IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Linh Hồn Không Có
KinhThanh
bài Sep 16 2012, 04:26 AM
Bài viết #1


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



Linh Hồn Không Có

Thư ngõ

Kính thưa quý phật tử trong nước cũng như ở khắp nơi trên thế giới!

Kính thưa quý vị, chúng tôi viết sách là viết những điều mà mọi người chưa hiểu biết để giúp cho mọi người hiểu biết tức là có thêm những kiến thức mới mẻ mà từ lâu chưa hiểu biết cụ thể rõ ràng. Hôm nay, nhờ chúng tôi cố gắng chỉ rõ về Linh Hồn khiến quý vị hiểu thêm một cách tường tận mà không còn hiểu sai lệch như từ xưa mọi người do không biết mà hiểu sai một sự thật. " Linh Hồn Không Có" mà mọi người hiểu là "có Linh Hồn".
Chúng tôi không viết sách những điều mà mọi người đã hiểu biết rồi, vì những điều mọi người đã hiểu biết rồi mà cứ để họ phải đọc đi đọc lại mãi thì rất nhàm chán và phí thời gian vô ích.
Theo chúng tôi nghĩ đọc sách là mở mang kiến thức hiểu biết, cho nên khi đọc những điều chưa hiểu biết là làm cho mình hiểu biết thêm những điều mới mẻ thì đó là bồi dưỡng kiến thức hiểu biết. Còn ngược lại chẳng lợi ích gì, mà còn mất công sức và làm tốn phí thời gian. Có phải vậy không thưa quý vị?
Vì thế, những người viết sách cần nên lưu ý các vấn đề này.Viết sách mà cứ nhai đi nhai lại mãi những điều người khác đã viết rồi thì không có giá trị.
Cho nên viết sách không có đề tài mới mẻ thì không nên viết. Vì viết sách không phải cầu danh, cầu lợi (buôn bán sách) mà viết vì lợi ích cho mọi người đọc.
Kinh sách đã bày bán đầy phố, đầy chợ, đầy các vĩa hè, những loại kinh sách như vậy còn có giá trị gì?
Cầm lên một cuốn sách đọc thử thì thấy văn chương chữ nghĩa toàn là trộm ý, trộm lời của người khác.
Tại sao có rất nhiều đề tài mà mọi người chưa hiểu sao quý vị không viết mà lại đi trộm văn, trộm ý của người khác mà viết.
Đề tài thứ nhất: con người có linh hồn hay không?
với đề tài này sao quý vị không viết cho mọi người biết?
Đề tài thứ hai: Kinh sách Đại Thừa chịu ảnh hưởng tư tưởng nào của người Trung Quốc?
Đề tài thứ ba: Kinh sách Thiền Tông chịu ảnh hưởng tư tưởng nào của người Trung Quốc?
Đề Tài thứ tư: Những giáo pháp này đưa người tu hành đi đến đâu?
Đề tài thứ năm: Những giáo pháp này có đúng là của Phật giáo hay không?
Đề tài thứ sáu: Đường lối tu theo Phật giáo như thế nào đúng và như thế nào sai? Dựa vào đâu mà biết đúng sai.
Đề tài thứ bảy: Cái gì sinh ra con người và con người chết đi về đâu?
Đề tài thứ tám: con người chết cái gì tiếp tực đi tái sinh?
Tám câu hỏi trên đây là những đề tài giúp cho quý vị viết những bộ sách có giá trị mà không phải nhai lại kiến giải của những người khác.
Chúng tôi viết sách thường chọn lọc những đề tài nào mà mọi người chưa hiểu, vì thế khi đọc sách chúng tôi đã làm cho quý vị có một kiến thức hiểu biết rộng hợn.
Mọi người thường hiểu con người có linh hồn, cho nên chúng tôi viết sách chỉnh đốn lại sự hiểu sai như vậy là sai lầm, nhờ đó đề tài viết mới mẻ và phong phú làm cho người đọc càng say mê trông sự hiểu biết mới mẻ này.
Những đề tài của chúng tôi viết thường vượt lên mọi phong tục tập quán từ xưa đến nay và các triết lý tôn giáo. Vì thế làm cho tư tưởng con người bị đảo lộn không còn đứng vững trên lập trường tư tưởng truyền thống và tôn giáo của họ.
Càng viết chúng tôi càng cố gắng hơn để lột trần một sự thật để mọi người hiểu biết con người không có linh hồn đi tái sinh từ kiếp này đến kiếp khác.
Chúng tôi viết sách không có mục đích bài bác linh hồn hay kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông, nhưng vì một sự thật linh hồn không có và kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông có nhiều cái sai.
Những điều sai đó đã khiến mọi người lạc vào ảo tưởng trở thành những người bệnh thần kinh.
Vì thế chúng tôi không thể làm ngơ, cho nên những gì chúng tôi viết trong sách là cố gắng giúp cho mọi người hiểu biết một sự thật mà không ai và không một tôn giáo nào gạt quý vị được.
Kính thưa quý vị! Trong cuộc đời không ai là người thông suốt tất cả trời, đất, vũ trụ và con người , không có ai là người hoàn toàn đầy đủ tài đức, cũng không có ai là người thông thiên bác cổ chỗ nào cũng thông suốt.
Vì thế chúng tôi rất hiểu biết mình, nên chúng tôi viết là viết những điều hiểu biết đã cân nhắc kỹ lưỡng. Những điều hiểu biết đó chúng tôi xin góp ý với quý vị để giúp cho quý vị cùng hiểu biết như chúng tôi, nếu quý vị muốn còn không thì thôi. Đó cũng là sự chia sẽ hiểu biết cùng quý vị chớ chúng tôi đâu dám làm thầy quý vị, xin quý vị hiểu và tha thứ cho.
Kinh ghi
Hòa Thượng Thích Thông Lạc


