IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Đường là khổ ách! Thứ chất độc chết người!
Diệu Minh
bài Jun 26 2007, 11:33 PM
Bài viết #1


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,068
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5








Tại sao không nên ăn đường ?

Khi chúng ta ăn đường, đường (Âm) sẽ kích thích những dây thần kinh trực giao cảm (Âm) xuyên qua những tế bào nâng đỡ thần kinh (Dương). Do đó chúng ta trở nên phấn kích. Đồng thời, một sự tăng đường huyết (Âm) kích thích đảo Langerhans tiết insuline (Dương). Insuline biến đổi glucose (Âm) thành glycegene (Dương) được dự trữ ở gan. Bởi vì đường đi từ miệng đến ruột non vào máu rất nhanh do đó insuline sẽ được tiết rất nhanh và hậu quả là nhiều glucose biến thành glycogene. Như vậy khi ăn đường thì lượng đường giảm xuống (đường huyết giảm là Dương) như vậy Âm sinh Dương.

Nhưng khi ăn ngũ cốc, chúng ta phải nhai thật kỹ và cần một thời gian thật dài để tiêu hoá chúng. Kết qủa là glucose vào máu từ từ. Do đó ăn cốc loại không kích thích mạnh mẽ sự phân tiết insuline và không gây nên các triệu chứng giảm đường huyết.

Khi lượng đường huyết giảm xuống khoảng 50 -60 mg (Dương) sẽ kích thích vỏ thượng thận như đ• đề cập ở trên. Kích thích tố này, ngược lại, làm tăng lượng đường huyết.

Ăn đường (hoặc ăn cơm gạo trắng, ngũ cốc tinh chế, hoa quả, đường sữa bánh kẹo...) sẽ làm cho lượng đường huyết lên xuống bất thường. Lượng đường huyết tăng, người ta cảm thấy uể oải, buồn bã. Lượng đường huyết lên xuống gây nên một xáo trộn cảm xúc.

Cảm giác an tâm đạt được do ăn ngũ cốc là do lượng đường huyết không thay đổi. Nếu ăn nhiều thịt và đường v.v... sẽ dẫn đến chứng cuồng thần kinh (paranoia). Nếu ăn rất ít trái cây, thịt và đường biến dưỡng của chúng ta sẽ cân bằng lại.

Diệu Minh, theo Luận án tiến sĩ Y Khoa của Bác sĩ Nguyễn Văn Thuỵ


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
Diệu Minh
bài Sep 24 2007, 03:13 PM
Bài viết #2


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,068
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



Chương II

Mía và Lịch Sử
(The Mark Of Cane )

Vì háu ngọt nên loài người lầm than trong chiến chinh đẩm máu. Vì háu ngọt nên loài người để mía viết nên chiến sử tàn khốc. Vì mê ngọt nên nhiều tu sỉ các tôn giáo bị lầm lạc, sa đọa…
**************

Khách phong trần cũng có lúc gợi nhớ quê xưa.
Trong lúc hoạn nạn đắng cay, con người cũng có khi mơ về cuộc sống du mục hồn nhiên của thời ông Ađam. Cuộc sống êm đềm ấy có thể là huyền thoại, nhưng hình như đã in sâu vào tâm hồn con người. Ôi! thời mà Thiên Đàng mất kinh Cựu Ước, thời hoàng kim của Lão giáo và Phật giáo. Có lẽ Vườn Địa Đàng mỹ lệ hơn các vương quốc ở Trung Đông và hình như vườn này rộng lắm thì phải? Có thể vùng này đã trải dài từ các đảo ở Đông Nam Á Châu đến tận vùng đất ở Tây Tạng?

Thánh kinh bật mí cho ta thấy vài sự kiện:
1.- Con người sống an nhiên tự tại trong ân sủng của thiêng liêng.

2.- Không đô thị. Văn minh rốt cuộc chỉ là nghệ thuật sống trong các đô thị bẩn chật; thuở xưa đâu có cái văn minh ấy.

3.- Không bệnh tật. Vào thời thánh thư, tuổi thọ loài người vượt xa tuổi thọ trung bình thời nay.

Các biểu đồ của nghành triết y Đông Phương thời cổ có ghi chép những kinh mạch dùng trong khoa châm cứu và trình bày ý nghĩa của các nốt ruồi. Nốt ruồi ở vị trí bốn giờ dưới mí mắt phải của phái Nam và tám giờ dưới mí mắt trái của phái Nữ giúp ta tiên đoán một tai họa có thể xảy ra: chết vì bạo bệnh.

