![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
OHSO- THỨC ĂN VÀ SỨC KHỎE
Không con vật nào ăn như con người; mọi con vật đều có thức ăn được chọn lựa của nó. Nếu bạn đem trâu vào vườn và bỏ chúng đấy, thì chúng sẽ chỉ ăn một loại cỏ đặc biệt. Chúng sẽ không ăn mọi thứ và bất kỳ thứ gì – chúng rất chọn lựa. Chúng có cảm giác nào đó về thức ăn của chúng. Con người đã đánh mất hoàn toàn, đã không còn cảm giác về thức ăn của mình. Con người cứ ăn bất kỳ cái gì. Trong thực tế bạn không thể nào tìm ra được cái gì mà con người không ăn ở đâu đó chỗ này chỗ khác. Tại một số nơi, kiến cũng bị ăn. Tại một số nơi, rắn cũng bị ăn. Tại một số nơi, chó cũng bị ăn. Con người ăn mọi thứ. Con người đơn giản phát điên. Con người không biết cái gì cộng hưởng với thân thể mình và cái gì không. Con người hoàn toàn lẫn lộn. Một cách tự nhiên con người nên là người ăn chay, bởi vì toàn bộ thân thể được tạo nên từ thức ăn thực vật. Ngay cả các nhà khoa học cũng phải thừa nhận sự kiện là toàn bộ cấu trúc thân thể con người chứng tỏ rằng con người không nên là kẻ không chay. Con người tới từ khỉ. Khỉ là kẻ chay – hoàn toàn chay. Nếu Darwin đúng thế thì con người nên là kẻ ăn chay. Bây giờ có cách để đánh giá xem liệu một loài vật nào đó có ăn chay hay không ăn chay: điều đó tùy thuộc vào ruột, chiều dài ruột. Con vật không ăn chay thường có ruột rất nhỏ. Hổ, sư tử - chúng có ruột rất nhỏ, bởi vì thịt là thức ăn đã được tiêu hóa rồi. Không cần bộ ruột dài để tiêu hóa thịt. Công việc tiêu hóa đã được con vật tiến hành rồi – ruột dài không cần. Con người có một bộ ruột dài nhất: điều đó có nghĩa con người là loại ăn chay. Việc tiêu hóa lâu dài là cần thiết, và nhiều chất xơ sẽ có đó phải được tống ra. Nếu con người không phải là loại không ăn chay và người đó cứ ăn thịt, thì thân thể bị nặng gánh. Tại phương Đông, tất cả các thiền nhân vĩ đại - *Phật, Mahavira – họ đều nhấn mạnh vào sự kiện này, không phải bởi vì bất kỳ khái niệm bất bạo lực nào, điều đó là phụ, nhưng bởi vì nếu bạn thực sự muốn đi sâu vào trong thiền, thì thân thể bạn cần vô trọng lượng, tuôn chảy tự nhiên. Thân thể bạn cần được dỡ bỏ gánh nặng; và thân thể của người không ăn chay thì rất nặng nề. Hãy quan sát điều xảy ra khi bạn ăn thịt: khi bạn giết con vật thì điều gì xảy ra cho con vật khi nó bị giết? Tất nhiên, chẳng ai muốn bị giết cả. Cuộc sống tự nó kéo dài ra; con vật không sẵn lòng chết. Nếu ai đó giết bạn, thì bạn sẽ chết một cách không sẵn lòng. Nếu con sư tử chồm lên bạn và giết bạn, điều gì sẽ xảy ra cho tâm trí bạn? Cùng điều ấy cũng xảy ra khi bạn giết con sư tử. Đau đớn, sợ hãi, chết chóc, khổ não, lo âu, giận dữ, bạo hành, buồn bã – tất cả những điều này xảy ra cho con vật. Bạo hành, đau đớn, khổ não lan khắp người nó. Toàn bộ thân thể trở thành đầy độc tố, chất độc. Tất cả các tuyến thân thể đều tiết chất độc bởi vì con vật đang chết một cách rất không sẵn lòng. Và thế rồi bạn lại ăn thịt – thịt đó mang tất cả mọi chất độc con vật đã tiết ra. Toàn bộ năng lượng là độc hại, thế rồi những chất độc đó được mang vào thân thể bạn. Và thịt đó bạn đang ăn đã thuộc vào một thân thể con vật. Nó đã có một mục đích đặc biệt ở đó. Một kiểu tâm thức đặc biệt đã tồn tại trong thân thể con vật này. Bạn đang ở trên một bình diện cao hơn tâm thức con vật đó, và khi bạn ăn thịt con vật đó thì thân thể bạn lại đi xuống theo bình diện thấp hơn, tới bình diện thấp của con vật đó. Thế thì tồn tại một lỗ hổng giữa tâm thức của bạn và thân thể bạn, và sự căng thẳng nảy sinh, và lo âu nảy sinh. Người ta nên ăn những thứ vốn tự nhiên – tự nhiên cho bạn. Quả, hạt, rau – hãy ăn nhiều thỏa sức. Và cái đẹp là ở chỗ bạn không thể ăn được những thứ này nhiều hơn mức cần thiết. Bất kỳ cái gì là tự nhiên thì bao giờ cũng đem lại cho bạn sự thỏa mãn, bởi vì nó làm no thân thể bạn, làm bão hòa bạn. Bạn cảm thấy mãn nguyện. Nếu điều gì đó không tự nhiên thì chẳng bao giờ cho bạn cảm giác về sự mãn nguyện. Bạn cứ ăn kem mãi: bạn chẳng bao giờ cảm thấy rằng bạn no. Trong thực tế, bạn càng ăn nhiều, thì bạn lại càng cảm thấy thích ăn hơn. Nó không phải là thức ăn. Tâm trí bạn bị chơi xỏ. Bây giờ bạn không ăn theo nhu cầu thân thể, bạn đang ăn chỉ để thưởng thức nó. Cái lưỡi đã trở thành người điều khiển. Cái lưỡi không nên là người điều khiển. Nó chẳng biết gì về thân thể cả. Cái lưỡi có mục đích nhất định phải hoàn thành: thưởng thức thức ăn. Một cách tự nhiên, cái lưỡi phải đánh giá, đó là điều duy nhất, thức ăn nào dành cho thân thể - cho thân thể tôi – và thức ăn nào không dành cho thân thể tôi. Nó chỉ là người gác cổng; nó không phải là người chủ. Và nếu người gác cổng trở thành người chủ, thế thì mọi sự sẽ lẫn lộn. Bây giờ các nhà quảng cáo đều biết rõ rằng lưỡi có thể bị lừa, mũi có thể bị lừa. Và chúng không phải là người chủ. Bạn có thể không nhận biết: nhiều nghiên cứu về thức ăn đang tiến hành trên khắp thế giới, và họ nói nếu mũi bạn bị bịt hoàn toàn và mắt bạn bị bịt lại, và thế rồi bạn được trao cho củ hành để ăn, bạn không thể biết được bạn đang ăn gì. Bạn không thể nào biết được hành hay táo nếu mũi bạn bị bịt hoàn toàn bởi vì một nửa việc nếm tới từ mùi vị, do mũi quyết định, và một nửa do lưỡi quyết định – và hai giác quan này đã trở thành kẻ điều khiển. Bây giờ chúng biết: kem có bổ dưỡng hay không cũng chẳng thành vấn đề. Nó có thể mang một mùi vị, nó có thể mang hóa chất nào đó thỏa mãn cho lưỡi nhưng chẳng cần gì cho thân thể cả. Con người bị lẫn lộn – còn bị lẫn lộn hơn cả trâu nữa. Bạn không thể nào thuyết phục con trâu ăn kem được. Cứ thử mà xem! Thức ăn tự nhiên… và khi tôi nói ‘tự nhiên’ là tôi ngụ ý rằng cái thân thể bạn cần. Nhu cầu của hổ là khác, nó phải rất bạo hành. Nếu bạn ăn thịt hổ thì bạn sẽ bạo hành, nhưng cái bạo hành của bạn sẽ được diễn đạt ở đâu? Bạn phải sống trong xã hội loài người chứ không trong rừng rậm. Thế thì bạn sẽ phải kìm nén cái bạo hành này. Một cái vòng luẩn quẩn bắt đầu. Khi bạn kìm nén bạo hành, điều gì xảy ra? Khi bạn cảm thấy giận dữ, bạo hành, một năng lượng độc hại nào đó được tiết ra, bởi vì chất độc đó tạo ra tình huống bạn có thể thực sự bạo hành và giết ai đó. Năng lượng này đi vào tay bạn; năng lượng này đi vào răng bạn – đây là hai chỗ từ đó con vật trở nên bạo hành. Con người là một phần của vương quốc loài vật. Khi bạn giận dữ, thì năng lượng được thoát ra – nó đi tới tay và răng, tới hàm – nhưng bạn đang sống trong xã hội con người và không phải bao giờ giận dữ cũng lợi. Nếu bạn cư xử như con vật, bạn sẽ phải trả giá nhiều về điều đó – mà bạn lại không sẵn sàng trả giá nhiều như thế. Thế thì bạn làm gì? Bạn kìm nén giận dữ trong hàm răng – bạn cứ mỉm cười nụ cười giả dối, và răng bạn cứ tích lũy giận dữ. Tôi hiếm khi bắt gặp một người với quai hàm tự nhiên. Nó không tự nhiên – bị ngăn cản, cứng nhắc – bởi vì quá nhiền giận dữ có đó. Nếu bạn ấn vào quai hàm ai đó, thì giận dữ có thể thoát ra. Bàn tay trở nên xấu xí. Chúng mất vẻ duyên dáng, chúng mất sự linh động, bởi vì quá nhiều giận dữ bị kìm nén ở đấy. Những người đã làm việc trong xoa bóp sâu, họ đã đi tới biết rằng khi bạn chạm tay một cách sâu sắc, xoa bóp bàn tay, thì người này bắt đầu trở nên giận dữ. Không có lý do. Bạn đang xoa bóp người này và bỗng nhiên người đó bắt đầu cảm thấy cáu bẳn. Nếu bạn ấn vào quai hàm, thì người ta lại trở nên giận dữ. Họ đã mang cơn giận được tích lũy. ________________________________________ Đấy là những điều không thuần khiết trong thân thể: chúng phải được thoát ra. Nếu bạn không cho thoát chúng ra thì thân thể sẽ vẫn còn nặng nề. Bài luyện tập yoga tồn tại để cho thoát ra tất cả mọi loại chất độc đã tích lũy trong thân thể. Những chuyển động Yoga xả chúng ra; và thân thể nhà yoga có tính mềm mỏng của riêng nó. Các bài tập yoga hoàn toàn khác với các bài tập khác. Chúng không làm cho thân thể bạn mạnh mẽ; chúng làm cho thân thể bạn mềm dẻo hơn. Và khi thân thể bạn mềm dẻo hơn, thì bạn lại mạnh mẽ theo một nghĩa rất khác: bạn trẻ trung hơn.Chúng làm cho thân thể bạn linh động hơn, tuôn chảy hơn – không khối chắn nào trong thân thể. Toàn bộ thân thể tồn tại như một đơn vị hữu cơ, trong nhịp điệu sâu sắc của riêng nó. Nó không giống như tiếng ồn trong chợ, nó giống như dàn nhạc. Một nhịp điệu sâu sắc bên trong, không khối chắn, thế thì thân thể là thuần khiết. Các bài tập yoga có thể cực kỳ có ích. Mọi người đều đang mang nhiều rác rưởi trong dạ dầy, bởi vì đấy là chỗ duy nhất trong thân thể bạn có thể dồn nén mọi thứ. Không có chỗ khác. Nếu bạn muốn kìm nén bất kỳ cái gì thì nó phải bị dồn nén vào trong dạ dầy. Nếu bạn muốn khóc – vợ bạn chết, người yêu bạn chết, bạn thân của bạn chết – nhưng điều đó dường như không tốt, dường như bạn yếu đuối, khóc vì đàn bà, bạn kìm nén nó. Bạn sẽ dồn nén cái khóc đó vào đâu? Một cách tự nhiên, bạn phải dồn nén nó vào trong dạ dầy. Đó là nơi duy nhất sẵn có trong thân thể, chỗ hổng duy nhất, nơi bạn có thể ép buộc nó vào. Nếu bạn dồn nén vào trong dạ dầy… và mọi người thì đều đã dồn nén nhiều loại xúc động: về tình yêu, về dục, về giận dữ, về buồn bã, về khóc than – thậm chí cả tiếng cười. Bạn không thể cười khanh khách đến vỡ bụng được. Điều đó có vẻ bất lịch sự, có vẻ thô tục – thế thì bạn là người không có văn hóa. Bạn phải dồn nén mọi thứ. Bởi vì việc dồn nén này, bạn không thể nào thở sâu được, bạn phải thở nông. Nếu bạn thở sâu thế thì những vết thương của việc dồn nén đó, chúng sẽ xả ra năng lượng của chúng. Bạn sợ. Mọi người đề sợ đi vào trong dạ dầy. Mọi đứa trẻ, khi được sinh ra, đều thở qua bụng. Hãy nhìn một đứa trẻ ngủ: bụng nó phập phồng – ngực chẳng bao giờ thế. Không đứa trẻ nào thở từ ngực cả; chúng thở từ bụng. Bây giờ chúng hoàn toàn tự do, chẳng cái gì bị kìm nén cả. Dạ dầy của chúng trống rỗng, và cái trống rỗng đó có cái đẹp trong thân thể. Một khi dạ dầy có quá nhiều điều dồn nén trong nó, thì thân thể bị chia làm 2 phần, phần thấp hơn và phần cao hơn. Thế thì bạn không là một; bạn là hai. Phần thấp hơn là phần bị bỏ đi. Tính thống nhất bị mất; nhị nguyên đã đi vào trong con người bạn. Bây giờ bạn không thể nào đẹp được nữa, bạn không thể nào duyên dáng được nữa. Bạn đang mang hai thân thể thay vì một – và bao giờ cũng còn lại một lỗ hổng giữa hai thân này. Bạn không thể nào bước đi đẹp đẽ được. Dẫu sao thì bạn vẫn phải mang chân mình. Trong thực tế, nếu thân thể là một, thì chân bạn sẽ mang bạn đi. Nếu thân thể bị chia làm hai thì bạn phải mang chân mình đi. Bạn phải kéo lê thân thể mình. Điều đó giống như gánh nặng – bạn không thể nào tận hưởng điều đó. Bạn không thể nào tận hưởng việc đi bộ tốt, bạn không thể nào tận hưởng việc bơi tốt, bạn không thể nào tận hưởng việc chạy nhanh – bởi vì thân thể không phải là một. Với mọi chuyển động này, và để hưởng thú chúng, thì thân thể cần được thống nhất lại. Sự thống nhất phải được tạo ra lần nữa: dạ dầy sẽ phải được dọn sạch hoàn toàn. Để dọn sạch dạ dầy cần tới việc thở rất sâu, bởi vì khi bạn hít vào sâu và thở ra sâu, thì dạ dầy tống ra tất cả những cái nó đang mang. Trong việc thở ra, dạ dầy tự xả bỏ cho nó. Do đó mới có tầm quan trọng của pranayam, thở nhịp điệu sâu. Việc nhấn mạnh nên vào việc thở ra để cho mọi thứ dạ dầy đã phải mang một cách không cần thiết được xả bỏ ra. Và khi dạ dầy không mang những xúc động bên trong, nếu bạn bị chứng táo bón thì nó bỗng nhiên biến mất. Khi bạn kìm nén xúc động trong dạ dầy thì sẽ có táo bón bởi vì dạ dầy không