Lời nói đầu
Linh hồn là một vấn đề cần phải được xác định làm sáng tỏ, để mọi người không còn tin một cách mù quáng, lạc hậu như từ xưa cho đến ngày nay.
Linh hồn là một danh từ chỉ cho những trạng thái trừu tượng siêu hình thường xảy ra xung quang đời sống của con người mà ý thức đời sống của con người không thể làm sao hiểu nổi.
Từ xưa đến nay, từ đông sang tây các nhà khoa học đã bỏ biết bao nhiều thời gian và công sức nghiên cứu, truy tìm để xác định và trả lời cho mọi người biết "Linh hồn có hay là không".Nhưng đến ngày nay câu trả lời ấy vẫn còn là một ẩn số.
Chính vì tin có linh hồn nên con người đã trở thành những người mê tín mù quáng, hiểu biết không sâu sắc. Do mê tin mù quáng sự hiểu biết không sâu sắc nên việc thờ cúng ông bà tổ tiên trong gia đình trở nên lạc hậu, từ đời này truyền đến đời khác, y như một khuôn đúc. Nhất là trong gia đình có người chết thì chẳng biết làm sao cho đúng với tinh thần đạo đức ân nghĩa của truyền thống dân tộc Việt Nam.
Khi có người chết họ chỉ biết mời quý thầy trong các chùa đến rồi giao phó cho họ tẩm liệm và chỉ biết làm theo sự sai bảo. Cho nên việc ma chay trong các chùa hiện giờ đều chịu ảnh hưởng mê tin của Phật giáo Trung Quốc. Phật giáo Trung Quốc làm sao thì Phật giáo Việt nam cũng làm vậy, không có gì sai khác, chỉ có cái tên là Phật giáo Việt Nam.
Ngay cả Thiền Tông cũng rập khuôn của Trung Quốc rồi đặt cho cái tên rất kêu " Thiền Trúc Lâm Yên Tử", nhưng Thiền Trúc Lâm Yên Tử có pháp môn thiền nào của Việt Nam không? Xin thưa quý vị nghiên cứu lại xem. Phật giáo Trung Quốc không phải là của Phật giáo chánh tông. Phật giáo Trung Quốc mang hai dòng tư tưởng:
1- Phật giáo Tịnh Độ tông mang tư tưởng của Khổng giáo (cúng bái mê tin).
2- Phật giáo Thiền Tông mang tư tưởng Lão giáo( lấy vô vi làm sự sống nên diệt trừ ý thức).
Phật giáo Việt Nam và Thiền Tông Việt Nam không có pháp môn nào là của Việt Nam cả. Một bằng chứng cụ thể , hiển nhiên, khi có người chết làm ma chay thì Phật giáo Việt Nam và Thiền Tông Việt nam chỉ biết tụng kinh, niệm Phật, cầu siêu, cầu an, làm tuần, làm tự theo rập khuôn của Trung Quốc mà không biết đó là một việc làm mù quáng, mê tín, lạc hậu tự bao đời mà người Trung Quốc đã khôn khéo cai trị dân tộc chúng ta bằng những tư tưởng này đã làm hao tốn tiền bạc của dân tộc chúng ta một cách nhảm nhí chẳng ích lợi thiết thực gì cho người đã chết cũng như người còn sống. Đây là một âm mưu thâm độc làm cho dân tộc chúng ta nghèo đói để dễ bề cai trị.
Phật giáo Việt Nam và Thiền Tông Việt Nam không có một sáng tạo gì của người Việt Nam cả, chỉ nhai lại bã mía của người Trung Quốc mà còn vỗ ngực xưng tên Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Thiền Trúc Lâm Yên Tử không có gì mới mẻ của Việt Nam, chỉ là chấp vá của hai dòng tư tưởng: Tịnh Độ tông và Thiền Tông của Phật giáo Trung Quốc. Bị nô lệ tư tưởng Phật giáo của giặc Trung Quốc mà không biết thật là đau lòng. Cho nên dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử chẳng có gì của người Việt Nam cả.
Chúng ta không trách những người bình dân ít học, vì họ không đủ kiến thức khoa học hiểu biết nên những việc làm của họ còn mê tín, lạc hậu là chỉ theo sự truyền thừa của người xưa, truyền sao họ làm vậy, vì thế họ tin có linh hồn. Điều đáng trách ở đây là trách những người có học thức mà lại tin có linh hồn. Khi tin có linh hồn sao quý vị không chứng minh linh hồn một cách cụ thể. Nếu chưa chứng minh được thì đừng vội tin.
Tình cảm con người thật là sâu sắc, nếu linh hồn có thật là người sống và người chết sẽ được gắn liền với nhau bởi tình cảm yêu thương. Còn ngược lại linh hồn không có mà người sống cứ gắn liền với người chết thì đó là sống trong ảo tưởng. Những người sống trong ảo tưởng là những người không có trí tuệ sáng suốt, họ giống như một cái máy biết làm với sự điều khiển của người khác. Bởi vậy, giặc thường cai trị một đất nước nào chúng đều đem chánh sách ngu dân dạy cho dân nước đó. Cho nên tin có linh hồn cũng là một đường lối chánh sách ngu dân.
Bởi vậy, chúng ta chưa nhận định được linh hồn có hay không thì đừng vội đặt lòng yêu thương, vì đặt lòng yên thương như vậy không đúng chỗ. Đặt lòng yêu thương không đúng chỗ thường tự làm khổ mình, tự làm hao tốn công sức và tiền của bằng mồ hơi nước mắt của mình. Bởi thế gian này người ta tiêu phí về sự cúng kiếng cho những linh hồn người chết một cách nhảm nhí chẳng ích lợi thiết thực cho người đã chết.
Hiện giờ chúng ta thấy mọi người từ những người bình dân đến những người có trình độ học thức đều bị ảnh hưởng mê tín của người Trung Quốc, vì cả ngàn năm cai trị Đất nước chúng ta, nên ít có người nào không cầu siêu, cầu an, đốt tiền vàng mã, nhất là toàn bằng giấy đem đốt một cách phí tiền vô ích quá lớn.
