![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,148 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
Hay quá bà con ơi,
Hay hơn bản dịch của Phạm Đức Cẩn, đọc đi nè: HERMAN AIHARA Phạm Đức Cẩn biên dịch ![]() AXIT VÀ KIỀM Cẩm nang thực dưỡng ![]() (Tái bản lần thứ 3 có sửa chữa và bổ sung) Hiệu đính tiếng Anh: Bùi Xuân Trường NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Moderator Bài viết: 212 Gia nhập vào: 15-March 07 Thành viên thứ.: 11 ![]() |
3. Axít và Kiềm trong cơ thể người
Cơ thể chúng ta tiết ra hoặc duy trì nhiều loại dịch khác nhau. Độ pH của dịch là khác nhau. Dịch quan trọng nhất của cơ thể là máu, luôn phải có độ kiềm nhẹ. Bảng 1. Mẫu các giá trị pH Hoạt động của cơ thể sản sinh ra axít lactic và carbone dioxide (C02). Trong nước, carbon dioxide trở thành carbonic acid. Axít phốt-phoric và axít sulfuric cũngđược sinh ra trong cơ thể do sự ôxi hoá phốt-pho và sulfur có trong máu. Điều này khiến máu có tính axít. Mặt khác, các nguyên tố kiềm như Na, K, Mg và Ca được sử dụng nhiều, đặc biệt là trong rau củ. Dịch dạ dày mang tính axít, được tiết ra để tiêu hoá các thức ăn kiềm. Tính axít trong máu giảm đi nhờ có mật (mang tính kiềm) và nhờ việc ăn nhiều thức ăn thực vật tạo kiềm, làm cho máu kiềm tính. Nồng độ axít trong dung dịch phụ thuộc vào số lượng ion Hydro (H+). Cũng tương tự, nồng độ kiềm trong dung dịch phụ thuộc vào sự kết hợp giữa hydro (H) vàôxy (O); chúng được bổ sung điện tử tự do, tích điện âm và được gọi là ion hydrôxil (OH-) Nước tinh khiết ở nhiệt độ 22OC, thì trong 10.000 lít nước có 1 gram ion hydro, hay là hàm lượng hydro là bằng1/10 triệu (1/107 hay 10-7). Trong nước tinh khiết thì hàm lượng ion hydrôxil là 10-7. Thông thường, người ta dùng nồng độ pH = 7 để chỉ hàm lượng ion hydro. Nếu hàm lượng ion hydro trong dung dịch là 10-6 thìpH là 6, và nó có nghĩa dung dịch có khuynh hướng axít. Nếu hàm lượng ion hydro là 10-8 thì pH là 8. Do vậy, nếu pH lớn hơn 7, thì dung dịch có tính kiềm; nếu pHnhỏ hơn 7, thì dung dịch có tính axít. Độ pH trong máu là 7.4 có nghĩa là máu mang tính kiềm nhẹ. Độ kiềm này phải được duy trì ổn định, thậm chí các thay đổi nhỏ cũng có thể gây nguy hiểm. Nếulượng ion hydro trong máu tăng tới độ pH 6.95 (vừa vượt qua ranh giới sang axít) thì có thể gây hôn mê và dẫn đến chết. Nếu lượng ion hydro trong máu giảm từ pH 7.4 xuống pH 7.7 sẽ gây co giật. Nếu máu axít, tim bị giãn và tiến tới ngừng đập, và nếu máu nhiều kiềm quá thì cũng gây hậu quả ngược lại là tim co thắt vàngừng đập. Có hai hợp chất được hoà tan trong huyết thanh của chúng ta. Một là Natri Bicarbonate (NaHCO3) (kiềm) và hợp chất kia là Axít Carbonic (H2CO3) (axít dễ bay hơi). Nếu chúng ta tăng thêm lượng Axít Carbonic, như khi tập thể dục, thì máu có nhiều axít hơn. Nhưng nếu chúng ta thở sâu và nhanh trong vòng hai hay ba phút thì nồng độ CO2 trong hai lá phổi sẽ giảm, giúp phổi đào thải CO2 ra khỏi máu. Điều này có nghĩa H2CO3 trong máu mất CO2 và trở thành H2O, nhờ đó máu trởnên ít axít hơn và kiềm tính hơn. Còn một cách khác để cơ thể ngăn chặn việc tăng axít là thông qua đệm điều hòa máu. Đệm điều hòa máu là hỗn hợp giữa các axít yếu và các loại muối gốc mạnh.