được tự do để có chuyển động của nó. Bạn đang kiểm soát nó sâu sắc; bạn không thể nào cho phép nó tự do được. Cho nên nếu các xúc động bị kìm nén, thì sẽ có táo bón. Táo bón là bệnh mang nhiều tính tinh thần hơn là bệnh thể chất. Nó thuộc về tâm trí nhiều hơn là thuộc về thân thể. Nhưng hãy nhớ, tôi không phân chia tâm trí và thân thể làm hai đâu. Chúng là hai khía cạnh của cùng một hiện tượng. Tâm trí và thân thể không phải là hai thứ. Trong thực tế nói ‘tâm trí và thân thể’ là không tốt: ‘tâm trí – thân thể’ mới là cách diễn đạt đúng. Thân thể bạn là hiện tượng tâm lý. Tâm trí là phần tinh tế nhất của thân thể, còn thân thể là phần thô nhất của tâm trí. Và cả hai chúng đều ảnh hưởng lẫn nhau; chúng chạy song song. Nếu bạn đang kìm nén cái gì đó trong tâm trí, thì thân thể sẽ bắt đầu cuộc hành trình kìm nén. Nếu tâm trí xả ra mọi thứ, thì thân thể cũng xả ra mọi thứ. Đó là lý do tọa sao tôi lại nhấn mạnh vào thanh tâm rất nhiều. Thanh tâm là tiến trình dọn sạch. Đây tất cả đều là cách thức khổ hạnh: nhịn ăn, ăn uống tự nhiên; thở nhịp điệu, sâu; bài tập yoga; sống cuộc sống ngày càng tự nhiên, linh động, mềm mỏng hơn; tạo ra ngày càng ít thái độ kìm nén; cho phép thân thể có tiếng nói riêng của nó; tuân theo trí huệ của thân thể… Khi thân thể được thuần khiết, bạn sẽ thấy những năng lượng cực kỳ mới nảy sinh, những chiều hướng mới mở ra trước mắt bạn, những cánh cửa mới bất thần mở ra, những khả năng mới. Thân thể có nhiều năng lực ẩn kín. Một khi nó được thả ra bạn sẽ không thể nào tin được nó, rằng thân thể mang nhiều thứ trong nó thế, và lại gần thế. Theo những truyền thống huyền môn của phương Đông, tất cả những điều bạn nghĩ mình đang là, đều chẳng gì ngoài thức ăn. Thân thể bạn là thức ăn, tâm trí bạn là thức ăn, linh hồn bạn là thức ăn. Bên ngoài linh hồn chắc chắn có cái gì đó không phải là thức ăn. Cái gì đó ấy được biết là anatta, vô ngã. Đó là sự trống rỗng hoàn toàn. Phật gọi nó là shunya, cái hư không. Nó là không gian thuần khiết. Nó không chứa gì ngoài bản thân nó; nó là tâm thức vô nội dung. Khi nội dung vẫn còn, thì thức ăn cũng vẫn còn. Thức ăn được ngụ ý là cái được tiêu hóa từ bên ngoài. Thân thể cần thức ăn vật lý; không có nó, thân thể sẽ bắt đầu teo đi. Đây là cách nó tồn tại; nó không chứa gì ngoài thức ăn vật lý. Tâm trí bạn chứa ký ức, ý nghĩ, ham muốn, ghen tỵ, hành trình quyền lực và cả nghìn lẻ một thứ. Tất cả những cái đó cũng là thức ăn; nó là thức ăn trên bình diện tinh tế hơn chút ít. Ý nghĩ là thức ăn. Do đó khi bạn có những ý nghĩ nuôi dưỡng thì lồng ngực bạn nở ra, khi bạn có những ý nghĩ, cái đem lại cho bạn năng lượng, thì bạn cảm thấy tốt. Ai đó nói điều gì đó tốt lành về bạn, một lời khen ngợi, thì hãy nhìn điều gì xẩy ra cho bạn: bạn được nuôi dưỡng. Còn ai đó nói gì đó sai về bạn: cứ dường như cái gì đó bị tuột ra khỏi bạn, bạn yếu đuối hơn bạn trước đó. Tâm trí là thức ăn dưới dạng tinh tế. Tâm trí không là gì ngoài phía bên trong của thân thể; do đó cái bạn ăn ảnh hưởng tới tâm trí bạn. Nếu bạn ăn thức ăn không chay, bạn sẽ có một loại tâm trí đặc biệt; nếu bạn ăn thức ăn chay thì bạn chắc chắn có một loại tâm trí khác. Bạn có biết sự kiện quan trọng mênh mông này về lịch sử Ấn Độ không? Ấn Độ chưa bao giờ tấn công bất kỳ nước nào trong toàn bộ lịch sử 10.000 năm của nó. Chưa bao giờ - không một hành động xâm lăng nào.Làm sao điều đó lại có thể được? Tại sao? Cùng nhân loại đó tồn tại ở đây như tồn tại mọi nơi khác. Nhưng chính là một loại thân thể khác đã tạo ra tâm trí khác. Bạn có thể tự mình quan sát điều đó. Hãy ăn cái gì đó rồi quan sát, ăn cái gì đó khác rồi quan sát. Hãy ghi chép lại, và bạn sẽ trở nên nhận biết và ngạc nhiên thấy rằng mỗi thứ bạn tiêu hóa không chỉ là phần vật lý, nó có một phần tâm lý của nó. Nó làm cho tâm trí bạn thành mong manh với những ý tưởng nào đó, với những ham muốn nào đó. Do đó, qua nhiều thời đại, đã từng có việc tìm kiếm loại thức ăn sẽ không làm lành mạnh cho tâm trí nhưng sẽ giúp nó cuối cùng tan biến đi; một loại thức ăn mà, thay vì làm lành mạnh cho tâm trí, sẽ làm mạnh cho thiền, vô trí. Không thể nêu ra được những quy tắc chắn chắn và cố định, bởi vì mọi người đều khác nhau và từng người đều phải quyết định cho bản thân mình. Và hãy quan sát điều bạn cho phép đi vào trong tâm trí mình. Mọi người hoàn toàn không nhận biết; họ cứ đọc mọi thứ và bất kỳ cái gì, họ cứ xem ti vi, bất kỳ cái gì ngu si, xuẩn ngốc. Họ cứ nghe đài, họ cứ tán gẫu, huyên thuyên với mọi người, và họ tất cả đều trút rác rưởi vào đầu người khác. Rác rưởi là tất cả những cái họ có. Hãy tránh những tình huống trong đó bạn bị nặng gánh không cần thiết bởi rác rưởi. Bạn đã có quá nhiều gánh khỏi nó. Và bạn cứ thu thập nó dường như nó là cái gì đó quý giá. Hãy nói ít đi, chỉ nghe điều bản chất, hãy thấu cảm trong nói và nghe. Nếu bạn nói ít, nếu bạn nghe ít, thì dần dần bạn sẽ thấy rằng một cảm giác thuần khiết, cứ dường như bạn vừa mới tắm, sẽ bắt đầu nảy sinh bên trong bạn. Điều đó trở thành mảnh đất cần thiết cho thiền nảy sinh. Bạn đừng cứ đọc đủ mọi loại vô nghĩa. Có lần tôi sống trong một ngôi nhà mà hàng xóm là một người điên, người rất quan tâm tới báo chí. Người đó ngày nào cũng tới để thu lượm tất cả các báo chí từ tôi. Nếu đôi khi người đó ốm hay tôi không có nhà, thế thì người đó sẽ tới muộn về sau. Có lần chuyện xảy ra, tôi vắng nhà mất 10 ngày. Và khi tôi quay về thì người đó lại tới để thu thập tất cả các báo chí. Tôi nói với người đó: “Nhưng bây giờ tất cả báo đều cũ cả rồi – cũ mất 10 ngày.” Người đó nói: “Có vấn đề gì đâu? Đấy toàn là rác rưởi cả! Chỉ có ngày tháng thay đổi mà thôi.” Đấy phải là một khoảnh khắc rất lành mạnh trong cuộc đời người điên đó. Vâng, có những khoảnh khắc điên loạn trong cuộc sống của cái gọi là người lành mạnh, và ngược lại. Người đó đang nói ra chân lý, nói rằng: “Đấy cũng là điều vô nghĩa cũ mèng. Có vấn đề gì đâu? Tôi có thời gian, và tôi vẫn phải bận bịu.” Tôi hỏi người đó: “Ông đã làm gì trong 10 ngày qua?” Người đó nói: “Tôi đọc báo cũ – đọc đi đọc lại chúng.” Hãy để ra vài lỗ hổng trong tâm trí mình không bị bận rộn. Những khoảnh khắc của tâm thức không bận rộn đó là những thoáng nhìn đầu tiên về thiền, việc thấm nhuần đầu tiên của cõi bên kia, ánh chớp lóe đầu tiên của vô trí. Và thế thì nếu bạn có thể xoay xở làm được điều này, thì điều khác là hãy chọn thức ăn vật lý không giúp cho cái hung hăng và bạo hành, cái không của vô trí. Bây giờ thậm chí các nhà khoa học cũng đồng ý với điều này, rằng khi bạn giết con vật, thì từ nỗi sợ nó sẽ tiết ra mọi loại chất độc. Cái chết là không dễ dàng. Khi bạn giết một con vật, thì từ nỗi sợ một sự run rẩy lớn phát sinh bên trong. Con vật muốn tồn tại: tất cả mọi loại chất độc bị tiết ra. Khi bạn trong sợ hãi bạn cũng tiết ra chất độc cho thân thể. Những chất độc này là có ích: chúng giúp bạn hoặc đánh nhau hoặc bỏ chạy. Đôi khi việc xảy ra là trong giận dữ bạn có thể làm được những việc bạn không bao giờ có thể hình dung ra mình làm được. Bạn có thể di chuyển một tảng đá mà bình thường bạn thậm chí không thể nào lay nổi nó, nhưng giận dữ có đó và chất độc được tiết ra. Trong sợ hãi, mọi người có thể chạy nhanh đến mức thậm chí vận động viên chạy Olympic cũng bị bỏ lại đằng sau. Hãy nghĩ về mình chạy nếu ai đó đang đuổi sát sau bạn với lưỡi dao găm để giết bạn. Bạn sẽ làm điều tốt nhất bạn có thể làm được, toàn bộ thân thể bạn sẽ phục vụ cho việc đó ở mức tối ưu của nó. Khi bạn giết con vật thì có sự giận dữ, có lo âu, có sợ hãi. Cái chết đang đối diện nó: tất cả các tuyến của con vật đều tiết ra nhiều loại chất độc. Do đó ý tưởng hiện đại là ở chỗ trước khi giết con vật, nó vô ý thức đi, làm mê nó đi. Trong các lò mổ hiện đại, người ta dùng tới thuốc mê. Nhưng điều đó cũng chẳng tạo ra khác biệt gì mấy, chỉ một sự khác biệt rất nông cạn, bởi vì ở cốt lõi sâu nhất nơi không thuốc nào có thể đạt tới được, thì cái chết phải bị đương đầu. Điều đó có thể không ý thức, con vật có thể không nhận biết về điều sắp xảy ra, nhưng điều đó xảy ra như trong một giấc mơ. Nó trải qua cơn ác mộng. Và ăn thịt là thức ăn đã bị nhiễm độc. Hãy tránh bất kỳ cái gì bị nhiễm độc trên bình diện vật lý, hãy tránh bất kỳ cái gì bị nhiễm độc trên bình diện tinh thần. Và trên bình diện tinh thần mọi điều con phức tạp hơn. Nếu bạn nghĩ bạn là người Hindu, thì bạn bị nhiễm độc rồi; nếu bạn nghĩ bạn là người Hồi giáo, thì bạn đã bị nhiễm độc rồi. Nếu bạn nghĩ bạn là người Công giáo, người Jaina, Phật tử, thì bạn đã bị nhiễm độc rồi. Và thì bạn đã bị nhiễm độc từ từ - chậm đến mức bạn trở nên hài hòa với nó. Bạn thành nghiện nó. Bạn đã được nuông chiều từ ngay ngày đầu tiên; từ bầu vú mẹ, bạn đã bị nhiễm độc rồi. Mọi loại huấn luyện đều là chất độc. Nghĩ bản thân mình là người Hindu là nghĩ bản thân mình đối lập với nhân loại. Nghĩ mình là người Đức, người Trung Quốc, là nghĩ bản thân mình đối lập với nhân loại; là nghĩ dưới dạng thù hằn, không thân thiện. Hãy nghĩ bản thân mình chỉ là con người. Nếu bạn có bất kỳ thông minh nào, hãy nghĩ về bản thân mình như một con người đơn giản. Và khi thông minh của bạn phát triển thêm chút ít nữa thì thậm chí bạn còn vứt bỏ luôn cả cái tính từ ‘người’ đi. Bạn sẽ nghĩ bản thân mình chỉ như sự hiện hữu. Và sự hiện hữu này bao hàm tất cả - cây cối và núi non và dòng sông và các vì sao và chim chóc và con vật. Hãy trở nên lớn hơn, hãy trở thành khổng lồ. Tại sao bạn lại sống trong đường hầm? Tại sao bạn lại bò trong những hố đen tối nhỏ bé? Nhưng bạn lại nghĩ mình sống trong những hệ thống ý thức hệ vĩ đại. Bạn không sống trong những hệ thống ý thức hệ vĩ đại đâu, bởi vì chẳng có hệ thống ý thức hệ vĩ đại nào cả. Không lý tưởng nào đủ vĩ đại để chứa đựng con người: tính con người không thể bị hàm chứa bởi bất kỳ khái niệm nào. Tất cả mọi khái niệm đều què quặt và tê liệt. Bạn đừng là người Cơ đốc giáo và đừng là người cộng hòa – hãy chỉ là con người – đấy tất cả đều là chất độc, đấy tất cả đều là định kiến. Và qua nhiều thời đại bạn đã bị thôi miên trong những định kiến này. Chúng đã trở thành một phần máu bạn, xương bạn, chính tủy ban. Bạn sẽ phải rất tỉnh táo để gạt bỏ tất cả mọi sự nhiễm độc này. Thân thể bạn không bị nhiễm độc nhiều như tâm trí bạn đã bị nhiễm. Thân thể là hiện tượng đơn giản, nó có thể dễ dàng được tẩy sạch. Nếu bạn ăn thức ăn không chay, điều đó có thể được dừng lại, đấy không phải là cách xử trí lớn lắm. Và nếu bạn dừng ăn thịt, trong vòng 3 tháng thân thể bạn sẽ hoàn toàn thoát khỏi chất độc do thức ăn không chay gây ra. Điều đó đơn giản. Thể chất không phức tạp. Nhưng vấn đề nảy sinh với tâm lý. Sư Jaina không bao giờ ăn bất kỳ thức ăn nhiễm độc nào, không bao giờ ăn bất kỳ cái gì không chay. Nhưng tâm trí người đó lại bị ô nhiễm và nhiễm độc bởi đạo Jaina mà không người nào khác bị nhiễm cả. Tự do thực sự là tự do khỏi mọi ý thức hệ. Bạn không thể sống đơn giản không ý thức hệ nào được sao? Ý thức hệ có phải là cần thiết không? Tại sao ý thức hệ lại cần thiết nhiều đến thế? Nó được cần tới bởi vì nó giúp cho bạn vẫn còn ngu xuẩn, nó được cần tới bởi vì nó giúp cho bạn vẫn còn không thông minh. Nó được cần tới bỏi vì nó cung cấp cho bạn câu trả lời có sẵn và bạn không cần tìm ra câu trả lời của riêng mình. ________________________________________ Con người thực sự thông minh sẽ không níu bám vào bất cứ ý thức hệ nào – để làm gì? Người đó sẽ không mang tải trọng của những câu trả