IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> ỨNG DỤNG CỦA ÂM VÀ DƯƠNG TRONG ĐỜI SỐNG?, Chuyện kể của Ngọc Trâm
Diệu Minh
bài Jul 13 2007, 10:11 AM
Bài viết #1


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,192
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



Bạn là ai? bạn sống trên trái đất này là để làm gì?
Là một câu hỏi lớn lao xuyên suốt một đời người ta...

Bây giờ bạn hãy để ý tới điều này:

Nếu bạn là người rất hay lam hay làm, rất chi là chịu thương chịu khó, thích cống hiến... thế thì ắt bạn sinh ra một "quí tử lười" và người phối ngẫu của bạn ắt cũng là một đại lãn, thích hưởng lạc...

Điều này nữa cũng nằm trong 7 nguyên lý của trật tự vũ trụ: cực âm sinh dương... nếu bạn sành điệu về âm và dương thì đi tới đâu cũng chỉ thấy âm và dương.

Ghét của nào trời trao của đó là vậy...

Làm sao bây giờ?
Tiên sinh Ohsawa đưa ra một loạt thức ăn đã được phân theo khoa học về sự âm hay dương, về a xít hay kiềm để tiến tới việc giúp người nối trợ tạo ra một món ăn quân bình, một bữa ăn quân bình một thân thể quân bình... vì thế người nội trợ vô cùng quan trọng... nghề nấu ăn vô cùng cao quí, có thể nói nó chỉ có thể đứng sau một vị minh sư trên trái đất...

Vì biết tới chỗ thần mật này Đức Thích Ca lấy ví dụ về dây đàn cho người làm đàn, người chơi đàn: dây căng quá thì âm thanh chói tai, dây chùng quá thì không nghe ra được âm thanh lý tưởng...
Và Ngài nhắm tới cái đích: làm sao để đạt được thứ tâm quân bình - tâm bình thường là Đạo, tâm xả: thứ tâm quan trọng trên hành trình tâm linh; thứ tâm này sinh ra kểt quả là trí tuệ siêu xuất...

Bây giờ bạn hãy tự mình khám phá ra xem mình thuộc âm hay dương?


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
Diệu Minh
bài May 11 2008, 10:07 AM
Bài viết #2


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,192
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



Ở đâu có âm ở đó có dương: ở đâu có bóc lột ở đó có người muốn giải thoát khỏi ách thống trị...
Ở đâu có người như Đức Phật ở đó có Đề Bà Đạt Đa, ở đâu có người như Đức Chúa ở đó có Judas..
Cho nên ở đâu có âm ở đó có dương.
Âm và Dương là hai cánh tay của vô cực.
Âm và Dương không có gì xấu tốt hay dở được mất... chỉ là tục đế khái niệm để giao lưu hiểu ý quên lời, để cho trăm sông đều đổ về biển. Để cho mọi rắc rối được hoá giải...

Âm làm cho chúng ta không thể tập trung làm việc nói chi hành thiền đối tượng lại quá gần: thân thể của chính ta, đối tượng lại là những cảm thọ vi tế ngay trên da thịt mình và các luồng khí ngay trong người mình và các dòng tâm trôi chảy trong ngoài thân...
Như thế nếu không có đủ lực dương của sự hoà bình và an ninh (lấy từ ngũ cốc, rau củ, đỗ hạt và các loại cây thuốc nam, thuốc bắc...) mà lại mượn lực dương của thịt cá thì ta không thể nào mường tượng được chuyện ngày mai đem tới cho ta những gì... nhiều người tới kể chuyện cho tôi hay là từ khi họ thay đổi ăn uống thì tư duy của họ cũng thay đổi theo và những ý nghĩ và tư tưởng cũ biến đi đằng nào...
Hãy mở quyển sách Phòng và trị bệnh bằng PP dưỡng sinh Ohsawa bạn sẽ biết thế nào là âm và dương và lần mò để nắm vững các quy luật này....
Hãy mở quyển a xít và kiềm ra để biết được thức ăn nào tạo kiềm dương và kiềm âm và thức ăn nào tạo a xit dương và tạo a xít âm...
Như thế bạn có thể biến một món dương thành âm và ngược lại...

Biến một người hung hăng thành mát tính...

Tôi nhớ một sư thầy nữ đang quát tháo đùng đùng hổ lửa... ấy thế mà 2 người bạn trẻ của tôi tới chùa chơi... lập tức thấy như là người khác.... tôi có một người bạn đạo khi tới chùa thầy trụ trì cũng quí nhất mà không ai biết, tới khi người bạn này đi khỏi thì thầy trụ trì chỉ hỏi thăm mỗi mình người bạn đó, cũng không ra ngoài âm và dương... có những người đàn bà rất chi là dương và có những người đàn ông rất chi là âm...
Cho nên có những người làm cho ta hài hoà và có những người làm cho ta lộn máu là sao? là vì ta và họ hơi giống nhau thì ghét lẫn nhau theo qui luật âm đẩy âm dương đẩy dương....

Ghét của nào trời trao của đó... bạn đừng dại mà không học đạo để giải thoát khỏi các cảm xúc mạnh vì nó chả phải là ta là của ta....

Sáng nay tâm tôi muốn khiêu khích và miệng tôi muốn nói một vài lời... với một người tôi vốn không ưa... nhưng nhìn được dòng tâm đó tôi đã giữ im lặng và chẳng có ai giữ cả, chánh niệm nhận ra thôi còn tôi chỉ là người quan sát. Chẳng có cái tôi nào cả... nếu không kéo nhận ra thì lại lạc lối ngay ở cái chỗ này....


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post
huynhdoan2000
bài Sep 7 2008, 09:11 PM
Bài viết #3


Hội viên năng động
***

Nhóm: Members
Bài viết: 1,189
Gia nhập vào: 21-January 08
Thành viên thứ.: 203



NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH TRONG VŨ TRỤ QUAN TRUNG HOA
a) Lược sử:
Thuyết âm Dương Ngũ hành đã được đề cập đến trong một tác phẩm thành văn tối cổ Trung Hoa là kinh Dịch. Tuy vậy, kinh Dịch của Khổng Tử chỉ là sự thâu nhập các kiến thức và quan niệm của người xưa từ thời vua Phục Hy lưu truyền đến đời Khổng Tử. Khổng Tử chỉ góp nhặt và suy diễn thêm cho thành một hệ thống và ghi lại thành văn bản cho hậu thế mà thôi. