ba la mật để đạt được mục đích nầy, và đó là lý do khiến cho ngài chỉ được nhìn bên ngoài tủ kinh Tam tạng chứ không mở đọc thông suốt toàn bộ giáo lý bên trong. Ngài tiếp lời rằng : ”Khả năng dạy dỗ người khác của ngài chỉ có thể xem như là sơ đẳng hoặc nhập môn để chuyển tiếp tới những pháp tu cao hơn “. Về sự kiện nầy dầu cho nó hiển nhiên chăng nữa, thì đối với các đệ tử thân tín đã được học hỏi, và tu hành dưới sự hướng dẩn của ngài, thì có một việc rõ ràng là mổi đề tài giảng đạo, thuyết pháp của ngài đều phi thường và cảm kích làm sao, thật không thể dùng lời nào mà tả cho xiết ! Ở thời đại mới, người ta biết tìm đâu ra một lối giảng dạy Dhamma ăn sâu vào tâm thức mà không bao giờ quên được ? LINH ẢNH TRONG THIỀN ĐỊNH Trong thời gian ngài đang tham thiền, với đề mục niệm Phật (Buddho) ở tại chùa Liap. có một hôm tâm ngài lắng dịu và một linh ảnh hiện ra : trước mặt ngài, một tử thi thúi rục, sình chương, bị những con thú ăn dơ như là kên kên, quạ và chó tranh nhau sâu xé . .. và không bao lâu, tử thi ấy bị rứt ra từng mảnh, rải đi khắp cả mặt đất chung quanh, thấy vậy ngài xúc động mảnh liệt, vừa nhờm gớm, vừa mõi mệt. Sau khi tâm ngài rút ra khỏi từng thiền, ngài kềm giử cái linh ảnh trong tuệ nhản của ngài làm đề mục chánh trong mọi lúc cả ngày lẩn đêm, trong bốn oai nghi : đi, đứng, nằm, ngồi . Ngài tiếp tục quán tưởng cho đến một ngày kia, hình ảnh tử thi đó biến thành ra một cái đĩa tròn trong suốt lơ lững trước mặt, quán cái đĩa nầy lâu thì thấy hiện ra đủ thứ cảnh vật khác nhau, những hình ảnh không ngớt thay đổi liền liền, chắc là kết quả của tánh hiếu kỳ của ngài đang khao khát muốn coi thử cái gì sẻ tiếp theo. Có lúc, hình như ngài đang trèo lên những hòn núi cao, kế đó ngài lại thấy mình cầm một thanh kiếm và mang một đôi hia, rồi đi bách bộ trên núi, một lúc khác, trước mặt ngài bổng hiện ra một bức tường cao lớn có một cánh cửa, ngài mở cửa ra nhìn thấy một vài vị Tỳ Khưu đang tham thiền phía bên trong. Kế đó, phong cảnh mở rộng ra cho thấy những sườn núi cheo leo và hang đá gần đâu đó, trong vài cái hang lại có đạo sĩ ẩn cư. Lại một lúc khác nữa, ngài thấy món đồ giống như cái nôi hoặc cái thúng từ sườn núi thòng xuống. 5. Catu Paţisambhidā : Bốn tuệ vô ngại biện tài: 1. Biện tài về nghĩa ( attha-Paţisambhidā) trí về nghĩa: là biện tài giảng dạy minh bạch một giáo lý vắn tắt, có khả năng dự đoán tiên tri những hậu quả, quán thấy chuyện vị lai. Ngài Ca Chiên Diên (Katyayāna) là vị đệ nhất về nghĩa đế. 2. Biện tài về pháp (Dhamma-Patisambhida) trí biết về pháp: là khả năng ngược lại biện tài về nghĩa, có khả năng tóm gọm những chi tiết phức tạp, và mô tả dài dòng, để cho dễ nhắc sơ qua và ghi nhớ, quán thấy chuyện quá khứ. 3.Biện tài về ngôn từ (Nirutti- Paţisambhidā) trí biết về tất cả ngôn ngử , văn tự để trình bày pháp và nghĩa 4. Biện tài về trí (Paṭibhāna- Paţisambhidā) trí biết về các loại trí hoặc biện thuyết vô ngại: là thông suốt cách trình bày và giảng thuyết cho thích ứng với mọi trường hợp.biết áp dụng các phương tiện thiện xảo cho từng trường hợp. có khả năng giải quyết ổn thỏa một tình trạng khủng hoảng hay biến cố bất ngờ. 6. Tam giới : Là ba cõi sinh tữ : 1. Dục (có nam nữ dâm dục), 2. Sắc (không có nam nữ , tâm của chúng sanh nhập định hữu sắc, nghĩa là đề mục thiển định là vật hữu hình) và 3. Vô Sắc giới (không có sắc thân chỉ có thần thức, tâm của những chúng sanh đã nhập định vô sắc : nghĩa là đề mục không phải là vật hữu hình). Ngài thấy mình bước vào trong cái thúng ấy và được nhấc lên khỏi vực thẳm để thấy một chiếc thuyền to trên đó, trong thuyền có cái bàn vuông. Khi ấy, hòn núi bật sáng lên vì có ánh sáng phía sau nó. Và sao đó ngài lại thấy mình độ cơm trên đỉnh núi đó nữa. Đó là cách phong cảnh đổi thay biến hiện liền liền trước mặt ngài, như phim chớp bóng, chứ không dẩn ngài tới đâu cả. Ròng rả ba tháng trường, cứ hể ngồi thiền nhập định là ngài toàn thấy những cảnh tượng không đâu ra đâu, biến hiện không ngừng, không biết đến bao giờ mới dứt. Còn kết quả nội tâm thì chẳng có chi đích đáng cả. Sau những thời tọa thiền kiểu đó, thì tâm ngài trở nên xúc động mạnh đối với hình ảnh và âm thanh bên ngoài. Khiến cho ngài khi vui, khi buồn khi thì thích điều nầy, khi thì ghét điều kia. Hiển nhiên là ngài không thể giử được tâm bình đẳng, điềm tĩnh bằng cách ấy. Bấy giờ ngài tĩnh ngộ, tin chắc rằng đó không phải là chánh đạo đưa đến giải thoát. Nếu nó đúng thì tại sao không thể kiên định giử được trạng thái an nhiên, tự tại của tâm. Ngược lại tâm ngài lại bị phân tán, dao động trước những sắc bên ngoài mà tâm tiếp xúc – cũng giống như người bình thường không có tu tập gì cả . Rồi ngài kết luật rằng : “chắc chắn là việc săn đuổi, hoặc sự chú tâm hướng theo cảnh bên ngoài, là nghịch với nguyên tắc hành thiền, đoạt mất sự an lạc bên trong do hành thiền mang lại”. -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,051 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
DI SẢN
Một thời gian sau khi lể hỏa thiêu đại đức, nhiều người trong Tăng đoàn của ngài như người mất trí họ không biết làm gì, như một đã mất một nơi nương tựa chắc chắn. Giống như diều đứt dây bị gió cuốn bay đi khắp mọi phương. Giống như trẻ thơ mất cả cha mẹ. Hậu quả là Tăng đoàn ngài bị xáo động ngay sau khi ngài mất. Khi mà Tăng đoàn tập họp nhau lại thì tất cả đều nhận thức sự tai hại của việc không có một vị thầy giỏi bên cạnh. Sự ra đi của một nhà lảnh đạo tài ba là điều không thể tránh được, và đó là một sự thiệt hại to tát, cho nên những ai có cơ hội được gần những người thầy giỏi thì phải tận lực cố gắng để tạo cho mình một cơ sở tinh thần vững chắc, để làm nơi nương tựa sau nầy khi không còn có sự hướng dẫn sáng suốt của vị thầy đó nữa. Bản thân tôi cũng trãi qua kinh nghiệm đau khổ đó. Không chuẩn bị trước, không biết nương tựa vào đâu. Khi còn sống đại đức là một người rất có nhiều ảnh hưởng. Ngài có nhiều phương pháp hữu hiệu để giảm bớt các áp lực, các nổi đau tâm thần của những người người theo ngài. Nhiều người kể lại có lúc họ bất an, nóng giận, lòng quyết định muốn làm các điều ác, ngay cả giết người, nhưng ý nghĩ về ngài thì làm giảm bớt ngay, như ngọn lửa sân hận được một thau nước lạnh tạt vào, làm họ biết mình đang sai. Ý nghĩ sai trái tan biến, làm cho họ muốn quì xuống ngay tại chổ mà đảnh lễ nhớ ơn ngài. Cũng nhiều vị Tăng đã áp dụng việc tín tâm về ngài để tự khắc. Trong thời ngài còn sống, đại đức đã làm cho rất nhiều người trở thành những người tốt, đạo đức. Ngài đã dùng ít nhất là 40 năm để chỉ dạy các Tăng và dân chúng có tín tâm ở khắp các miền. Nếu chỉ tính các vị Tăng theo học với ngài và sau nầy trở thành các vị thiền sư có tiếng, và có đoàn đệ tử riêng thì rất nhiều. Tất cả là do công lao tiền phong trong việc truyền dạy kinh nghiệm tu hành của mình cho thế hệ sau. Nếu không có sự hướng dẫn của ngài thì có lẽ những vị nầy không tìm ra con đi đúng, chớ nói chi tới việc dạy dổ người khác. XÁ LỢI Khi các người nhận được các mảnh xương xá lợi họ đêm về thờ ở nơi trang nghiêm, ai nấy có công việc của họ không ai để ý, nhưng 4 năm sau vấn đề được nhiều người đề cập tới. Khi vị thí chủ Khun Wan Khomanamum chủ nhân của tiệm Siriphon Phanit và khách sạn Siriphon ở Nakhon Ratchasima tới Sakon Nakhon làm lể dâng y cúng dường, thì được vị trụ trì chùa Suddhawat, là nơi đại đức Mân nhập diệt, tặng cho một mẩu xương nhỏ của đại đức Mân lúc thu nhặt được sau khi làm lể trà tỳ. Vị đó mang về nhà để thờ chung với các món vật kỷ niệm mà vị đó có được của đại đức, khi mở hộp ra thì mẩu xương trở thành ngọc xá lợi óng ánh. Lấy làm ngạc nhiên, vị ấy sai người tơi khách sạn