Vào thời đó người ta chết tự nhiên như ngủ luôn không bao giờ thức dậy. Sau rốt đường tinh chế lúc ấy không can dự gì đến thức ăn, người ta chỉ dùng đường thiên nhiên. Củ sâm được dùng với đường thiên nhiên (Tổ tiên người Mỹ đã biết phẩm chất huyền diệu của củ sâm,nhờ người da đỏ chỉ bảo..Họ pha trộn óc của loài sóc với sâm để trị vết thương súng đạn…). Bộ Luật của Thánh Mose, Giáo Luật Manu, Kinh Dịch, Hoàng Đế Nội Kinh, Tân Ước, Kinh Koran …không nói đến đường.

Lời sấm truyền cho ta biết chút ít về giống mía thời ấy: “Nó thật hiếm có, và xa xỉ” . Có thể nước Ấn Độ trồng được cây này. Các huyền thoại của những giống dân sống ở Thái bình Dương, từ Hạ Uy Di xuống tới Tân Tây Lan, có đề cập nhiều đến mía. Có đủ bằng chứng cho thấy Trung Quốc đã ép buộc Ấn Độ đem mía triều cống cho họ. Các xứ ngoài vòng đai nhiệt đới không thành công bao nhiêu về việc trồng mía. Một đoạn trong kinh Atharva Veda là một khải hoàn ca đề cao chất ngọt: “Ta ban thưởng nhà ngươi cây mía để ngươi trìu mến ta”. Ấn Độ xưa kia kính trọng bò như vật linh thiêng nên bò được ăn mía như người. Đường được dùng chung với bánh mì chapatti hay nêm canh.Về sau dân quê uống nước mía ép như người Da Đỏ ở Bắc Mỹ châu khoái uống sirô lấy từ cây phong.(maple)

Thuở ấy, tiếng Hy Lạp chưa có chữ đường . Các thủy thủ dưới thời Alexander Đại Đế ( năm 325 trước Thiên Chúa), khi xuôi dòng sông Indus, xem mía như cây chứa mật ong; có khi họ gọi đường cục là ‘muối Ấn Độ’ vì nó cũng dòn. Người La Mã gọi nó bằng chữ Latinh: ‘Saccharum Dioscoride’, và diển tả Đường như mật ong ở thể cứng.

Phân khoa y dược ở Đại học Djondisapour(Đế Quốc Ba Tư rất hảnh diện về phân khoa này) là nơi đã tìm ra cách thanh lọc và làm đặc nước mía. Không khí và thời gian không làm dậy men sản phẩm này, nhờ vậy việc chuyên chở và mậu dịch được dễ dàng (khoảng chừng năm 600 trước Thiên Chúa). Trung Hoa dưới đời vua Tần đã cho nhập cảng những ‘hòn mật ong’(stone honey) từ Bokhara( thuộc Liên Sô củ) là nơi mật mía được hớt bọt cẩn thận, rồi trộn với sữa dể làm thành món ngon , và sang trọng cho vua chúa. Thuở ấy đường được dùng làm món thuốc kỳ diệu, quí giá, hiếm hoi, hết sức cần thiết trong lúc có tai ương hay bệnh dịch.

Trong khi tiếng Latinh thời Trung cổ dùng từ ngữ Đường( mà các xứ phương Tây dùng sau này) để diển tả một miếng gì quí giá, một món gì có dược tính thần hiệu, thì tiếng Phạn dùng từ ngữ Khanda để diển đạt ý tưởng muối Ấn Độ( Indian Salt). Anh Văn biến Khanda thành Candy.

Hết vinh rồi đến nhục, đế quốc Ba Tư, cũng như bao đế quốc khác, phải chịu qui luật nghìn đời này. Khi quân Hồi chiếm vương quốc ấy thì chiến lợi phẩm quí giá nhất là khám phá được bí quyết chế biến mía thành dược phẩm. Về sau, người Árập khai triển công nghiệp chế biến Đường này.

Mohamed mất vì cảm sốt. Người kế vị nuôi mộng bá chủ hoàn cầu với đoàn quân chỉ có vài ngàn người. Ông là người cầm quân xuất sắc nhất Đông Tây. Trong vòng 125 năm, vương quốc Hồi mở rộng ra từ Sông Indus đến Đại Tây Dương, kể cả xứ Tây Ban Nha, từ Kashmir (Ấn Độ) đến phần đất phía trên của Ai Cập. Vị quân vương đắc thắng cưỡi ngựa vào thành Jerusalem với một túi lúa mạch, một túi chà là và một túi nước lã bằng da thú.