lời làm sẵn. Người đó biết rằng mình có đủ thông minh để cho dù bất kỳ tình huống nào nảy sinh, người đó sẽ có khả năng đáp ứng lại nó. Tại sao mang tải trọng không cần thiết từ quá khứ? Phỏng ích gì mà mang nó?... Nếu bạn thay đổi thức ăn độc của mình thì bạn sẽ ngạc nhiên: thông minh mới sẽ thoát ra trong bạn. Và thông minh mới này sẽ làm cho nó có khả năng không tọng vào bạn những thứ vô nghĩa nữa. Thông minh mới này sẽ làm cho bạn có khả năng vứt bỏ những ham muốn và mơ mộng không cần thiết, vứt bỏ ghen tỵ, giận dữ, chấn thương và đủ mọi loại vết thương tâm lý. Bởi vì bạn không thể vứt bỏ những vết thương tâm lý, nên bạn mới trở thành nạn nhân của sự dối trá tâm lý. Thế giới này đầy những nhà phân tâm đủ loại, họ tới theo mọi hình dáng và kích cỡ. Thế giới này đầy các trị liệu tâm lý. Nhưng tại sao lại cần tới nhiều cách trị liệu tâm lý thế? Chúng được cần tới bởi vì bạn không đủ thông minh để chữa lành vết thương riêng của mình. Thay vì chữa lành chúng, thay vì mở chúng cho gió và mặt trời, bạn lại cứ che giấu chúng. Bạn cần các nhà trị liệu tâm lý giúp mình mở vết thương ra dưới mặt trời để cho chúng có thể được chữa lành. Nhưng rất khó tìm ra nhà trị liệu tâm lý thực sự. Trong 100 nhà trị liệu tâm lý, 99 người là lừa dối tâm lý, không phải là nhà trị liệu tâm lý. Bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng nhiều nhà trị liệu tâm lý và nhà phân tâm tự tử hơn người ở các nghề khác. Con số gần gấp đôi. Bây giờ đây là loại người gì vậy? Và làm sao họ giúp cho người khác được? Họ đã làm gì trong cả đời mình khi giúp cho người khác? Nhiều nhà phân tâm phát điên, phát rồ, hơn mọi người trong bất kỳ nghề nào khác trên thế giới. Số lượng gần như gấp đôi. Tại sao? Và họ giúp cho người khác hướng tới sự lành mạnh, trong khi bản thân họ thì lại điên khùng. Có mọi khả năng là họ trở nên quan tâm tới trị liệu tâm lý bởi vì cái điên khùng của mình. Đấy là một nỗ lực đển chữa cho chính họ. Và bạn sẽ ngạc nhiên biết rằng các nhà trị liệu tâm lý thuộc loại này lại đi trị liệu tâm lý tại nhà trị liệu tâm lý thuộc loại khác. Người theo Freud đi tới người theo Jung, người theo Jung tới người theo Freud, và cứ thế mãi. Điều này là một tình huống rất kỳ lạ. Nếu thông minh thoát ra trong bạn, bạn sẽ có khả năng làm tất cả những điều cần thiết. Bạn sẽ có khả năng chữa lành cho vết thương riêng của mình, bạn sẽ có khả năng thấy vết thương của riêng mình, bạn không phải đi đến nhà trị liệu nguyên thủy. Tôi cho phép mọi loại trị liệu trong cộng đồng của tôi. Trong thực tế, không có nơi nào khác trên thế giới lại nhiều phép trị liệu tâm lý có sẵn như vậy – tất cả 60 loại. Tại sao tôi lại cho phép những trị liệu này? Chỉ bởi vì các bạn thôi, bởi vì các bạn vẫn còn chưa sẵn sàng để thông minh của mình được thoát ra. Khi cộng đồng này đi ngày càng sâu hơn vào trong việc hiểu biết bên trong, việc trị liệu có thể được loại bỏ. Khi cộng đồng này đã thực sự nở hoa, sẽ không cần bất kỳ phép trị liệu nào nữa. Thế thì tình yêu là phép trị liệu; thông minh là phép trị liệu. Thế thì việc sống hết ngày nọ sang ngày kia, hết khoảnh khắc nọ sang khoảnh khắc kia, nhận biết và tỉnh táo, là việc trị liệu rồi. Thế thì mọi thứ bạn đang làm trong ngày, lau chùi và nấu bếp cùng giặt dũ, tất cả chúng đều là trị liệu. Các phép trị liệu ở đây chỉ để cho thời gian hiện hữu. Cái ngày tôi trở nên bị thuyết phục rằng bây giờ phần lớn các bạn đều đã vượt ra ngoài trị liệu, thì trị liệu sẽ biến mất, bởi vì thế thì phần lớn các bạn có khả năng kéo phần thiểu số vào trong thông minh nữa. Chúng ta đang cố gắng tạo ra một loại thông minh của cuộc sống. Tôi không thiên về người tôn giáo, tôi không phải là thánh nhân, tôi chẳng liên quan gì tới tâm linh cả. Tất cả những phân loại đó đều không liên quan gì tới tôi. Bạn không thể phân loại tôi, bạn không thể nhét tôi vào được. Nhưng có thể nói một điều, rằng toàn bộ nỗ lực của tôi vẫn được gọi là tình yêu-thông minh. Nếu tình yêu-thông minh được thoát ra, bạn được chữa lành. Và kiểu thức ăn nhiễm độc thứ ba là tâm linh. Đó là điều cái ta là gì. Cái ta cần sự chú ý liên tục: nó được nuôi dưỡng bằng sự chú ý, sự chú ý là thức ăn của nó. Không chỉ có chính khách mới khao khát sự chú ý, ngày càng nhiều người – cái gọi là thánh nhân của bạn cũng làm cùng điều đó. Không có sự khác biệt giữa thánh nhân và chính khách và diễn viên, không khác biệt chút nào. Nhu cầu cơ bản là như nhau – sự chú ý: “Nhiều người hơn nên chú ý tới tôi, nhiều người hơn nên nhìn vào tôi.” Điều đó trở thành thức ăn cho bản ngã, và nó là loại thức ăn nhiễm độc… Vật lý, tâm lý, tâm linh… Hãy để thân thể sinh lý được thuần khiết khỏi mọi chất độc và độc tố, và tâm trí bạn được hết nặng gánh khỏi mọi rác rưởi và đồ tạp nham. Và hãy để cho linh hồn bạn được tự do khỏi ý tưởng về cái ta. Khi linh hồn được tự do khỏi ý tưởng về cái “tôi” thì bạn đã tới không gian bên trong đó vẫn được gọi là vô ngã, anatta. Đó là tự do, đó là niết bàn, đó là chứng ngộ. Bạn đã về tới nhà. Bây giờ chẳng có đâu mà đi cả; bây giờ bạn có thể lắng đọng, nghỉ ngơi và thảnh thơi. Bây giờ bạn có thể tận hưởng hàng triệu niềm vui mà sự tồn tại vẫn đang mưa rào lên bạn. Khi ba thức ăn nhiễm độc này bị loại bỏ, bạn trở thành trống rỗng. Nhưng cái trống rỗng này lại không phải là loại trống rỗng phủ định. Bạn trống rỗng theo nghĩa là tất cả các chất độc, tất cả các nội dung, đều mất đi. Nhưng bạn lại tràn đầy – tràn đầy cái gì đó không gọi tên được, tràn đầy cái gì đó mà những người thành tâm gọi là ‘Thượng đế’. Có hai kiểu thức ăn. Một là cái bạn thích, cái bạn hâm mộ, mà về nó bạn tưởng tượng ra. Chẳng có gì sai trong nó, nhưng bạn sẽ phải học một mẹo nhỏ về nó. Có những thức ăn cực kỳ quyến rũ. Sự quyến rũ đó không phải bởi vì bạn thấy rằng thức ăn này là có sẵn. Bạn vào khách sạn, vào nhà hàng, và bạn thấy thức ăn nào đó – mùi thơm bốc lên từ phòng sau, mầu sắc và hương vị của thức ăn này. Bạn đã không nghĩ về thức ăn và bỗng nhiên bạn lại quan tâm tới nó – điều này sẽ chẳng ích gì. Đây không phải là ham muốn thực sự của bạn. Bạn có thể ăn cái này và nó không thỏa mãn cho bạn. Bạn sẽ ăn và ăn và chẳng có gì sẽ bắt nguồn từ nó cả; không sự thỏa mãn nào bắt nguồn từ nó. Mà sự thỏa mãn lại là điều quan trọng nhất. Chính việc không thỏa mãn mới tạo ra nỗi ám ảnh. Hãy đơn giản thiền hàng ngày trước khi bạn ăn. Hãy nhắm mắt và chỉ cảm thấy điều thân thể bạn cần – dù nó là bất kỳ cái gì! Bạn không thấy bất kỳ thức ăn nào – không thức ăn nào có sẵn cả; bạn đơn giản cảm thấy con người riêng của mình, điều thân thể bạn cần, điều bạn cảm thấy thích thú, điều bạn khao khát. Tiến sỹ Leonard Pearson gọi điều này là ‘thức ăn chủ chốt’ – thức ăn chủ yếu cho bạn. Bạn cứ tới và ăn thật nhiều nó thỏa thích, nhưng hãy trung thành với nó. Thức ăn khác ông ấy gọi là ‘thức ăn vẫy mời’: khi nó trở thành sẵn đấy, bạn trở nên quan tâm tới nó. Thế thì nó là một thứ của tâm trí và nó không phải là nhu cầu của bạn. Nếu bạn lắng nghe thức ăn chủ chốt, bạn có thể ăn bao nhiêu tùy thích và bạn sẽ không bao giờ khổ cả, bởi vì nó sẽ thỏa mãn bạn. Thân thể đơn giản ham muốn cái nó cần; nó không bao giờ ham muốn bất kỳ cái gì khác. Điều đó sẽ là sự thỏa mãn, và một khi có sự thỏa mãn, người ta sẽ không bao giờ ăn thêm nữa. Vấn đề chỉ nảy sinh nếu bạn ăn thức ăn là thức ăn vẫy mời: bạn thấy chúng sẵn có và bạn trở nên quan tâm và bạn ăn. Chúng không thể nào thỏa mãn bạn được bởi vì không có nhu cầu trong thân thể về chúng. Khi chúng không thỏa mãn bạn, bạn cảm thấy không được thỏa mãn. Cảm thấy không được thỏa mãn, bạn lại ăn thêm, nhưng dù bạn ăn nhiều đến đâu, điều đó cũng vẫn cứ không thỏa mãn bởi vì không có nhu cầu ngay chỗ đầu tiên. Kiểu ham muốn thứ nhất phải được đáp ứng, thế thì kiểu ham muốn thứ hai sẽ biến mất. Điều mọi người đang làm là ở chỗ họ chẳng bao giờ nghe ham muốn thứ nhất, cho nên ham muốn thứ hai trở thành vấn đề. Nếu bạn lắng nghe thức ăn chủ chốt, thức ăn vẫy mời sẽ biến mất. Ham muốn thứ hai là vấn đề bởi vì bạn đã hoàn toàn quên mất rằng bạn phải lắng nghe ham muốn bên trong của mình, và mọi người đã từng được dạy đừng lắng nghe nó. Họ đã được dạy: “Hãy ăn cái này, đừng ăn cái kia.” – những quy tắc cố định. Thân thể không biết tới những quy tắc cố định. Họ đã thấy rằng nếu trẻ nhỏ được bỏ lại một mình với thức ăn, chúng sẽ chỉ ăn cái cần cho thân thể chúng; và họ đã ngạc nhiên. Nhiều phát kiến tâm lý bây giờ đã có sẵn; chúng đơn giản đáng ngạc nhiên. Nếu đứa trẻ đó đang chịu một bệnh nào đó, và nếu táo là tốt cho bệnh đó, đứa trẻ sẽ chọn táo. Tất cả các thức ăn khác có đấy nhưng đứa trẻ này sẽ chỉ đi tới táo. Đó là điều mọi con vật đều làm; chỉ con người mới quên mất ngôn ngữ đó. Bạn đem tới một con trâu và để nó trong vườn. Cả khu vườn có đó – tất cả cây cỏ đều sẵn có; nó chẳng bận tâm. Hoa và cây có thể vẫy mời nhưng nó sẽ chẳng bận tâm tới chúng. Nó sẽ đi tới bãi cỏ, cái lôi kéo nó, và nó sẽ chỉ chọn loại cỏ nào đó là nhu cầu của nó. Bạn không thể đánh lừa con trâu được; bạn chỉ có thể đánh lừa được con người thôi. Con người đã sa ngã thậm chí thấp dưới con trâu. Bạn không thể lừa con khỉ được – nó sẽ ăn thức ăn của nó. Con người bị lừa. Tại sao mọi nơi qua quảng cáo, ảnh mầu, ti vi, phim, bạn đang bị hấp dẫn và phân tán khỏi thân thể chủ yếu của mình. Một số công ty quan tâm tới việc bán cái gì đó cho bạn. Cái đó là vì quyền lợi của công ty, nó đem lại lợi nhuận nhờ quảng cáo, ảnh mầu, ti vi, phim, bạn đang bị hấp dẫn và phân tán khỏi thân thể chủ yếu của mình. Một số công ty quan tâm tới việc bán cái gì đó cho bạn. Cái đó là vì quyền lợi của công ty, nó đem lại lợi nhuận cho công ty, không phải cho bạn. Công ty Coca-Cola nào đó quan tâm tới việc bán Coca-Cola cho bạn. Điều đó chẳng liên quan gì tới thân thể bạn cả; nó quyến rũ bạn. Dù bạn đi bất kỳ đâu, đều có Coca-Cola cả; Coca-Cola dường như là một trong những thứ phổ dụng nhất. Thậm chí ở nước Nga Xô viết – không cái gì khác của Mỹ là được phép, nhưng Coca-Cola lại có đó. Từ mọi nơi cái chai này vẫy gọi bạn, đang vẫy mời: “Lại đây đi.” Và bỗng nhiên bạn bắt đầu cảm thấy khát. Cái khát đó là giả. Tôi không nói đừng uống Coca-Cola – nhưng hãy để cho nó là cái bản chất; hãy làm cho nó thành vấn đề. Cho nên trước hết hãy bắt đầu học điều gì đó là tự nhiên và điều đó sẽ tới bởi vì chúng ta chỉ quên mất: nó có đó trong thân thể. Khi bạn sắp ăn sáng, hãy nhắm mắt lại và thấy điều bạn muốn; cái thực sự là ham muốn của bạn. Đừng nghĩ về cái có sẵn; đơn giản hãy nghĩ về ham muốn của bạn là gì, và thế rồi đi và tìm cái đó và ăn nó. Hãy ăn thật nhiều tùy thích. Trong vài ngày hãy chỉ đi cùng nó. Dần dần bạn sẽ thấy rằng bây giờ chẳng thức ăn nào vẫy mời bạn nữa. Điều thứ hai: khi bạn ăn, hãy nhai cho kỹ. Đừng nuốt nó vội vàng, bởi vì nếu nó đang trong miệng, hãy hưởng thú nó trong miệng, vậy tại sao không nhai nó thêm nữa? Nếu bạn cắn cái gì đó 10 cắn, bạn có thể tận hưởng thêm 1 cái cắn nữa, hãy nhai nó thêm 10 lần nữa. Gần như có thể cắn 10 lần nếu sự tận hưởng của bạn chỉ về vị giác. Chuyện xảy ra là có lần một người uống cốc cà phê nóng ở đâu đó tại Nhật Bản và người đó làm bỏng họng mình bên trong. Sự rắc rối phát sinh và họng người đó bị cắt đứt hoàn toàn với bên trong; lối chuyển thức ăn phải bị đóng lại nếu không người này sẽ chết. Các bác sỹ đặt một cái ống vào trong dạ dầy người đó để cho người đó phải nhai thức ăn, rồi nhét thức ăn vào trong ống đó, và ống đó sẽ đưa