Siriphon ở đó cũng có nhà thờ các vật kỷ niệm của ngài, thì lạ kỳ các tro xương màu trắng bây giờ đều hóa thành các viên ngọc xá lợi. Đếm lại thì vị đó có tổng cộng là 344 hạt. Được tin nhiều người thân đến xin, vị đó cũng từ bi cho người nầy một viên, người kia hai viên. Vị đó cũng cho tôi hai lần, lần đầu là 5 viên, lần sau thì hai viên ngọc xá lợi, tổng cộng là 7 viên xá lợi. Tôi rất vui thõa mản, nhưng miệng thì không gìn giử được cho nên nói ra cho mọi người biết, kết quả là tôi không còn có viên ngọc nào, bị các tín nữ xin lấy đi mất. Làm sao mà có thể đòi lại được khi cho họ xem xong thì họ cất túi và chấp tay xin mang về để thờ. Nghe nói vị thí chủ Khun Wan cũng không còn nhiều nữa vì cho các người thân , bạn bè đến xin. Nên tôi cũng không muốn xin vị đó nữa. Theo sự hiểu biết của tôi thì sự kiện mẩu xương xá lợi của tín chủ Khun Wan biến thành ngọc xá lợi là đầu tiên , sau đó thì những mẩu chuyện như vậy rãi rác nghe ở nhiều nơi, và cho tới ngày nay thì những viên ngọc xá lợi của ngài được nhiều người tín tâm có phước tôn thờ. Không những các xương của ngài biến thành xá lợi , mà những hạt ngọc xá lợi còn biến hóa theo tín tân người giử nó. Có một vị là một nhân viên cao cấp trong chính phủ, người rất có tín tân về đại đức , ông ta giúp đỡ rất nhiều trong việc lễ tang từ lúc ngài mất cho tới lúc hỏa thiêu. Khi một vị Tăng trưởng lảo có nhận xá lợi từ chùa Khun Wat ở Nakhon Ratchasima thì tặng vị đó hai hạt xá lợi. Không có gì thích hợp để đựng lúc đó, vị ấy đựng vào trong lọ thủy tinh sạch mang thẳng tới chổ làm việc, chiều về nhà kheo với gia đình ,lúc mọi người mở ra coi thì thấy ba hạt ngọc xá lợi, vị ấy càng thêm tín tâm, cho là một sự kỳ diệu vì từ lúc nhận xá lợi vị ấy luôn vui sướng nghĩ về việc được có hai hạt xá lợi để tôn thờ, nhưng người nhà cho là vị ấy nhầm lẩn, để chứng minh vị ấy ngay tối hôm đó tới chùa cùng người nhà chất vấn vị Tăng đã cho hai hạt xá lợi khi hỏi vị Tăng cũng đã xác nhận là đã cho chỉ hai viên xá lợi, và vị ấy nói: "Sáng nay ta cho hai hạt xá lợi là vì thấy chồng bà rất tín tâm giúp đỡ rất nhiều trong việc tang lể của đại đức Mân, và giúp các chư Tăng. Cho nên ngay sau khi ta nhận được các hạt xá lợi từ chùa Khun Wat , ta để dành hai hạt để tặng cho chồng bà. Đại đức Mân là người mà ta lần đầu tiên ta thấy xương ngài sau khi hỏa thiêu một thời gian biến thành ngọc xá lợi, và biến hóa tăng thêm, mặc dầu chuyện như vậy được đề cập trong kinh sách, nhưng bây giờ thì chính mắt ta thấy. Hảy tôn thờ nơi thích hợp, vì nếu một ngày nào đó chúng biến mất thì sự thất vọng sẻ rất nhiều, hơn là sự vui sướng bây giờ. Đừng nói là ta không báo trước. Xá lợi của ngài có thể biến hóa tăng thêm thì cũng có thể biến mất đi nếu chúng ta có sự thành kính. Hảy thành kính tôn thờ, nhưng đừng đem đi kheo khoang chuyện nầy cho tất cả mọi người. Người tin thì ít mà chê bai thì nhiều, không nên.” Sau khi nghe lời dạy của vị Tăng đó gia đình người ấy cáo từ ra về. Có người thờ hai viên ngọc , và nguyện rằng xin được ba viên để thờ tượng trưng cho Tam bảo, thì sau đó hai biến thành ba. Cũng có người nguyện như vậy thì thay vì hai biến thành ba thì thành một. Khi gặp tôi họ hỏi thì tôi nói rằng một hay nhiều hạt xá lợi, hay chỉ là mẩu xương chưa biến hóa thì không thành vấn đề vì đây là vật kỷ niệm để chúng ta tưởng nhớ tới ngài, tới lời dặn của ngài. Nếu hai biến thành một thì đây chẵng phải là điều kỳ diệu thì là gì ? Ngay cả những tóc mà nhiều người tín tâm trước đó họ thu nhặt khi ngài cạo tóc mổi tháng nay thờ thì cũng biến thành hạt xá lợi. Những ai thờ xá lợi của ngài thì họ rất kín miệng không ai nói ra, có ai nghi ngờ về điều nầy thì họ trả lời rất chắc chắn là có thiệt nhưng khi hỏi họ có không thì họ chỉ cười cho là không có nhiều, và tránh không trả lời rõ ràng, ngay cả khi Tăng sĩ hỏi họ cũng tránh không trả lời. Họ coi đây là nhân duyên đặc biệt với ngài, là vấn đề cá nhân cho nên họ không kheo khoang nói ra. Do đó rất khó mà biết chính xác những ai bây giờ đang có xá lợi của ngài. Nhiều người hỏi thắc mắc không hiểu tại sao xương các ngài như đại đức Mân, đại đức Sao tự nhiên biến thành các hạt xá lợi, trong khi đó thì các mẩu xương thiêu còn xót lại của những người thường thì không. Xương ai cũng có cấu tạo chung giống nhau, nhưng người bình thường thì không biến hiện thay đổi. Tôi chỉ có cách trả lời là do tâm mà ra, tất cả đều do tâm tạo. Tâm của ai cũng như nhau nhưng một đằng là thanh tịnh còn một đằng là còn cấu ếu, còn bị phiền não che mờ. Và tâm là chủ nhân ông hay là kẻ điều khiển có ảnh hưởng trực tiếp đến thân. Tâm một vị thanh tịnh trong sạch thì có năng lực gột rửa các vật chất cấu tạo nên thân thể, làm cho chúng cũng trở nên thuần, trong sạch cho nên chính vì vậy mà có việc sau khi thiêu thì có xá lợi. NHỮNG SỰ LẠ KỲ Con đường sự thật và trong sáng, mà đại đức chỉ dạy rất cặn kẻ có thể so sánh như những nguyên lý, công thức toán học, nó cho kết quả chính xác nếu như theo một cách đúng đắn, như một cộng một là hai, cho dù người ta có tính bao nhiêu lần đi nữa nếu như áp dụng nguyên lý căn bản nầy thì kết quả sẻ giống nhau không sai khác. Cho dù người lớn, hay trẻ nhỏ tính toán thì kết quả cũng như nhau. Cũng vậy, chân lý thì không phụ thuộc vào tuổi tác, giới tính, hay quốc gia dân tộc. Đức Phật, và các Thánh Tăng đã giác ngộ chân lý, sự thật. Và Phật pháp là các công thức, nguyên lý có giá trị xác đúng, cho kết quả là giải thoát, là an lạc, thanh tịnh nếu như hành giả theo đúng mà hành. Đại đức Mân là hành giả giác ngộ được chân lý, ngài có thể đầy đủ diển tả tất cả những kiến thức, kinh nghiệm về nội tâm củng như hiện tượng bên ngoài mà ngài chứng đắc được không màng tới việc khen, chê, người nghe có tin hay không. Ngài nói một cách thành thực , thẳng thắn và chắc chắn về các kinh nghiệm nội tâm khi ngài thực hành Giới , và Định từ khởi đầu cho tới Niết Bàn cho thính chúng nghe để họ có thể áp dụng phần nào trong việc tu hành. Ngài nói một các tự nhiên , không e dè về các cảnh giới khác của Trời , thần, rồng hay các loài chúng sinh khác, cho tự bản thân người nghe xét nghiệm, điều nầy làm cho những ai có khả năng nhận thức những hiện tượng bên ngoài như vậy có thêm kiến thức để nhận thức đúng đắn về các cảnh giới khác mà mình tiếp xúc. Một vài vị đệ tử cũng có khả năng nầy nhưng không thuần thục như ngài, sau đây là một thí dụ: Vào một hôm sau khi đại đức tiếp một số Trời, Thần, thì lúc gần sáng có một đoàn Trời đến xin gặp, và vì mệt cần phải nghỉ nên ngài bảo họ tới gặp đệ tử của ngài đề học hỏi pháp. Và họ nghe theo. Sáng hôm sau người đệ tử gặp thầy mình hỏi:“ Tối hôm qua có một nhóm trời đến gặp con và họ có nói rằng là trước đó họ có tới thăm thầy, nhưng thầy mệt và bảo họ tới gặp con để nghe pháp, con cũng đã nói pháp với họ, không biết có đúng như vậy không, hay là vì họ muốn con nói pháp mà nói như vậy ?” Đại đức trả lời : " Ta tiếp một số loài trời, cho nên nhóm cuối cùng tới , thì ta rất mệt nên ta bảo họ tới gặp ông, họ nói là đúng sự thật. Họ không bao giờ nói dối với Tăng, không như loài người họ thường không thành thực, và không đáng tin cậy. Khi họ hứa thì luôn giử lời, khi họ hẹn thì luôn tới đúng giờ . Ta từ lâu đã tiếp xúc với họ các Trời, Thần, chưa bao giờ nghe họ nói dối. Họ thành thực hơn loài người rất xa, họ giử lời như là thân mạng họ. Họ phê bình gắt gao những ai không giử lời hứa, và nếu như không có lý do chính đáng thì họ sẽ không kính trọng người thất hứa nữa”. “Họ cũng phê bình ta, nhưng ta không bao giờ cố ý, có vài trường hợp vì ta nhập định sâu trước giờ hẹn, và khi tới lúc ta rút xuống tầng thiền định thích hợp để tiếp họ thì thấy họ đã chờ ta lâu rồi. Khi đó họ trách ta thì ta giải thích rằng vì ta an trụ sâu trong định cho nên vô tình không thể ra khỏi cho đúng giờ, và lý do nầy thì họ chấp nhận.” “Có những lúc ta cũng quở trách các loài trời, ta giải thích rằng: ta thì chỉ có một mình, mà hàng trăm. hàng ngàn loài trời ở các cõi khác nhau đến viếng thăm. Làm sao mà ai có thể thành công trong việc tiếp nhiều vị khÿch khác nhau một cách đúng giờ cho được ? Thế mà ta kiên nhẩn tiếp từng vị. Các vị phải phần nào thông cảm nỗi khó khăn mà ta gặp. Có những lúc ta an trú trong định, thì sau đó lại bị phê bình vì hơi bị trể giờ hẹn. Thế thì tốt hơn là ta sống một mình khỏi phí thời giờ mà tiếp khách. Khi nghe ta nói vậy thì loài trời biết lổi và xin sám hối ” “Những trời mà hay gặp ta thì quen với cách sinh hoạt của ta, cho nên họ không phàn nàn khi phải chờ , chỉ có những vị lần đầu đến mà phải chờ thì họ để ý, vì họ đặt cao tính chân thật. Tất cả các loài trời ngay cả các thần (địa tiên) cũng đều như vậy. Ta cũng thỉnh thoảng khiển trách và nói với họ rằng ta tôn trọng lời hứa còn hơn cả sinh mạng ta. Lý do mà ta không ra khỏi định mà tiếp họ đúng giờ vì ta có trách nhiệm đối với pháp cái mà quan trọng hơn những lời hẹn đối với loài trời. Mặc dầu các loài trời, phạm thiên có thân hình tinh trong hơn thân thể thô trược của ta nhưng tâm ta, và cái chân thật của ta thì vượt xa tất cả các vị đó cộng lại. Ta chẵng phải là kẻ khùng mà nói đi nói lại điều nầy hoài mà ta nói để cho biết pháp đối với ta quan trọng như thế nào. Cho nên suy nghĩ kỷ trước khi phê bình ta Khi mà ta giải thích cho họ cái mà ta ưu tiên hàng đầu, thì họ biết lổi và tất cả liền xin sám hối. Ta bảo đảm với họ ta không có bao giờ nghĩ xấu về một chúng sinh nào trong vũ trụ nói rằng: 'Ta đã đặt niềm tin vào nơi pháp của lòng từ bi, cái pháp mà không còn chút gì của sự ác tâm. Tất cả các hoạt động của ta là từ do pháp hoàn toàn thanh tịnh mà ra. Còn các loài trời thì ngược lại chỉ có những ý tưởng thiện và cảm giác về cái toàn mỹ mà thôi. Những thứ đó thì chẵng có gì là đặc biệt kỳ diệu cho lắm. Đức Phật Thế Tôn và các vị La hán thì sở hửu sự toàn thiện, toàn mỹ là do tâm họ hoàn toàn thanh thịnh. Không một ai trong thế giới mà có thể tưởng tượng được cái kỳ diệu của một cái tâm thanh tịnh. Cái chân mà loài trời thấy chỉ là tương đối nằm trong một phạm vi hạn hẹp giới hạn. Còn cái pháp chân thật, thanh tịnh thì chỉ có đức Phật và la hán biết mà thôi. Chuyện ta có hay không cái tâm hoàn toàn thanh thịnh thì không phải là cái để mà bàn, mà cái cần nói ra là đối với pháp chân thật của đức Phật và La Hán thì những đức hạnh mà loài trời gìn giử thì không gì là đặc biệt, ngoại lệ và duy nhất' . Khi nghe ta nói như vậy thì họ hiểu và hoan hỉ. Tất cả xin xám hối và tự hứa là sẻ gìn giử .” Đại đức nói nếu mà loài người nghe trách như vậy thì có lẻ họ sẻ nổi sân, còn loài trời thì khác đó, thật là tương xứng với cảnh giới mà họ đang sống. Thí dụ ngắn vừa rồi cho ta thấy một phần nào về cảnh giới của chúng sinh khác chúng ta là người. Vào thời đức Phật còn tại thế, thì chỉ có Ngài và các La Hán là hoàn toàn hiểu rõ cái kỳ diệu của tâm và những hiện tượng trong vũ trụ. Đó không phải là những kiến thức thông thường, nếu có ai được nghe thì sau khi suy nghĩ một là họ chấp nhận và hài lòng về những điều nghe thấy mà không tự thân kinh nghiệm lấy, còn người thì không tin. Đây là cái trở ngại làm cho họ không thể làm theo những gì mà đức Phật và các La Hán đã làm. Ngày nay thì cũng vậy. Đối với chúng ta thì đó là những hiện tượng kỳ lạ, nhưng với đại đức Mân và một số người có khả năng thì đó không phải là chuyện kỳ lạ mà hiển nhiên, rõ ràng. Sau đây là một câu chuyện mà tính chất ly kỳ có lẽ làm cho một số không tin sẽ hoài nghi thắc mắc. Khi đại đức sống ở chùa làng Ban Nong Pheu, có một bà lảo cư sỉ ở trong khu vực đến gặp và kể ngài thấy một kinh nghiệm khi bà ta đang ngồi thiền định. Vào một hôm bà lảo đang ngồi thiền , thì tâm nhập định và một lúc sau thì thấy một sự giống như một sợi chỉ mỏng manh xuất hiện từ tâm bà thoát ra, tò mò bà ta bền lần theo nó để xem nó đi đâu và làm gì, thì thấy nó dẩn bà ta đí đến bụng cô cháu gái, và nhập vào cái thai – Điều nầy thì khác hẳn sự kiện hiển hiên là bà ta đang còn sống. Thấy vậy hoảng sợ bà ta liền ngưng và rút trở về và xuất định. Sợ hải, vì bà ta biết là cô cháu ngái đang có mang thai 1 tháng. Sáng hôm sau thì bà ta liền đi gặp đại đức, và trình bày mọi sự . Các tăng lắng nghe thì thấy đây là điều kỳ lạ mà chưa từng nghe bao giờ. Chúng tôi ai nấy đều im lặng coi đại đức, thầy chúng tôi xử trí ra sao, tất cả đều dồn mắt về phía ngài. Ngài nhắm mắt ngồi im khoảng 2 phút, xong thì nói rõ cho bà ta biết sẻ phải làm gì. “Lần sau khi tâm bà nhập định như thế nầy thì hảy cẩn thận xét nghiệm dòng tâm thức của mình. Nếu thấy dòng tâm thức của mình đi ra ngoài như vậy thì phải dùng trí tuệ trực giác mà cắt bỏ ngay. Nếu như bà mà làm được việc đó cắt bỏ với trí tuệ thì sau nầy nó sẻ không xuất hiện lại nữa. Điều khẩn cấp là bà phải kỹ lưỡng xét nghiệm nó, và tập trung cắt bỏ nó với trí tuệ, và làm một cách hết nình chớ làm một cách hời hợt. Nếu không, ta báo trước là bà sẻ sinh vào làm con cô cháu gái. Hảy nhớ lấy lời ta dặn, nếu không cắt bỏ dòng tâm thức đi ra ngoài như vậy , thì chắc chắn bà sẻ sanh trong thai của cô cháu giá, đó là điều khẳng định.” Bà ta nhận lời khuyên của ngài , và về nhà, Hai ngày sau bà ta đến chùa, thì thấy mặt bà vui vẻ hớn hở, không cần phải nói cũng biết bà ta thành công. Khi gặp ngài, đại đức liền hỏi : “ Chuyện gì xảy ra ? Sao bà có tìm cách ngăn ngừa mình tái sinh nhập vào thai người cháu gái không ?” Bà ta trả lời : " Dạ thưa thầy , con cắt đứt mối dây quan hệ ngay từ đêm đầu. Ngay sau khi tâm an trú vào định thật sâu, chú tâm thì thấy sự kiện giống hệt như đêm trước, cho nên con tập trung dùng trí tuệ trực giác cắt đứt nó, như lời thầy chỉ, và cuối cùng thì nó bị đứt. Và đêm hôm qua con lại xét nghiệm một cách kỹ càng , và không thấy điều gì , nó biến mất rồi. Hôm nay con không chờ được nữ, nên vội lại gặp thầy để báo tin mừng.” “ À, đây là một thí dụ tốt cho ta thấy sự vi tế của tâm. Chỉ có ai hành thiền định mới thấy sự việc nầy. Không có cách nào khác. Bà gần như là nạn nhân của phiền não, xém bị nó ném vào thai của người cháu mà không hay biết. Đó là một điều tốt, bà thấy nó trong lúc định, và sửa chữa kịp thời.” Không lâu sau khi đó, thì người cháu bị xẩy thai. Nên mối dây quan hệ sau nầy chắc chắn không xảy ra. Sau đó thì các tăng trong chùa có hai thắc mắc : Một là liên quan tới việc tái sinh của một người mà họ chưa chết , hai là việc xảy thai. Bà lảo thì không nói cho người nào khác biết, cho nên không một ai trong làng hay biết. Nhưng các Tăng thì nghe được ai, nên đem thắc mắc nầy hỏi đại đức. “Làm sao mà một người chưa chết mà tái sinh vào một cái thai ”. Ngài trả lời như sau: “ Bà ta chỉ đơn thuần đang chuẩn bị cho việc tái sinh. Cái quá trình đó chưa hoàn toàn xong. Thông thường thì công việc gì cũng cần có giai đoạn chuẩn bị. Trong trường hợp nầy, thì bà ta đang chuẩn bị, nhưng chưa hoàn thành, Cho nên không đúng khi ta nói là bà ta tái sinh trong khi còn sống. Nếu như bà ta không có một nhận thức sâu sắc thì chắc chắn bà ta có một căn nhà mới là ở trong bụng cô cháu gái.” Câu hỏi thứ hai là :" Phải chăng cắt đứt dòng tâm thức của bà già tới cái thai của người cháu, là sự hủy diệt một đời sống." “ Cái gì ở đó mà hủy diệt. Bà ta chỉ đơn thuần ngắt dòng tâm thức. Bà ta có cắt đầu của một chúng sinh nào đâu. Cái tâm thực thì lúc nào cũng ở với bà ta trong mọi lúc. Nó chỉ hướng tới