Cho nên, ở ngay thủ đô Hà Nội có phố Hành Mã, nơi bày bán những mặt hàng mê tín, thật là đau lòng. Hà Nội một nơi tượng trưng cho nền văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam thế mà làm ngược lại có một dãy phố Hàng Mã thì làm sao chúng ta không đau lòng. Phải không quý vị?
Sự mê tín, mù quáng, lạc hậu là chánh sách đường lới ngu dân sẽ đánh mất giá trị văn hóa đạo đức văn minh tiến bộ của một dân tộc. Khi một đám tang đi ngang qua là giấy tiền vàng mã ném đầy đường, làm mất vệ sinh môi trường sống. Làm mất vệ sinh môi trường sống như vậy thì làm sao gọi là một Đất nước có văn hóa, văn minh tiến bộ được.
Thật là một phong tục tập quán, mê tín, lạc hậu ngu dân không thể chấp nhận được. Vậy mà mọi người vẫn thản nhiên chấp nhận xem đó là một việc mà trong nhà ai có người chết cũng phải làm như vậy. Làm sai như vậy mà còn cho đó là đúng, nếu không rãi giấy tiền vàng mã thì những linh hồn người chết khác sẽ đeo trên quan tài thì những người khiêng quan tài sẽ khiêng không nổi. Xưa người ta khiên quan tài còn bây giờ xe hơi khiêng quan tài mà bảo rằng khiêng không nổi, luân điệu của người xưa đã lỗi thời.
Bởi vậy cả một thế giới loài người đang chờ câu trả lời này của các nhà khoa học, nhưng đến nay chưa có nhà khoa học nào dám khẳng định“có“ hay là“kông có linh hồn“.
Nếu linh hồn thật sự không có thì xưa đến nay người ta đã sống trong mù quáng, tin vào một trạng thái hiện tượng không lý giải mà vẫn cứ phải tin, lòng tin từ những người bình dân ít học đến những người đã được trang bị kiến thức trên đại học, kiến thức khoa học hiện đại, có đầy đủ những cấp bằng tiến sĩ, thạc sĩ ..v..v..Khi đứng trước những trạng thái hiện tượng siêu hình từ các Ngài cũng đành chấp nhận, chứ không dám phủ nhận. Thật là kiến thức con người còn quá kém hiểu biết nên làm sao dám nói thẳng.
Bởi vì những hiện tượng siêu hình đang xảy ra hằng ngày mà họ là những người đã trực tiếp chứng kiến trên thực tế khi tiếp xúc với các nhà ngoại cảm ..v..v..Do đó họ chẳng có ý kiến gì, vì khả năng hiểu biết của họ còn khá kém chưa xác định linh hồn là cái gì?
Trong sách chúng tôi thường hay nhắc đến những tên người có những trạng thái tâm linh như cháu Bích Hằng, anh Nhã, anh Liên…để làm bằng chứng khi chúng tôi giải trình những tâm linh ấy khiến cho mọi người dễ hiểu biết hơn, chớ không phải chúng tôi nêu tên những người ấy là có ý bài bác chống trái, chê họ, trong khi họ làm lợi ích cho xã hội thì chúng tôi phải biết ơn họ rất nhiều.
Theo truyền thống lâu đời từ khi có con người xuất hiện trên hành tinh này thì thuyết về linh hồn đã có mặt, mặcc dù chưa có người nào đã xác định linh hồn như thế nào một cách thực tế và cụ thể.
Đến ngày nay kiến thức về khoa hoc đã được trang bị cho mọi người khắp nơi, thế mà mọi người không khám phá ra mà mọi người được nên họ vẫn còn tin có linh hồn. Theo truyền thuyết họ không những tin mỗi người có một linh hồn mà còn tin là có 3 hồn 9 vía hay 3 hồn 7 vía. 3 hồn 9 vía hay 7 vía đó là một truyền thuyết của ông bà chúng ta từ xưa truyền thừa lại cho con cháu đến ngày hôm nay.
Sau khi tu hành xong, nhập các tầng thiền định của Phật giáo để đi tìm thế giới siêu hình, nhưng không thấy, vì thế cuối cùng chúng tôi dùng tuệ tam minh quan sát khắp nơi trong vũ trụ nhưng lại cũng không tìm thấy linh hồn người chết mà chỉ thấy toàn là những từ trường từ những hành động, hình ảnh và âm thanh của người chết còn lưu lại trong không gian mà thôi.
Do sự quan sát này chúng tôi quả quyết và xác định thế giới siêu hình không có tức là không có sự sống sau khi chết và như vậy linh hồn cũng không có như mọi người từ xưa đến nay đã nghĩ tưởng.
Khi đức Phật tu hành chứng đạo xong, Ngài đã tuyên bố: ‘‘Ba mươi ba cõi Trời là tưỡng tri chớ không phải là liễu tri“. Lời dạy này rất trùng hợp với sự quang sát của chúng tôi nên chúng tôi dám khẳng định ‘‘ Linh hồn không có“ để giúp cho mọi người thoát ra mọi sự hiểu biết mơ hồ, trừu tượng , mù quáng, mê tin, lạc hậu. Tuy xác định linh hồn không có, nhưng quý vị tin hay không tin là quyền của quý vị, chớ chúng tôi không có quyền bắt buộc ai tin cả. Luật pháp Nhà nước đã qui định rất rõ quyền tự do tín ngưỡng của mỗi công dân. Nhưng chúng tôi là một công dân trong nước đều có quyền phát biểu những ý kiến của mình để góp sức cùng mọi người xây dựng một nền văn hóa đạo đức văn minh tiến bộ của nước nhà.
Khi nhận được tài liệu ‘‘Tìm Hài Cốt Liệt Sĩ, Một Hành Trình Đầy Bí Ẩn“. Chúng tôi mượn bài này và chỉ thẳng cho mọi người biết những hiện tượng xảy ra mà mọi người cho là linh hồn nhập vào thân xác con người, đó chẳng qua chỉ là tưởng thức của con người tạo dựng lên, xin mọi quý vị hãy đọc ‘‘ Linh Hồn Không Có“ thì sẽ rõ.
Kính ghi, Trưỡng Lão Thích Thông Lạc


