![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Moderator Bài viết: 212 Gia nhập vào: 15-March 07 Thành viên thứ.: 11 ![]() |
CANH DƯỠNG SINH Quyển sách Canh Dưỡng Sinh của tác giả Lập Thạch Hòa, khoa học gia Nhật Bản, được dịch sang Hoa ngữ bởi dịch giả Thạch Thương Nghị và dịch giả Trần Anh Kiệt đã dịch sang Việt ngữ và ấn hành tại Sydney (Úc) vào giữa năm 2002 và đến cuối năm 2002 th“ lan truyền đến người Việt Nam cư ngụ ở khăp nơi trên thế giới: từ Úc về Việt Nam, sang Âu Châu, Hoa Kỳ cùng Gia Nã Đại. Phong trào sử dụng CDS cũng rầm rộ 1 thời gian r�“i lắng dịu! Dĩ nhiên là có rất nhiều người bảo vệ được sức khỏe của m“nh và cũng vô số người thất vọng! Bài viết này nhằm mục đích lý giải tại sao CDS hữu dụng cho 1 số người và lại tỏ ra vô hiệu với vô số người khác! Theo Thực dưỡng Macrobiotic th“ nếu muốn duy tr“ sức khỏe (hay muốn đảo ngược t“nh trạng suy thoái của cơ thể như: ung thư, tim mạch, tiểu đường, thấp khớp, dị ứng, cao huyết áp, mất ngủ, thần kinh suy nhược, béo ph“…) cơ thể chúng ta phải được quân b“nh âm dương, hay nói cách khác dịch thể máu huyết trong cơ thể chúng ta phải cần bằng giữa axit và kiềm. Muốn duy tr“ sự cân bằng tuyệt hảo th“ chúng ta phải tránh bớt hay loại hẳn (trong trường hợp bệnh nặng) những thực phẩm tạo ra nhiều axit như: gạo trắng (kể cả bún, m“, hủ tiếu, bánh tam, bánh tráng, bánh hoi, bánh m“… làm bằng bột trắng); đường (kể cả trái cây chín), sữa, thịt, cá, trứng, bơ, phô mai, kem lạnh, rượu, cà phê, nước ngọt… các thức ăn uống đóng hộp, đóng chai có nhiều gia vị chế biến, hoá chất, chất bảo quản (preservative). Theo các tài liệu Thực Dưỡng th“ nếu dịch thể máu huyết của chúng ta có độ pH=7.3 - 7.4 th“ đó là độ cân bằng tốt nhất giữa axit và kiềm; và ở độ này, lục phủ ngũ tạng của cơ thể ở trong t“nh trạng tuyệt hảo và nếu chúng ta có thể duy tr“ t“nh trạng này trong một thời gian dài th“ cơ thể của chúng ta có thể đẩy lui tất cả các bệnh suy thoái và hệ thống miễn nhiễm của cơ thể đủ sức đương đầu với bất kỳ vật thể lạ nào xâm nhập cơ thể cho dù đó là vi trùng vi khuẩn, siêu vi khuẩn hay nấm. Nếu dịch thể máu huyết có độ pH thấp, ví dụ như pH=7.0 th“ dịch thể máu huyết bị chua (axit) và nếu dịch thể máu huyết có độ pH=6.9 th“ cơ thể bị hôn mê; tuy-nhiên nếu dịch thể máu huyết có độ pH nằm giữa pH=6.9 và pH=7.00 th“ tế bào lành mạnh bị đột biến để trở thành tế bào ung thư [xin xem thêm bài số 13 và 39 trong quyển Kính Vạn Hoa (còn có tên khác là Phổ Chiếu) của tác giả Herman Aihara]. Trong quyển “Thực phẩm Ngăn Ngừa Ung Thư" của Michio Kushi, ngoài các loại thực phẩm như gạo lứt, muối mè, rau củ… tác giả còn đề nghị bệnh nhân uống thêm súp rau củ g�“m có: củ hành, bí đỏ, cà rốt, bắp cải… nhằm giúp cho bệnh nhân mau chóng b“nh phục v“ tác giả tin rằng nước súp rau củ trên giúp cho dịch thể máu huyết sớm cân bằng axit và kiềm. Cách nấu CDS theo tôi đề nghị: 1/ 1kg củ cà rốt 2/ 1 kg củ cải trắng (không kể lá). 3/ 330gr lá củ cải trắng hoặc tất cả lá có trong 1kg củ cải trắng. 