thức ăn vào trong dạ dầy. Người này ngạc nhiên bởi vì người đó liên tục thấy thích thức ăn như trước đây. Và thậm chí các bác sỹ cũng ngạc nhiên. Ban đầu họ cảm thấy rất thông cảm với người đó bởi vì con người đáng thương này không được tận hưởng thức ăn nữa. Trong thực tế người đó lại còn hưởng thú ăn nhiều hơn bởi vì bây giờ người đó sẽ nhai nó và nếu người đó đơn giản không muốn đưa vào trong dạ dầy, người đó đơn giản chỉ nhè nó ra. Bây giờ người đó có thể ăn nhiêu tùy ý. Không cần phải đưa nó vào dạ dầy: cái mồm và cái dạ dầy hoàn toàn tách biệt. Cho nên bất kỳ khi nào bạn ăn, hãy nhai nhiều hơn, bởi vì việc hưởng thú ở phía trên cổ họng. Phía dưới họng không có vị giác – không có gì thuộc loại như thế - cho nên sao phải vội vàng? Hãy chỉ nhai nó thêm chút nữa, nếm nó thêm chút nữa. Và hãy làm việc nếm này thật mạnh mẽ, hãy làm tất cả những gì có thể làm được. Khi bạn ăn cái gì đó, trước hết hãy ngửi nó. Hãy tận hưởng mùi vị của nó bởi vì một nửa vị giác là khứu giác. Nhiều thực nhiệm đã được tiến hành. Nếu mũi bạn bị bịt hoàn toàn và thế rồi bạn được trao cho cái gì đó, bạn không thể nào nếm được nó. Thế thì bạn sẽ hiểu rằng thức ăn cần nhiều khứu giác hơn là vị giác. Nếu mắt bạn nhắm, bạn không thể nào nếm được nó tới mức đó, bởi vì mầu sắc, cái hấp dẫn với con mắt, không còn có đó. Người ta đã làm những thực nghiệm hay: mắt nhắm, mũi bị bịt loại hoàn toàn, và thế rồi họ đưa cho bạn cái gì đó; bạn thậm chí không thể nói nó là cái gì. Họ có thể đưa cho bạn củ hành và bạn không thể nói nó là củ hành bởi vì nhiều điều phụ thuộc vào khứu giác. Đó là lý do tịa sao khi bạn bị cảm bạn không thể nào hưởng thú được thức ăn, bởi vì khứu giác không có đó, vị giác không có đó. Khi người ta đang bị cảm lạnh họ bắt đầu ăn thức ăn cay bởi vì chỉ thế thì họ mới có thể cảm thấy chút ít rân rân. Cho nên hãy ngửi thức ăn, hãy nhìn vào thức ăn. Chẳng vội gì… hãy để thời gian. Hãy làm cho nó thành việc thiền. Cho dù mọi người có cho là bạn phát điên, cũng đừng lo nghĩ. Hãy nhìn nó từ mọi phía. Hãy chạm vào nó với mắt nhắm, hãy chạm vào nó bằng má bạn. Hãy cảm thấy nó theo mọi cách; hãy ngửi đi ngửi lại nó. Thế rồi hãy cắn miếng nhỏ và nhai nó, hưởng thú nó; hãy để cho điều đó thành việc thiền. Một lượng rất nhỏ thức ăn sẽ đủ và sẽ cho bạn nhiều thỏa mãn hơn. Tôi ghét quá nặng cân nhưng không thể nào làm giảm trọng lượng được rất lâu mặc cho mọi chế độ ăn kiêng tôi đã thử… Bạn có một ý tưởng rất cầu toàn về thân thể phải thế nào, về bạn phải thế nào. Bạn có một mục đích rất rõ ràng, và bởi vì mục đích rõ ràng đó mà bạn không đạt tới và bạn không thể nào chấp nhận được bản thân mình, bạn cứ bác bỏ. Và từ việc bác bỏ đó, bạn cảm thấy khốn khổ. Hãy phá bỏ các mục đích và lý tưởng đó: những lý tưởng và mục đích đó bạn đã giữ trong tâm trí mình về cách thức mọi việc đáng phải thế, cách thức bạn đáng phải thế. Hãy vứt chúng đi! Và chẳng có gì mất cả, chẳng cái gì thiếu cả; năng lượng của bạn bắt đầu tuôn chảy. Một khi bạn trong khoảnh khắc này, thân thể bạn bắt đầu giảm trọng lượng. Chính việc đối kháng liên tục với thân thể mới làm cho nó béo ra, bởi vì khi bạn liên tục chống lại thân thể thì thân thể cảm thấy bất an, và từ sự bất an đó mà nó cứ ăn mãi. Nó cũng giống như đứa trẻ không thể nào tin cậy vào mẹ nó. Nếu đứa trẻ không thể nào tin cậy được vào người mẹ, một khi nó vớ được vú mẹ nó sẽ không rời ra bởi vì nó không thể nào tin cậy được; nó không biết khi nào nó sẽ lại có được bầu vú lần nữa. Điều đó là không chắc chắn, nó không thể nào vẫn còn an toàn trong điều đó – cho nên nó sẽ nắm giữ. Nó sẽ cứ bú thật nhiều hết sức. Nó sẽ nốc đầy sữa bởi vì tương lai là không chắc chắn. Khi đứa trẻ biết người mẹ yêu nó và biết người mẹ sẽ có đấy – bất kỳ khi nào nó cần tới mẹ thì mẹ đều có sẵn đấy – nó chẳng bận tâm tọng đầy mình. Nó có thể nghỉ ngơi, nó có thể ăn đủ mức cần thiết trong khoảnh khắc đó, không có nhu cầu phải tích trữ. Trong thực tế, béo chính là tích trữ; vì tương lai không chắc chắn nào đó mà người ta cứ tích trữ. Con người có thể sống 3 tháng không có thức ăn, người ta có thể thu thập nhiều mỡ như thế. Đấy là một thói quen cũ, cổ điển, sinh học. Đã có thời, hàng nghìn năm trước đây, khi con người còn là thợ săn và thức ăn không chắc chắn. Hôm nay thức ăn có đấy, và thừa thãi và trong nhiều ngày lại chẳng có gì cả. Con người mang thói quen sinh học đó. Điều đó liên kết với bất an. Bây giờ không có vấn đề gì – ít nhất là không có vấn đề gì ở Mỹ: bạn có đủ thức ăn. Lần đầu tiên xã hội có đủ thức ăn. Người Mỹ không nên béo chút nào. Người Ấn Độ có thể được phép béo bởi vì thức ăn là không chắc chắn. Điều tôi đang nói ở đây là ở chỗ bây giờ thức ăn có sẵn, thức ăn ngon, nuôi dưỡng tốt, không có nhu cầu vật lý để ăn thêm, nhưng bây giờ bất an tâm lý lại làm lẩy cò cho cơ cấu của thân thể, và thân thể bắt đầu cảm thấy bất an. Nó chỉ biết một cách để tránh bất an, và đó là ăn nhiều hơn, cứ ăn và tọng vào mình. Điều đó trở thành mối bận tâm. Hãy vứt bỏ mọi lý tưởng! Không có gì bạn phải cải tiến; bạn đẹp hoàn hảo như bạn hiện hữu. Và hãy bắt đầu sống! Thay vì nghĩ rằng bạn sẽ sống trong tương lai khi bạn hoàn hảo, khi bạn giống thế này, giống thế nọ, bạn sẽ sống trong khi bạn đã đạt tới một chuẩn nào đó tương ứng với tâm trí bạn… Nhưng cuộc sống là ở đây bây giờ và đang tuột dần khỏi tay ta. Ngày mai có cái chết – chỉ hôm nay mới có cuộc sống… nó bao giờ cũng là hôm nay. Hãy cứ bắt đầu sống và bắt đầu tận hưởng. Bạn càng tận hưởng nhiều, bạn càng sẽ ăn ít. Người hạnh phúc thực sự không ăn nhiều. Chính từ khốn khổ, từ đau đớn, từ trống rỗng, từ vô nghĩa người ta mới muốn nắm bắt cái gì đó – ít nhất là thức ăn, cái gì đó. Thân thể đã tích lũy nhiều trí huệ, thân thể rất trí huệ. Nếu bạn ăn quá nhiều thân thể nói: “Dừng lại!” Tâm trí không trí huệ được đến thế. Tâm trí nói: “Hương vị này ngon lắm – ăn thêm chút nữa.” Và nếu bạn nghe lời tâm trí, thế thì tâm trí trở nên phá hoại thân thể, theo cách này hay cách khác. Nếu bạn nghe tâm trí, ban đầu nó sẽ nói: “Ăn nữa đi,” bởi vì tâm trí ngu xuẩn, trẻ con. Nó không biết nó đang nói gì. Nó là kẻ mới tới, nó không có học. Nó không trí huệ, nó vẫn là kẻ ngu xuẩn. Hãy lắng nghe thân thể. Khi thân thể nói: “Đói rồi”, hãy ăn. Khi thân thể nói: “Dừng lại”, hãy dừng. Nếu bạn nghe theo tâm trí, điều đó cũng như là đứa trẻ nhỏ đang dẫn ông già đi – họ cả hai sẽ ngã xuống cống. Và nếu bạn nghe tâm trí, thế thì ban đầu bạn sẽ dính líu quá nhiều vào các giác quan, và thế rồi bạn sẽ phát ngán. Và mọi giác quan sẽ mang đến cho bạn khốn khổ, và mọi giác quan sẽ đem đến cho bạn nhiều lo âu, xung đột, đau đớn. Nếu bạn ăn quá nhiều sẽ có đau bụng và sẽ nôn mửa, và cả thân thể bị rối loạn. Thế thì tâm trí nói: “Ăn là xấu, cho nên phải nhịn ăn” Và nhịn ăn cũng nguy hiểm. Nếu bạn lắng nghe thân thể mình nó sẽ không bao giờ ăn quá mức, nó sẽ không bao giờ ăn thiếu mức – nó sẽ đơn giản tuân theo Đạo. Vài nhà khoa học đã làm việc trên vấn đề này và họ đã phát hiện ra một hiện tượng rất hay: trẻ nhỏ ăn bất kỳ khi nào chúng cảm thấy đói, chúng ngủ bất kỳ khi nào chúng cảm thấy giấc ngủ tới – chúng lắng nghe thân thể mình. Nhưng bố mẹ lại quấy rối chúng, họ cứ ép buộc: bây giờ là giờ ăn tối, hay giờ ăn trưa, hay thế này hay thế nọ, hay giờ đi ngủ - làm đi! Họ không cho phép thân thể chúng. Cho nên một nhà thực nghiệm đã thử để trẻ con theo ý chúng. Người đó làm việc với 25 đứa trẻ. Chúng không bị bắt buộc khi nào phải đi ngủ, chúng không bị bắt buộc khi nào phải dậy. Chúng không bị bắt buộc chút nào trong 6 tháng. Và một hiểu biết rất sâu sắc đã tới. Chúng ngủ ngon. Chúng có ít giấc mơ hơn – không ác mộng, bởi vì ác mộng tới thông qua bố mẹ người bắt buộc chúng. Chúng ăn ngon, nhưng không bao giờ quá nhiều – không bao giờ ít hơn sự cần thiết, không bao giờ nhiều hơn sự cần thiết. Chúng hưởng thú việc ăn và đôi khi chúng sẽ không ăn chút nào. Khi thân thể không cảm thấy khỏe chúng sẽ không ăn, và chúng không bao giờ bị ốm bởi vì việc ăn. Và một điều nữa mà không ai đã từng bị hoài nghi, lại đi tới được hiểu ra, và đó là điều huyền bí. Chỉ Sosan mới có thể hiểu, hay Lão Tử hay Trang Tử, bởi vì họ là những bậc thầy về Đạo. Đây là một khám phá như vậy: họ đã đi tới hiểu ra rằng nếu đứa trẻ bị ốm, thế thì nó sẽ không ăn những thức ăn đặc biệt. Thế rồi họ cố gắng hiểu tại sao nó lại không ăn những thức ăn đó. Các thức ăn này được phân tích và người ta tìm thấy rằng với bệnh đó, những thức ăn này là nguy hiểm. Làm sao đứa trẻ quyết định được? Chỉ là thân thể. Và khi đứa trẻ lớn lên, bất kỳ thứ gì cần cho sự phát triển của nó thì nó sẽ ăn nhiều thứ ấy. Thế rồi họ phân tích và họ thấy rằng những chất đó là có ích. Và thức ăn này sẽ thay đổi, bởi vì nhu cầu đã thay đổi. Hôm nay đứa trẻ ăn cái gì đó và cũng đứa trẻ đó ngày hôm sau sẽ không ăn cái đó. Và các nhà khoa học cảm thấy rằng có trí huệ-thân thể. Nếu bạn cho phép thân thể có tiếng nói của nó, bạn đang đi trên con đường phải đấy, đường lớn đấy. Và điều này cũng không chỉ với thức ăn thôi – điều này cũng là như vậy với cuộc sống. Dục của bạn đi sai bởi vì tâm trí, dạ dầy của bạn đi sai bởi vì tâm trí bạn. Bạn can thiệp vào thân thể. Đừng can thiệp! Cho dù bạn có thể làm điều đó trong 3 tháng – cũng đừng can thiệp, và bỗng nhiên bạn sẽ trở nên lành mạnh thế, và sự mạnh khỏe sẽ giáng xuống bạn ________________________________________ Việc nhịn ăn giúp cho sự sảng khoái của thân thể thế nào? Bất kỳ khi nào bạn đang nhịn ăn thân thể không làm việc tiêu hóa nữa. Trong thời kỳ đó thân thể có thể làm việc bằng cách vứt bỏ các tế bào chết, các độc tố. Cũng như một hôm, chủ nhật hay thứ bảy, bạn đang trong ngày nghỉ và bạn về nhà và bạn lau chùi nhà cả ngày. Khi thân thể không có gì để tiêu hóa, bạn không ăn gì cả, thân thể bắt đầu tự dọn dẹp mình. Một tiến trình bắt đầu một cách tự phát và thân thể bắt đầu vứt đi tất cả những gì không cần thiết, cái giống như tải trọng. Nhịn ăn là phương pháp làm thuần khiết. Đôi khi việc nhịn ăn là hay – không làm gì cả, không ăn, chỉ nghỉ. Hãy uống thật nhiều chất lỏng và chỉ nghỉ, và thân thể sẽ được tẩy rửa. Đôi khi, nếu bạn cảm thấy rằng việc nhịn ăn lâu hơn là cần thiết, bạn cũng có thể thực hiện việc nhịn ăn lâu hơn – nhưng hãy ở sâu trong tình yêu với thân thể. Và nếu bạn cảm thấy việc nhịn ăn có hại cho thân thể theo bất kỳ cách nào, hãy dừng việc đó lại. Nếu nhịn ăn giúp ích cho thân thể, bạn sẽ cảm thấy nhiều năng lượng hơn bạn sẽ cảm thấy sống động hơn; bạn sẽ cảm thấy sảng khoái hơn, đầy sinh khí hơn. Điều này nên là tiêu chuẩn: nếu bạn bắt đầu cảm thấy rằng bạn đang trở nên yếu hơn, nếu bạn bắt đầu cảm thấy rằng một sự run rẩy tinh tế đang tới trong thân thể, thế thì hãy nhận biết – bây giờ sự việc không còn là làm thuần khiết nữa, nó đã trở thành hủy hoại. Hãy dừng nó lại. Nhưng thực ra người ta nên học toàn bộ khoa học về nó. Trong thực tế người ta nên tiến hành nhịn ăn gần ai đó, người đã từng nhịn ăn trong thời gian dài và người biết toàn bộ con đường này rất rõ, người biết tất cả các triệu chứng: nếu nó trở thành hủy hoại cái gì sẽ xảy ra; nếu nó không hủy hoại thế thì cái gì sẽ xảy ra. Sau việc nhịn ăn làm thuần khiết, thực sự, bạn sẽ cảm thấy mới mẻ, trẻ hơn, sạch hơn, vô trọng lượng, hạnh phúc hơn; và thân thể sẽ vận hành tốt hơn bởi vì bây giờ nó không bị tải trọng nữa. Nhưng nhịn ăn chỉ tới phải nhịn ăn. Nhịn ăn là cần thiết chỉ khi bạn đã làm điều sai với