Sử chép rằng vua Omay Yad Caliph Walid II đã chế nhạo kinh Koran, mặc quần áo kỳ dị, ăn thịt heo, uống rượu vang, bỏ bê hành trì kinh kệ và cho phổ biến các thức uống có pha đường. Quân Árập chiếm đóng mang theo gạo của xứ Ba Tư và những khúc mía lấy của Ấn Độ. Họ chủ trương trồng mía thực tế hơn nhập cảng đường từ nơi xa xăm.

Dân của vương quốc Hồi Giáo chẳng bao lâu mắc nhiều bệnh mới lạ, khó trị nên buộc lòng họ phải tách rời khoa học ra khỏi tôn giáo. Từ đó y khoa và phẩu thuật tạo được nhiều kỳ công. Họ bắt đầu xử dụng thuốc tê mê, khởi xướng khoa học hóa chất, nhận thức được trị số của số O, tái khám phá ra Đại số học, xúc tiến khoa Thiên văn, phát minh ra cồn, khai triển ngành kim khí và dệt, đẩy mạnh kỷ nghệ thủy tinh, sành sứ và da thuộc và cho sản xuất theo phương thức của Trung Hoa. Chính trung Quốc góp sức xây dựng nền văn minh Tây phương bằng giấy và đường.

Và chính Đường đã gây sự suy tàn của Đế quốc Árập. Kinh Koran của Thánh Elijah Mohamed, nhà tiên tri, không nói đến đường. Tuy nhiên những quân vương kế thừa, hiếu chiến nhất lịch sử, ra lệnh làm những thỏi đuờng và nhiều thứ nước uống ngọt ngào để dâng lên triều đình và cung cấp cho binh đội. Một nhà bình luận Âu Châu tin rằng đạo quân Árập đã mất nhuệ khí vì ăn quá nhiều đuờng.

Leonhard Rauwolf, nhà thực vật học người Đức, năm 1573 có viết trong nhật ký: “Quân thổ Nhỉ Kỳ và quân Moor ăn hết miếng đường này đến miếng đường khác ở khắp các nẻo đường, không tỏ vẻ gì hổ thẹn. Cứ theo lề thói này thì họ sẽ mê ăn và chả còn gì là dũng sĩ thời trước nữa”. Ông nhận xét hậu quả của tật nghiện đường của Quân đội đế quốc Thổ giống như các quan sát viên cận đại tiên đoán sự bại trận của lính Mỹ nghiện heroin và marijuana ở Á châu vậy. Đây là lời cảnh cáo đầu tiên của cộng đồng khoa học về việc lạm dụng đường.

Vào thời kỳ hưng thịnh của đế quốc Hồi, đường là đề tài hệ trọng nơi chính trường; người ta bán rẻ linh hồn cho nó. Đường đã đánh gục quân Árập, giờ đây quân thập tự chinh cũng bị thảm bại vì mê mệt “thứ nước sốt ngọt lịm”. Các Hoàng Đế Âu Châu nhận thấy các Đại sứ của họ ở triều đình Ai Cập đã hảo ngọt và bị mua chuộc bằng đường, nên bãi chức và triệu hồi về nước.

Cuộc viễn chinh trọng đại của quân Thập Tự kết thúc vào1204. Vài năm sau, tại thánh đường Lateran ở La Mã, Hội thánh lại dự trù tổ chức Thập Tự chinh để trừng phạt bọn ngoại đạo và bọn Do Thái. Năm 1306 Đức Giáo Hoàng Clement V, đang bị đày ở Avignon, nhận được thỉnh nguyện thư yêu cầu ngài phục hồi uy danh cho Thập Tự Quân, như thời hoàng kim của đoàn quân này trước kia. Thỉnh nguyện thư được sao nhiều bản và gửi trình các vua xứ Pháp, Anh và Sicile, nhằm khơi động ‘Chiến lược đường’ để thanh trừng bọn Árập xảo trá.

“Mía được trồng khắp nơi trên đất Hồi giáo, cho nên triều đình rất giàu có. Nếu chiếm mấy vùng ấy, ta cũng gây tổn thất nặng nề cho triều đình của họ và đồng thời thánh địa chúng ta đang ở sẽ được đảo Cyprus (Địa trung Hải, phía Nam Thổ nhỉ Kỳ) tiếp tế đầy đủ. Mía đã trồng ở Morea, Malta và Sicile, nay mía phải được trồng ở các vùng Cơ Đốc giáo khác. Không có chi là e ngại vì chúng ta là người Cơ Đốc giáo.”- Nghe cái lối thuyết phục quỷ quái này, chắc có lẽ người Cơ Đốc giáo nào cũng muốn vội vã chạy đến trái cấm để cắn một miếng thật to! Và hậu quả tất yếu là suốt 7 thế kỷ, 7 tội trọng đã quấy nhiễu 7 biển, dựng nên chế độ nô lệ, gây bao cảnh diệt chủng và bao tội ác có tổ chức khắp nơi.

Noel Deerr, sử gia người Anh, nói toạc ra: “Mua bán nô lệ là cách làm giàu trên xác chết. Trong 20 ngàn phu da đen, hết 2/3 bị buộc tội chống đối kế hoạch sản xuất đường”.

Trên mặt trận cạnh tranh đường, Bồ Đào Nha đứng ngay tuyến đầu. Khi quân Thổ nhỉ Kỳ chiếm bán đảo Iberia (thuộc Tây Ban Nha), họ đem mía vào trồng.

Đồn điền mía lớn nhất nằm ở tỉnh Granada và Valencia. Nhà hàng hải Bồ Đào Nha, Ông Henry, đi thám hiểm bờ phía Tây của Phi Châu để tìm đất trồng mía. Ông không thấy nơi nào vừa ý, mà chỉ thấy những thân người đen bóng, đủ sức làm việc dưới nắng gay gắt miền nhiệt đới. Năm 1444,Henry đem 235 người da đen từ Legos( thủ đô của Nigeria – Phi Châu-) đến Seville(thành phố miền Nam Tây Ban Nha) để bán nô lệ. Từ đó trang lịch sử mua bán nô lệ bắt đầu mở ra.

Mười năm sau, Giáo Hoàng bị xúi dục nhúng tay vào việc buôn nô lệ. Bọn Hồi giáo, bọn tà giáo, bọn Do Thái, và bọn phản nghịch Chúa Kitô đều bị bắt nhốt để biến thành nô lệ, vì lý do thật đơn sơ: ‘để cứu rỗi linh hồn họ.’Mồ hôi của đám phu da đen đã nới rộng diện tích các đồng mía ở Madeira(đảo ở biển gần Maroc, Phi châu) và các đảo Canary (gần Madeira) để tô điểm cho đế quốc Bồ Đào Nha ‘theo ý trời’. Một thi sĩ da đen trích trong tập thơ CANE( cây mía hay cây gậy đánh người) của Ông, mấy câu sau đây để viết lên tường:
Ôi! nhóm người da trắng tội lỗi
Bóp méo Thánh Kinh, lừa dối dân lành.
Năm 1546, Bồ Đào Nha nắm quyền kiểm soát mua bán đường ở châu Âu. Tây Ban Nha là nước láng giềng cũng bám sát đàn anh. Khi quân Moor rút lui khỏi xứ này, họ để lại cả rừng mía ở Granada và Andalusia ( 2 tỉnh miền Nam Tây Ban Nha).

Năm 1493, khi trở lại Tân thế giới, Christopher Columbus đem theo vài khúc mía theo chỉ thị cua Nữ Hoàng Isabella. Trong quyển sách viết về chuyến đi này, Peter Martyr xác nhận là đoàn thám hiểm tìm thấy mía mọc trên các đảo Hispaniola( biển Caribê). Columbus đề nghị đem thổ dân ở các đảo này về làm việc tại các đồn điền mía. Nữ Hoàng không đồng ý nên hai chiếc tàu đã chở đầy dân nô lệ phải quay về biển Caribê. Nữ Hoàng băng hà. Vua Ferdinand cho tuyển mộ một thành phần nô lệ Phi Châu để phát triển kỷ nghệ đường Tây Ban Nha, năm 1510.- Vào thời điểm này, Bồ Đào Nha trồng mía ở Brazil bằng công sức của nô lệ. Họ dùng mưu lược rất thâm. Trong lúc dân Do thái, các phù thủy, và nhiều người tà đạo bị thiêu sống, thì Bồ Đào Nha mở toang các cửa ngục, đưa hết tội phạm sang Tân Thế Giới. Tù nhân khổ sai được khuyến khích giao hợp với các phụ nữ nô lệ để gây ra giống tạp chủng đủ sức sống trong môi trường oi bức của các đồng mía.

Các con buôn giang hồ Hòa Lan nhập cuộc vào năm 1550. Họ hạ giá chuyên chở bằng tàu thủy, và bán chịu nô lệ, tiền mua sau này trả cũng được. Chẳng mấy chốc họ thiết lập được nhà máy đường ở Antwerp. Họ mua mía khắp nơi và bán đường cho các xứ vùng biển Baltic, Đức và Anh.

Năm 1560 vua Charles V của Tây Ban Nha cho xây nhiều đền đài lộng lẫy ở thủ đô Madrid và ở Toledo nhờ thuế đường. Không có sản phẩm kỷ nghệ nào ảnh hưởng đậm đà vào chính trường Tây phương cho bằng Đường.