bám vào cái thai của cô cháu gái mà thôi. Khi bà nhận thấy thì bà ta dùng trí tuệ cắt đứt dòng tâm thức hướng về đó. Chuyện là vậy bây giờ chấm dứt tại đây.” Điểm quan trọng ở đây là đại đức Mân không mâu thuẩn với bà lảo khi bà ta kể lại kinh nghiệm của mình khi nhập định. Ngài không bàn cãi về cái thật của sự kiện đó , như là nói bà ta lầm lẫn, hay hảy nên suy xét lại tính chất của sự kiện đó, mà ngài đáp lại bằng cách đi thẳng cụ thể vào vấn đề. Câu chuyện ly kỳ nầy thì cũng có một nguyên nhân đằng sau nó. Là vì bà lảo rất thương cô cháu gái, hay thăm hỏi, lo lắng cho cháu. Nhưng bà lảo không ngờ rằng có một sự bí ẩn núp ở đàng sau mối yêu thương đó , để âm thầm chờ đợi, tìm cách làm bà lảo sanh vào làm con cô cháu gái. nếu không nhờ Đại đức Mân chỉ bảo, thì chắc là bà lảo sẻ sanh vào làm con cô cháu gái của mình. Đại đức nói rằng: vượt rất xa ngoài khả năng của một người bình thường để thăm dò cái phức tạp, kỳ lạ của tâm. Rất là khó khăn cho người ta có thể gìn giử, săn sóc cái tâm để khỏi phải gây ra sự hại cho họ. Nếu như bà lảo không có căn bản trong vấn đề thiền định, thì hiển nhiên bà ta sẻ không biết mối quan hệ, chức năng hoạt động của tâm về vấn đề sống chết. Do đó hành thiền định là phương tiện hữu hiệu để làm việc trực tiếp săn sóc tâm mình. Đặc biệt là vào giai đoạn nghiêm trọng của cuộc đời, thì chánh niệm và trí tuệ rất cần thiết , khi chúng được tu tập phát triển thì chúng có khả năng ngăn chặn, hóa giải nổi đau khổ khi chết , không làm tâm bị xáo động. Lúc chết là thời gian quan trọng, theo nghĩa là sự tái sinh phần lớn phụ thuộc vào giai đoạn nầy, một sự thất bại có nghĩa là phải tái sinh vào một cảnh giới xấu tệ hơn, chẵng hạn như là loài thú, thì không những chúng ta phí mất thời gian mà còn phải chịu nổi thống khổ khi ở trong kiếp thân thú. Còn nếu chúng ta không bỏ lỡ cơ hội khi chết thì ít nhất cũng được tái sinh làm người. Khi đó thì có đầy đủ các phẩm chất tốt để tu tập mà đi tới trước. Chết chỉ là quá trình thay đổi cái thân mạng thân mạng, nhưng tùy theo loại thân và hoàn cảng gắn liền với thân mạng đó mà tâm của chúng ta được một phần an lạc hay là bị trói buộc bởi thân và các hoạt động của nó khiến tâm ta lúc nào cũng ở trạng thái bị kích động, đau đớn, hay sợ hãi. Đó là tại sao đức Phật và các La hán tuyên dương khen ngợi các cảnh giới lành của trời, người nhờ đó mà chúng ta có cơ hội phát triển làm tốt hơn, làm thanh tịnh hơn cái tâm mà tánh trong sáng, vô ngại, vô ngã hằng sẳn có, để từ đó mà tới Niết Bàn, không phải tử sanh. Chính vì lý do nầy mà tại sao con người làm các điều phước thiện , công đức để làm lợi cho việc tu tâm. Tôi thành thực xin lổi các đọc giả vì tôi đã đi ra ngoài, vì tôi cố gắng trình bày theo thứ tự thời gian nhưng cố tật hay quên của tôi đã làm lộn xộn thay vì có sự kiện để trước lại mang ra sau, ở sau lại mang ra trước. Mặc dầu câu chuyện về ngài sắp kết thúc nhưng tôi lại vẩn phải suy nghĩ rằng tôi đã quên các sự kiện khác mà tôi được biết hay nghe kể về ngài. Một sự kiện khác cũng lý thú là ở chùa Ban Nong Pheu, sau khi ngài xuất định rời khỏi cốc, trước khi để chúng tôi nói lời nào thì ngài nói các tăng ra xem coi dưới nhà sàn có một dấu in lớn của một loài rắn không. Các Tăng ra coi thì thấy một dấu vết của một loài rắn lớn đi từ nhà sàn của ngài về phía bìa rừng rồi mất hẳn, nhưng không thấy dấu đi vào, chỉ thấy dấu đi ra. Không ai hiểu tại sao. Chỉ có dấu vết nầy xuất phát từ cốc của ngài, mà các chổ chung quang thì không có. Đại đức Mân bảo đừng đi tìm kiếm ở chổ khác nữa vì ngài đã bảo đó là dấu của vị Long vương để lại cho các đệ tử của ngài thấy, vì khi vị đó rời khỏi phòng, ngài đã yêu cầu như vậy. Nếu các Tăng thấy trước mà đi hỏi ngài thì sự kiện có vẽ là “do chuyện xảy ra mà nói” nhưng đằng nầy đại đức mở lời trước không để bị hỏi, và kỳ lạ là chổ chỉ có dấu đi ra tơi bìa rừng thôi. Đại đức , ngài đã bảo vị long vương để lại dấu vết cho các đệ tử nhục nhản của ngài thấy vì họ không thấy được loài rồng bằng tuệ nhản. Lúc có dịp các tăng hỏi ngài loài rồng đến gặp ngài bằng hình dạng loài rắn hay hình dạng khác, thì ngài trả lời không nhất định vì loài rồng thường hay biến hóa. “Nếu như họ tới nghe pháp, thì họ tơi dươi hình dạng loài người tương xứng với địa vị của họ trong loài đó, như chẵng hạn đêm hôm qua thì một vị Long vương tới nghe pháp họ đi tới vói một đoàn tùy tùng đông đảo, trang sức đẹp đẻ, hành xử một cách quí phái. Và ta cũng giảng pháp cho họ bằng ngôn ngữ của giai cấp quí tộc với họ. Họ tới giống như một phái đoàn vương giả. Họ ngồi im lặng lắng nghe pháp, không tõ chút gì sự bồn chồn. Khi thảo luận thì chỉ có vị trưởng đoàn hỏi pháp cho tất cả mọi người, nếu ai trong đoàn thắc mắc thì người đó nói với vị trưởng đoàn, và sau đó thì vị trưởng đoàn hỏi ta. Tất cả đều hành xử một cách trang trọng, điềm tĩnh. Sau khi hỏi xong thì tất cả đều cùng từ giả.” Chỉ là một ý nghĩa bất thiện đêm qua thì cũng khơi lên sự đáp ứng nghiêm khắc từ ngài, kẻ phạm lổi thì bị ngài nhìn một cách sắc bén, bóng bỏng, như là muốn xé tan vị đó ra từng mảnh nhỏ. Trong trường hợp như vậy, tốt hơn hết là vị đó đừng lại gần hay muốn giúp ngài làm điều gì. Vì ngài cứng rắn từ chối không muốn quan hệ với người đó. Đây là một cách mà đại đức phạt kẻ bị lổi. Nhưng thật là lạ khi một người lúc đầu cảm thấy hối lổi , nhưng ảnh hưởng thì lại không kéo dài lâu. Họ cảm thấy có lổi khi bị nghiêm khắc khiển trách, nhưng sau đó, khi ngài nói với họ một cách nhẹ nhàng bình thường thì họ lại không giử gìn, và lại phạm lại lổi củ. Mặc dầu không cố ý suy nghĩ một cách có hại cho bản thân, nhưng dường như vị ấy không theo kịp được cái tánh bất an, khó trị của tư tưởng mình, như con khỉ hay là ngựa rừng không kiềm giử được. Sau đó cũng vị đó khi gặp đại đức, và bị nhìn với một ánh mắt không thân thiện thì lại lo sợ, hối lổi. Tuy nhiên họ cũng vẩn chưa hoàn toàn học được bài học của mình. Sau một thời gian, thì đâu lại vào đó, dường như những ý nghĩ sai quấy đó là cái gì tốt đẹp. Chính vì vậy mà tôi nói lúc đầu cảm thấy hối lổi, nhưng ảng hưởng thì không dài lâu. Khi mà không những cảm thấy hối lổi, mà còn ý thức cảm thấy sợ việc tái phạm thì lúc đó ảnh hưởng mới lâu dài. Thì lúc đó tâm vị đó mới bình tĩnh, an lạc. Và lần sau, khi gặp ngài thì không còn cảm thấy hối hận, lo âu nữa. Tâm tôi thì cũng có khuynh hướng theo kiểu như vậy. Bởi vì không tự mình đứng vững được, cho nên tôi luôn muốn sống gần thầy, sống với ngài thì tôi sợ và gìn giử , và điều nầy ngăn cản và dần từ bỏ các ý nghĩ không tốt , ngài nhắc nhở cho tôi những tu tưởng bất thiện mà mình không hay biết, và kịp thời sửa chữa. Bản thân tôi thì biết chắc là ngài có tha tâm thông. Việc ngài dùng nó để làm gì với người khác thì tôi không để ý mấy, nhưng ngài đã dùng nó để sửa trị cái tính cứng đầu ,khó trị của tôi. Tôi còn nhớ, khi mới tới sống với ngài, thì tôi có một ý nghĩ kỳ hoặc :” Họ nói đại đức Mân có thể đọc được ý nghĩ người khác, và biết họ đang suy nghĩ gì ? Không biết có thật không ? Nếu thật, thì ngài không cần phải biết hết những gì ta suy nghĩ, mà chỉ cần biết giờ ta đang nghĩ gì, vậy cũng đủ rồi. Nếu biết ta giờ đang nghĩ gì , thì ta sẻ quì xuống mà lạy ngài.” Khi mà tơi buổi chiều nghe pháp gặp ngài , thì tôi ngồi không có yên, vì ánh mắt nóng rực của ngài nhìn tôi chăm chăm, không chớp mắt trong khi giảng pháp . Trong tâm tôi cảm thấy như ngài sắp sửa kêu tên tôi và la rầy. Tôi cảm thấy sợ khi thấy mình sắm bị la rầy vì cái ngu ngốc, cứng đầu của mình trước mặt mọi người. tôi không còn tập trung được nữa, khi đó thì giọng của ngài trở nên lớn, giống nhưng tiếng pháo nổ chung quanh