Đệm điều hòa máu giữ pH không dao động đến mức cực điểm và chống lại sự thay đổi lượng của ion hydro. Trong cuốn “Trí tuệ của cơ thể”, Cannon nói thêm vềđệm điều hòa này như sau: Nếu một axít không bay hơi như Axít Hydrochloric (HCl), hoặc Axít Lactic (HL) được đưa vào máu, nó sẽ kết hợp với Natri trong Natri Carbonate (NaHCO3) vàgiải phóng Carbone Dioxide (CO2) theo phương trình sau: HCl + NaHCO3 = NaCl + H2O + CO2 hay là: HL + NaHCO3 = NaL + H2O + CO2 (Chú thích: NaL là một loại kiềm được biến đổi từ HL, một loại axít). NaCl là muối ăn thông thường, trung tính, không độc hại. H2O và CO2 tạo ra Axít Carbonic (H2CO3) quen thuộc, dễ bay hơi. Sự tăng thêm axít mạnh như HCl hoặc HL chắc chắn sẽ khiến máu tạm thời nhiều axít hơn do tăng Axít Carbonic. Tuy nhiên như chúng ta đã biết, tăng CO2 kích thích trung tâm hô hấp, làm tăng nhanh lượng hơi thở để thải bỏ axít dư thừa - cả hai được sinh ra do sự chuyển hóa từ NaHCO3 trong phương trình trên, giờ đây lượng CO2 thừa ra do lượngNaHCO3 đã bị giảm. Ngay khi Carbon Dioxide (CO2) dư thừa được phổi đẩy ra ngoài, thì tỉ lệ giữa H2CO3 với NaHCO3 dần dần trở lại bình thường, phản ứng bình thường của máu được khôi phục và phổi dừng thở sâu hơn. Trong tình huống nêu trên, cho thấy Natri Bicarbonade (NaHCO3) có trong huyết thanh đã giúp bảo vệ máu tránh khỏi sự gia tăng axít đáng kể. Vì có khả năngđiều hoà này, nên NaHCO3 được gọi muối ‘điều hòa’. Còn có một loại muối điều hoà nữa có trong máu, đặc biệt là huyết cầu đỏ, là Natri phosphate kiềm(Na2HPO4). Khi lượng axít gia tăng trong máu, thì nó không chỉ được điều hòa bởi Natri Bicarbonate, mà bởi cả Natri phosphate kiềm, như được nêu trong phương trình sau: Na2HPO4 + HCl = NaH2PO4 + NaCl Một lần nữa chúng ta hãy lưu ý rằng, muối ăn thông thường (NaCl) đựơc tạo ra, thì cả Natri Phosphate axít (NaH2PO4 ) cũng được tạo ra. Và cả hai Natri Phosphate “kiềm” và Natri Phosphate “axít” đều là chất trung tính. Axít mạnh HCl thay đổi như thấy trong phương trình không làm thay đổi phản ứng của máu tớimức quan trọng thông qua biến đổi phosphate từ dạng kiềm thành axít. Tuy vậy, acid phosphate có phản ứng axít nhẹ và không được phép tích tụ trong hệ thống chất dịch. Không như Axít Carbonic, đây là thứ axít không bay hơi, do vậy không thể thở ra ngoài được. Trong trường hợp này, thận thực hiện chức năng hạn chế sự daođộng của axít và kiềm trong máu. Nếu lượng axít không bay hơi – cũng có nghĩa là không thể thở ra được, gia tăng trong máu, sẽ nguy hiểm do các muối ba-dơ cố định trong máu, đặc biệt là Natricó thể bị đào thải qua thận và cơ thể bị mất Natri. Trong điều kiện này, thật thú vị khi chúng ta thấy rằng Ammonia (NH3), một chất kiềm, có thể được sử dụng đểtrung hoà axít thay cho Natri. Ammonia là sản phẩm phế thải của quá trình tổng hợp hữu cơ, thường được biến đổi thành chất trung tính, nước tiểu, và bị đào thải. Tuy nhiên, việc mất các ba-dơ cố định như Na, Ca và K trở thành mối nguy hiểm, vì muối ammoniac được tạo ra và nạp vào máu, sau đó lọc qua tiểu cầu và thận. -------------------- Bài viết chỉ mang tính tham khảo.
|
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 7th July 2025 - 07:21 PM |