KHÔNG CÓ THẾ GIỚI SIÊU HÌNH

Một vầng trăng, một cành tre đâu phải là thế giới của những linh hồn người chết mà là một đêm trăng mát mẻ cho những ai biết sống trong tâm hồn bất động, thanh thản an lạc và vô sự.
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
KinhThanh
bài Sep 16 2012, 04:49 AM
Bài viết #2


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 405
Gia nhập vào: 29-July 09
Thành viên thứ.: 4,110



[b]HOA NHIỆM MẦU VÔ ƯU[/b]

Chúng tôi xin thuật lại một câu chuyện nữa mà người đời không hiểu cho là mầu nhiệm:
Người ta nói đến hoa VÔ ƯU là nói đến sự không buồn phiền, đó là người ta khéo tưởng tượng một đức Phật sinh ra nơi gốc cây VÔ ƯU có nghĩa là một bậc Thánh không còn phiền não.
Bao đời con người cũng hay tưởng tượng một đấng GIÁO CHỦ rồi bịa ra hoa VÔ ƯU để ca ngợi đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một bậc Thánh từ cung Trời Đậu Suất sinh về thế giới nên mới có những hiện tượng hoa VÔ ƯU nỡ.
Hiện giờ ở Việt Nam người ta trồng cây VÔ ƯU rất nhiều hoa nở liên tục mùa nào cũng có hoa nở. Do đó chứng tỏ người ta khéo ca ngợi đức Phật mà thành dối trá lừa đảo mọi người. Cho nên trên cuộc đời này đừng bao giờ nghe người ta nói mà hãy nhìn rõ mọi việc người ta làm rồi mới có tin.
Khi thấy hoa VÔ ƯU tại đền thờ Phật và đền thờ đức Trần Nhân Tông tại TP Hồ Chí Minh ở Việt Nam mùa nào cũng nở thì ngưởi ta lại lý luận Phật Giáo Việt Nam hưng thịnh.
Chúng ta hãy nghe trích bài ca ngợi Phật Giáo ra đời, do năng lượng bởi nguồn tâm vô nhiễm của Ngài đã chiêu cảm cho VÔ ƯU nỡ hoa. Đạo Phật truyền vào Việt Nam được sự gia trì của Phật, các Tổ, các Thánh Hiền, các bậc Giác Ngộ của dân tộc với năng lượng của nguồn tâm vô nhiễm đã chiêu cảm để đất nước và con người Việt Nam thăng hoa. Cũng có thể do tâm Phật của những hội viên Trung tâm cả nước phát nguyện và quyết tâm ứng dụng những lời Phật dạy vào cuộc sống đã giúp cho mọi người thăng hoa trong tâm hồn, hang hái xây dựng đất nước. Chính tâm từ bi ấy đã chiêu cảm cho loài hoa này nỡ liên tục.” Lời ca ngợi này có đúng không?
Phật giáo Viêt Nam đang đi lên hay đang xuống dốc, nếu chúng ta không lầm thì Phật giáo Việt Nam đang lung túng trước hai ngã đường, không biết sẽ đi đường nào: Nam Tông và Bắc Tông. Nam Tông thì ức chế tâm, còn Bắc Tông thì mê tín. Còn con đường chính gốc của Phật giáo làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì không biết đâu mà tu tập.
Còn hoa VÔ ƯU nở hay không nở thì có liên hệ gì với tâm con người. Nếu bảo rằng nhờ hoa VÔ ƯU nở thì đức Phật đâu cần tu tập làm gì. Sáu năm khổ hạnh tưởng như thân xác Ngài như gần chết, nếu không nhờ bát sữa của cháu bé chăn bò thì đức Phật có chứng đạo được không?
Trong sự tu tập rất gian khổ vô cùng nhất là khi chưa biết pháp tu tập còn mò mẫm đường đi như người mù dùng gậy dò đường. Vì thế đức Phật phải dũng cảm phát nguyện: “Nếu không chứng đạo thề nát xương không rời khỏi cội bồ đề”. Như vậy hoa Vô ƯU nở hay không nở có gì liên hệ với sự tu tập của đức Phật đâu.
Cho nên ở đời người ta hay thêu dệt và ca ngợi một cách vô lý thế mà ai cũng nghe và tin theo một cách mù quáng, thật là điên đảo tưởng mà không biết.


NHÀ NGOẠI CẢM Vanga

Chúng tôi xin giới thiệu một câu chuyện nữa mà người đời không hiểu cho là mầu nhiệm:
Nhà siêu ngoại cảm Vanga là một nữ tiên tri Bungari đã làm cả thế giới phải ngưỡng mộ lên khuôn mặt với đôi mắt không nhìn thấy ánh sang của bà. Như vậy bà Vanga là một người mù.
Một người cháu của bà thuật lai: “Mỗi khi bà tiên tri một việc gì thì mặt bà tự tái nhợt, miệng thốt ra những điều khó hiểu, giọng nói bỗng to lên một cách không tự nhiên, tiếng nói không giống bà, thậm chí đầy đe dọa, làm chúng tôi kinh ngạc vì cái sức nào đó tiềm ẩn trong bà”.
Qúy vị lưu ý lời thuật lại ở trên của người cháu bà, khi bà Vanga muốn tiên tri một điều gì thì toàn thân bà không còn bình thường, giống như có ai nhập xác bà. Theo chúng tôi hiểu không có ai nhập xác bà cả mà chỉ là TƯỞNG UẨN của bà hoạt động .Cho nên tất cả những hiện tượng gọi là tâm lịm đều hoàn toàn do TƯỞNG UẨN mà chỉ có Phật giáo mới vạch trần bộ mặt tâm linh mầu nhiệm của thế giới siêu hình.

CÔ GÁI CÓ ĐÔI MẮT THẦN KỲ


Nữ bác sĩ quân y Trịnh Tường Linh mới 23 tuổi, người Thiểm Tây Trung Quốc có đôi mắt thần kỳ mà không ai lý giải nổi, nhìn cành hoa thì cành hoa đứt ngang, nhìn cá thì cá chết.
Dùng tai đọc chữ, nếu ai viết một tờ giấy rồi xếp lại nhét vào tai Tường Linh thì Tường Linh đọc không sai chữ nào cả.
Dùng đôi mắt nối được chỉ đứt, kim gảy và cũng đôi mắt đó nhìn kim gảy và chỉ lại bị đứt.
Dùng đôi mắt khám bệnh Trịnh Tường Linh đã khám bệnh 4 vạn người. Bệnh nhân thuộc mười mấy tỉnh thành ở Trung Quốc đã mời cô hội chuẩn.

