![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
CẨM NANG TỤNG NIỆM CỦA PHẬT TỬ MIẾN ĐIỆN NGUYÊN TÁC: HAND BOOK OF BUDDHIST RECITATION Published by Dhammikarama Temple Sunday School Bản dịch việt ngữ Nhóm Long Chenpa -------------------- The last |
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
BẢN MÔ TẢ LỊCH SỬ BAN ĐẦU
Có bằng chứng cho thấy các Paritta đã được tụng niệm ngay từ thời tiền – Pagant sớm nhất ở Miến Điện. Theo lịch sử. Tín ngưỡng Phật giáo ( Sasana- vamsa), Trưởng lão Sona và Trưởng lão Uttara đến Miến Điện, Suvannabhumi, như các nhà truyền giáo Đạo Phật, hay tối thiểu như Dharma- mahamatras được vua Asoka ( A dục) phải đi truyền bá Phật Pháp. Các ngài tụng niệm Kinh Phạm Võng ( Brahmajala Sutta) như Paritta để bảo vệ trẻ em trong xứ khỏi nạn Đạm Tinh quỷ (Passacas) thường ăn thịt trẻ sơ sinh trong xứ đó. Những ma quỷ này bị trục xuất ra biển nhờ năng lực của Paritta. Do vậy từ đó trở đi xứ Miến Điện có tục lệ mời các tu sĩ tới tụng niệm các Minh Hộ Kinh ( Paritta sutta) trong nhà có trẻ sơ sinh. Trong những ngày đầu Pagan, các thần chú Paritta cũng được sử dụng như phương tiện tẩy sạch hành động tội lỗi. Người ta tin rằng mọi sự sai quấy, tội lỗi có thể được diệt trừ nếu người phạm tội tụng niệm một Paritta thích hợp, hoặc có thể nhờ một vị tu sĩ tụng niệm cho mình, rải nước Paritta trên thân họ để hoàn tất sự bảo vệ. Ta viện dẫn một ví dụ khác, Vua Kyansitha xứ Pagan xây một cung điện mới trong thành phố và cử hành những nghi lễ phức tạp bằng việc tụng trì các Paritta Sutta. Vào năm 1102 sau công nguyên, Biên niên sử Cung Điện Thuỷ Tinh (Glass Palacel) cho biết dưới sự chủ toạ của Trưởng lão Shin Arahan, 4.108 tu sĩ đã tụng niệm những Paritta, rót nước thiêng Paritta chung quanh cung điện mới xây và rải cát Paritta khắp mọi vị trí. Những sợi chỉ Paritta cũng được buoocj chung quanh các dinh thự cũng như trên chân tay của người dân để bảo vệ họ khỏi những nguy hiểm vô cớ trong cung điện mới. Kể từ đó, thành tích mang chất lịch sử này đã khiến mọi người đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của việc các nhà sư tụng niệm paritta như một nghi lễ thiết yếu được các hoàng cung ở Miến Điện tuân theo. Ngay cả đến bây giờ cũng vậy, mỗi gia đình Phật tử Miến Điện đều theo đuổi sự thực hành những nghi lễ tương tự theo cách này. Thông thường thì một ngôi đình được sử dụng để tụng Paritta được xây dựng và một bình nước, một bình bông với lá táo đỏ ( Thabye) và một số loại hoa khác, một cuộn chỉ và một bình cát sạch được sắp đặt gọn gàng trước bàn thờ Phật. Sau đó, sợi chỉ được kéo từ phía trong của ngôi đình này, khúc cuối được quấn quanh bình nước và cột vào những bản kinh viết tay trên lá cọ hoặc bàn thờ Phật. Đôi khi các nhà sư đang tụng niệm cầm đoạn cuối của sợi chỉ. Họ cầm sợi chỉ được kéo dài rồi chuyển cho cử toạ đứng trước bàn thờ Phật. Họ phải giữ sợi chỉ này trong lúc các nhà sư cùng niệm các Paritta. Khi buổi lễ hoàn tất, người ta tin rằng chất nước bình thường bây giờ đã trở thành nước cam lồ; sợi dây chỉ và cát bình thường đã trở nên linh thiêng, những lá táo đỏ và những bông hoa cũng trở thành vật được ban phước. Sau đó, nước cam lồ, sợi chỉ thiêng, cát và bông paritta được chia cho những người dự lễ. Nước cam lồ dùng để rắc lên mọi người và những ngôi nhà, cát và hoa linh thiêng được tung rải trên khắp khu vực đó, còn sợi dây chỉ thiêng thì đeo quanh cổ hoặc cổ tay. Những tuân thủ này được coi như năng lực bảo hộ tượng trưng của các Paritta. Do đó trong Phật giáo Miến Điện, việc được nghe tụng Pháp, giáo lý của Đức Phật để ngăn ngừa những nguy hiểm, phòng tránh ảnh hưởng của chúng sinh ác hại, được bảo vệ và thoát khỏi ma quỷ, và để tăng tiến sức khoẻ, thịnh vượng và hạnh phúc đã trở thành một thực hành đầy vinh dự. Không lễ lạc hay cuộc hội họp nào dù mang tính tôn giáo hay xã hội có thể hoàn tất mà không có nghi lễ Paritta Sutta. Những lễ Quán đảnh và thọ giới không thể kết thúc mà không có mục nghe tụng Paritta. Ngôi đình được xây dựng đặc biệt cho những mục đích này được gọi là “Paritta Mandapa”; có nghĩa là Ngôi Đền để nghe tụng Paritta. Trong quyển sách những câu hỏi của Vua Mi