Uy quyền và giàu sang của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha lên tột đỉnh. Cũng như các vương quốc Árập trước kia, họ phải theo luật tuần hoàn vũ trụ để chịu suy vong. Thích trèo cao thì phải chịu ngã nặng, lên nhanh thì xuống cũng nhanh. Và chỉ nhìn thấy vua chúa háu ngọt, ta cũng có thể đoán biết được ngày tàn của họ sắp đến.

Đế Quốc Anh đứng im chờ cơ hội. Lúc đầu Nữ Hoàng Elizabeth I do dự việc chấp thuận cho thi hành chế độ nô lệ ở các thuộc địa vì ‘sợ oán hận thiêng liêng đối với Vương quốc của Bà’. Đến 1588, Bà phê chuẩn phần phụ chương hiến pháp nhằm công nhận cho Công Ty Hoàng Gia được độc quyền mua bán nô lệ ở miền Tây Phi Châu.

Quân Tây Ban Nha đã tiêu diệt thổ dân ở các đảo West Indies( Vịnh Caribê) để đem dân Phi Châu vào trồng mía. Bất cứ ai muốn vay 500$ tiền vàng để xây nhà máy làm mật mía đều được chánh phủ chấp thuận. Lúc ấy hạm đội Anh đến đánh đuổi quân Tây Ban Nha và đặt ách đô hộ lên bản xứ qua hình thức ký hiệp ước. Dân nô lệ rút lên núi để đánh du kích. Người Anh cho làm rượu Rum bằng nước mía dậy men. Họ đem rượu rum lên Bắc Mỹ Châu để đổi lấy da thú của người Da Đỏ chất phác, rồi đem da thú ấy sang Âu Châu, bán giá gắp trăm lần giá mua.

Công ty của Nữ Hoàng thường cho các tay mạo hiểm tìm dân nô lệ dọc theo bờ biển phía tây Phi Châu để bán cho mấy ông chủ đồn điền mía ở vùng biển Caribê để mua thêm đường, mật mía và rượu rum với giá rẻ. Rum cho dân Da Đỏ ở Hoa Kỳ, đường và da thú cho Âu Châu, mật mía cho các thuộc địa. Kế hoạch thương mại tam giác này cứ tiếp diển cho đến lúc các đảo Barbados( Caribê) và các thuộc địa khác trở nên cằn cỗi, không còn loại hoa mầu nào ngốc đầu lên nổi.

Đường là nguồn lợi rất khổng lồ nên khoảng 1660, Anh Quốc chuẩn bị chiến tranh để chiếm ưu thế.
Bộ luật hàng hải ban hành năm 1660 cấm chuyên chở đường, thuốc lá và các món hàng khác từ thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ Châu( tức Hoa Kỳ) đến bất cứ hải cảng nào không thuộc xứ Anh, đến Ái Nhĩ Lan, hay các thuộc địa khác của Anh. Lúc ấy thuộc địa Bắc Mỹ muốn tự do mậu dịch với các cường quốc Âu Châu; nhưng mẫu quốc(Anh) lại muốn bảo vệ quyền lợi riêng tư và giử độc quyền chuyên chở đường thủy. Thuộc địa Bắc Mỹ không có võ lực nên Vương Quốc Anh làm chủ đại dương và kiểm soát doanh nghiệp đường. Chữ Đường được truyền miệng vào Anh ngữ thành chữ Sugar.
Sugar lại đồng nghĩa với Tiền.

Có vài người viết sử Hoa kỳ lý luận rằng chính thuế đánh vào trà mới gây nên chiến tranh dành độc lập của Mỹ quốc, nhưng các sử gia khác lại bảo nguyên do là tại Đạo Luật Mật Mía. Năm 1733 cho phép đánh thuế nặng nề vào đường và mật mía của các nơi nào không là thuộc địa của Anh. Mấy ông chủ tàu buôn ở New England (Hoa Kỳ) cho chở rượu rum đến Phi châu để đổi lấy người da đen rồi đem họ về bán cho mấy ông chủ người Anh ở Caribê. Từ chỗ này mật mía được đem về Hoa kỳ làm rượu rum để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng. Lúc ấy mỗi người dân Hoa Kỳ (kể cả đàn bà và trẻ nít) trung bình hằng năm dùng bốn galông rượu rum.

Đạo Luật Mật Mía (1733) chẳng những làm suy thoái ngành thương mại Hoa kỳ mà còn làm khổ bao nhiêu người làm rrượu rum.