Dùng đôi mắt khám thai nhi như máy X quang, như may siêu âm B và máy rà quét CD.
Ở đây chúng ta thấy rất rõ nếu mọi người không hiểu biết đều cho tai và mắt Tường Linh là mầu nhiệm , nhưng sự thật không có mầu nhiệm chút nào cả, chỉ TƯỞNG UẨN của cô hoạt động ở tai, ở mắt thì việc làm như trên của cô làm rất dễ dàng.
Trên đời này không có gì mầu nhiệm vì thân người có năm uẩn đầy đủ khả năng làm bất cứ việc gì, nhưng năm uẩn có chịu làm việc hay không, nếu chịu làm việc thì người nào cũng giống như người nào, còn có người làm được và có người không làm được, vì thế mà người ta mới gọi nó là mầu nhiệm.
Tất cả mọi sự mầu nhiệm chẳng qua chỉ là TƯỞNG UẨN hoạt động mà thôi.
Chúng tôi xin kể lại một số người có khả năng tưởng uẩn hoạt động như sau:
1- Cháu B:H người VIỆT NAM đã nổi tiêng nhà ngoại cảm cón một cảm nhận chính xác tìm hài cốt liệt sĩ.
2- Bà Vanga người Bungari có đôi mắt không bị thời gian ngăn cách.
3- Trịnh Tương Linh người Trung Quốc có đôi lỗ tai nghe chữ, có đôi mắt nhập định đã cắt đứt cành hoa, nối chỉ và nối kim bị gảy, nhìn cá cá chết.
4- Ông B.Kjinxki người Liên Xô có ý thức cảm với mọi việ xảy ra (thần giao cách cảm).
5- Trung sĩ Ivan Petrow người Liên Xô nằm mộng thấy mọi việc xảy ra đúng như thật.
6- Ông Nguyễn Văn Chiều chữa bệnh bằng đôi tay , khi bị điện cao thế giật tưởng ông đã chết vì cơ thể bị bỏng nặng, nhưng khi ông tĩnh lại được và dung đôi tay của mình vuốt các vết bỏng liền phục hồi lại như xưa. Ông Chiều cũng nghe được những âm thanh của những người đã chết.
7- Nguyền thị Hằng được hồn liệt sĩ Nguyễn Văn Tự nhập vào dẫn tìm hài cốt anh ta.
8- Trương thị Phước nằm mộng thấy đúng như thật.
9- Em trai liệt sĩ Nghiêm Xuân Phú theo giấc mộng tìm hài cốt của anh.
10- Nguyễn Bá Hòa gài cốt được một người bạn đồng đội 13 lần đi vòa Nam tìm kiếm đó là bác sỹ Trần Văn Bản.
11- Đỗ Bá Hiệp có khả năng tìm hài cốt như cháu B.H Tìm hài cốt người con cho bà mẹ Mỹ.
12- Phạm Văn Mẫn có khả năng tìm hài cốt như cháu B.H.
13- Một cháu gái bé khi thấy bộ hài cốt liệt sỹ được người cha dấu trong khóm chuối hoảng hồn ngất xỉu, khi tỉnh dậy cháu bé như người mất hồn giống như người len đồng nhập xác.
14- Nguyễn Văn Liên người tỉnh Hải Dương thường ngồi tại nhà dung TƯỞNG UẨN của mình giao cảm chỉ cho những người thân của các liệt sĩ đi tìm hài cốt, tìm đâu được đấy. Ngay cả giữa thành phố Hà Nội ông chỉ cho những người thân tìm hài cốt những người bị giặc Pháp sát hại trong nhà giam Hỏa Lò.
15- Năm Chiến tức là Bùi Đăng Chiến người Thăng Bình ( Quảng Nam – Đà Nẳng), ông đã từng đảm nhiệm những chức vụ như: phó bí thư huyện đoàn; trưởng công an, vào năm 38 tuổi ông bị một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Hai năm sau bệnh tật qua khỏi, bỗng một hôm ông bị “nhập đồng” và tìm được nơi chôn người chết dưới lớp đất sâu. Sau này trước khi mỗi lần tìm hài cốt ông phải thắp nhanh, lâm râm khấn khứa…rồi lặng người theo kiểu “nhập đồng” mới chỉ mọi người tìm hài cốt .
Đây là một hiện tượng ngoại cảm, đó là cách thức để TƯỞNG UẨN hoạt động. Cho nên ngoài TƯỞNG UẨN con người không có cách thức nào giao cảm với các từ trường người còn sống cũng như người đã chết.
16- Nguyễn thị Nghi người Tỉnh Hải Dương chữ được bệnh điên, bệnh mắt, tìm xác người chết bị mất tích, tìm mộ bị thất lạc. Cô chỉ ngôi tại nhà mà hướng dẫn mọi người bằng khả năng của mình qua chiếc đũa cũ và hai đồng tiền xu để gieo quẻ âm dương như những ông thầy bói ở nơi đền thờ Bà Chúa Xứ, Trần Hưng Đạo, Quan Thánh Đế, Bà Chúa Tiên , Bà Đen..v..v..Đó cũng là một hành động đánh thức TƯỞNG UẨN hoạt động.
17- Phạm Ngọc Hiền dùng con lắc để tìm hài cốt liệt sĩ có khi dung quả trứng vịt còn sống đặt trên đầu đũa, Con lắc và đầu đũa đều có lực hút, vậy lực hút từ đâu mà có. Có phải từ hài cốt liệt sĩ không? Ngoài Phạm Ngọc Hiền thì mọi người dùng con lắc và đầu đũa sao không có lực hút. Như vậy rõ rang không có linh hồn người chết mà lực hút đó có từ anh Phạm Ngọc Hiền. Lực hút của anh do đâu mà có?
Lực hút của anh do từ TƯỞNG UẨN của anh hoạt động mà có . Do sự hoạt động nay tác động vào sáu căn của con người mà mọi người không biết nên mới gọi là TÂM LINH MẦU NHIỆM.