tôi, rồi cuối cùng thì như quật mạnh vào tâm tôi không chừa chổ nào, người tôi lúc đó run lên, và mặt đỏ rần. Không thể chịu đụng đụa nữa thì tôi phải chấp nhận chịu thua và nghĩ : “ Con làm vậy chỉ vì con tò mò muốn biết thầy có đọc được ý nghĩ của con không , chớ con không có mộ tý nào xem thường những phẩm hạnh cao quí khác của thầy. Giờ thì con biết chắc là thấy toàn vẹn ở mọi mặt. Con mong muốn rằng con được giao phó toàn vẹn mạng sống của con cho thầy, cho tới ngày con chết. Xin thầy từ bi hướng dẫn con trên con đường tu học. Xin thầy đừng bỏ rơi con vì chuyện bầy . Con xin xám hối.” Khi mà tâm tôi hoàn toàn hàng phục, thì giọng ngài dịu xuống và kết thúc bài pháp ngài nói như sau: “Đúng hay sai thì xuất hiện ngay tại tâm ông. Tai sao lại thích thú đi tìm ở nơi khác? Có lợi gì mà lại thích xen vào chuyện của người khác. Phải chăng loại ý nghĩ như vậy làm ông trở thành người tốt , thiện xảo ? Ngay cả ông thấy được người khác tốt, người khác thiện xảo thì ông chưa hẳn là người tốt hay thiện xảo. Muốn biết người khác tốt hay xấu thì hảy xét nghiệm ngay chính bản thân mình. Rồi lúc đó tri thức về người khác tự động sẻ tới. Không cần phải đi thăm dò người khác. Người tốt hay thiện xảo thì không cần phải nghĩ phương kế để thăm dò người khác. Người mà thiện xảo trong pháp thì biết ngay người khác mà không cần thử “. Lúc đó thì tôi như muốn xỉu, người toát hết mồ hôi. Hoàn toàn hàng phục, tôi học được bài học đó và từ đo về sau tôi hết dám làm những chuyện như vậy nữa. Nếu như tôi cảm thấy hối lổi về những chuyện không phải của mình trong vấn đề tu hành như về chuyện về đại đức Mân thì chắc có lẻ tôi đã giải thoát đau khổ lâu rồi. Nhưng tôi không hoàn toàn khiển trách uốn nắn mình một cách hữu hiệu , cho nên đôi khi nó làm khổ sở tôi. Những điều trình bày trên là tôi muốn làm rõ nguyên lý rằng về sư thật về bản chất chân thật thì xuất hiện ở chung quanh ta ở mọi nơi, mọi lúc, phi thời (akāliko). Chỉ cần chúng ta thành tâm thực hành đúng theo lời chỉ dạy của đức Phật, thì chúng ta cũng sẻ biết được các sự thật. Cũng nên nhớ rằng phẩm chất của từng người thì khác nhau do trình độ tu tập khác nhau ở trong nhiều kiếp khác trước, cũng như mục tiêu giác ngộ mà họ hướng tới cũng khác nhau. Nhưng kết quả là Đạo, Quả và Niết Bàn thì đều giống nhau đối với ai đạt được. CUỘC PHIÊU LƯU CỦA ĐẠI ĐỨC CHOB Đại đức Mân là một vị thầy có một lối hành rất đặc biệt mà ai sống gần ngài thì đều nhớ, không ai quên được. Có nhiều vị đại đức đệ tử nay vẩn còn sống. Mà mổi vị đều khác nhau, như tôi đã nêu ra ở phần trước. Nhưng cũng còn có rất nhiều vị mà tôi không nêu ra. Dù vậy , thì chủ đích của tôi là muốn nêu ra một vị Tăng đệ tử trưởng lảo của ngài, vào lúc mà tập tiểu sử nầy hoàn thành để đọc giả có thể hiểu được phần nào pháp hành của vị đó , và những kinh nghiệm vị đó trãi qua và sự chứng đắc nội tâm của người đệ tử đó. Vị đệ tử nầy đi theo dấu chân của đại đức Mân, giống như các vị La hán đi theo con đường của đức Phật. Họ trãi qua bao gian khổ , khó khăn trên bước đường tu hành , và cuối cùng thì họ cũng giác ngộ được những điều mà thầy của họ giác ngộ. Phạm vi mà các người đệ tử nầy gặp những chuyện rợn người nguy hiểm là do môi trường, nơi chốn mà họ hành đạo. Làm tôi liên tưởng đến một người đệ tử của đại đức Mân mà tôi hết sức ngưỡng mộ. Là bởi vì kinh nghiệm của vị nầy thì khác các vị đương thời. Tôi muốn trình bày một vài tình tiết từ sự tu hành của vị nầy như là bằng chứng về các sự kiện lạ kỳ mà đã được nhắc tới vào thời của đức Phật, như câu chuyện con voi hộ độ đức Phật, con khỉ dâng mật ong cúng dường Ngài, đức Thế Tôn. Ngày nay những sự kiện tương tự như vậy cũng xảy ra. Vì muốn cho tính chất xác thực của câu chuyện tôi xin được nêu tên vị đại đức đó , đó là đại đức Chob 29 . người đã thọ giơi từ lâu và giờ là khoảng 70 tuổi. Vì ngài thường sống nơi hoang vu cho nên rất hay gặp các loài thú dữ ăn đêm nhất là cọp. Khi rời Lomsak ở tỉnh Phetchabun, ngài đi du hành về phía bắc hướng Lampang tỉnh Chiang Mai. 29. Đại đức Chob Thānasamo (1905-1995), sanh trưởng ở miền đông bắc tỉnh Loei. Xuất gia lúc 15 tuổi. Tu hạnh đầu đà, lần đầu tiên gặp đại đức Mân ở tỉnh Nakhon Phanom năm 1928. Đại đức thường sống ở những nơi hoang vu hiểm trở . Khi vị đại đức nầy sắp sửa bước vào một khu rừng già, thì gặp vài người dân địa phương. Họ khuyên ngài nên ngủ ở trong làng, sáng mai hảy đi vì lo sợ cho ngài. Họ nói khu rừng rất rộng cho nên không thể nào mà đi vào lúc trưa mà tối có thể đi qua được, chắc là sẻ lạc và làm mồi cho con cọp to lớn thường hay sống trong khu rừng nầy. Giờ thì quá giữa trưa cho nên đại đức không thể nào đi băng qua được mà không phải ở lại trong rừng. Điều nầy thì chỉ tự mình làm mồi cho cọp vì họ đã dán thông báo cho mọi người biết đùng đi vào rừng lúc chiều tối, vì những hung thần nầy. Họ mời ngài ở lại làng sáng may dùng cơm rồi hảy đi. Nhưng ngài từ chối, là vì đã quyết định đi. Họ khuyên ngài ở lại nhưng ngài nhất quyết từ chối. Họ hỏi ngài có sợ cọp không thì ngài trả lời rằng là có nhưng điều nầy thì không quan hệ chi tới việc ngài đi. Họ nói chắc chắn là ngài sẻ bị cọp ăn. Nhưng ngài trả lời rằng nếu ngài tận mạng và chết vì cọp thì hảy để nó như vậy. Nên ngài nhất quyết ra đi không nghĩ gì tới cái chết. Khi vào rừng một đoạn thì thấy đầy dấu chân cọp, cũ có, mới có . Vừa đi vừa hành thiền không bao lâu thì trời xẩm tối lúc đó thì ngài đang ở giữa rừng. Ngay đó thì nghe thấy tiếng gầm thật lớn ở đằng sau, thì cũng thấy một con cọp lớn ở phía trước , cả hai con đang tiến lại dần để săn mồi. Tiếng gầm chát tai của hai con làm vang dội cả khu rừng. Đứng giửa đường mòn thấy đằng trước con cọp đang thu mình chờ phóng tới trước, nhìn đằng sau thì con cọp kia cũng vậy. Một cảm giác sợ nổi lên, nhưng chánh niệm của ngài quá chắc cho nên không kinh hoàng, hoảng hốt. Mặc dầu có thể bị cọp giết nhưng ngài không để cho tâm bị giao động mà quay về quán sát tâm mình. Lúc đó thì tâm nhập định sâu , ngay khi vừa vào định thì trí ngài biết rằng cọp chẵng làm gì được ngài, sau đó thì tất cả chung quanh hoàn toàn tan biến, người và cọp đều tan biến, không còn cảm giác về mình về những gì ở chung quanh, ngài nhập sâu vào định trong vài giờ, khi xuất định thì ngọn đèn lồng cầm trên tay đã tắt từ lâu, cây dù và bát vẩn mang trên vai, ngài liền mồi cây đèn cầy mới nhưng chẵng thấy cọp đâu. Lúc đó thì chẵng có một chút nào cảm giác sợ hải, cho dù có hàng trăm con cọp tới thì tâm ngài cũng chẵng một chút sợ hãi. Đứng tại chổ đại đức Chob cảm thấy một sự thương cảm đối với hai con cọp, chúng đã dạy cho ngài một bài pháp. Đại đức Chob tã thì hai con cọp đó rất to lớn giống như hai con ngựa đua. Thân mình thì dài, to hơn cả ngựa, Đến giờ thì cũng chưa từng thấy cọp nào to như vậy. Ngài lúc đó rất an lạc, biết rằng giờ thì mình có thể đi tới bất kỳ chổ nào không còn sợ cọp nữa. Tâm tràn ngập niềm vui, ngài đi về trước nếu như có gặp hai con cọp đó chắc ngài lại vổ đầu chúng như là mèo nhà. Đại đức Chob không ra khỏi khu rừng mải đến 9 giờ sáng hôm sau. Khi gần tơi làng thì ngài đặt đồ cá nhân xuốn g, đắp y ngoài và vào làng khất thực , khi thấy ngài thì dân làng họ kêu nhau cúng dường thực phẩm, có vài người theo ngài lại chổ để đồ, họ hỏi ngài từ đâu tới thì ngài trả lời là suốt đêm băng rừng từ phía nam mà tới. Ai nấy đều ngạc nhiên, hỏi ngài có thấy cọp không , thì ngài trả lời là có, nhưng chúng không làm gì . Ai nầy đều cho không tin, nhưng khi ngài kể rõ câu chuyện thì ai cũng cho là phép lạ, không thể áp dụng được với người bình thường. Cho dù đường đạo hay đường mòn đi qua rừng, nếu như chúng ta không rõ con đường