4/ 200gr nấm đông cô. 5/ 250gr Ngưu Bàng khô hay 1kg Ngưu Bàng tươi. Tất cả rửa sạch mà không gọt vỏ; cà rốt và củ cải trắng cắt nhỏ cỡ 1.5cm vuông; lá củ cải trắng cắt chừng 3cm. Bỏ vô n�“i (inox, gang, sành, sứ, thủy tinh...) đổ nước vừa ngập, nấu sôi, bớt lửa còn riu riu cho nước sôi nhẹ từ 2 đến 3 giờ; để nguội, chắt nước xong bỏ tất cả rau củ vào trong 1 cái túi vải, bóp và ép xác để lấy nước, trộn chung nước lại, sau đó nấu sôi nước cốt này (độ chừng 2 lít) để dành trong tủ lạnh uống từ từ; nên để trong ngăn để thịt để nó lạnh xuống còn 2 ~ 4 độ C. Mỗi lần chỉ dùng 50cc (ml) nước cốt trên pha với 150cc (ml) nước sôi. Nên uống từ 10 ~ 15 phút trước mỗi bữa ăn. Có 1 ít người khi bắt đầu uống CDS th“ bị phản ứng như xây xẩm, bần thần, khó chịu… chỉ cần giảm liều lượng còn chừng 6 ~ 10% số lượng trên trong 10 ngày, sau đó tăng lên từ từ cho đủ liều lượng. CDS ngoài tính chất kiềm hóa dịch thể máu huyết; giúp cơ thể mạnh khỏe còn có khả năng giải rượu (làm hết say rượu) v“ rượu là chất độc làm cơ thể bị say còn CDS là chất giải độc nên làm hết say rượu; giải độc các độc tố, độc chất có trong cơ thể. Mọi người đều nên dùng hàng ngày làm giảm thiểu và ngăn ngừa bệnh tật như: ung thư, tim mạch, tiểu đường thấp khớp, dị ứng… �”ng Lương Trung Hưng (số điện thoại: 0411 428 777) có nhập cảng CDS từ Đài Loan về Úc dưới 2 dạng : 1/ Loại bột tán liền (mỗi gói có 8g bột) có thể quấy với nước sôi uống như uống nước trà. 2/ Loại viên (mỗi gói có 4 viên) có thể nuốt với nước như uống thuốc bổ. Mỗi ngày nên uống sáng và chiều mỗi lần 1 gói. Tại Hoa Kỳ liên lạc với bà Kim Phụng Thái; điện thoại : 714 448 6907. Tại Việt Nam có bán ở nhiều cơ sở thực phẩm dưỡng sinh. Tại Hà Nội: hỏi Ngọc Trâm 0904006319 hoặc bạn 0979.248.060 Tại Sài Gòn: hỏi cô Lan, đt: 8261652 Lương Trung Hưng -------------------- Bài viết chỉ mang tính tham khảo.
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
Các thành phần trong CDS
1. Củ cải trắng: Tên gọi khác Rau lú bú, tên khoa học Raphanus sativus L., thuộc họ cải Brassicaceae. Bộ phận dùng: rễ củ còn gọi là La bặc căn, hạt còn gọi là Lai phục tử, La bặc tử. Củ cải trắng chứa 92% nước, 1,5% protid, 3,7 glucid, 1,8% celluloz. Trong củ tươi có chứa glucose, pentosan, adenin, arginin, histidin, cholin, trigonellin, diastase… vitamin A, B, C. Trong lá tươi có 83,8% nước, 2,3% protid, 0,1% lipid, 1,6% cellulose và 7,4% dẫn xuất không protein. Hạt chứa 30 – 40% dầu béo mà thành phần chủ yếu là hợp chất sulfur. Rễ chứa glucosid enzym và methyl mercapten. Lai phục tử có vị cay tính bình quy kinh Tỳ và Phế. Củ cải có vị ngọt hơi cay, đắng, tính bình không có độc, có tác dụng long đàm, trừ viêm, tiêu tích, lợi tiểu, tiêu ứ huyết, tán phong tà, trừ lỵ. Giúp khai vị, làm ăn ngon miệng. Trong Đông y, củ cải được dùng trong các trường hợp ăn uống không ngon miệng, thiếu khoáng lên men trong ruột, vàng da, sỏi mật, viêm khớp, giải độc. Hạt được dùng để điều trị các bệnh về hô hấp (ho, hen, suyễn). Lá được dùng để chữa khàn tiếng do ngoại cảm, chữa suyễn ở người lớn tuổi. 2. Củ cà rốt Còn gọi là Hồ la bặc, có tên khoa học Daucus carola L., họ Hoa tán Apiaceae. Trong 100g ăn được của cà rốt, theo tỷ lệ % có: nước 88,5%; protid 1,5; glucid 8,8; cellulose 1,2; chất tro 0,8. Các muối