IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> BƯỚC VAO SƠ THIỀN
hien
bài Jun 26 2012, 11:19 AM
Bài viết #1


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 69
Gia nhập vào: 12-January 12
Thành viên thứ.: 93,904



* Bài viết này dựa trên kinh nghiệm cá nhân, chỉ có giá trị tham khảo, xin cảm ơn

"Sau khi đoạn trừ năm triền cái này, những triền cái làm ô nhiễm tâm tư, làm yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ.’’(Trung Bộ Kinh)

Để vào được sơ thiền phải nhận diện được pháp đối nghịch tức là cái này có mặt thì cái kia không có mặt và ngược lại. Đức Phật đã nhận diện được pháp đối nghịch và dạy lại chúng ta đó là dục và bất thiện pháp. Vì sơ thiền là trạng thái do duyên sinh không có khả năng chấm dứt dục hay bất thiên pháp nên Đức Phật dung từ LY tức là tạm thời không dục và bất thiện pháp. Như vậy LY DỤC là gì ? LÝ BẤT THIỆN PHÁP là gì trong pháp hành thiền định ?

LY DỤC thuộc về THÂN. Khi hành thiền định thì thân dục giới này tạm thời không có mặt hay không đòi hỏi sự ăn, uống, ngủ, nghỉ, tiểu tiện, đại tiện, nói chuyện, ca hát, cãi cọ,.…

LY BẤT THIỆN PHÁP thuộc về TÂM. Ở đây có 2 chi phần. Đó là giới trong sạch (đối với cư sĩ là ngũ giới) và năm triền cái là các tâm Tham, Sân, Si bị đè xuống không cho nổi lên ví như quả bóng được đè xuống dưới nước. Tâm Si được chia ra 3 chi phần đó Trạo Cử-Hối Quá (vội vàng), Hôn Trầm –Thùy Miên (lưu đừ, gà gật), Nghi Ngờ (không biết rõ mình có hành thiền được hay không). Tâm Si nói chung là tâm không nhận diện được đối tượng nên gọi là si, mê mờ với 3 chi phần như trên.

TẦM là sự hướng Tâm hay đeo bám của Tâm lên đối tượng.

TỨ là sự chà sát hay khảo sát của Tâm trên đối tượng.


Tầm có thể được so sánh với việc bay đến đóa hoa của con ong, Tứ như khi nó bay vo ve quanh đóa hoa ấy.

Trong thiền định với đề mục là hơi thở thì sự dõi theo, bám theo hơi thở gọi là Tầm. Sự khảo sát hơi thở vào ra, dài ngắn, nóng lạnh gọi là Tứ. Thật ra Tầm và Tứ luôn có mặt trong đời sống hàng ngày. Ví dụ bạn tìm kiếm một cuốn sách trên giá sách, đó chính là Tầm, hướng tâm đi tìm kiếm đối tượng. Khi nhìn thấy bóng dáng cuốn sách trên giá, Tầm giúp Tâm bám chặt lấy đối tượng và lúc này Tứ xuất hiện khi bạn cầm quyền sách lên xem (chà xát đối tượng).

Vì có mặt trong đời sống của Tâm, do tâm có tâm bất thiện và có tâm thiện nên Tầm và Tứ cũng có Tầm Bất Thiện và Tứ Bất Thiện. Khi tâm bất thiện nổi lên, Tầm dẫn tâm đi tìm kiếm đối tượng để thỏa mãn sự bất thiện, Tứ đi sau Tầm để chà sát hay cọ sát vào sự bất thiện đó.

Như vậy, trong thiền định đề mục hơi thở, Tầm và Tứ được gọi là Thiện Tầm, Thiện Tứ vì nó hướng Tâm đi tìm các pháp cao thượng. Tầm và Tứ lúc này có mặt để thực hiện diệt trừ các pháp đối nghịch như sau:

TẦM diệt HÔN TRẦM-THỤY MIÊN
TỨ diệt TRẠO CỬ-HỐI QUÁ
HỶ diệt SÂN
LẠC diệt THAM
NHẤT TÂM diệt NGHI NGỜ



--------------------
thayvabiet.com
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
hien
bài Jun 26 2012, 12:02 PM
Bài viết #2


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 69
Gia nhập vào: 12-January 12
Thành viên thứ.: 93,904



*PHỤ LỤC 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA THIỀN ĐỊNH HỮU SẮC (SƠ THIỀN ĐẾN TỨ THIỀN) TRÊN ĐẠO LỘ CHỨNG ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT:

Đức Phật đã kể lại theo THỨ TỰ với chúng ta toàn bộ hành trình tìm giác ngộ của ngài trong đại kinh Saccaka (kinh 36, Trung Bộ Kinh). Các bạn đọc kỹ lại. Ở đây , tôi xin tóm tắt 6 giai đoạn hành trình lần lượt chính của Đức Phật kể lại thứ tự trong cùng một bài kinh này để các bạn được rõ.

1. Ngài đến vị thầy thứ nhất chứng đạt Vô Sở Hữu Xứ:

Như vậy, này Aggivessana, Alara Kalama là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ". Như vậy, này Aggivessana, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.

2. Ngài đến vị thầy thứ hai chứng đạt Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ:

Như vậy, này Aggivessana, Uddaka Ramaputta là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Như vậy, này Aggivessana, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.

3. Sự tuyệt vọng đến cùng tột của ngài khi chưa tìm ra đạo lộ:

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Thuở xưa có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Về tương lai, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng không thể có gì hơn nữa. Trong hiện tại, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Nhưng Ta, với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Hay là có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ?"

4. Ngài nhớ lại cảm giác chứng Sơ thiền khi ngồi gốc cây trong lễ hạ điền của cha:

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây là đạo lộ đưa đến giác ngộ".

5. Ngài hoàn tất các thiền Hữu Sắc (nhị thiền đến tứ thiền hữu sắc):

Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.


6. Ngài xả thiền Hữu sắc (xuất thiền Định) đi vào thiền Tuệ chứng Tam Minh:

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như thật: "Ðây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây là sự Diệt khổ", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát." Ta đã biết: "Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.


Dưới đây là sơ đồ mô tả 6 giai đoạn hành trình trong 3 thiền (vô sắc, hữu sắc, tuệ quán) của Đức Phật đã đi qua.




--------------------
thayvabiet.com
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 17th June 2025 - 05:25 AM