mình đang đi, còn phải đi bao lâu, hay những nguy hiểm gì đang chờ ta trên đường, thì tất cả chúng đều là những trở ngại cho việc tiến bước của chúng ta. Do đó chúng ta phải dựa vào kiến thức của chúng ta mà đi tơi chổ an toàn, an vui hiện tại cũng như ở tương lai. Hảy ghi nhớ là chúng ta thường hay suy nghĩ và hành động theo cách mà chúng ta buông lung, không cẩn thận cho là đúng, nhưng thật ra phần lớn là sai dẩn chúng ta đi vào con đường xấu. Trong suốt cuộc đời tu hành hạnh đầu đà, đại đức Chob thường hay gặp các loài cọp, nhưng chúng thì không làm gì ngài. Đại đức không bao giờ nghĩ là có một ngày nào đó có một con cọp tìm đến mình. Cho đến một hôm vào khoảng 5 giờ chiều , khi đại đức định đứng dậy sau khi tọa thiền thì thấy có một con cọp vằn to lớn đến ở bên ngoài cửa hang nhìn vào trong , nó trông có vẽ to lớn và dữ . Đại đức không có gì là kích động vì thường thấy loài cọp, còn con cọp thì cũng như không sợ ngài nó dương cặp mắt to sáng nhìn ngài như dò xét. Xong nó nhảy lên một tảng đá bằng phẳng cách chổ đại đức khoảng gần 6 thước, ngồi lơ đảng nhìn ngài, thỉnh thoảng liếm chân, không có vẻ gì gây hấn. Nó còn duỗi chân nằm giống như mèo nhà. Đường đi kinh hành thì ngay trước cửa hang ngay sát qua chổ nó nằm. thấy vậy đại đức liền không đi kinh hành mà ngồi xuống tọa thiền tiếp trên chõng tre. Đại đức nghĩ là nó sau một thời gian sẻ đi , nhưng nó vẩn ngồi đó nhìn vào trong. trời tối thì đại đức vô trong mùng , ngài đốt ngọn nến để làm sáng cái hang. Con cọp không có vẻ gì chú ý tới ngọn đèn cầy, nó thoải mái nằm giống như con mèo nhà, trước khi đi ngủ vào nữa đêm thì thấy nó vẩn nằm ở ngoài, sáng 3 giờ dậy thì thấy nó vẩn nằm duỗi chân nhìn vào trong hang. Sau khi rửa mặt, ngồi thiền cho tới mặt trời mọc thì thấy nó vẩn nằm đó thoải mái như mèo nhà. Tới giờ đi khất thực nên đại đức đắp y, và nói với nó rằng : “ Đã tới giờ ta đi khất thực, giống như các loài khác, ta cũng cần phải ăn, nếu không có gì thì hảy để ta đi ra ngoài kiến ăn. Nếu như nhà ngươi muốn ở tại đây thì cũng được, còn không thì hảy đi nơi khác kiếm ăn.”. Con cọp vểnh tai lắng nghe đại đức nói , giống như chó nhà nghe lời chủ nói. Đại đức bước ra đi ngang nó, nó nhìn ngài với cặp mắt hiền lành như muốn nói: ngài cứ đi , đùng sợ ta ở đây là để bảo vệ ngài thôi. Đi xuống làng thì đại đức không nói gì về nó e rằng dân làng sợ sẻ tìm cách giết nó. Sau đó thì đại đức không thấy nó nữa. Đại đức nghĩ rằng nó không phải là loài thú thường mà là do một địa thần biến hiện ra. Vì nó rất là hiền. Đại đức ở Miến Điện 5 năm trời tu hạnh đầu đà, và nói rành tiếng Miến Điện nhưng ngài phải rời khỏi khu vực nầy vì đệ nhị thế chiến xảy ra. Lính Anh và lính Nhật đánh nhau ở khắp nơi ngay cả ở trong rừng núi. Và người Anh họ cho là dân Thái ủng hộ lính Nhật, cho nên họ hay giết những người Thái họ gặp trong rừng trên xứ Miến Điện để trả thù. Dân làng ở khu vực đại đức đi khất thực thì thương ngài nên yêu cầu ngài ở trong rừng để họ mang thức ăn vào vì lo sợ cho tính mạng của ngài. Nhưng cuối cùng thì lính Anh cũng phát hiện ra ngài, khi ngài chúc phúc cho một số người ở trong làng. Bị bắt ngài giải thích với họ là nhà sư nên ngài không liên quan tới tình hình chính trị, và dân làng cũng bảo vệ ngài vì cho rằng nếu hại một nhà sư như ngài, khi mà không làm hại gì ai, mà chỉ giúp đở mọi người về tinh thần và không biết gì về tình hình chính trị thế giới thì đó là một điều sĩ nhục cho quân đội Anh cũng như người dân Miến Điện ở đây. Trong lúc dân làng bảo vệ ngài, thì đại đức đứng im lặng rãi tâm từ đến các người lính, sau một hồi thảo luận thì lính Anh cũng thả ngài nhưng bảo ngài phải rời khỏi khu vực vì nếu không toán khác đi tuần, khi gặp thì họ sẻ giết ngài. Thế là ngài phải đi vào sâu hơn, sống ở trong rừng. Và hằng ngày thì dân làng, họ mang thức ăn cho ngài. Nhưng càng ngày thì lính Anh thường đến làng để hỏi thăm vị sư người Thái đâu. Dân làng lo sợ cho ngài nên cuối cùng khuyên ngài nên trở về Thái Lan, và chỉ dẩn cho ngài con đường mòn hiểm trở mà không có quân lính nào đi tuần qua. Sau đó thì ngài trở về nước theo con đường mà dân làng chỉ. Đi suốt ngày đêm không nghỉ, không có gì ăn chỉ uống nước. Con đường hiểm trở chỉ có dấu chân cọp, và voi thôi nếu không khéo thì sẻ lạc mất ở giữa rừng già. Vào buổi sáng hôm thứ tư khi tới gần biên giới Thái Lan thì có một chuyện lạ kỳ xảy ra. Khi đại đức đang ở trên một đỉnh núi, lúc đó thì đại đức rất mệt vì đã đi bộ băng rừng 3 ngày đêm mà không ăn hay ngủ, chỉ thỉnh thoảng nghỉ mệt dọc đường thôi. Lúc nầy thì rất là đuối sức. Đại đức khi đang mệt nhọc, lão đảo lê thân mình đi trên đỉnh núi và nghĩ : “ Ta đã liều mạng đi một quãng đường dài, giờ đây thì ta vẩn còn sống. Từ lúc ra đi cho tới giờ chưa thấy có một hính bóng nào của con người, để ta có thể xin được thứ gì ăn. Phải chăng ta sẻ chết vì đói ? Ta đã chịu đựng gian khổ , nhưng lần nầy thì quá sức, ta đi lánh nạn chiến tranh cái mà ai cũng sợ nhưng chẵng lẻ ta lại sắp chết vì đói và mệt ? Nếu như lời đức Phật nói thì có các loài trời ở các cõi cao họ có thiên nhản, thiên nhĩ. Họ có thấy chăng đang có một nhà sư sắp chết vì đói. Ta thì tin chắc vào lời Phật dạy, nhưng các loài trời thì họ đã nhờ rất nhiều vào các Tỳ Khưu từ thời đức Phật còn tại thế cho tới ngày nay, mà họ lại không có từ tâm khi nhìn thấy cảnh tượng nầy. Nếu thật sự mà họ có từ tâm , thì hảy cho thấy để xứng đáng với danh xưng của loài trời.” Khi đại đức vừa mới nghĩ như vậy, thì ở đâu đi tới một người ăn mặc lịch sự không giống như dân tộc thiểu số . Vị đó đi tới và ngồi xuống bên đường đầu đội một khay thức ăn. Thấy vậy đại đức giật mình, mình nổi da gà. Lúc đó thì quên cả đói và mệt, khi thấy một người lịch sự đó ngồi bên đường mòn ở phía trước chờ ngài tới để dâng thức ăn. Khi ngài đi tới , vị đó mở lời: “Xin thầy dừng chân, nghỉ giây lát cho đỡ mệt, và dùng các thức ăn nầy cho đở đói. Khi ngài khỏe thì hảy đi tiếp, chắc chắn là trong ngày nay thì ngài sẻ tới nơi, vượt qua khỏi khu vực nguy hiểm nầy" Đại đức Chob, vội đặt xuống các dụng cụ cá nhân, chuẩn bị bát và bước tới để người đó cúng dường thực phẩm. Khi người đó đặt thức ăn vào trong bát thì mùi hương thơm của thức ăn bay tõa ra khắp nơi và số thực phẩm và vị đó cúng dường thì đúng như số lượng mà ngài ăn. Mùi vị thì rất là đặc biệt không thể diễn tả được, có thể là cho quá nhưng sự thật thì không thể nào diễn tả được các thức ăn đó. Khi người đó đặt cúng dường xong thức ăn thì đại đức hỏi nhà ở đâu vì đi ba ngày đêm rối không thấy nhà nào cả, vị ấy mơ hồ chỉ nhà ở phía trước. Khi đại đức hỏi làm sao biết mà mang thức ăn tới chờ sẳn ở đây để mà cúng dường thì vị đó mĩm cười không đáp. Đại đức chúc lành sau khi người đó nói là phải đi về nhà, vì nhà ở xa. Đại đức nói người đó thì khác người bình thường, cử chỉ rất lịch sự, ăn nói đàng hoàng tao nhả. Vị đó khoảng trung niên, cao trung bình, da sáng. Đại đức để ý thấy người đó đi khoảng 9, 10 thước xong rẽ ngang đi quanh một cây rừng thì biến mất. Điều kỳ lạ là khi ngài đi tới chổ đó nhìn chung quanh thì không thấy ai, nếu có người ở chung quanh thì chắc chắn là ngài phải thấy. Khi ăn các thức ăn, thì thấy đó mùi vị rất khác thường, các món ăn đó chưa từng thấy bao giờ rất thơm ngon, làm cho cơ thể khẻo hẳn ra, không còn chút gì mõi mệt hay đói nữa. Vị đó chẵng biết có phải vì đói mà thấy thức ăn rất ngon, và khi ăn hết thì cũng cảm thấy số thực phẩm vừa sức ăn của mình không dư, không thiếu. Khi đó thì cơ thể khẻo mạnh, và đại đức bước đi miên man nghĩ về điều kỳ lạ đó, không biết mình có đi đúng không, nhưng vào lúc chiều thì thấy mình ra khỏi khu rừng già