![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
THIỀN QUÁN Tiếng chuông vượt thời gian Nguyên tác: The Clock of Vipassana Has Struck Tác giả: Sayagyi U Ba Khin (1899- 1971) Chú giải và biên soạn: S.N. Goenka và Pierluigi Confalonieri Dịch giả: Tỳ kheo Thiện Minh -------------------------------------------------------------------------------- MỤC LỤC Lời Tựa Tri Ân Thầy Sayagyi U Ba Khin: Ngôi Sao Sáng Của Giáo Pháp Phần I - SAYAGYI U BA KHIN - CON NGƯỜI VÀ VỊ THẦY Chương Một Tiểu Sử Sayagyi U Ba Khin: Con Người Và Vị Thầy Một Ít Sự Kiện Trong Cuộc Ðời Sayagyi U Ba Khin Con người chánh trực trong thời loạn cũng như thời bình Giáo pháp làm biến đổi một bộ trong chánh quyền Dịu dàng như hoa hồng, cứng rắng như kim cương Hồi Ức của Một Số Học Trò của Sayagyi U Ba Khin Chú giải hiện đại về giáo pháp đức Phật Những đức tánh nhân bản của Sayagyi U Ba Khin Tính cách của một con người Ðánh giá trình độ trí thức của Sayagyi U Ba Khin Hỏi Và Trả Lời Chương Hai Dẫn Nhập Vào Thiền Vipassàna Nghệ Thuật Sống Kinh Nghiệm Tuệ Giác Chương Ba Lịch Sử Thiền Quán Vipassàna Những phương pháp trong lịch sử trước Sayagyi U Ba Khin Tóm Tắt Tiểu Sử Các Thiền Sư Ngay Trước Thời Sayagyi U Ba Khin Ledi Sayadaw Saya Thetgyi Chơi với lửa Webu Sayadaw Lần sơ ngộ của Webu sayadaw với Sayagyi U Ba Khin Hỏi Và Trả Lời Chương Bốn Những Ðặc Trưng Của Phương Pháp Sayagyi U Ba Khin Hỏi Và Trả Lời Phần II - CÁC TÁC PHẨM CỦA SAYAGYI U BA KHIN Chương Năm Những Ðiểm Cơ Bản Của Phật Pháp v.v... - Hiểu biết các phân tử - Các mức độ nhận thức - Cảm nghiệm về vô thường trong đời sống hằng ngày Hiểu Biết về Vô Thường Là Ðiều Quan Trọng Vô thường Chương Sáu Phật Giáo Là Gì Bài Giảng Số 1 (23 Tháng 9, 1951) - Vũ trụ - Sự chuẩn bị - Cuộc từ bỏ vĩ đại - Ði tìm chân lý - Thành Phật Bài Giảng Số 2 (30 Tháng 9, 1951) - Những lời giảng dạy của đức Phật - Con đường diệt khổ Bài Giảng Số 3 (14 Tháng 10, 1951) - Các cõi phạm thiên sắc giới và vô sắc giới - Các cõi dục - Cõi chư thiên - Thấp sanh - Thế giới loài người Hỏi Và Trả Lời Chương Bảy Những Giá Trị Ðích Thực Của Thiền Phật Giáo - Nền tảng của một người Phật tử - Cốt tủy của Phật pháp - Những kết quả của con đường thiền - Các quan hệ của con người - Những kết quả phụ Sự Giải Thoát Hướng Tới Níp- Bàn - Bài giảng về sự giải thoát - Giải thoát khỏi ba loại thế giới trần tục - Níp bàn- giải thoát thật sự - Tại sao bài giảng này gọi là Dhammacakka - Giáo lý giải thoát - Tâm quan trọng hơn cả - Làm chủ cái tâm - Bản tính đích thực - An lạc và thanh thản Hỏi Và Trả Lời Phần III - THỰC HÀNH THIỀN Chương Tám Khóa Học Mười Ngày - Khóa thực hành Vipassana mười ngày - Hướng Dẫn và Qui Luật của Khóa Thiền Mười Ngày - Thiền Vipassana không phải là - Thiền Vipassana là - Kỷ luật - Chấp nhận thầy dạy và kỷ luật - Các kỷ luật, nghi lễ và hình thức thờ phượng khác - Các tiếp xúc với bên ngoài - Nghe nhạc, đọc sách và viết - Thinh lặng cao thượng - Vấn đề tài chánh của khóa học - Chương trình - Ba ngày đầu - Ngày thứ tư - Từ ngày thứ năm đến ngày thứ chín - Ngày thứ mười Mười Tên Lính Của Ma Vương Hỏi Và Trả Lời Kết luận Từ Vựng Pàli- Việt Ðối Chiếu -------------------- The last |