thân thể - và tất cả chúng ta đều đã ăn sai. Tôi không phải là người tin vào nhịn ăn, tôi tin vào thích ăn. Toàn bộ cách tiếp cận của tôi là cách tiếp cận của lễ hội. Tôi không chống lại các thú vui của các bạn – chúng không phải là tất cả, người ta nên vượt ra ngoài chúng, nhưng trong bản thân chúng thì chúng là đẹp. Con người không nên phủ nhận điều gì, bởi vì phần bị phủ nhận sẽ báo thù. Khoảnh khắc bạn bắt đầu phủ nhận thì bạn đi ngược lại Đạo. Đạo là tự nhiên – là thích ăn và không nhịn ăn. Việc nhịn ăn có thể được dùng tới chỉ khi nó tới một cách tự nhiên. Đôi khi con vật nhịn ăn. Đôi khi bạn có thể đã quan sát con chó của mình nhịn ăn: bạn đặt thức ăn xuống mà nó không ăn. Nhưng nó không phải là người Jaina, nó không phải là người tin vào nhịn ăn; nó không cảm thấy thích ăn. Đấy không phải là vấn đề nguyên tắc, đấy không phải là triết lý. Nó đang ốm, toàn thể bản thể nó chống lại việc ăn – thay vì ăn, nó sẽ nôn ra. Nó sẽ đi và ăn cỏ và nôn ra. Nó muốn làm nhẹ mình, dạ dầy nó không trong hoàn cảnh sẵn sàng tiêu hóa thêm nữa. Nhưng nó không phải là kẻ nhịn ăn. Điều đó là tự nhiên. Cho nên, nếu đôi khi bạn cảm thấy rằng việc nhịn ăn tới một cách tự nhiên – không phải như luật, không như nguyên tắc, không như triết lý phải theo, không như kỷ luật bị áp đặt, mà là từ cảm giác tự nhiên của bạn với nó – tốt. Thế nữa, bao giờ cũng hãy nhớ rằng việc nhịn ăn là để phục vụ cho thích ăn, để cho bạn có thể ăn lại ngon hơn. Mục đích của việc nhịn ăn là như phương tiện, không bao giờ như cứu cánh; và điều đó lại hiếm khi xảy ra, họa hoằn lắm. Và nếu bạn hoàn toàn nhận biết trong khi bạn ăn, và hưởng thú nó, bạn sẽ không bao giờ ăn quá nhiều. Sự nhấn mạnh của tôi không phải vào chế độ ăn kiêng và vào nhận biết. Hãy ăn cho ngon, hãy tận hưởng việc ấy thật nhiều. Hãy nhớ, quy tắc là: nếu bạn không hưởng thụ thức ăn bạn sẽ phải ăn nhiều để bù lại. Nếu bạn hưởng thụ thức ăn bạn sẽ ăn ít, sẽ không cần phải bù vào. Nếu bạn ăn chậm, nếm từng miếng nhỏ, nhai kỹ, bạn hoàn toàn bị hấp thu vào trong nó. Việc ăn nên là việc thiền. Tôi không chống lại việc thưởng thức thức ăn bởi vì tôi không chống lại các giác quan. Nhạy cảm là thông minh, nhạy cảm là sống động. Cái gọi là tôn giáo của bạn đã cố gắng để làm bạn mất nhạy cảm đi, làm bạn đờ đẫn đi. Họ chống lại việc thưởng thức thức ăn, họ muốn bạn làm cho lưỡi mình hoàn toàn vô cảm để bạn không thưởng thức việc ăn được. Nhưng điều đó không phải là trạng thái mạnh khỏe; lưỡi trở thành vô cảm chỉ trong lúc ốm. Khi bạn bị sốt, lưỡi trở thành vô cảm. Khi bạn mạnh khỏe lưỡi nhạy cảm, sinh động, rộn ràng, đập cùng với năng lượng. Tôi không chống lại việc thưởng thức thức ăn, tôi ủng hộ việc thưởng thức ăn. Hãy ăn cho ngon, thưởng thức cho ngon; thưởng thức ăn là điều thiêng liêng. Và cũng vậy, cũng hệt như thưởng thức ăn, bạn phải nhìn vào cái đẹp và hưởng thụ; bạn phải chạm vào đá và lá cây và con người – hơi ấm, đường viền – và hưởng thụ. Hãy dùng tất cả các giác quan của mình, hãy dùng chúng đến mức tối đa của chúng, thế thì bạn sẽ thực sự sống động và cuộc sống của bạn sẽ bắt lửa. Nó sẽ không đờ đẫn, nó sẽ bắt lửa với năng lượng và sinh khí. Tôi không ủng hộ cho những người đã từng dạy bạn giết chết các giác quan của mình; họ chống lại thân thể. Và hãy nhớ, thân thể là ngôi đền của bạn, thân thể là món quà thiêng liêng. Nó tinh tế thế và nó tuyệt vời thế và nó kỳ diệu thế - giết chết nó là vô ơn với Thượng đế. Thượng đế trao cho bạn đôi mắt và Thượng đế làm thế giới phiêu diêu này với nhiều mầu sắc thế, và ngài đã cho bạn đôi mắt. Hãy để có mối giao cảm lớn giữa mắt và mầu sắc của thế giới… Mọi thứ đều trong sự hài hòa mênh mông. Đừng phá vỡ sự hài hòa này. Cái gọi là các mahatma này chỉ là vị kỷ, là cách tốt nhất để cảm thấy rằng bạn vĩ đại là chống lại thân thể. Trẻ con làm điều đó. Trẻ con cảm thấy rằng việc buồn ỉa đang tới; nó kìm điều đó lại, nó cảm thấy mạnh mẽ bởi vì nó cảm thấy ý chí của mình: nó sẽ không nhường thân thể. Bọng đái nó căng đầy và nó kìm lại. Nó muốn chứng tỏ cho thân thể: “Ta không phải là kẻ hầu của mi, ta là chủ mi.” Nhưng đây là những thói quen hủy hoại. Hãy lắng nghe thân thể. Thân thể không phải là kẻ thù bạn, và khi thân thể đang nói điều gì đó, hãy làm theo tương ứng, bởi vì thân thể có trí huệ riêng của nó. Bạn đừng quấy rối nó, đừng cứ đi theo con đường tâm trí. Đó là lí do tại sao tôi không dạy bạn bất kỳ việc ăn kiêng nào, tôi chỉ dạy bạn nhận biết. Hãy ăn nhận biết hoàn toàn, ăn một cách thiền, và thế thì bạn sẽ không bao giờ ăn nhiều và bạn sẽ không bao giờ ăn ít vả. Nhiều cũng xấu như ít vậy. Ăn quá nhiều là xấu, cũng hệt như nhịn ăn quá nhiều; chúng là các cực đoan. Tự nhiên bạn muốn được cân bằng, trong một loại thăng bằng nào đó, ở giữa, không ít không nhiều. Bạn đừng đi vào cực đoan. Đi vào cực đoan là bị thần kinh. Cho nên có hai kiểu người thần kinh về thức ăn: những người cứ ăn mãi, chẳng chịu nghe lời thân thể - thân thể cứ kêu la: “Dừng lại đi!” mà họ cứ tiếp tục. Đây là những người thần kinh. Và thế rồi lại có loại khác: thân thể cứ kêu la: “Tôi đang đói đây!” còn họ lại cứ nhịn ăn. Chẳng ai tôn giáo cả, cả hai loại người này đều thần kinh, cả hai đều bệnh hoạn – họ cần được trị liệu, họ cần bệnh viện. Người tôn giáo là người cân bằng: trong bất kỳ cái gì người đó làm, người đó bao giờ cũng ở giữa. Người đó không bao giờ đi vào các cực đoan bởi vì mọi cực đoan đều sẽ tạo ra căng thẳng, lo âu. Khi bạn ăn quá nhiều có lo âu bởi vì thân thể nặng gánh. Khi bạn không đủ ăn có lo âu bởi vì thân thể đói. Người tôn giáo là người biết chỗ cần dừng lại; và điều đó nên bắt nguồn từ nhận biết của bạn, không từ giáo lý nào. Nếu tôi bảo bạn phải ăn bao nhiêu, điều đó sẽ là nguy hiểm bởi vì điều đó sẽ chỉ là con số trung bình. Ai đó rất gầy và ai đó rất béo, và nếu tôi bảo bạn phải ăn bao nhiêu – “ba chappatis” thế thì với ai điều đó có thể là quá nhiều và đối với ai đó điều đó có thể chẳng là gì. Cho nên tôi không dạy các quy tắc cứng nhắc, tôi đơn giản trao cho bạn một khả năng phán đoán với nhận biết. Hãy lắng nghe thân thể mình: bạn có một thân thể khác. Và thế thì có các kiểu năng lượng khác nhau, các kiểu tham dự khác nhau. Ai đó là giáo sư đại học; người đó không dùng nhiều năng lượng khi có liên quan tới thân thể mình. Người đó sẽ không cần nhiều thức ăn, và người đó sẽ cần loại thức ăn khác. Ai đó là người lao động; người đó sẽ cần nhiều thức ăn, và loại thức ăn khác. Bây giờ một nguyên tắc cứng nhắc sẽ thành nguy hiểm. Không quy tắc nào có thể được đưa ra làm quy tắc phổ quát cả. George Bernard Show đã nói rằng chỉ có một quy tắc vàng, rằng không có quy tắc vàng nào cả - không thể có được, bởi vì mỗi cá nhân đều duy nhất đến mức không ai có thể quy định được. Cho nên tôi đơn giản cho bạn một khả năng phán đoán… Và khả năng phán đoán của tôi cũng không phải là nguyên tắc, không phải là luật; cách tiếp cận của tôi là của nhận biết, bởi vì hôm nay bạn có thể cần nhiều thức ăn và ngày mai bạn có thể không cần nhiều thức ăn đó. Đấy không chỉ là vấn đề về bạn khác người khác – mọi ngày trong cuộc sống của bạn đều khác với mọi ngày khác. Cả ngày bạn đã nghỉ, bạn có thể không cần nhiều thức ăn. Cả ngày bạn đã làm việc trong vườn đào hố, bạn có thể cần nhiều thức ăn. Người ta nên tỉnh táo và người ta nên có khả năng lắng nghe đều thân thể đang nói. Hãy đi theo thân thể. Thân thể không phải là chủ mà thân thể cũng không phải là nô lệ; thân thể là người bạn của bạn – hãy thân thiện với thân thể của mình. Người cứ ăn quá nhiều và người cứ ăn kiêng cả hai đều trong cùng một bẫy. Cả hai đều điếc; họ không lắng nghe điều thân thể đang nói… Hãy ăn vì niềm vui của việc ăn; thế thì bạn là người, con người, một sinh linh cao hơn. Hãy yêu lấy niềm vui của tình yêu; thế thì bạn là người, là sinh linh cao hơn. Hãy lắng nghe niềm vui của việc lắng nghe và bạn sẽ thoát khỏi sự hạn chế của bản năng. Tôi không chống lại hạnh phúc, tôi hoàn toàn ủng hộ cho nó. Tôi là người theo chủ nghĩa hoan lạc, và đây là hiểu biết của tôi: tất cả những người tâm linh vĩ đại trên thế giới bao giờ cũng là người hoan lạc. Nếu ai đó không phải là người hoan lạc và giả vờ làm người tâm linh, người đó không phải vậy – thế thì người đó là bị bệnh tâm thần, bởi vì hạnh phúc là chính mục đích, chính cội nguồn, chính cái đích của mọi điều. Thượng đế đang tìm kiếm hạnh phúc qua bạn, trong hàng triệu hình dạng. Hãy cho phép ngài trong tất cả mọi hạnh phúc có thể có và hãy giúp ngài đi lên các đỉnh cao hơn, đạt tới cao hơn, của hạnh phúc. Thế thì bạn mang tính tôn giáo, và thế thì ngôi đền của bạn sẽ trở thành nơi của lễ hội và nhà thờ của bạn sẽ không buồn bã và xấu xí thế, u ám thế, chết chóc thế, như bãi tha ma vậy. Thế thì sẽ có tiếng cười và sẽ có bài ca và sẽ có điệu cũ và sẽ có niềm hân hoan lớn. Tôn giáo bị tổn hại rất nhiều bởi những người vẫn đang thuyết giảng về tự hành xác. Tôn giáo phải được thoát khỏi tất cả những điều vô nghĩa này. Rất nhiều rác rưởi đã trở nên bám dính vào tôn giáo. Tôn giáo tinh hoa không gì khác hơn ngoài niềm vui. Cho nên bất kỳ cái gì đem lại cho bạn niềm vui đều đức hạnh cả; bất kỳ cái gì làm cho bạn buồn, bất hạnh, khổ sở đều là tội lỗi. Hãy để điều đó làm tiêu chuẩn. Và tôi không trao cho bạn những quy tắc cứng nhắc bởi vì tôi biết cách thức tâm trí con người vận hành. Một khi quy tắc cứng nhắc được trao cho, bạn quên mất nhận biết và bạn bắt đầu tuân theo quy tắc cứng nhắc đó. Quy tắc cứng nhắc không phải là vấn đề - bạn có thể tuân theo quy tắc đó và bạn sẽ chẳng bao giờ trưởng thành cả. Hãy nghe vài giai thoại: Benny về tới nhà thấy trong bếp một đống mảnh sành vỡ. “Chuyện gì thế này?” anh ta hỏi vợ. “Có điều gì đó sai với sách nấu ăn này,” cô ta giải thích. “Sách nói rằng chiếc cốc cũ không quai cầm sẽ có tác dụng để đong đo – và em phải mất 11 lần để đạp cái quai cầm mà không làm vỡ cốc.” Bây giờ nếu sách nấu ăn nói điều đó, điều đó phải được làm. Tâm trí con người thật là ngu xuẩn – hãy nhớ điều đó. Một khi bạn có quy tắc cứng nhắc, bạn tuân theo nó. Đám đông đi đón một anh chàng quan trọng, và điều anh chàng quan trọng này đã nói, phải thực hiện. Chuông vang lên và người phục vụ đi ra để canh cổng. Người đó nhòm qua khung cửa, và nhận ra khách thăm bèn ra hiệu cho người đến tham gia hội họp lùi lại. “Hãy để ô của các ông ở cửa ấy,” người phục vụ bảo với vị khách thăm. “Tôi không có ô,” vị khách trả lời. “Thế thì về nhà lấy ô đi. Ông chủ bảo tôi là mọi người đều phải để ô ngoài cửa. Nếu không thì tôi sẽ không cho ông vào đâu.” Quy tắc là quy tắc… Đấy là cuộc săn đuổi vô vọng nhưng chiếc xe cảnh sát đang đuổi theo các tên trộm nhà băng bỗng nhiên quẹo vào một trạm xăng, tại điểm đó viên cớm lái xe gọi điện về cho sếp. “Bắt được chúng rồi chứ?” Viên sếp hỏi một cách kích động. “Chúng may đấy,” viên cảnh sát trả lời. “Chúng tôi đang khép lại lỗ hổng, chỉ còn cách nửa dặm nữa thôi, nhưng tôi để ý thấy xe đã đi quá 500 dặm rồi và chúng tôi phải dừng lại để thay dầu.” Bạn có thể làm gì khi phải thay dầu cứ sau mỗi 500 dặm và 500 đã tới số rồi? Bạn phải thay dầu trước đã. Tôi chưa bao giờ trao cho bạn các quy tắc cứng nhắc bởi vì tôi biết tâm trí con người ngu xuẩn thế nào và nó có thể ngu xuẩn thế nào. Tôi đơn giản trao cho bạn một cảm giác, một khả năng phán đoán chiều hướng. Hãy nhận biết và sống qua nhận biết. Thông thường bạn đang sống một cuộc sống rất không có ý thức. Bạn ăn quá nhiều