“Trước khi đến Âu châu thùng đường nào cũng đẫm máu và nước mắt của dân nô lệ. Nếu biết được điều này mấy ai không khổ tâm khi định vui hưởng các món ngọt ngào.” Triết gia người Pháp , Claude Adren Helvetus viết câu này vào giữa thế kỷ 18 khi Pháp nhập cuộc tranh giành đường. Đại Học Sorbone lên án ông. Nhiều tu sĩ đệ trình ý tưởng độc hiểm này của ông lên triều đình. Ông phải xin từ bỏ ý tưởng ấy để vớt vát lại địa vị. Tuy nhiên ý tưởng ấy đã làm Âu châu tỉnh ngộ. Ông dám nói cho thiên hạ nghe điều mà họ chỉ dám nghĩ thầm.

Ba thế kỷ sau (1792) Âu Châu đã thúc tỉnh đến độ lập ra ‘Hội Chống Đường’( Anti Saccharite Society)đầu tiên. Phong trào tẩy chay đường lan rộng toàn Âu Châu. Các công ty Anh Quốc ở Đông Nam Á( Mã Lai , Singapore, Đông Dương, Miến Diện, Ấn Độ) làm ăn phát đạt nhờ Á phiện. Họ bèn loan truyền khẩu hiệu: “Đường ở vùng East Indies của chúng tôi không cần mồ hôi lao động của nô lệ” để đề cao lòng nhân từ của họ. Nhà sản xuất đồ sứ gốm, B. Henderson Rye Lane Peckham đã kính cẩn thông báo cho các thân hữu ở Phi châu rằng bà đang cho bán các sản phẩm dùng đựng đường có khắc khẩu hiệu vừa nêu trên. Họ còn hô hào: Gia đình nào mỗi tuần ăn năm cân Anh đường của East Indies( Caribê) suốt 21 tháng thì được xem như không ủng hộ hành vi bắt hay giết một nô lệ. Tám gia đình dùng một lượng đường như thế trong 19 năm rưỡi sẽ giúp cho 100 người nô lệ khỏi bi bắt hay bị giết.

Đế quốc Anh thuở ấy là trung tâm kỷ nghệ đường của thế giới ; ở các đế quốc khác đường là dược liệu quí báu. Món gì ta ưa thích đều trở thành món cần thiết. Thói mê ngọt trói ta vào nhu cần ăn ngọt. Đường và nô lệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Bênh vực nô lệ cũng là đề cao thói khoái đường của mình.

Khi đám nô lệ nổi loạn ở các đảo vùng vịnh Caribê thuộc Anh thì dân da trắng bèn xin Hoàng Gia cứu giúp. Quốc Hội bàn tàn xôn xao: “Ta không thể để mấy thuộc địa làm cản trở nguồn lợi phong phú của đất nước ta như thế này”. Một chính khách có máu mặt cũng dõng dạc nói : “Việc mua bán dân da đen đem lại cho nước ta sự giàu có và một hải lực hùng hậu.”

Xưa kia khi đường bắt đầu nhập vào nước Anh thì giá đắt đỏ. Mỗi cân Anh giá 25 bảng Anh, bằng lương một năm của công nhân. Vào khoảng năm 1300, vài lần ăn đường cho thỏa thích thì tiền phải trả độ chừng 1/3 chi phí buổi lễ an táng trọng thể. Đến triều đại Elizabeth I thì giá còn phân nửa. Năm 1602, giá một cân đường bằng một chục đủ đầu trứng gà. Trong vòng một thế kỷ, từ 1700 đến 1800, lượng đường tiêu thụ ở Anh tăng 8 lần, (từ 20 triệu cân lên đến 160 triệu cân). Sau đó bánh mì và đường được tiêu thụ cùng cân lượng. Mỗi người ăn 72 cân một năm.

Hoàng Đế Napoleon Bonaparte tô đậm nét lịch sử của đường.Tức giận vì con buôn ở Venise bóc lột, Ông bèn chú tâm vào việc khai triển kỷ nghệ đường. Từ năm 1700, đường là món hàng xuất cảng quan trọng nhất và đem lại phồn thịnh cho nước Pháp. Anh quốc bèn phong tỏa nguồn nguyên liệu nhập vào Pháp bằng Hải quân, nên kỷ nghệ đường phải ngưng trệ, giá đường lên tận trời xanh, chỉ vua chúa mới ngậm được kẹo. Đoàn quân Napoleon, như thời quân Hồi Giáo xua kia, rất thèm ngọt, lúc họ tung hoành khắp Âu Châu. Napoleon kêu gọi các nhân tài hợp tác giải quyết vấn đề.