rậm rạp đúng như lời người gặp ở trên núi tiên đoán. Tất cả mõi mệt, biến mất thay vào đó là nổi vui mừng biết mình đã sống sót thoát khỏi hiểm nguy. Đại đức biết chắc rằng người đó là từ trên trời xuống vì từ khi gặp người đó tới khi ra khỏi khu rừng rậm thì không thấy một người nào cả. Đại đức nói thật là một điều kỳ diệu, vì tránh chiến tranh, và lính đi tuần tiểu mà ngài đi con đường mòn sâu trong rừng nơi mà không có một con người nào sống chung quanh, chỉ có đầy dã thú và không có thứ gì ăn và lúc sắp chết vì đói lại có người dâng cúng thức ăn ở giữa nơi hoang dã, để có sức mà thoát hiểm về nước. ĐOẠN KẾT Những ai tu hành theo truyền thống của đại đức Mân, thì thường thích sống ở nơi rừng núi. Và là người tiên phong đại đức khuyến khích các đệ tử hảy sống và tu tập ở trong rừng núi, ở những nơi hoang vắng nơi mà các hành giả thu gặt nhiều pháp hơn là ở những nơi đông đúc. Ngay cả những pháp mà các người học trò ngày nay giảng dạy cũng là nhờ từ nơi tu hành ở những nơi nguy hiểm, gian khổ mà có được. Mặc dầu đại đức Mân đã chết từ lâu nhưng các đệ tử cũng thường thấy linh ảnh của ngài trong lúc thiền định, giống như lúc còn sống, ngay cả có những vị đệ tử khi gặp phải khó khăn trở ngại trong lúc hành thiền thì đại đức cũng xuất hiện ở trong lúc họ định mà chỉ dạy cho họ, ngài vẩn ngồi đó mà giảng dạy cách thức để giải quyết vần đề cho học trò. Đây là cách mà người ta gọi là “lắng nghe pháp bằng linh ảnh xuất hiện trong lúc định”. Lúc đó người thầy giảng dạy cho học trò qua linh ảnh. Điều nầy có vẽ kỳ lạ khó tin nhưng những ai có một trình độ nhất định thì sẽ thấy là các vị La hán hay ngay cả đức Phật xuất hiện trong linh ảnh mà dạy cho họ. Cảm thấy không thể viết gì hơn về vấn đề nầy, tôi để cho hành giả tự chứng lấy để mà biết rõ hơn là dựa vào những lời diễn tả. Tôi thì hoàn toàn đồng ý và tin rằng cho dù bất cứ vấn đề nào được diễn tả, phân tích thì tự chính chúng ta kinh nghiệm mới hiểu rõ thấu đáo vấn đề. Vấn đề là những người thường không thanh tịnh như chúng ta : thì chúng ta hay nghi ngờ, không chấp nhận những gì mình được nghe, hay những lời phê bình của người khác. Cho nên chúng ta tốt hơn là hảy tự mình kinh nghiệm lấy. Như đức Phật đã từng nói : Chúng ta phải chấp nhận hậu quả của chính chúng ta, phải chấp nhận những quả đau khổ, vui sướng mà do chính chúng ta tạo ta. Câu nầy hoàn toàn xác đúng và đẹp đẻ. Câu chuyện về cuộc đời của đại đức Mân thì trong sáng đẹp đẻ, từ lúc còn nhỏ cho tới lúc mất. Đại đức đã cho ta thấy phẩm hạnh của một vị thánh. Khi còn nhỏ ngài đã không làm gì buồn phiền cha mẹ và người chung quanh, khi lớn xuất gia thì tinh tấn tu hành không một phút giây lơ là, luôn luôn theo đứng lời chỉ dạy của đức Phật, không cho phiền não có cơ hội làm chủ được tâm ngài, và để sau nầy làm nơi nương tựa cho tất cả mọi chúng sinh gặp ngài. Tôi muốn kết thúc câu chuyện về cuộc đời của ngài bằng cách trích dẫn một phần lời dạy của ngài cho các đệ tử lúc khi ngài bắt đầu nhuốm bệnh, và lời nhắn nhủ : “Ta đã xét nghiệm, phân tích vấn đề tử sanh của cái thân nầy trong gần 60 năm trời. Và bây giờ ta cũng chẳng thấy ở trong thân thể xác thịt nầy có một chút gì làm cho ta luyến tiếc mà không từ bỏ nó. Ta đã không còn nghi ngờ về điều nầy từ khi ta giác ngộ được chân lý vô thượng. Cho dù chúng xuất hiện trong hay ngoài thân đi nữa, thì tất cả các vật chất đều có chung một cấu tạo và chúng thì từng ngày bị phân hủy, chết đi. Từ lúc chúng được tập hợp lại thì cũng là lúc chúng dần bị tan rã. Mặc dầu chúng ta tưởng tượng cái thân nầy thuộc về chúng ta , nhưng thật ra thì chúng là một sự tổng hợp của các chất mà ta thấy đầy dẫy ở mọi nơi trên quả đất. Cái mà làm ta quan tâm tới là các người học trò từ mọi nơi đến. Ta e rằng phần lớn các ông không thể có một căn bản pháp vững chắc ở trong tâm sau khi ta chết. Vì lý do đó mà ta thường báo cảnh giác các ông là đừng có lơ là đối với phiền não. Đó là cái gốc của mọi sự sống chết bất tận không bao giờ chấm dứt. Đừng có bao giờ cho chúng là không quan trọng, không đáng để ý, không có hại để rồi không đương đầu với nó, và tới lúc khi chết thì không làm gì được nó để nó sai xử, chớ bảo rằng ta đã không báo trước. Tất cả loài người, loài thú trên mặc đất nầy đều bị đau khổ , đó là điều hiển nhiên. Và tất cả là do những phiền não mà các ông cho là không có gì đáng để ý tới. Ta đã dùng tất cả chánh niệm và tuệ mà truy xét, nguyên nhân của sự sống chết, nguyên nhân duy nhất mà làm cho chúng sinh tìm vào một nơi ở cõi tử sanh để rồi phải chịu các nổi đau khổ là những phiền não mà người ta không để ý tới. Chúng chính là kẻ chủ mưu, tất cả các ông đều bị phiền nảo thống trị trong tâm , thế thái độ của các ông như thế nào ? Các ông coi nó là không quan trọng phải không ? Nếu vậy, thì cho dù các ông có ở chung dưới sự hướng dẫn của ta bao nhiêu lâu đi nữa thì cũng như cái vá múc canh trong nồi canh thơm ngon mà thôi. Nếu muốn nếm được vị ngon của canh, thì hảy lắng nghe kỹ pháp mà ta dạy cho các ông, và ghi nhớ kỹ trong tâm. Đừng xử sự như cái môi múc canh, và ngăn trở việc dạy dỗ của ta bằng cách không chịu thực hành những gì ta đã dạy các ông. Nếu không, thì lúc các ông sống và chết cũng chẳng có gì đáng giá, còn tệ hơn loài thú, vì khi chúng chết thì thịt da chúng còn có chút giá trị. Người lơ là, giãi đải thì chẵng có giá trị nào lúc sống cũng như chết. Khi căn bệnh nầy bắt đầu, thì ta luôn nhắc nhở các ông là ta đang chết đi từng ngày. Người mà đã chuyễn hóa được đau khổ, thì người đó hoàn toàn hài lòng thõa mản ở mọi tình huống, vì vậy người đó khi chết thì không có còn gì phải lo âu nữa. Khi mà không bao giờ bị hoen ố nữa, người đó không còn gì nữa để mà đạt, và hoàn toàn như ý. Còn những ai mà lúc chết còn phiền não, cái thứ mà không bao giờ thỏa mản nó, do vậy tái sinh vào bất cứ ở nơi đâu thì cảm giác không thõa mản luôn đeo dính vào tâm họ. Ảnh hưởng của phiền não càng nhiều thì sự đau khổ càng lớn. Đừng có tưởng tượng rằng cỏi nầy, hay cõi kia là nơi sung sướng để tái sanh vào, điều đó phản ảnh cái tâm bám víu, không thõa mản của mình trước khi chết mà thôi. Nghĩa là các ông vẫn không chịu coi phiền não là kẽ thù, là cái gì đáng sợ, đang khuấy động tâm ông. Thì nơi nào mà các ông có thể tìm được sự an vui hạnh phúc. Khi mà các ông còn muốn tìm chổ để sinh vào để rồi lại tử sanh , thì ta không còn biết làm gì để giúp các ông. Tỳ Khưu nào mà chưa đạt được định, sự nhất tâm thì không thể tìm thấy sự an lạc ở thế giới nầy. Họ chỉ tìm thấy sự bất ý, khó chịu ở trong cái tâm sôi động. Các ông phải ngay bây giờ tìm cách hữu hiệu để làm cho cái tâm của các ông nó yên. Hảy tinh tấn, dũng cảm, sốt sắng chiến đấu với phiền não, cái mà đối nghịch với pháp. Thì sau đó các ông sẻ có một sự an lạc chân thật. Với sự bền gan, kiên định thì kết quả sẻ mau chóng đến, đặc biệt là so sánh với khoảng thời gian vô tận mà các ông sẽ phải lại lang thang ở Ta Bà từ giống nầy tới loài khác. Giáo pháp của đức Phật là dùng để cho những ai tin vào muốn chuyễn hóa đau khổ. Đi từng bước một, và cuối cùng sẽ tới đích là nơi không bao giờ phải sinh vào nơi có sự sống chết nữa. Ai mà mong mõi không còn phải tái sinh ở nơi sống chết thì phải phân tích sâu xa tất cả mọi khía cạnh của sự hiện hữu trong vủ trụ từ cái thô cho đến cái vi tế y theo ba cái căn bản của mọi vật là Vô thường, Khổ, và Không. Dùng trí tuệ xét nghiệm tường tận để không còn nghi ngờ gì nữa. Khi mà được như vậy thì cái bám víu mạnh nhất cũng tan biến trong nháy mắt. Tất cả những cái cần thiết để cắt bỏ nghi hoặc, tà kiến là trí tuệ sắc bén. Trong Tam giới thì vũ khí sắc bén nhất để chống lại phiền não không gì