bởi vì bạn vô ý thức – bạn không biết đang làm gì. Bạn trở nên ghen tỵ, bạn trở nên sở hữu, bởi vì bạn vô ý thức và bạn không biết bạn đang làm gì. Bạn phát điên trong giận dữ, bạn trở thành gần như bị quỷ ám khi bạn trong cơn tỵ, bạn trở nên sở hữu, bởi vì bạn vô ý thức và bạn không biết bạn đang làm gì. Bạn phát điên trong giận dữ, bạn trở thành gần như bị quỷ ám khi bạn trong cơn phẫn nộ, và bạn làm những việc mà bạn chẳng biết điều mình đang làm. Jesus nói trên cây thánh giá – lời cuối cùng của ngài, nhưng cực kỳ quan trọng – ngài nói: “Xin Cha hãy tha thứ cho những người này bởi vì họ không biết điều họ đang làm.” Bây giờ Công giáo chưa bao giờ diễn giải được những lời cực kỳ trọng đại này cho đúng. Thông điệp của Jesus thật là đơn giản. Ngài nói: Những người này là những người vô ý thức. Họ không nhận biết chút nào, cho nên họ không thể chịu trách nhiệm. Bất kỳ điều gì họ làm, họ đều làm trong giấc ngủ; họ là kẻ mộng du, người đi trong giấc ngủ. Xin hãy tha thứ cho họ. Họ không thể chịu trách nhiệm được. Cho nên khi bạn ăn quá nhiều, tôi cầu nguyện Thượng đế: “Xin Cha hãy tha thứ cho con người này. Người đó không biết điều mình đang làm.” Khi bạn nhịn ăn, tôi lại phải cầu nguyện Thượng đế: “Xin Cha hãy tha thứ cho con người này. Người đó không biết điều mình đang làm.” Vấn đề thực sự không phải là làm mà đem nhận biết vào trong thân thể bạn, và nhận biết đó sẽ thay đổi mọi thứ. Bạn đang giống như kẻ say khướt. Tôi đã từng nghe: Mike bảo Pat anh ta sẽ đi thức canh người chết, và Pat đề nghị được đi theo. Trên đường Pat gợi ý hãy uống một hay hai cốc rượu và cả hai sẽ ngủ say. Kết quả là Mike không thể nào nhớ nổi địa chỉ chỗ canh. “Nhà của bạn cậu ở đâu?” Pat hỏi. “Tới quên mất số nhà rồi, nhưng tớ chắc chắn đây là phố ấy.” Họ bước dọc theo phố đến vài phút cho tới khi Mike liếc mắt nhìn vào một cái nhà anh ta nghĩ là đúng chỗ. Thế là họ loạng choạng đi vào cái phòng tối. Họ mở cửa và phát hiện ra phòng khách, cũng tối đen ngoại trừ tia sáng le lói yếu ớt của cây nến đặt trên chiếc piano. Họ đi tới chiếc piano, quỳ xuống và cầu nguyện. Pat dừng mắt khá lâu nhìn vào chiếc piano. “Mike,” anh ta nói “Tớ không biết anh bạn của cậu, nhưng anh ấy chắc chắn có bộ răng đẹp. Đây là tình huống đó. Đây là cách thức con người hiện hữu. Điều duy nhất tôi muốn trao cho bạn là khả năng phán đoán có nhận biết. Điều đó sẽ làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của bạn. Đây không phải là vấn đề đưa bạn vào kỷ luật, đây là vấn đề làm cho bạn sáng lên từ bên trong.(OHSO) NHẬN XÉT BÀI VIẾT CỦA OHSO- THỨC ĂN VÀ SỨC KHỎE: -Ohso là một người cực kì thông minh,nhưng , theo tôi, chưa phải là người giác ngộ. -Ông khuyên nhai kĩ và hưởng thụ món ăn. Phải lắng nghe cơ thể, vì cơ thể biết chọn lựa món ăn tốt cho chính mình và biết dừng lại đúng lúc, biết khi nào phải nhịn ăn…. -Ông nói món ăn tác động tâm trí con người.Ăn mặn làm hại cho sự phát triển tâm linh.Ông khuyên nên ăn chay. -Ông nói : trước khi mất trên thập tự giá, Jesus nói: “Xin Cha hãy tha thứ cho những người này bởi vì họ không biết điều họ đang làm.”Con người thường làm mà không hiểu biết( vô ý thức) -Thông điệp ông muốn truyền cho con người là HÃY LÀM VỚI HIỂU BIẾT. -Theo tôi, đây là cách nói vòng vo.Hãy làm với chánh kiến. Nhưng không nói làm cách nào để có chánh kiến. Hãy lắng nghe cơ thể. Nhưng có phải lúc nào cơ thể cũng đúng??? -Rốt cuộc chỉ có cách ăn theo VSNL là chân lí, giải quyết toàn bộ các vấn đề của con người và vũ trụ. -Ăn đúng trật tự vũ trụ thì sẽ có chánh kiến (ăn đúng thì nhận thức đúng). Ăn đúng sẽ có ngay sức khỏe và trí tuệ và hạnh phúc vĩnh viễn… 11/2/2012 nvt |
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 1,240 Gia nhập vào: 25-May 07 Từ: HCM Thành viên thứ.: 30 ![]() |
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP OSHO
Tên thực của Osho là Acharya Rajneesh, sau đổi là Bhagwan Shree Rajneesh (1931-1990). Ông sanh ngày 11 tháng 12 năm 1931 tại làng Rajneesh Chandra Mohan tỉnh Kuchwara, miền Trung Ấn Độ. Vào cuối đời ông đổi tên là Osho. Song thân ông theo đạo Kỳ Na (Jainism), nhưng bản thân ông chưa từng gia nhập một tôn giáo nào trong suốt quãng đời của ông. Từ lúc còn bé, Osho đã tỏ ra là một con người có cá tính độc lập, cương quyết, nổi loạn và luôn luôn bảo hộ ý kiến của mình. Theo sách của ông ghi lại, ông đã đạt định “samadhi” và chứng ngộ vào ngày 21 tháng 3 năm 1953 lúc ông 21 tuổi. Rajneesh đậu bằng Cao học Triết từ viện đại học University of Saugar. Sau đó ông dạy Triết học tại viện đại học University of Jabalpur trong chín năm. Cùng thời gian đó ông đi du thuyết nhiều nơi và trở nên một nhà lãnh đạo tôn giáo. Năm 1966, ông từ nhiệm việc giảng dạy tại viện đại học Jabalpur và tập trung các nỗ lực vào việc giáo huấn cho các đệ tử theo ông. Ông thường tiếp các nhóm tu học và cá nhân ở căn hộ apartment của ông ở Bombay, ông hành xử như là vị lãnh đạo tâm linh của họ. Phần lớn các đệ tử của ông đến từ Âu Châu và đã ở Ấn từ vài năm trước. Năm 1974, Osho từ bỏ Bombay đến thành phố Pune (Poona), miền Nam Ấn thiết lập trung tâm tu học. Có nguồn tin từ những người chống đối ông cho rằng việc ông rời Bombay là do những sự chống đối của cư dân địa phương. Thực tế việc đến Pune là do nhu cầu phát triển cơ sở hầu thoả mãn chỗ ăn ở và tu tập cho các đệ tử. Trung tâm tu học mới rộng sáu mẫu, nằm ở ngoại ô thành phố Pune. Người ta ước tính có tới năm mươi ngàn người Tây Phương đã đến đây tu học để tìm cầu giác ngộ với ông. Vào năm 1979, ông nhìn thấy phong trào tu học theo ông như là một con lộ nhắm hướng bảo hộ dòng giống sinh sản mới cho nhân loại. Ông nói: “Nếu chúng ta không thể tạo ra những người mới trong hai mươi năm tới, thì nhân loại sẽ không có tương lai. Cuộc tàn sát kiểu holocaust trên quả địa cầu chỉ có thể được ngăn chặn nếu chúng ta cho ra đời những con người mới”. Osho dạy một loại thiền mới, một loại thiền động (dynamic meditation) mà ông lấy từ các đạo Kỳ Na giáo (Jainism), Ấn Giáo (Hinduism), Phật Giáo, Lão Giáo (Taoism), Thiên Chúa Giáo (Christianity) và một vài tư tưởng triết học nổi tiếng đương thời, rồi pha trộn thành của mình. Năm 1980, ông bị một người theo Ấn Giáo tấn công bằng dao trong khi ông đang thuyết giảng. Vết thương không nặng nhưng do sức khoẻ của ông vốn yếu kém từ những năm trước đây nay trở nên tồi tệ hơn. Một vài đệ tử thân cận với ông cho biết ông thường hay đau yếu và mắc phải hội chứng mệt mỏi (Chronic Fatigue Syndrome CFS), bị bệnh tiểu đường loại 2, bệnh đau bắp thịt, bệnh cao áp huyết và thường xuyên dùng thuốc Valium. Năm 1981 ông rời Ấn Độ qua Hoa Kỳ chữa bệnh. Các đệ tử của ông mua một nông trại rộng 65,000 mẫu tại Big Muddy Ranch, Dalles, Wasco County, bang Oregon với giá 6 triệu dollars. Nông trại này sau đó được đổi tên là Rajneeshpuram . Ông đã thiết lập được một làng tâm linh tu học rộng lớn cách thị trấn Antelope 12 miles với một giảng đường rộng 88,000 square foot, một sân bay nhỏ và 4000 hội viên thường trú, một số được trang bị súng phòng thủ. Đời sống trong làng bị nhiều áp lực từ ban lãnh đạo của Oshọ cho đến chính quyền địa phương. Nhiều cư dân địa phương xung quanh sống lâu đời ở đây đã dị ứng với những người mới đến này. Họ chống đối sự hiện diện của nhóm người do ông lãnh đạo, và vì vậy đã có những sự va chạm lẫn nhau. Thành phố từ chối cấp giấy phép xây cất và ra lệnh triệt hạ những cơ sở đã xây không có giấy phép. Khi các viên chức chính quyền địa phương ngăn cản việc xây cất không có phép, thì văn phòng chính quyền liền bị nhóm người lạ mặt ném chất nổ. Do hội đồng thành phố tiếp tục từ chối cấp giấy phép xây cất, nên các đệ tử của Osho bầu người của mình vào hội đồng thành phố. Tân hội đồng thành phố lãnh đạo bởi phe thân Osho, đổi tên Antelope thành City of Rajneesh. Hai phụ tá cao cấp của Osho là Sally-Anne Croft và Susan Hagan bị truy tố liên quan đến một số tội ác, bao gồm cả tội dự mưu ám sát vị luật sư công tố Charles Turner và vị bác sĩ riêng của Osho. Hai viên phụ tá này bị kết tội 5 năm tù ở với tội danh âm mưu ám sát viên luật sư công tố liên bang Charles Turner, trong âm mưu ngăn chặn việc đóng cửa nông trại. Một số phụ tá khác của Osho chạy thoát về Thuỵ Sĩ, ở đó họ còn nắm giữ một số trương mục ngân hàng cho tổ chức Osho. Năm 1983, thư ký riêng Sheela Silverman của Osho thay mặt Osho tuyên bố sẽ có đại cơn tàn phá địa cầu trong khoảng từ 1984 và 1999. Các thành phố Tokyo, New York, San Francisco, Los Angeles, Bombay sẽ bị xoá tên khỏi bản đồ thế giới. Điều tiên đoán này không xảy ra và người ta cũng nghi ngờ điều tiên đoán đó không phải của Osho. Theo tài liệu lưu giữ tại Quốc Hội Hoa Kỳ Congressional Record và ghi lại trong quyển sách Germs, New York Times reporter Judith Miller, [Simon & Schuster Book] cho biết một số đệ tử của Osho là thủ phạm gieo rắc vi khuẩn Salmonella tại một số nhà hàng bán salad bar nhằm đe doạ cư dân ủng hộ dự án luật ngăn cấm các hoạt động của Osho. Trong vụ này có 751 người nhiễm vi khuẩn Salmonella. Sự cố này đã gây chấn động ở Hoa Kỳ vào năm 1984 khi được các đài truyền hình quốc gia như ABC News, Lehrer NewsHour of Public Television loan tải trong ngày 1 tháng 10 và trên tuần báo Time Magazine, số ra ngày 3 tháng 10, với tựa đề là "America's First Bioterrorism Attack." [01], [02], [03] Lo sợ bị chính quyền áp dụng biện pháp mạnh, một số đệ tử của Osho đã thu xếp cho ông di chuyển đến thành phố Charlotte, bang North Carolina. Nhưng báo Origonian cho biết là Osho đã được các đệ tử đưa đi trốn qua vùng hải đảo, biển Caribbien bằng một máy bay riêng của ông, nhưng bị chận bắt khi máy bay dừng tiếp tế nhiên liệu tại Charlotte, North Carolina. Osho bị bắt giữ vì đã liên tiếp vi phạm luật di trú Hoa Kỳ. Ông bị kết tội môi giới làm giả hôn nhân cho những đệ tử mang quốc tịch Ấn kết hôn với những đệ tử mang quốc tịch Hoa Kỳ để hợp pháp hoá việc định cư. Osho cũng bị truy tố về tội khai man trên những giấy tờ di trú. Năm 1987 Osho nhận tội, bị phạt 400 ngàn Mỹ kim và trục xuất khỏi Hoa Kỳ. Ông trở về lại Pune (Poona) Ấn Độ, ở đó sức khoẻ của ông trở nên trầm trọng. Osho quyết định khai tử tên Rajneesh (có lẽ là để dấu khuôn mặt thật của ông bị lộ diện ở Hoa Kỳ) và khai tên mới là Osho. Ông từ gĩa cõi đời ngày 19 tháng 1 năm 1990. Giấy khai tử ghi nguyên do tử vong là bệnh trụy tim. Vào thời kỳ cao điểm, có khoảng 200 ngàn hội viên và 600 trung tâm tu học trên thế giới. Osho bị nhiều nhóm chống đối coi ông như là một giáo phái ma quỷ (an evil). Ông cũng được họ gọi là “sex guru” vì ông quảng bá mạnh mẽ về sex. Ông cho rằng “sự thèm khát dục bên trong mỗi chúng ta có thể trở thành chiếc thang mà qua đó đạt tới ngôi đền của tình yêu", rằng "dục bên trong mỗi chúng ta có thể trở thành phương tiện để đạt tới siêu tâm thức, đạt tới định samadhi.” Ông chỉ bày kỹ thuật giao hoan nam nữ cho dài lâu. Xin trích đoạn: “… Việc thở của người ta càng nhanh, thì thời gian giao hợp càng ngắn; hơi thở người ta càng bình thản và chậm chạp thì việc đó càng kéo dài hơn. Và việc giao hợp càng kéo dài lâu, thì càng nhiều khả năng từ dục tạo ra cánh cửa tới samadhi, một kênh cho siêu tâm thức. …. Vào lúc giao hợp chúng ta ở gần với Thượng đế. Thượng đế tồn tại trong chính hành động sáng tạo cho sinh thành nên cuộc sống mới, và do vậy thái độ của người ta nên giống như thái độ của người đi vào chùa chiền, đền đài hay nhà thờ. Vào lúc cực khoái chúng ta ở gần nhất với đấng Tối cao (From Sex To Super-Consciousness – Osho International Foundation) Osho phát triển một dạng thiền năng động mới mẻ, được nhiều người biết với tên Dynamic Meditation, thường khởi đầu với các hoạt động mạnh mẽ về thể chất như nhảy múa với âm nhạc kích động, sau đó là thiền im lặng. Phương pháp thiền này, theo Osho, có thể phát triển đến một trạng thái “không tính” và đạt đến giác ngộ. Hành giả sau đó sẽ trở thành “no past, no future, no attachment, no mind, no ego, no self” Trong thập niên 1980, các đệ tử của Osho thường mặc y phục toàn màu vàng cam đậm (có khi màu nâu đỏ), không phải chỉ có áo choàng. Vì vậy, họ được gọi là "Orange People". Tên gọi nầy khá phổ thông trong thời kỳ đó. Osho ban tước hiệu mới cho đệ tử. Nam được gọi là “Swami” và nữ được gọi là “Ma”. Mặc dầu đa số đệ tử sống trong môi trường khiêm tốn và đơn giản, nhưng Osho, ngược lại, sống trong xa hoa lộng lẫy, tư thất ông ở có máy điều hoà không khí, có bồn tắm nước nóng. Ông có 27 chiếc xe hơi mang hiệu Rolls Royces do các đệ tử hiến cúng. (Có sách nói 93 chiếc) Osho dạy rằng Thượng đế trong mọi người và hiện diện mọi nơi chốn. Không có gì ngăn cách giữa God và Not God. Ông thừa nhận Jesus Christ đã giác ngộ và tin tưởng là Jesus còn sống sau khi bị đóng đinh trên cây Thập tự giá và trốn qua Ấn Độ, ở đó Jesus chết lúc 112 tuổi. Osho nói rằng ông không chỉ định người kế vị khi ông qua đời, vì tất cả các đệ tử của ông đều sẽ là những người kế vị ông. Tuy nhiên, trước khi chết, ông đã chỉ định một hội đồng gồm 21 người điều hành trung tâm tu học Pune. Trung tâm này đã được phát triển từ 6 mẫu thành 32 mẫu. Ngày nay họ điều hành 20 trung tâm trên khắp thế giới và trở thành một tổ chức kinh doanh với lợi tức hàng năm lên đến nhiều triệu Mỹ kim. Ảnh hưởng chính của Osho bây giờ chính là những sách viết của ông. Cũng nên biết hai phụ tá cao cấp của Osho là Sally-Anne Croft và Susan Hagan bị kết án 5 năm tù ở Oregon hồi năm 1995, đã được phóng thích trước thời hạn mãn tù vào tháng 6 năm 1998 và bị trục xuất về Anh Quốc. ĐƯỜNG LỐI TRUYỀN ĐẠO Nói rằng ông Osho là một Đạo Sư và những lời giảng dạy của ông là Giáo lý thì không đúng vì tất cả những lời giảng của ông không có gì mới lạ, chỉ là sự góp nhặt rồi pha trộn từ một số giáo lý của các đạo Kỳ Na giáo (Jainism), Ấn Giáo (Hinduism), Phật Giáo, Lão Giáo (Taoism), Thiên Chúa Giáo (Christianity) và một vài tư tưởng triết học đương thời. Ông bắt đầu sự nghiệp bằng việc giảng dạy môn Triết học tại đại học, rồi từ đó chuyển qua dạy về khoa Tâm linh cho những đệ tử và những người theo ông. Thị trường khoa Tâm linh học ở Ấn Độ thời đó rất cạnh tranh và ông là một người giỏi về tiếp thị. Ông đã tung ra thị trường một sản phẩm mới nhiều hấp dẫn. Đó là những lời hứa hẹn “giác ngộ và giải thoát” bằng một đường lối rất quyến rũ là con đường tình yêu và tình dục; mà ông tin rằng sẽ được đón nhận ở cả phương Tây lẫn phương Đông. Mặc dầu là một người độc tài, độc tôn, độc đoán, nhưng ông lại là một nhà thuyết giảng có tài, có mãnh lực quyến rũ và thuyết phục người nghe, người đọc. Văn tiếng Anh ông viết giản dị, sáng sủa. Ông thuyết giảng rất nhiều và thuộc đủ mọi đề tài. Với Phật Giáo, ông ca ngợi đức Phật, dùng những thuật ngữ nhà Phật, nên người đọc, nhất là những Phật tử mới vào đạo hay những người có ý muốn hướng về một nền đạo học Đông Phương cảm thấy thích thú và gần gũi với ông. Ông nói thao thao bất tuyệt về kinh Kim Cương, Bát Nhã Tâm Kinh và Kinh Pháp Cú. Ông thuyết giảng về Vô Ngã và Không Tánh của Phật Giáo. Ông cũng giảng và đề cao nhiều pháp thiền định khác nhau của nhiều tôn giáo, như của Mật tông: Kundalini, Mandala và Tình Dục, lẫn của cả Thiền Minh Sát Vipassana của Phật giáo Nam Tông, cũng như thiền quán âm thanh của kinh Lăng Nghiêm v... v… Ông có lối diễn giảng như hỏa mù, vừa ca ngợi, vừa xuyên tạc đạo Phật (một cách tinh vi), lại vừa lợi dụng uy tín của đức Phật, dùng đức Phật như một cái dù che; nhưng thực chất bên trong nôị dung những điều ông giảng lại chứa đựng những tư tưởng đối nghịch với tư tưởng nhà Phật. Đây chính là điều mà người ta thường gọi là “cái bẫy của ngôn ngữ”. Chúng ta hãy đọc một đoạn của Osho dưới đây: ”Đừng lo sợ gì cả, vì toàn bộ tiến trình giáo lý Bát Nhã Tâm Kinh sẽ giúp anh phóng thể, khai sáng cái bản ngã: cái “Tôi” đó thực không hiện hữu – chỉ cái “Tôi” đó là cái duy nhất không hiện hữu, không thực! Ngoài ra tất cả đều thực có. Có nhiều đạo sư đã nói: “Thế giới này là ảo ảnh và linh hồn mới hiện hữu – cái ‘Tôi” là thực, ngoài ra đều là ảo giác.” Đức Phật lại giảng trái ngược lại: “Cái Tôi là không thực, còn những thứ khác là thực.” Tôi đồng ý với Đức Phật về quan điểm này hơn tất cả những lập thuyết, quan niệm của những đạo sư khác…”[Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích nữ Minh Tâm] Đức Phật không hề nói “cái Tôi là không thực, còn những thứ khác là thực…” Những người am tường giáo lý đạo Phật đều biết trong suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp, Đức Phật đều là tuỳ căn cơ, hay nói một cách khác, tuỳ bệnh “chấp thật” của chúng sinh mà cho thuốc khác nhau. Ngài phá chấp thật: phá Ngã chấp, Pháp chấp và Không chấp; [01] ngay cả lời nói của Ngài, Ngài cũng nói là vọng tưởng, chớ nên chấp thật. Một đoạn khác, cũng trong Bát Nhã Tâm Kinh, Osho cho rằng Tiểu ngã hoà nhập vào Đại ngã là Niết Bàn: “Chỉ có người nào yêu và thiền định thì mới có thể chết tỉnh thức được. Và một khi anh chết trong tỉnh thức rồi, thì anh không cần phải lộn lạo luân hồi trở lại cuộc đời này nữa, vì anh đã học xong bài học thế gian rồi. Rồi anh tan biến vào vũ trụ, hội nhập vào đại thể, hoà mình vào chân ngã – đó là Niết Bàn tịch tĩnh đấy, anh ạ! [Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích nữ Minh Tâm] Đây chính là quan niệm của Ấn Độ giáo hay Bà La Môn Giáo. Đối với Phật giáo thì mọi khái niệm, tư tưởng về Bản Ngã, dù là Tiểu Ngã hoặc Đại Ngã đều bị quét sạch, kể cả cái công cụ quét cũng bị quét luôn. Ngay cả đến giáo lý của Phật giảng dạy cũng chỉ được coi là phương tiện như con đò đưa người qua sông. Khi đã đến được bến đò thì phải bỏ đò và người đưa đò tức Phật cũng phải bỏ luôn và phải bỏ luôn cả cái vọng chấp gọi là bến đò nữa mới có thể đạt tới cái mà sách vở tạm dùng ngôn từ mà gọi là Niết Bàn, Chơn Như. Còn trên phương diện hành trì, giáo lý nhà Phật chủ trương diệt dục vì dục là nguồn gốc của khổ đau và luân hồi thì Osho lại chủ trương ngược lại. Ông đề cao dục, ca ngợi dục, quảng bá dục; nhất là tình yêu và tình dục, ông dành nhiều buổi thuyết giảng về tình dục và viết thành một quyển sách nói về Dục. Ông chỉ dạy kỹ thuật giao hoan nam nữ cho dài lâu. Nên lưu ý, đây là điểm quan trọng trong quá trình truyền đạo của ông, là “đường lối hành trì” để hành giả đạt đến giác ngộ giải thoát, đến Niết Bàn hay Thượng Đế” của cái gọi là “giáo lý” của “Đạo sư Osho”. Xin trích đoạn: “..Nhưng người đã nghiên cứu về dục, người đã đi sâu vào nó, người đã thiền về những kinh nghiệm nhiều kiếp, đều nêu ra rằng nếu giao hợp chỉ kéo dài một phút thì con người sẽ ham muốn nó lần nữa vào ngày hôm sau, nhưng nếu nó có thể được kéo dài trong ba phút thì người đó sẽ không nghĩ về dục trong một tuần tiếp sau. Hơn nữa, họ đã quan sát rằng nếu giao hợp có thể được kéo dài trong bẩy phút thì người đó sẽ tự do khỏi dục đến mức không ý nghĩ đam mê dục nào nẩt sinh trong người đó trong ba tháng. Và nếu thời kì giao hợp có thể kéo dài ba giờ thì người đó sẽ tự do với dục mãi mãi; người đó sẽ không bao giờ ham muốn nó lần nữa! Nhưng kinh nghiệm của con người nói chung chỉ kéo dài trong một khoảnh khắc; thậm chí khó mà tưởng tượng được một thời kì ba giờ. Tuy nhiên, tôi lặp lại: nếu một người có thể vẫn còn trong tư thế giao hợp, có thể vẫn còn trong samadhi đó, trong sự chìm ngập ba giờ, thế thì chỉ một hành động giao hợp đó cũng đủ để giải phóng người đó khỏi dục cho phần còn lại trong cuộc đời mình. Nó để lại sau một kinh nghiệm mãn nguyện, một kinh nghiệm phúc lạc đến mức nó kéo dài cả đời. Sau việc giao hợp hoàn hảo đó thì không còn rào chắn để đạt tới vô dục thực sự. Thậm chí sau cả đời kinh nghiệm dục chúng ta cũng chẳng bao giờ đạt tới bất kì đâu gần cái giai đoạn tối cao đó, gần điều thiêng liêng đó. Tại sao? Người ta đạt tới tuổi già chín muồi, đi tới cuối cuộc sống của mình, nhưng người đó chưa bao giờ được tự do khỏi sự thèm khát dục, khỏi niềm đam mê giao hợp. Tại sao? Bởi vì người đó chưa bao giờ hiểu mà cũng không được bảo cho về nghệ thuật dục, về khoa học dục. Người đó chưa bao giờ xem xét nó; người đó chưa bao giờ thảo luận về nó với người đã chứng ngộ. Bạn có thể ngần ngại rằng một kinh nghiệm mà thường chỉ kéo dài một khoảnh khắc lại có thể được kéo dài trong ba giờ, cho nên tôi sẽ nêu ra cho bạn một số điểm chỉ dẫn. Nếu bạn chú ý tới chúng, thì cuộc hành trình tới vô dục sẽ trở nên đơn giản hơn. Việc thở của người ta càng nhanh, thì thời gian giao hợp càng ngắn; hơi thở người ta càng bình thản và chậm chạp thì việc đó càng kéo dài hơn. Và việc giao hợp càng kéo dài lâu, thì càng nhiều khả năng từ dục tạo ra cánh cửa tới samadhi, một kênh cho siêu tâm thức. Như tôi đã nói trước đây, việc hiểu về vô ngã, về vô thời gian, bắt đầu hé mở ra cho con người trong samadhi-dục đó. Việc thở phải rất chậm. Việc làm chậm hơi thở sẽ mở ra viễn cảnh ngày càng sâu sắc hơn của nhận thức rõ. Một điều khác cần phải nhớ trong hành động giao hợp là ở chỗ nhận biết của bạn nên được tập trung vào giữa hai con mắt, ở chỗ của agnichakra. Nếu sự chú ý được tập trung vào đó, thì thời hạn cực đỉnh có thể được kéo dài - thậm chí tới ba giờ. Và một hành động giao hợp như vậy có thể bắt rễ chắc chắn một người vào mảnh đất của vô dục - không chỉ cho kiếp sống này mà cho kiếp sống tiếp nữa..” [Osho: Từ Dục Tới Siêu Tâm Thức (Bài nói thứ 4)©Osho International Foundation] Có người cho rằng những điều giảng trên không phải là của Phật giáo mà là của Mật Giáo Ấn Độ hay như Osho gọi chung chung là Mật tông. Thêm vào đó, tình yêu và tình dục nam nữ mà Osho đề cao cũng được ông giảng lồng vào trong các kinh Phật, như trong kinh Kim Cương và Bát Nhã Tâm kinh. Điều này xác nhận tư tưởng của ông đối nghịch với giáo lý nhà Phật như nước với lửa. Xin trích đoạn: “…Chỉ có tình yêu lan tràn ra thế giới mới đem đến cách mạng. Chủ nghĩa cộng sản đã thất bại, chủ nghĩa phát xít đã thất bại, chủ nghĩa tư bản đã thất bại. Tất cả các "chủ nghĩa" đều thất bại bởi vì sâu bên dưới tất cả chúng đều kìm nén dục. Về phương diện này, không có sự khác biệt giữa Washington và Moscow, Bắc kinh và Delhi không có khác biệt nào hết cả. Tất cả họ đều đồng ý về một điểm rằng dục cần phải bị kiểm soát, rằng người ta phải không được phép có niềm vui hồn nhiên trong dục. Mật tông tới để lập lại quân bình. Mật tông là phương thuốc cho nên nó nhấn mạnh quá nhiều vào dục. Những cái gọi là tôn giáo nói dục là tội lỗi, còn mật tông nói dục là hiện tượng thiêng liêng duy nhất. Mật tông là phương thuốc. Thiền không phải là phương thuốc. Thiền là trạng thái khi bệnh tật đã biến mất và tất nhiên, cùng mất đi với bệnh thì phương thuốc cũng mất đi nữa. Một khi bạn được chữa lành khỏi bệnh, bạn không còn giữ lại toa thuốc và cả lọ thuốc và thuốc với mình. Bạn vứt chúng vào sọt rác. Xã hội thông thường chống dục; Mật tông tới để giúp loài người, để trả lại dục cho loài người. Và khi dục đã được trả lại, thì nảy sinh Thiền. Thiền không có thái độ. Thiền là sự mạnh khỏe thuần khiết. " [Osho: Kinh Kim Cương Việt dịch: Như Không] “…Khi anh ân ái giao hợp với một người phụ nữ anh thương, cái tột đỉnh của khoái lạc chính là đỉnh cao của Chân Không. Ngay giây phút Chân Không hay khoái lạc cực điểm đó, người đàn bà không còn là người đàn bà nữa và người đàn ông cũng không còn là người đàn ông nữạ Những hình thái nam nữ đó đã biến mất. Cái tính chất phân cực, sự phân biệt giữa đàn ông và đàn bà không còn đó nữa, sự căng thẳng không còn đó nữa; tất cả đã tuyệt đối buông xả, thư giản hoàn toàn…” [Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích Nữ Minh Tâm] Những lời ông giảng về kinh Phật và hành thiền nghe thật hấp dẫn, rất êm tai, nhưng theo ông, hành giả chỉ có thể đến được với nó qua đường tình yêu và tình dục. Đây chính là viên thuốc độc bọc đường để mê hoặc lòng người và đó chính là cái bẫy của ngôn từ, nên những người mới vào đạo Phật cần phải lưu ý mà tránh xa. Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ 14 đã cảnh giác những ai đi theo con đường dâm (sex), Ngài nói: “…Nói chung sự tà dâm được thực hiện bởi sự tham muốn, nhưng người ta cũng có thể làm như thế bởi lòng sân hận, như khi một người ngủ với vợ của một kẻ thù. Cũng thỉnh thoảng nó được thực hiện do sự vô minh, cho rằng qua sự giao hợp người ta có thể đạt được các chứng ngộ vĩ đại…” [Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng, nguyên tác Anh ngữ: The Way To Freedom, Dalai Lama Thứ 14 - Việt dịch: Liên Hoa, Nhà xuất bản Thiện Tri Thức 1999] Cũng nên nói thêm, trong cuốn Từ Dục Tới Siêu Tâm Thức, Osho khẳng định không có con đường nào khác hơn để đi đến samadhi là phải qua con đường tình dục:“Con đường từ dục tới samadhi là con đường dài. Samadhi là mục tiêu tối thượng; dục chỉ là bước đầu tiên. Và tôi muốn chỉ ra rằng những người từ chối thừa nhận bước đầu tiên, người chỉ trích bước đầu tiên, thì thậm chí không thể nào đạt tới bước thứ hai được. Họ không thể nào tiến bộ được chút gì. Điều bắt buộc là phải tiến bước thứ nhất có ý thức, hiểu biết và nhận biết. …” Trong một bài giảng khác, Osho cũng xác nhận rằng: “Sex contains samadhi, because life contains God. Move from sex to samadhi, from sex to superconsciousness; this is the only natural and rightful way. Don't get stuck anywhere in sex. I teach you sex and transcendence both, because the transcendence is possible only through it. And the people who are teaching repression are not teaching transcendence. In fact, they go on pouring more mud on you. They go on forcing you deeper in the mud because there is no possibility of transcendence if you have not moved through these sexual stages of autoeroticism, of homoeroticism, of heteroeroticism, and then to transcendence. And the lotus blooms, the one-thousand-petalled lotus. You are containing it in yourself. Avoid the priests and the politicians and you can achieve it. They are standing in the way…” [Osho: The Secret of Secrets, Vol 2, Chapter 15 (Available on Audio only) Talks by Titles Subject Index - Audio Talks © Osho International Foundation 1995] Khi giảng về Thiền Định trong Bát Nhã Tâm Kinh, Osho giảng huyên thuyên, dùng toàn thuật ngữ Phật giáo nhưng chỉ có chữ mà không có nghĩa, hầu như không có liên hệ gì với giáo lý nhà Phật, lại còn có những điểm trái ngược với Phật giáo, như khi giảng về thiền định, ông phân chia Thiền Định làm hai lực đối kháng nhau: Thiền là một cái gì “yên tĩnh, ôn hòa, sâu lắng” trong khi đó Định thì có bản chất “bạo hành, cá nhân bản ngã…” Chúng ta hãy đọc thử một đoạn: “…Định là ý thức đối đãi, nhị nguyên: bởi thế Định tạo ra sự mệt mỏi, chán ngán, cho nên khi anh tập trung vào một đối tượng nào, anh cảm thấy mệt lả. Anh không thể tập trung suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ liền được, anh phải nghỉ ngơi. Sự tập trung không bao giờ có thể trở thành bản chất của anh được. Thiền không bao giờ làm cho anh mệt mỏi. Thiền không bao giờ làm cho anh đuối sức. Anh có thể thiền hai mươi bốn giờ đồng hồ liền hay ngày nọ qua ngày kia, năm nọ qua năm kia. Thiền có thể trở thành vô tận vì chính bản chất thiền là thư thái, an nhiên, tuyệt đối không căng thẳng, mệt lả, đuối sức. Định là một hành động, một loại hành động có ý chí mạnh mẽ. Còn Thiền là trạng thái không ý chí, một trạng thái vô hành….Trong Định, chúng ta đã có sẵn một kế hoạch, một dự án, một tư tưởng trong tâm trí. Khi anh tập trung tâm trí vào một đối tượng, đầu óc anh hoạt động dữ dội, anh thấy rõ là anh đang quán chiếu cái gì, tập trung tâm ý vào cái gì, vì tập trung hiện ra từ vùng quá khứ….Định sẽ khiến anh trở thành một con người ý chí. Nhưng thiền sẽ đưa anh đến Chân Không, sẽ đưa anh đến vùng Chân Như tự tại. Đó là chính xác những gì Phật nói với Xá Lợi Phất…[Osho: Bát Nhã Tâm Kinh, Việt dịch: Thích Nữ Minh Tâm] Trong khi đó, Định theo Phật giáo là “trạng thái chú tâm lên một đối tượng duy nhất bằng sự lắng lọc từ từ của tâm. Định là một dạng tâm thức, trong đó không còn tính nhị nguyên, trong đó chủ thể biến thành một với khách thể, lúc đó chỉ còn một "kinh nghiệm tâm thức" là có thật. Khả năng đạt định là một trong những điều kiện tiên quyết để tu tập Thiền…, hành giả nhờ Định (s: samadhi) mà đạt đến một trạng thái sâu lắng của tâm thức, trong đó toàn bộ tâm thức chỉ chú ý đến một đối tượng thiền định thuộc về tâm hay vật. Tâm thức sẽ trải qua nhiều chặng, trong đó lòng tham dục dần dần suy giảm. Một khi hành giả trừ Năm chướng ngại thì đạt được bốn cõi thiền (Tứ thiền định) của sắc giới (xem Ba thế giới), đạt được Lục thông (s: abhij) và tri kiến vô thượng. Tri kiến này giúp hành giả thấy rõ các đời sống trước của mình, thấy diễn biến của sinh diệt và dẫn đến giải thoát mọi Ô nhiễm. Hành giả đạt bốn cõi thiền cũng có thể chủ động tái sinh trong các cõi Thiên (deva) liên hệ. Trong giai đoạn một của thiền định, hành giả từ bỏ lòng tham dục và các pháp bất thiện, nhờ chuyên tâm suy tưởng mà đạt đến. Trong cấp này, hành giả có một cảm giác hỉ lạc. Trong giai đoạn hai, tâm suy tưởng được thay thế bằng một nội tâm yên lặng và tâm thức trở nên sắc sảo bén nhọn, xuất phát từ sự chú tâm quán sát. Hành giả tiếp tục ở trong trạng thái hỉ lạc. Qua giai đoạn ba, tâm hỉ lạc giảm, tâm xả bỏ hiện đến, hành giả tỉnh giác, cảm nhận sự nhẹ nhàng khoan khoái. Trong giai đoạn bốn, hành giả an trú trong sự xả bỏ và tỉnh giác. Tại Trung Quốc, Thiền có một ý nghĩa rộng hơn rất nhiều. Nó bao gồm tất cả phép tu như quán niệm hơi thở, Bốn niệm xứ ... với mục đích nhiếp tâm và làm tâm tỉnh giác. Từ phép Thiền do Bồ-đề Đạt-ma truyền, Thiền Trung Quốc đã phát triển rất mạnh (Thiền tông). Trong một ý nghĩa bao quát, Thiền cũng không phải là những phương pháp đã nêu trên. Thiền là một trạng thái tâm thức không thể định nghĩa, không thể mô tả và phải do mỗi người tự nếm trải. Trong nghĩa này thì Thiền không nhất thiết phải liên hệ với một tôn giáo nào cả kể cả Phật giáo. Trạng thái tâm thức vừa nói đã được các vị thánh nhân xưa nay của mọi nơi trên thế giới, mọi thời đại và văn hóa khác nhau trực nhận và mô tả bằng nhiều cách. Đó là kinh nghiệm giác ngộ về thể sâu kín nhất của thật tại, nó vừa là thể của Niết-bàn và vừa của Luân hồi, sinh tử. Vì vậy, Tọa thiền không phải là một phương pháp đưa con người đi từ vô minh đến giác ngộ, mà là giúp con người khám phá bản thể thật sự của mình đang mỗi lúc hiện diện…” [Tự điển Phật Học Đạo Uyển: http://www.daouyen.com/Data/Ph_T/T132.htm] Còn có quá nhiều điều đối nghịch với giáo lý nhà Phật, nhưng người viết cho là tạm đủ để độc giả có thể nhìn rõ thêm về ông Osho và giá trị những lời thuyết giảng của ông về đạo Phật. Osho có phải là đạo sư và những lời thuyết giảng của ông có phải là khuôn vàng thước ngọc không, điều đó không tuỳ thuộc vào những điều ông nói, không tuỳ thuộc vào những khả năng trích dẫn từ kinh điển Phật giáo mà là từ hành động của ông và động lực để giảng dạy của ông. Ngài Đạt Lai Lạt Ma Thứ 14 đã nói rằng: “Động lực giảng dạy (của một vị Thầy) phải trong sạch – không bao giờ vì một ước muốn danh tiếng hay lợi lạc vật chất… Trong thế giới, nếu không có một nhà lãnh đạo chân chính thì chúng ta không thể cải thiện xã hội được. Cũng vậy, trừ phi vị thầy có phẩm chất đúng đắn, thì mặc dù đức tin của bạn có mạnh mẽ đến đâu, việc theo học vị thầy có thể làm hại bạn nếu bạn được dẫn dắt theo một đường hướng sai lầm. Vì thế, trước khi thực sự coi ai là thầy, điều quan trọng là phải khảo xét họ…” … Nếu như vị đạo sư của bạn buộc bạn phải làm việc vô đạo đức hay nếu giáo lý của vị ấy mâu thuẫn với Phật Pháp thì hành xữ như thế nào? Ngài Đạt Lai Lạt Ma nói tiếp: “Bạn nên trung thành với điều đạo đức và xa rời những gì không phù hợp với Pháp…” Ở Ấn Độ, một lần kia, một vị thầy có nhiều đệ tử yêu cầu họ đi ra ngoài ăn trộm. Vị thầy thuộc đẳng cấp Bà La Môn và rất nghèo. Ông dạy rằng khi những người Bà la Môn trở nên nghèo khó thì có quyền ăn cắp. Ông nói, là những người được Trời Brahma - đấng sáng tạo của thế giới – yêu quý, đối với một người Bà la môn, việc ăn cắp không xấu xa. Những đệ tử sắp đi ăn cắp thì vị thầy người Bà la môn nhận thấy một đệ tử đứng im lặng cúi đầu xuống. Ông hỏi anh tại sao không đi. Người học trò nói: “Điều thầy dạy chúng con bây giờ trái nghịch với Pháp, vì vậy con không nghĩ rằng con có thể làm được điều đó. “ Lời nói này làm vui lòng người Bà la môn, ông nói: “Ta đã trắc nghiệm các con. Mặc dù các con đều là đệ tử của ta và trung thành với ta, nhưng sự khác biệt giữa các con là sự phán đoán. Ta là thầy của các con, nhưng các con phải xem xét lời chỉ dạy của ta, và bất kỳ lúc nào lời chỉ dạy chống trái với Pháp thì các con chớ nên theo.” …” [Con Đường Đến Tự Do Vô Thượng, nguyên tác Anh ngữ: The Way To Freedom, Dalai Lama Thứ 14 - Việt dịch: Liên Hoa, Nhà xuất bản Thiện Tri Thức 1999]. Hoàng Liên Tâm NHẬN XÉT THÊM VỀ OSHO: -Osho (1931-1990) tự nhận mình đã chứng ngộ năm 1953 (22 tuổi) và đi thuyết giảng ở Ấn Độ và Hoa Kì -Giáo lí của ông là tổng hợp các giáo lí từ các tôn giáo cùng với quan điểm cá nhân ông.Ông phát triển PP Thiền gọi là Thiền Động cũng là pha trộn các PP Thiền mà ông tin là sẽ đưa tới giác ngộ. -Ông viết rất nhiều sách rất hay nhưng đọc kĩ thì thấy có vấn đề . Ông có rất nhiều đệ tử nhưng cũng bị nhiều chống đối. -Ông sống xa hoa lộng lẫy với các tiện nghi như máy điều hòa, bồn tắm nước nóng...Ông sở hữu 27 chiếc Rolls Royces do đệ tử hiến dâng (có sách nói 93 chiếc) -Ông bị bệnh mệt mỏi kinh niên, tiểu đường loại 2, huyết áp cao, bệnh đau cơ bắp và thường dùng thuốc an thần Valum. Năm 1981 ông sang Mĩ chữa bệnh . Nhưng bị trục xuất trở lại Ấn Độ năm 1987.Ông mất năm 1990 vì trụy tim. -Một người chống chọi với bệnh tật 10 năm cuối đời thì thật bất hạnh! -Bài viết nhận xét về Osho của nvt bị kết tội là ngu dốt và phá hoại TD . Nói nvt ngu dốt là rất chính xác…Xin tiếp thu.Còn nói nvt phá hoại TD ,thì thử hỏi có ai ca tụng Ohsawa hết lời cùng với PPTD Ohsawa toàn tâm toàn ý như nvt. Ohsawa ,Phật, Jesus, Lão Tử…là những người giác ngộ. Tại sao đẩy lùi Ohsawa xuống thấp hơn Phật??? Tại sao lại chửi thậm tệ Ohsawa là người sáng tạo và ca tụng cách ăn số 7 lâu dài ??? nvt còn xếp Ohsawa cao hơn Phật, Jesus…Vì chỉ có Ohsawa thay đổi mạnh mẽ cuộc đời nvt và giải thoát nhân loại khỏi cảnh bệnh tật tràn lan và đưa ra PPTD cải tạo tâm hồn con người một cách tối ưu. (12/2/2012 nvt) |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 16th June 2025 - 07:15 PM |