Năm 1747 khoa học gia Đức Franz Carl Achard thí nghiệm cây phòng phong đem từ Italy về, nguồn gốc của nó có thể là ở Babylonia. Vua nước Phổ, Frederic William III bảo trợ công tác của Achard. Tuy các khoa học gia Pháp, dưới áp lực của cuộc phong tỏa của Hải quân Anh, và để đặc biệt tuân hành chỉ thị đặc biệt của Hoàng Đế, đã dày công nghiên cứu. Benjamin Delassert đã thành công biến củ cải ngọt Babylonia thành các thỏi đường tại Plassay, năm 1812. Napoleon tặng huy chương danh dự cho Ông, rồi ra lệnh trồng củ cải đường trên toàn nước Pháp. Hoàng Đế cũng cho xây dựng nhà máy đường, cấp học bổng cho chuyên khoa củ cải ở các Đại Học. Năm trăm lò đường được cấp giấy phép hoạt động. Ngay năm sau, Pháp đạt thành quả rực rỡ với 8 triệu cân đường làm với củ cải trồng trên đất nhà. Quân viển chinh Pháp được tiếp tế đầy đủ đường để chuẩn bị tiến vào Moscow.

Nhưng, cũng như quân Moor trước kia, họ phải chịu thảm bại trên đường Bắc tiến. Đoàn quân thiện chiến Pháp không quen với khí hậu băng giá khắc nghiệt, lại bị đường phá sức, phải tháo lui khi đối đầu với quân kháng chiến chưa bị ‘oải gân’ vì đường pha với nước trà. Ôi! ngọt mật chết ruồi.

Napoleon đã phá vở kế hoạch phong toả nguyên liệu mía của Anh. Tín đồ Quakers ở Anh bèn nhảy qua việc trồng củ cải đường, cũng để tỏ thái độ chống chế độ nô lệ. Các cơ sở trồng mía ở mấy thuộc địa phản đối kịch liệt, củ cải phải vứt cho bò ăn.

Đến thế chiến thứ nhất việc chuyên chở bằng tàu bị kẹt, nên củ cải mới ngóc đầu nổi.

Pháp là nước đầu tiên bải bỏ mậu dịch nô lệ qua sắc luật năm 1807, gần 1/4 thế kỷ sau Anh mới đặt ngoài vòng pháp luật chế độ nô dịch tại các thuộc địa chỉ trừ Bắc Mỹ châu. Các đồn điền mía ở Barbados và Jamaica (Caribê) bị phá sản. chính phủ Anh bồi thường cho mấy ông chủ từ 75 đến 399 bảng Anh mỗi đầu người da đen. Đến 1846 đám da đen thức tỉnh nổi loạn. Lao công ở các đảo vùng biển Đông Nam Á (East Indies) được chiêu mộ để thay thế.

Nhưng khoa học kỷ thuật của Hoa Kỳ đang chờ thời. James Watt đã hoàn tất động cơ dùng hơi nước. Figuier thành tựu phương pháp làm than bằng xương thú vật, và Howard sang chế nồi phi áp xuất
(chân không). Tuy nhiên còn cần đường thì còn cần nô lệ. Củ cải đường phải trồng, thái mỏng và ngọn cây phải hớt bằng tay người, mía phải săn sóc và đốn bằng tay người, và chỉ có người da đen mới chịu nổi nắng miền xích đạo, quê hương của mía.

Khi Hiệp Chúng Quốc (Hoa Kỳ) bắt đầu làm ăn lớn lao với thuôc địa riêng của mình là Cuba thì cũng là lúc họ thoát khỏi ách cai trị của Anh. Cuba là nước nhược tiểu điển hình sống bám theo kinh tế của một cường quốc. Nhờ đất đai phì nhiêu, Cuba cung cấp khá nhiều nguyên liệu cho nền kỷ nghệ đồ sộ của Hoa Kỳ. Xưa kia đường màu nâu có vị tươi mát tự nhiên. Ngày nay những nhà máy lọc đường khổng lồ dùng xương thú vật để chế ra đường trắng như thủy tinh.

Tiểu bang Louisiana có trồng mía, nhưng không phải đó là nguồn lợi quan trọng. Quan trọng cho ngân sách liên bang là thuế. Thuế đánh vào hàng tiêu dùng (đây là nguyên do cuộc dấy loạn vì rượu uýt ki) và vào hàng nhập cảng mới được nhiều tiền; 90% đường tiêu dùng ở Hoa Kỳ đều nhập từ Cuba. Thuế đoan cho đường nhập là 2 xu một cân Anh; thuế này đóng góp vào 20% của ngân quỷ Liên Bang. Chẳng mấy chốc Hoa kỳ đã vượt anh Quốc rất xa về lượng đường, hơn cả lượng đường của toàn thế giới năm 1865. Vào khoảng 1920, năm mà chính phủ cấm sản xuất rượu vì hạnh phúc toàn dân, thì lượng đường tăng gấp đôi, và cứ tăng mãi và cơ thể người dân cứ chịu thêm khổ ách chưa từng có trong lịch sử loài người.