CHUYỆN CÓ THẬT Ở TRƯỜNG TRƯNG VƯƠNG

“Ngày 20-7-2003, khi tới trường Trung Vương(Hà Nội) công tác, bằng khả năng đặc biệt của mình, Phan B.H – người từ lâu được coi là nhà ngoại cảm tài năng đã phát hiện ít nhất chừng 7, 8 bộ hài cốt vẫn còn nằm dưới lòng đất trong khuôn viên trường, đồng thời xác định cả tên và vị trí nằm của 3 bộ hài cốt nói trên. Chị đã đề nghị với trường , khi nào có điều kiện, nhưng hài cốt này sẽ được khai quật.
Dịp may đó đã đến khi dự án cải tạo nâng cấp trường được chính thức phê duyệt và thi công. Ngày 15-9-2004, ba bộ hài cốt nói trên đã được tìm thấy ở đúng vị trí chị đã xác định với những đặc điểm đúng như nhận định ban đầu của chị.
Ngay sau phát hiện ra hài cốt (mà B:H khẳng định là của chiến sỹ cảm tử trong trận 60 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thủ đô mùa Đông năm 1946), B.H đã báo cho Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng đặc biệt của Con người, nơi chị đang là cộng tác viên.
Nhưng trớ trêu thay, theo bản sơ đồ của B.H và 3 nhà ngoại cảm kia thì vị trí của ba bộ hài cốt lại nằm ngay dưới chân cầu thang nhà C ( còn gọi là dãy Côn Sơn- giáp đường Lý Thường Kiệt ), không thể vì ly do đó mà khai quạt được.
Cho mãi tới ngày 15-9-2004, trường Trưng Vương chính thức bàn giao mặt bằng để khơi công. Theo hình thức xây cuốn chiếu nên dãy nhà Côn SƠn được phá dỡ trước. Ngay sau đó, Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng đặt biệt của con người và Phan B.H đã có cuộc trao đổi với nhà trường và bên thi công, đề nghị được tìm kiếm hài cốt nói trên. Ngay trong hai ngày khai quật đầu tiên (23 và 24-9) ở đây đã tìm được hai bộ hài cốt và tối 25-9 là bộ hài cốt thứ 3 ở đúng vị trí trong sơ đồ của B.H đã khẳng định. Đông đảo đại diện các cấp ngàn, cùng các thầy cô giáo Trường THCS Trưng Vương đã chúng kiến việc làm trên .

Điều đặc biệt là mặc dù những bộ hài cốt đã khá mủn, nhưng các đặc điểm nhận dạng trên từng bọ đều khớp với những tình tiết mô tả của B.H một năm trước đó như: ông D. là người hy sinh đầu tiên. Hài cốt của ông D. bị mất sọ khi ông vừa nhô người lên khỏi giao thông hào thì bị pháo đich phạt ngang, đồng đội thương ông nên trước khi chôn đã lấy chiếc bát (loại Bát Tràng thời đó có đáy bằng, thành đứng) úp lên cổ ( hiện nay chiến bát đó được đặt trong tiểu cùng hài cốt có tên là D) B.H còn cho biết chị đã “nói chuyện” và biết được tên và chức danh của ba người hy sinh, nay là ba bộ hài cốt nói trên, đó là Phan Hào (còn gọi là Hào Professeur) – trung đội trưởng, Nguyễn Văn Dư ( còn gọi là Dư đen, Dư còi ) là trung đội phó, chính trị viên và Nguyễn Văn Đẳng. Cả ba đều thuộc Trung đội 1, Đại đội 1, Tiểu đoàn 77, hy sinh ngày 21-12-1946.
Ông Hàn Thụy Vũ – đại ta, hiện là phó trưởng bộ môn Cận Tâm lý, trước đây cũng là chiến sỹ Trung đoàn 48 – Trung đoàn Thăng Long) xác nhận: Về tiểu sử trung đội trưởng Phan Hào đã được nhắc đến trong cuốn lịch sử 60 ngày đêm Toàn quốc kháng chiến. Trung đội của ông Hào còn được gọi là Tiếp hoàn quân, chọn lọc toàn những trí tức, giỏi tiến Pháp. Đêm 19 rạng ngày 20, các lực lượng vũ trang, nhân dân thủ đô Hà Nội và các thành phố nổ sung chiến đấu- toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày 20-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cũng trong ngày 20-12-1946, bộ đội ta và quân Pháp giao tranh ở Tòa thị chính (tức UBND thành phố Hà Nội ngày nay), Bưu điện và Bắc Bộ phủ. Các chiến sỹ của ta tuy lực mỏng nhưng đã dung cảm ngăn cản được nhiều đợt tấn công của giặc Pháp, cầm cự được 1 ngày để cho nhân dân và bộ đội chủ lực rút qua cầu Long Biên về chiến khu an toàn. Đến ngày 21-12-1946, địch tăng cường lực lượng viện binh nên đã chiếm được một số chốt, trong đó có chốt ở Trường THCS Trưng Vương. Và 2 ông Hào, Dư , Đẳng có thể đã hy sinh trong ngày 21-12” (Theo báo điện tử Hà Nội Mới 15-11-2004)
Chuyện có thật ở trường Trưng Vương do cháu B.H giao cảm hướng dẫn lấy hài cốt là một sự thật nhưng chúng ta phải xác định cháu B.H làm sao lại có kả năng đó mà mọi người khác không có không làm được.
Qua câu chuyện tìm hài cốt cô Kh em gái của giáo sư T.P chúng tôi xác định rất rõ ràng . Cháu B.H có khả năng đó được là nhờ TƯỞNG UẨN của cháu hoạt động .
TƯỞNG UẨN của cháu hoạt động là nhờ nọc độc chó dại. Cháu không chết mà lại có sự giao cảm với các từ trường bên ngoài bằng hình thức như linh hồn người chết nhập và nói chuyện với cháu. Toàn bộ những sự việc này xảy ra đều do TƯỞNG UẨN của cháu.

HIỆN TƯỢNG NGƯỜI CHÊT SAO CƠ THỂ CÒN GIỮ NGUYÊN VẸN NHIỀU NĂM THÁNG?