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() The last... ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 1,324 Gia nhập vào: 10-February 07 Thành viên thứ.: 4 ![]() |
TÓM TẮT TIỂU SỬ NHỮNG THIỀN SƯ NGAY TRƯỚC THỜI U BA KHIN Ledi Sayadaw (1846-1923) Hòa thượng Ledi Sayadaw sinh năm 1846 tại làng Saing-pyin, thuộc thị trấn Dipeyin trong quận Shwebo (nay là quận Monywa) thuộc miền bắc Myanma. Ở làng cậu đi học ở trường nhà chùa do các bhikkhus (tì kheo) dạy các trẻ em đọc và viết bằng tiếng Miến cũng như dạy chúng đọc nhiều bản kinh Pàli. Năm 8 tuổi cậu bắt đầu theo học với người thầy đầu tiên của mình là sư thầy U Nanda-dhaja Sayadaw, và năm 15 tuổi trở thành một samanera (tập sinh) dưới sự trông coi của vị sư thầy này. Cậu lấy pháp danh là Nana-dhaja (ngọn cờ hiểu biết). Trong tu viện, cậu học cả văn phạm Pàli và nhiều bản văn của kinh điển Pàli. Sau này, dưới sự trông coi của Gandhama Sayadaw, chàng thanh niên Samanera Nana-dhaja đã thông thạo kinh Veda chỉ trong vòng tám tháng và tiếp tục học kinh Tam Tạng. Tới tuổi 20, ngày 20 tháng 4 năm 1866, cậu được thụ giới cao hơn để trở thành một tì kheo dưới quyền của thầy cũ của cậu, sư thầy U Nanda-dhaja Sayadaw, lúc này trở thành người hướng dẫn của cậu. Năm 1867, ngay trước kì nghỉ mùa mưa, tì kheo Nana-dhaja rời thầy của mình và vùng Monywa quê hương của mình để đến Mandalay và tiếp tục học tại đó. Mandalay là thủ đô của Myanma vào thời đó, dưới quyền cai trị của Vua Min Don Min (cai trị từ 1853-1878), và là trung tâm văn hóa quan trọng nhất của cả nước. Ông học tại đây với nhiều Sayadaw nổi tiếng, và cũng học cả các ngành học thuật thế tục. Ông chủ yếu sống tại tu viện Maha-Jotikarama và học với Hòa thượng San-Kyaung Sayadaw, một vị thầy nổi tiếng ở Myanma về việc dịch kinh Visuddhimagga (Thanh Tịnh Ðạo) sang tiếng Miến. Trong thời kì này, Hòa thượng San-Kyaung Sayadaw tổ chức một cuộc thi với 20 câu hỏi cho hai ngàn sinh viên. Tì kheo Nana-dhaja là thí sinh duy nhất trả lời thỏa đáng đủ cả 20 câu hỏi. Các câu trả lời được xuất bản sau này vào năm 1880, dưới tựa đề Pàramì-Dipani (Sách học về Ba la mật). Ðây là cuốn sách đầu tiên trong số nhiều sách bằng tiếng Pàli và Miến Ðiện được Hòa thượng Ledi Sayadaw xuất bản. Trong thời gian ông học tại Mandalay, vua Min Don Min bảo trợ cho Ðại hội kết tập kinh điển lần thứ năm, triệu tập các tì kheo từ khắp nơi về để đọc và đối chiếu kinh Tam Tạng. Ðại hội được tổ chức tại Mandalay năm 1871, và những bản văn được xác nhận đã được khắc vào 729 phiến đá cẩm thạch vẫn còn được giữ cho đến ngày nay (mỗi phiến kinh được đặt trong một ngôi chùa nhỏ) chung quanh ngôi Ðền Kuthodaw vàng ở chân núi Mandalay. Ở Ðại hội này, Tì kheo Nana-dhaja đã giúp đỡ trong công việc biên tập và dịch các bản văn Abhidhamma (Vi Diệu Pháp). Sau tám năm làm tì kheo, và sau khi đã qua tất