Lan Đa (Milida) (thế kỷ thứ nhất sau công nguyên) có đề cập tới sáu Paritta sau: Ratana Khandha, Mora, Dhajagga, Atanatiya và Angulimala Paritta. Sự ích lợi của chúng bị nghi ngờ. Vấn đề khó xử phải đối phó là liệu Paritta được đức Phật Quang Vinh truyền bá có giúp người ta thoát khỏi cái chết không, và nếu như thế thì nó đã đi ngược lại với lời dạy của đức Phật rằng một người không thể thoát khỏi cái chết, và nếu lời dạy này đúng thì các paritta này không mang lại lợi ích. Trong thực tế thì các Minh Hộ Kinh (Paritta Sutta), ví dụ Kinh Ngũ Uẩn (Khandha) đã được Đức Phật Quang Vinh ấn định trong các bản văn về Luật (Vinaya), như sự bảo vệ hay trông chừng cho bản thân ta, để dùng cho tăng đoàn. Nói chung, cách thức tụng niệm chứa đựng sự biểu lộ tình thương yêu đối với tất cả các sinh loài, một lời cầu nguyện cho hạnh phúc của mọi chúng sanh. Cách biểu lộ đặc biệt của tình thương yêu này không chỉ là ngôn từ hoa mỹ. Nó thấm đẫm những năng lực tâm linh và cảm xúc một cách cao độ. Sự xác quyết vào chân lý ( saccakiriya) cũng là một khía cạnh của công việc được gán cho các Paritta Sutta. Chính sự kiện chân lý bảo hộ người sùng kính Pháp cho thấy niềm tin Phật giáo nơi việc tụng niệm những Paritta Sutta này. Thật ra, sự tụng niệm paritta là một hình thức tuyên xưng chân lý làm phát sinh năng lực bảo hộ và giải thoát. Là hoàn toàn tự nhiên khi bám víu vào bất cứ phương tiện nào suy lường được là có thể hữu ích cho việc giải thoát, nhất là vào lúc cực kỳ nguy hiểm. Do vậy, những nghi thức paritta vẫn còn phổ biến ở khắp nơi như một lời kêu cầu giúp đỡ trong những lúc bị tai hoạ, bệnh tật, hay khó khăn. Các paritta, hay những pháp bảo hộ màu nhiệm này không mâu thuẫn mà hài hoà với giáo lý của Đức Phật. Các nhân tố gây tai hại được ban phước với những lời chúc tốt lành và tràn ngập tình yêu chan chứa. Ngay cả những tinh linh và thú vật đầy ác tâm nhất được coi như có khuynh hướng chịu những sự bất hạnh trong suốt quá trình tiến hoá lâu đời của chúng cũng có thể được chữa lành và làm an dịu bằng năng lực hữu hiệu của tình thương bị mẫn. Chính quan niệm của Phật tử về một trật tự đạo đức chi phối vũ trụ đã biện hộ cho họ việc thực hành paritta của họ. Chúng ta hãy xem xét trường hợp của một bệnh nhân, các biện pháp chữa trị thông thường của bác sĩ cũng cần thiết như một cách chữa bệnh bằng niềm tin. Những phương pháp khác cũng có thể ích lợi khi Nghiệp của bệnh nhân ấy trong đời này chưa cạn kiệt. Việc tụng niệm Paritta một cách tha thiết như một sự hợp lực của tư tưởng ( năng lực tâm linh) có thể trở thành một phương thuốc hữu hiệu không kém các phương pháp chữa trị vật chất trong y khoa. Chúng được dùng để đọc ra các nhân tố có lợi cho bệnh nhân và giúp họ tránh xa những gì có hại. Các Paritta có nhiều năng lực để cầu nguyện. Trong các Paritta này, những năng lực và vinh quang phi thường của Đức Phật, chân lý của Pháp và Phẩm hạnh của tất cả các vị thánh ( A La Hán) được gọi lại trong tâm ta vì thế đem lại sức mạnh. Trái tim tràn đầy từ bị ái bao la đã biến thù thành bạn, nỗi sợ hãi thành lòng dũng cảm và sự thù hận thành tình thương yêu. Tuy nhiên, thật sự mà nói, các Paritta không phải là sự bảo hộ dành cho tất cả mọi người. Cũng giống như thuốc men hay thực phẩm có thể giúp cho người ta sống còn, nhưng sẽ giết chết những ai lạm dụng quá nhiều, do đó ngay cả các phương thuốc hay thực phẩm làm hồi sinh cũng có thể trở thành thuốc độc nếu ta quá ham mê chúng. Vì thế cũng có ba lý do khiến Paritta thất bại trong việc bảo hộ một số người, đó là sự cản trỏ của Nghiệp(Kammakkaya, Tận Nghiệp) và kết quả của những hành vi xấu xa (Akusala vipaka) cũng như sự không tin tưởng (Assaddha). Khi ấy Paritta vốn là một sự bảo hộ đối với một số người sẽ mất năng lực của nó bởi những hành vi xấu ác do chính những người phạm tội đó thực hiện. Thay vì giúp đỡ, việc tụng niệm đôi khi cũng hoàn toàn vô tác dụng đối với những người không tin tưởng. Chính vì thế các Paritta phải được tụng niệm hoặc được lắng nghe hết sức tôn kính và hoàn toàn tin tưởng. -------------------- The last |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 5th July 2025 - 07:43 PM |