These are the pictures of St.Bernadette who died 122 years ago in Lourdes, France and was buried, her body was only discovered 30 years ago after the church officials decided to examine her body. Her body is still fresh until today and if you ever go to Lourdes, France you can see her body in the church in Lourdes. Her body does not decay because during her lifetime, the mother of Jesus would always appear to her and give messages and advice to all mankind on the right way to live on this earth.
(Đây là những bức tranh của nữ thánh Bernadette đã chết cách đây 122 năm tại Lourdes, nước Pháp và được chôn, xác của cô chỉ được khám phá cách đây 30 năm sau khi người của nhà thờ quyết định khám tử thi. Xác của cô vẫn còn tươi tới tận nay và nếu có dịp rãnh tới thăm Lourdes, nước pháp bạn có thể thấy thi thể của cô trong nhà thờ tại Lourdes. Xác của cô không thối rữa bởi vì trong thời gian cô còn sống, mẹ của chúa Jesus đã hiện ra với cô và cho cô những tin nhắn cùng lời khuyên đến nhân loại nên sống có đạo đức trên trái đất này).
Many miracles have taken place in this place of Lourdes and still do until today. These pictures show her body after 122 years. ( Nhiều hiện tượng lạ đã diễn ra tại chỗ này của Lourdes và cho tới tận ngày nay. Những bức tranh này cho thấy xác cô sau 122 năm)
Nhìn xác chết của cô Bernadette cách đây 122 năm mà vẫn còn tươi như người đang ngủ. Tại sao một người chết cơ thể không bị vi khuẩn hủy hoại mà lại còn tươi như người đang ngủ ?.
Thân xác ấy còn lưu giữ lại nhà thờ Lourdes ở bên pháp. Đây là một bằng chứng cụ thể mà không ai lý giải dù các nhà khoa học cũng không giải thích được. Vậy có bàn tay thần thánh nào đã giúp cho thân xác của cô Bernadette không hư hoại ?
Muốn biết rõ điều này chúng ta hãy đọc câu chuyện kể về đời sống của cô Bernadette thì thấy rất rõ không có bàn tay nào cả mà chỉ có tưởng uẩn của cô đã giữ gìn thân xác suốt 122 năm. Thật là tưởng uẩn của mỗi con người đã làm nên những phép mầu kỳ diệu mà không ai ngờ được. Nếu một người nào biết cách tu tập làm cho tưởng uẩn hoạt động thì trong cuộc đời không còn có một sự việc gì xảy ra mà người ta gọi là mầu nhiệm hay là tâm linh nữa.
Vậy chúng tôi xin mời quý vị tiếp tục đọc “Vài sự kiện về cuộc đời thôn nữ Bernadette” do Đưc Long thuật lại như sau: “VietCatholic News (thứ tư 26-03-2008 10:46)”.
“Bernadette sinh ngày 7 tháng 1 năm 1844 trong căn nhà kinh doanh máy xay bột ông Boly, đến tháng 2 nă 1856, gia đình dọn về căn phòng, “Cachot”, Cachot là phòng giam nhà tù xưa. Từ ngày 11 tháng 2 đến 16 tháng 6 năm 1858, Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần với Bernadette. Ngày 18 tháng 1 năm 1862, Đức Cha Laurence, giám mục giáo phận Tarbes công nhận sự thật Đức Mẹ hiện ra. Ngày 4 tháng 7 năm 1866, Bernadette xin vào Dòng thánh Gilard, dòng nữ tu Bác Ái ở Nevers. Ngày 30 tháng 10 năm 1867, Bernadette tuyên khấn và lấy tên là chị Marie-Bernard. Tháng 9 năm 1874, Bernadette ngã chứng bệnh hen kinh niên, và mát ngày 16 tháng 4 năm 1879. Ngày 8 tháng 12 năm 1933 được Đức Thánh Cha Piô XI phong thánh.
Gia đình Bernadette rất nghèo. Cha là chủ tiệm một máy xay, bị phá sản, gia đình sống dựa vào những công việc nhỏ nhặt. Họ ở trong căn nhà từ củ được cải dụng bởi vì nhà tù này trươc đây tối tăm , đêm ngủ chung một giường. 14 tuổi mà Bernadette chẳng hề biết đọc, chỉ biết nói tiếng thổ ngữ ( bigourdan).
Lúc xưng tội với cha Pomain, cha phó xứ, Bernadette thú nhận với Ngài rằng: “có một người nữ”. Anna Bernet, người viết tiểu sử thánh nhân Bernadette, nhận xét: “mọi người luôn có những lời lẽ thiếu tế nhị và nhã nhặn với Bernadette”. Khi sự kiện được tiết lộ, haàng trăm người dẫn Bernadette đến núi đá Masabielle và hỏi “Bà là ai ?”. Ngày 25 tháng 3, người nữ trả lời: “Que soy era Immaculada Conception” (Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội). Bốn năm trước đó, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã công bố tín điều vô nhiễm nguyên tội, nhưng tín điều này chưa được thông dụng đối với tín hữu công giáo lúc bấy giờ, Bernadette cũng không hiểu ý nghĩa tín điều đó. Vì bệnh hen kinh niên, Bernadette được ở nội trú tại nhà dưỡng lão Lỗ Đức, sau đó vào Dòng nữ tu Bác Ái ở Nervers. Chị mất tại đây năm 1879, ở tuổi 35 tuổi, Bernadette được phong hiển thánh năm 1925 và phong thánh năm 1933. Người Nữ xinh đẹp và Bernadette trong những lần hiện ra:

Từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16 tháng 6 năm 1858, Đức Trinh Nữ hiện ra với Bernadette 18 lần. Những lần hiện ra không ai thấy Người ngoài Bernadette. Lần hiện ra sau cùng, ngày 16 tháng 6, Bernadette không đến hang núi đá, vì bị cấm vào hang, cô sang bên kia bờ song Gave (đối diện hang núi đá). “chưa bao giờ tối thấy Người đẹp đến thế”, Bernadette cho biết.
Cảnh tượng diễn ra dưới triều đại vui nước Pháp Napoleon III, tại Lỗ Đức, thị trấn miền Pyrene. Ngày 11 tháng 2 năm 1858, Bernadette Soubious, lúc đó còn là một thiếu nữ rất trẻ, đi nhặt củi cùng với em gái và một cô bạn, bên bờ song Gave, ở chân núi đá Massabielle có một cái hang, phía trên có một lỗ (tiếng Pháp: anfractuosite), theo giải thích: lỗ là nơi, chỉ địa điểm hiện ra, Đức chỉ danh nhân, là tên Đức Mẹ. Hai từ này ghép lại thành địa danh “Lỗ Đức” . Từ nơi tăm tối ẩm ướt này, một tia sáng khác thường phát ra thu hút sự chú ý Bernadette, và cô thấy một”người nữ trẻ xinh đẹp” hiện ra.
1. Lần hiện ra thứ nhất, thứ 5 ngày 11 tháng 2 , Bernadette kể lại rằng: “Người Nữ ấy mặc áo trắng dài, đầu đội khan trùm trắng, lung thắt đai xanh dương và trên đôi chân có bông hồng màu vàng.” Hai cô bé kia thì không thấy gì. Bernadette làm dấu thánh giá và lần hạt với Đấng hiện ra. Sau khi đọc kinh, Người biến mất.
2. Lần thứ hai, chủ nhật ngày 14 tháng 2 . Bernadette cảm nhận được sức mạnh nội tâm thôi thúc cô đến hanh đá, dù cha mẹ cấm đoán. Năn nỉ mãi cha mẹ cho phép đến hanh đá. Sauk hi đọc xong một chục hạt, Bernadette thấy Người xuất hiện, Bernadette rảy nước thánh và đọc kinh lần hạt với Người. Người NỮ cười và bái đầu. Khi đọc kinh xong, Người Nữ lại đi mất.
3. Lần thứ ba, thứ 5 ngày 18 tháng 2. Bernadette đọc kinh lần hạt với Người và hỏi tên Người: “Chị có thể cho biết tên?”. Người Nữ trả lời : “Không cần biết đâu”, Người nói với Bernadette “Con muốn làm vinh dnah Ta tại chốn này trong 15 ngày? Ta không hứa làm cho con hạnh phúc ở thế gian này, nhưng thế gian khác”.
4. Lần hiện ra thứ tư, thứ 6 ngày 19 tháng 2. Bernadette đọc kinh lần chuỗi với Người, nến thắp sang trong tay. Phong tục thắp nến dâng Đức Mẹ có từ đây.
5. Lần thứ 5, ngày 20 tháng 2 , Đức Trinh nữ dạy Bernadette đọc kinh riêng. Sau đó Người biến mất, khiến Bernadette mang nỗi buồn nam mác.
6. Lần thứ 6, ngày 21 tháng 2. Người Nữ hiện ra với Bernadette từ sang sớm. Sau đó, cha Pên và viên cảnh sát Jacomet chất vấn Bernadette . Viên cảnh sát bắt Bernadette kể lại điều cô đã thấy. Cô bé nói với ông ta bằng tiếng thổ ngữ “Aquero” nghĩa là điều lạ “Bernadette lần chuỗi với Người Nữ.”
7. ần thứ 7 vào ngày 23 tháng 2, Bernadette đang đọc kinh , thì Người hiện ra.
8. Lần thứ 8, thứ tư , 22 tháng 2 , Người Nữ ban sứ điệp sám hối: “Hãy sám hối! Ăn năn ! Hãy đền tội ! Hãy cầu cùng Chúa cho kẻ có tội. Hãy hôn lên đất để kẻ tội lỗi biết sám hối.”
9. Lần hiện ra thứ 9, vào thứ 5 ngày 25 tháng 2 . Đám đông nói với Bernadette: “Co có biết rằng nói ra những điều vậy người ta cho rằng cô điên?”. Bernadette trả lời: “Người NỮ bảo tôi uống nước suối…Tôi chỉ tìm được ít nước bùn, Người bảo tôi ăn cỏ gần nguồn nước bùn, thế rồi Người biến mất và tôi đi luôn”. Người NỮ khuyên: “Con hãy uống nước và tắm nước suối này. Hãy ăn cỏ nơi đây”.
10. Lần thứ 10 & 11
11. vào thứ bảy và chủ nhật 27 tháng 2. Bernadette uống nước suối và làm cử chỉ sám hối. Ngày 28, hơn 1000 người tham dự cuộc nhập định “extáe” , Bernadette cầu nguyện, hôn lên đất và bò bằng đầu gối. Sau đó Bernadette bị đưa về nhà ông thẩm phán Ribes, bị dọa bỏ tù.
12. Lần thứ 12 vào thứ 2, ngày 1 tháng 2, hơn 1500 người trong đó có một linh lục bao quanh Bernadette tại hang đá Lỗ Đức. Ban đêm, một cô bạn sở tại, tên Cathrine Latapie, đến hang đá nhúng tay vào suối nước, tay của cô liền cử động được.
13. Lần thứ 13 vào thứ 3, ngày 2 tháng 3. Người NỮ giao cho Bernadette đem sứ điệp cho các linh mục. Người nói: “Hãy đi nói với các cha đến rước kiệu và xây dựng tại đay một ngôi nhà nguyện”. Bernadette nói điều đó với cha Peyramale, quản xứ Lỗ Đức. Cha Peyramale chỉ muốn biết một điều: “Nếu Người thực sự muốn một nhà nguyện, thì mong cho biết tên Người và cho hoa hồng nở ở hang đá”. Sau đó, có minh chứng cho thấy, vào giữa đông mà hoa hồng ở hang đá vẫn nở.
14. Lần thứ 14, vào thứ 3 ngày 3 tháng 3. Từ 7 giờ sang, đã có mặt hơn 3000 người . Bernadette đến LỖ Đức nhưng không thấy hiện ra. Sauk hi tan trường, cô nhận thấy trong thâm tâm có tiếng gọi của Người Nữ, liền tới hang đá và hỏi tên Người Nữ, Người Nữ trả lời bằng một nụ cười.
15. Lần thứ 15, vào thứ 5 , ngày 4 tháng 3. Đám đông khoảng 8000 người chờ đợi phép lạ, hết 1 chục hạt vẫn thấy im lặng. Vị cha xứ Peyramale cắm trại tại chỗ, trong 20 ngày, Bernadette không đến hang đá.
16. Lần thứ 16 vào thứ 5 ngày 25 tháng 3. Tên của Người được biểu lộ, nhưng hoa hồng trên chân Người Nữ không nở như những lần hiện ra trước. Người ngước mắt lên trời cầu nguyện, đôi tay giăng hướng xuống đất và nói: “Ta là Đấng Vô Nhiễm”. Bernadette thấy vậy, liền chạy đi nói lại với mọi người điều cô thấy mà không thể hiểu. Những lời tường thuật của Bernadette làm cho vị cha xứ Peyramale vốn dung cảm cũng phải bối rối.
17. Lần thứ 17, vào thứ tư ngày 7 tháng 4 . Bernadette cầm nến sang trong tay. Lữa cháy trên bàn tay mà không bị bỏng. Sự kiện ngay lập tức được bác sỹ Bouzous ghi nhận.
18. Lần cuối cùng vào thứ 6 ngày 16 tháng 6, Bernadette cảm nhận được tiếng gọi huyền bí ở Lỗ Đức, nhưng vì cấm vào hang đá, nên cô sang phía bên kia bờ song, đi trên đồng cổ Ribere, đối diện với song Gave, thấy Đức Trinh Nữ “xinh đẹp hơn bao giwof hết”.
Ngày từ đầu, theo chân thánh nữ Bernadette , các người bệnh tật vội vàng về Lỗ Đức, họ cho biết được lành bệnh. Giáo Hội chỉ mới công nhận 67 phép lạ, mặc dù phòng y tế trong tâm Lỗ Đức ghi nhận đã có 2000 trường hợp lành bệnh mà không giải thích được.
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
2 người đang đọc chủ đề này (2 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 11th September 2025 - 08:15 PM