khoáng có trong cà rốt như: kalium, calcium, sắt, phosphor, đồng, bor, brom, mangan, magnesium, molipden… Các đường đơn như fructoz, glucoz chiếm 50% tổng lượng đường có trong củ. Rất nhiều vitamin C, D, E và các vitamin nhóm B, nhiều caroten. Người ta chiết xuất được Docarin từ quả cà rốt (còn gọi là cao hạt cà rốt). Cà rốt vị ngọt, tính hơi ấm, có tác dụng hạ khí bổ trung, yên ngũ tạng, kích thích tiêu hóa. Quả (hạt) có vị đắng cay, tình bình, có tác dụng sát trùng tiêu tích. Cà rốt làm tăng lượng hồng cầu và huyết sắc tố, giúp điều hòa ruột. Theo TS. Võ Văn Chi, cà rốt còn làm tăng sự miễn dịch tự nhiên, làm cho các mô và da trẻ lại (Từ điển Cây thuốc Việt Nam NXB Y học 1996). Trong Đông y, cà rốt được dùng để trị suy nhược, thiếu máu, tiêu chảy ở trẻ em và người lớn, các bệnh về hệ tiêu hóa, thống phong, vàng da. Dự phòng các bệnh nhiễm trùng và thoái hóa, dùng ngoài chữa vết thương, loét, bỏng, các bệnh ngoài da như: eczema, nấm, chốc lở tại chỗ. hạt dùng trị giun đũa, giun kim, trẻ em cam tích. 3. Ngưu bàng Còn gọi là Đại đao tử, Á thực, Hắc phong tử, Thử niêm tử. Tên khoa học Arctium lappa L, họ Cúc Asteraceae. Bộ phận dùng: quả thường gọi là Ngưu bàng tử, rễ gọi là Ngưu bàng căn. Quả và lá chứa một chất đắng là arctiosid. Rễ chứa chủ yếu là inulin (45%), rễ tươi chứa tinh dầu, tanin, acid stearic, một carbur hydrogen và một phytosterol. Không có glucosid, alcaloid và hoạt chất đắng trong rễ. Ngưu bàng có vị cay đắng tính hàn, vào hai kinh Phế, Tỳ. Quả Ngưu bàng có vị cay, đắng, tính hàn có tác dụng trừ phong tán nhiệt, tiêu thũng giải độc, làm mọc ban chẩn. Rễ có vị đắng, cay tính hàn có tác dụng lợi tiểu, làm ra mồ hôi, lợi mật nhuận tràng, trị tiêu khát. Cây Ngưu bàng đã được sử dụng ở nước ta từ lâu. Trong bản Thảo nam Dược của cụ Nguyễn Hoành đã nói đến việc sử dụng lá Ngưu bàng non gọi là rau Cẩm bình nấu canh rất tốt, quả (hạt) chữa phong lở, mề đay. Trong Đông y, Ngưu bàng tử được dùng làm thuốc lợi tiểu, giải nhiệt, trị đau họng, cảm cúm. Rễ thường được dùng trị mụn nhọt, áp xe, bệnh ngoài da. 4. Nấm đông cô Còn được gọi là nấm hương, tên khoa học Lentinus edodes, họ nấm sò Pleurotaceae. Trong nấm Đông cô tươi các thành phần (tính theo g%) là: nước 87g; protid 5,5g; lipid 0,5g; glucid 3,1g; celluloz 3g; tro 0,9g và theo mg% là calcium 27mg; phosphor 89mg; sắt 5,2mg. Cũng có những tài liệu cho rằng trong 100g nấm Đông cô có 0,9g protid; 3g glucid và các nguyên tố: calcium 28mg; phosphor 45mg; sắt 0,8mg; và các vitamin như caroten 0,32mg; vitamin B1 0,04mg; B2 0,06mg; PP 0,5mg… Nấm Đông cô có vị ngọt, tính bình (chưa thấy tài liệu nghiên cứu quy kinh), không độc, có tác dụng làm tăng khí lực. Lý khí hóa đàm, ích vị trợ thực. Các tác dụng khác như giảm cholesterol máu, hạ huyết áp. Nấm Đông cô được dùng như một món rau khô gia vị cao cấp, còn được dùng làm thuốc chữa bệnh đại tiểu tiện ra máu. Ở Trung Quốc, nấm Đông cô được dùng điều tri chứng thủy thũng, tiểu tiện không thông, đau dạ dày, ruột, chứng ung thư và dự phòng xơ gan. -------------------- The last |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 21st June 2025 - 02:30 AM |