cả các kì thi, Hòa thượng Nana-dhaja được chứng nhận làm giảng viên Pàli tập sự tại Tu viện San-Kyaung (cũng gọi là Tu viện Maha-Jotikarama) là nơi ông đã theo học trước đây. Ông ở lại đây trong tám năm, vừa dạy học vừa tiếp tục công việc nghiên cứu riêng của mình, cho tới năm 1882 thì trở về Monywa. Hồi đó Monywa là một trung tâm thị trấn nhỏ bên bờ phía đông con sông Chindwin, thị trấn này nổi tiếng về phương pháp giảng dạy bao gồm toàn bộ kinh Tam Tạng, chứ không chỉ dạy từng phần chọn lọc của kinh. Trong thời gian giảng dạy Pàli cho các tì kheo và tập sinh tại Monywa, thầy có thói quen ban ngày đi ra thị trấn để giảng dạy, còn ban đêm thầy đi qua bên bờ phía tây sông Chindwin để suy niệm trong một vihara (cái am) ở sườn núi Lak-pan-taung. Tuy chúng ta không có những tài liệu chắc chắn, nhưng có lẽ đây là thời kì thầy bắt đầu hành thiền Vipassāna theo lối truyền thống Miến Ðiện: luyện ànàpàna (hít thở) và vedanà (cảm thọ). Năm 1885 người Anh thôn tính miền thượng Myanma và bắt vị vua cuối cùng là Thibaw (cai trị từ 1878-1885) đi đày. Năm sau đó, 1886, Hòa thượng Nana-dhaja lui về ở ẩn trong rừng Ledi ở sát phía bắc Monywa. Sau một thời gian ngắn, nhiều tì kheo bắt đầu tìm đến xin thầy dạy họ. Một tu viện được dựng lên cho họ ở và lấy tên là Ledi-tawya. Cũng từ đó thầy lấy tên là Ledi, là tên gọi thầy được biết đến nhiều nhất: Ledi Sayadaw. Người ta nói sở dĩ Monywa đã trở thành thị trấn lớn như hôm nay là vì rất nhiều người bị thu hút đến tu viện của Ledi Sayadaw ở thị trấn này. Tuy thầy dạy cho nhiều học sinh thỉnh tu tại Ledi-tawya, nhưng thầy vẫn giữ thói quen sống ẩn dật tại cái am vihara của thầy bên kia sông để hành thiền. Sau khi thầy đã sống hơn mười năm ở tu viện Ledi trong rừng, các tác phẩm nghiên cứu chính của thầy bắt đầu được xuất bản. Tác phẩm đầu tiên là Paramattha-Dipani (Sách học về Pháp chân đế), xuất bản năm 1897. Cuốn thứ hai trong thời kì này là Nirutta Dipani, sách học văn phạm Pàli. Nhờ những sách này, thầy nổi danh là một trong những tu sĩ Phật giáo uyên bác nhất tại Myanma. Tuy Ledi Sayadaw trụ trì tại tu viện Ledi-tawya, thỉnh thoảng thầy cũng đi khắp nước Myanma để giảng dạy các khóa thiền và kinh Phật. Chính trong những chuyến du hành ngang dọc khắp Myanma mà thầy đã viết nhiều cuốn sách được xuất bản sau này. Ví dụ, thầy viết Paticca-samuppada Dipani trong hai ngày khi thầy đi thuyền từ Mandalay tới Prome. Thầy không có sách nào để tham khảo, nhưng thầy không cần vì thầy đã rất am tường kinh Tam Tạng. Trong tác phẩm Sách học về Phật giáo, có liệt kê cả thảy 26 sách thuộc loại học tập (dispanis), chú giải, tiểu luận, v.v... do thầy biên soạn, nhưng danh sách này chưa bao gồm đầy đủ các tác phẩm của thầy. Ledi Sayadaw thực là một tì kheo hiếm co,ù trổi vượt cả về pariyàtti (lí thuyết Dhamma, pháp học) lẫn patipatti (thực hành Dhamma, pháp hành). Sau này thầy cũng viết nhiều sách về Phật pháp bằng tiếng Miến. Thầy nói thầy muốn viết sao cho một người dân quê bình thường cũng có thể