hơn là chánh niệm và tuệ. Đức Phật và các vị La hán thì cũng đã làm như vậy không có gì khác hơn. Chính đức Phật tương duyên chánh niệm và tuệ là hơn hết, điều nầy không có nghĩa là giảm bớt đi những giá trị tinh thần khác, mà những cái khác đó thì chúng trợ giúp cho, giống như người chiến sĩ ngoài vủ khí ra, cần được cung cấp đồ ăn, thức uống. Chiến sĩ và vủ khí là hai cái cần thiết ở chiến trường. Chiến sĩ ở đây là những ai can đảm đương đầu không chịu khuất phục phiền não, không còn muốn phải tái sinh trong sự sống chết để làm trò cười cho phiền não, vũ khí đây là chánh niệm và tuệ, hai thứ nầy lúc nào cũng phải ở trên tay. Những điểm mà trên đường tu hành các ông bị chặn, bị rối là những điểm mà các ông phải dũng cảm giải quyết, đừng sợ sự gắng sức của mình trong việc chuyễn hóa tử sanh có thể trở nên phải vong mạng. Khi mà các ông phải đối diện với thần chết , thì ta muốn các ông chết trong sự vinh quang. Không muốn các ông chết trong sự thất bại, rồi phải chịu đau khổ lâu dài sau nầy. Các ông phải gắng hết sức để chiến đấu cho tới khi Ta bà là nơi hoang vắng. Hảy cố gắng ! Có thể khi nào Ta Bà trở thành nơi hoang vắng vì thiếu người bị phiền não lừa gạt mà sinh vào, chỉ vì các ông tinh tấn tu hành ? Tai sao các ông lại lo âu muốn trở lại tìm một chổ trong Ta bà ? Các ông chưa chết ! nhưng mọi ý tưởng trong tâm đều hướng về một sự hiện hữu ở tương lai. Tại sao vậy ? Khi nào mà ông lơ là trong việc tu hành là lúc đó tự động ông làm việc hết mình để giử một chổ ở nơi mà sự sống chết luân phiên bất tận. Kết quả là tử sanh buộc trói tâm ông, và tâm ông bị buộc trói bởi đau khổ. Ta đã cố gắng hết sức mình để dạy các ông, thành thật phơi bày tất cả những gì mà các ông cần biết về Tứ Diệu Đế, và Tứ niệm xứ. Ta chỉ giử lại một phần khía cạnh của pháp liên quan tới các nhận thức việc huyền bí, cái mà không trực tiếp liên quan tới việc giải thoát. Như là các kinh nghiệm nội tâm về thế giới bên ngoài, mà ta luôn ám chỉ trong lúc này hay lúc khác. Ta vui khi có những ai khác cũng kinh nghiệm được những nhận thức như vậy, và sẳn sàng trợ giúp mọi điều khi ta có thể. Khi mà ta chết đi thì rất khó mà tìm được ai để giúp các ông về các vấn đề nầy. Hảy nên nhớ kỹ rằng pháp hành thì rất khác pháp học. Những ai mà thật sự chưa đạt được định, được Đạo, Quả, và Niết Bàn thì không thể nào chỉ người khác một cách đúng đắn để đạt được những điều giác ngộ đó.” Đại đức Mân, ngài kết thúc những lời nhắn nhũ cuối cùng bằng cách nhấn mạnh về Ngũ Uẩn, như đức Phật đã nhắn nhũ lại với Tăng đoàn trước khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn. Đại đức lập lại bằng cách đọc lại lời đức Phật dạy : Này các Tỳ Khưu, hảy lắng nghe kỹ lời ta, tất cả các pháp sanh do điều kiện (sankhāra dhammas) là vô thường. Chúng khởi sanh, phát triển, phân hũy và tan rã, vì vậy các con nên cố gắng tinh tấn trong việc tu hành. Sau đó thì đại đức giảng ý nghĩa của đoạn kinh nầy : “ Chử Hữu vi (Sankhāra)30 , trong lời nhắn nhủ cuối cùng của đức Phật là pháp cao nhất. Ngài bao gồm tất cả các vật do điều kiện mà có trong thế giới vũ trụ vào chử hữu vi. Hơn lúc nào hết, đức Phật lúc nầy muốn ám chỉ về các thứ hữu vi ở bên trong của mổi người. Ngài muốn cho các Tỳ Khưu thấy pháp hữu vi là quan trọng, vì chúng là nguyên nhân gây là đau khổ , chúng là những thành phần gây nhiễu loạn tâm. Làm tâm trở nên úa tàn ở trong tình trạng mê mờ , mà ở đó thì chúng ta không bao giờ kinh nghiệm được trạng thái tĩnh lặng, sự hiện hữu vô vi. Nếu chúng ta xét nghiệm kỹ các pháp hữu vi đó – là tất cả những ý tưởng, khái niệm của chúng ta từ thô cho tới vi tế , cho tới lúc chúng ta hoàn toàn hiểu rõ không còn một chút nghi ngờ bản chất thật sự của chúng, đến lúc đó thì chúng sẻ chấm dứt, khi mà pháp hữu vi chấp dứt thì không còn có gì làm xáo trộn tâm nữa. Mặc dầu vẩn có ý tưởng, sáng kiến nhưng tất cả đều theo hoạt động tự nhiên của Uẩn. Lúc này thì uẩn là trong sạch không cấu ô. Chúng không còn che dấu một tí gí của phiền não, ái dục, hay vô minh. Nếu mà so sánh như là một giấc ngũ thì đó là một giấc ngũ thật sâu, không mơ mộng. Lúc nầy tâm gọi là ‘ tâm an tịnh’ , không còn một chút tàn dư nào của phiền não. Chư Phật và các La hán đều có tâm nầy. Do đó họ không nuôi dưỡng một ý niệm nào để đạt được thêm một cái gì nữa. Ngay lúc mà phiền não bị dập tắt là lúc tình trạng an lạc, thanh tịnh phát khởi. Lúc này gọi là Hữu Dư Niết Bàn, Chính là lúc sau khi một vị la hán vừa mới chứng đắc đạo quả. Đây là tình trạng hết sức kỳ diệu, mà không có thứ nào trong Tam giới để có thể so sánh được." Sau khi giảng đến đây ngài ngưng, và đi nghỉ . và từ đó về sau ngài không còn họp chúng để giảng pháp nữa. Chính vì vậy mà tôi nói đây là lời nhắn nhủ cuối cùng (pacchima ovāda) của ngài. Là tác giả của tập tiểu sử nầy, tôi hết sức cố gắng để ghi lại kỹ và chính xác những chi tiết về đại đức Mân. Tôi coi đây là một công trình suốt cả đời. Nếu có gì sơ xuất thì xin quí đọc giả cho tôi xin lổi. Tôi đã dùng một phần lớn thời gian để viết lại tập tiểu sử của ngài, nếu mà tôi có giành thêm 3 năm trời nữa để viết, thì cũng không khi nào được như ý vì có rất nhiều chi tiết về ngài mà tôi không được biết, và vì khoảng thời gian đại đức Mân sống một mình du hành. Dù vậy thì tôi cũng hết sức ghi lại để cho những ai chưa bao giờ gặp ngài được biết về một con người bình thường sanh ra như chúng ta nhưng mà cuộc sống và thành quả thật là hết sức phi thường. Một người đã mang lại rất nhiều lợi lạc cho những ai có cơ hội được tiếp xúc với ngài. Giờ đây ít nhất thì câu chuyện về cuộc đời của ngài cũng đem lại phần nào ích lợi cho đọc giả, mặc dầu câu chuyện không phản ảnh hoàn toàn hết về cuộc sống và những thành tựu của ngài. Trong việc viết tập tiểu sử nầy , tôi chỉ ghi lại khoảng 70 phần trăm những sự kiện mà tôi nghĩ có lợi ích cho đại đa số các đọc giả, phần còn lại thì tôi nghĩ rất khó hiểu và không thích hợp. Mặc dầu gạn lọc nhưng cũng có những điều mà tôi không hài lòng khi ghi ra, mặc dầu chúng phản ánh sự trung thật về cuộc đời và lời chỉ dạy của ngài khi còn tại thế. Lắng nghe ngài giảng pháp, và những hiện tượng vũ trụ bên ngoài thì thật là hết sức kỳ diệu, và tôi thành thực khâm phục sự tự tin, làm chủ của ngài trong khi giảng. Khi ngài giảng cho chúng tôi thì chúng tôi cảm tưởng là ngài thay mặt đức Phật và các thánh tăng đang giảng pháp cho chúng tôi nghe, họ đang hiện hiện ngay ở trước mặt và đang tưới nước cam lồ lên thân tâm của chúng tôi. 30. Hữu vi : là do các nhân duyên, điều kiện tạo thành Cuộc đời của ngài là một câu chuyện rất đẹp , trong sáng, ngày nay ít có ai có thể sánh kịp. Nếu mà ghi rõ từng chi tiết thì có lẽ không khác gì các câu chuyện của các vị La Hán thời đức Phật Nếu tôi phải giảng rõ từng chi tiết khía cạnh trí tuệ của ngài thì có lẽ tôi lấy làm rất xấu hổ vì sự kém cõi nầy. Xấu hổ làm vị Tỳ Khưu trong rừng chỉ là ở danh từ, kẻ mà đang lấn sang Ta Bà. Vì vô minh mà tôi có thể đã làm xấu đi danh tiếng của ngài. Đó là điều mà phải tránh bằng mọi giá. Nếu như sự trình bày của tôi có gì không phải, tôi xin thành tâm xin lổi cùng quí đọc giả. Nguyện công đức có từ công việc làm nầy xin hồi hướng cho các đọc giả , và những người đã giúp cho việc hoàn thành tập sách nầy, và cho tất cả các chúng sinh. Cuối cùng nguyện cầu Tam Bảo gia hộ cho tất cả các đọc giả, và những người ở nhà xuất bản Srisapada – những người đã làm việc tận lực để mang lại kết quả nầy. Nguyện cho tất cả được an lành, khỏi bệnh tật, và thạnh vượng ở bây giờ và ở tương lai. HếT Tỳ Khưu Mahā Bowa Ñāṇasampanno -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 15th June 2025 - 09:10 PM |