Kỳ lạ thay á phiện và đường luôn kề vai nhau. Cả hai đều gây nghiên ngập cho con người, đều cho cảm giác mê ly và đều được dùng trị bệnh.

Buôn lậu á phiện song song với mậu dịch đường hình như bắt đầu ở Ba Tư. Chính người Árập loan truyền các chất này đi khắp nơi theo vó ngựa viễn chinh của họ. Vài thế kỷ sau, từ món thuốc trị bệnh, các chất ấy trở thành mê ly. Người Trung Hoa bắt đầu hút á phiện vào thế kỷ 17. Tàu buôn Bồ Đào Nha đem đường và á phiện vào Trung Hoa đầu tiên. Sau đó Anh quốc thay thế.

Xưa kia triều đình Trung Hoa chỉ khuyên dân chúng nên hạn chế uống rượu, nhưng đến 1760 thì cấm ngặt không cho mua bán á phiện. Anh bèn gây chiến với Trung Hoa( Anh giữ độc quyền trồng á phiện ở các đảo East Indies. Đó là kho bạc của Anh) Hiệp ước Nam Kinh(1842) chấm dứt chiến tranh nha phiến. Nhưng đến1858, Trung Hoa lại nhập á phiện theo yêu cầu của Anh.

Lúc ấy ngành hoá học đưa ra thị trường: đường cát trắng và bạch phiến. Đồng thời cuộc cách mạng kỷ nghệ làm ra đưọc nồi xấy khô sữa, trái cây, và cũng sáng chế kịp thời kim tiêm thuốc và óng chích để trị các bệnh “văn minh”. Thời ấy chích morphine là cách trị vạn năng, kể cả bệnh dành cho các giống dân ăn ngọt suốt ngày: Tiểu Đường. Sau chiến tranh Nam Bắc ở Hoa Kỳ, tật nghiện Morphin được gọi là bệnh của quân đội. Hằng ngàn binh sĩ đã giải ngũ mà không giải nổi tật nghiện ma túy. Lại còn thêm tật thèm sữa đặc có đường nữa.

Khoa học tiến thêm một bước đáng kể: tinh chế bạch phiến thành thuốc giảm dau. Y khoa đón tiếp niềm nở phát minh này. Món thuốc đầu tiên mang tên đa vận: Diacetylmorphine, rồi rút gọn thành Heroin. Heroin có trị lành tiểu đường? Bác sĩ Robert Boesler, Nha sĩ ở New Jersey có nói vào năm 1912: Việc sản xuất đường bằng kỷ nghệ tân tiến đích thực đưa đến nhiều bệnh mới. Đường trắng chỉ là axít đậm đặc được kết tinh. Trước kia đường mắc mỏ nên chỉ ngìời giàu mới mua được, nay giá đường đã hạ nên đã gây suy thoái sức khoẻ quần chúng. Đã đến lúc cần tỉnh giác quần chúng. Sự mất sinh lực do dùng đường ở thế kỷ qua (19) và đầu thế kỷ này (20) không bao giờ bù đắp được vì di chứng đã lưu lại trên chủng tộc rồi.

Rượu được sử dụng hằng ngàn năm nay mà không gây biến tính cho nòi giống. Rượu không chứa
áxít độc hại. Cái gì bị đường tàn phá thì vô phương cứu gỡ.

Nhà văn hài hước nổi tiếng của Hoa kỳ, Mark Twain có viết nhật ký vào khoảng 1840: Làng tôi có hai cửa hàng bách hóa. Chú tôi làm chủ một cái. Trẻ nít đến mua món nào đáng giá từ 5 xu đến 10 xu đều được phép nhúm một ít đường bỏ vào miệng. Người nào đến mua môt cái bánhTrifle (làm với hạnh nhân, kem sũa, chút ít rượu và có mứt sệt trên mặt) thì họ tự do hớp một ngụm rượu Whisky, ít hay nhiều tùy khả năng. Tôi là đứa trẻ hay đau ốm (vì có sẵn thùng đường ở nhà) dễ mệt mỏi, tánh chợt vui chợt buồn. Thuốc men thì đủ các thứ. Nhưng bệnh này chưa khỏi thì chứng khác lại ngoi lên.

Rượu hại chỉ say nhóm mày râu,
Quốc gia dân tộc đã điên đầu ,
Phụ lão nam nhi nay hảo ngọt
Xã hội đang lùi xuống hố sâu.
D.T. Liên Châu.





--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 21st June 2025 - 04:52 AM