hiểu. Trước thời của thầy, người ta không quen viết về các đề tài Phật pháp mà người dân thường có thể hiểu. Thậm chí khi giảng dạy bằng miệng, các tì kheo cũng thường đọc lên những đoạn dài bằng tiếng Pàli rồi dịch từng chữ cả đoạn, làm cho những người bình thường khó có thể hiểu nổi. Ðó phải là sức mạnh của sự hiểu biết thực tiễn nơi Ledi Sayadaw và kết quả của lòng nhân hậu của thầy tràn ra trong ước muốn của thầy để truyền bá Phật pháp đến mọi tầng lớp trong xã hội. Nhờ quá nổi tiếng vừa là một học giả vừa là một thiền sư bậc thầy, nên thầy được chính quyền Anh của Ấn Ðộ, đang cai trị Miến Ðiện lúc đó, trao tặng danh hiệu Aggamahapandhita (Ðại học sĩ). Thầy cũng được nhận bằng Tiến sĩ văn chương của Ðại học Yangon, và các bản dịch một số bài thảo luận của thầy về các điểm trong Vi Diệu Pháp đã được xuất bản trong "Tạp Chí của Hội Pàli" tại Luân Ðôn. Vào những năm cuối đời, mắt của Hòa thượng Ledi Sayadaw bị suy yếu, có lẽ do những năm đọc sách, nghiên cứu, viết lách, thường với ánh sáng rất kém.Năm 73 tuổi thầy bị mù hoàn toàn và những năm còn lại của cuộc đời, thầy chỉ chuyên chăm vào việc suy niệm và dạy suy niệm. Thiền sư Ledi qua đời năm 1923 hưởng thọ 77 tuổi. Hòa thượng Ledi Sayadaw có lẽ là khuôn mặt Phật giáo xuất chúng của thời đại ông. Tất cả những ai đã tiếp xúc với Giáo pháp trong những năm gần đây đều nặng ân đối với vị tu sĩ uyên bác thánh thiện này, là người đã góp phần làm sống lại việc thực hành Vipassāna truyền thống, giúp cho cả những người xuất gia lẫn những người tại gia đều có thể dễ dàng thực hành nó. Ngoài khía cạnh quan trọng nhất này của những lời giảng dạy của ông, các tác phẩm ngắn gọn, sáng sủa, súc tích và uyên bác của ông cũng đã giúp làm sáng tỏ khía cạnh kinh nghiệm thực hành của Dhamma. Chim con được sinh ra từ lòng mẹ trước tiên trong hình quả trứng. Nó được sinh ra lần thứ hai khi đập bể vỏ trứng. Sau cùng khi đã đủ lông đủ cánh, nó được sinh ra từ tổ của nó để có thể bay đi khắp bốn phương trời. Ðối với các hành giả cũng thế. Trước tiên họ được sinh ra từ những suy tưởng mông lung của tâm trí, và chúng cứ đi theo họ mãi trong cái vòng luân hồi vô tận, qua việc thực hành niệm thân (kàyanupassannà) một cách thành công, hay bằng việc thực hành suy niệm thanh thản. Thứ hai, khi họ đạt được năng lực quán sát (Vipassāna) thân, tâm, các thực tại kết hợp (rùpa (sắc), nama (danh), khandhà (uẩn), v.v..., họ được thoát khỏi mức độ ngu dốt thô thiển. Sau cùng, khi bảy yếu tố giác ngộ (bojjhaíga) phát triển và chín mùi, họ hoàn toàn trưởng thành bằng việc đạt sự hiểu biết về đạo siêu thế (lokuttara-magga-nana) gọi là sambodhi (toàn giác). Như thế họ được sinh ra từ tình trạng vật chất thế tục (puthujjana), đạt tới tình trạng các chân lí cao thượng (ariyà) -- tình trạng siêu thế: nibbàna – Níp bàn. -- Trích "Những Ðòi Hỏi của Giác Ngộ" (Bodhipakkhiya Dipani) của Hòa thượng Ledi Sayadaw. -------------------- The last |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 28th June 2025 - 12:26 AM |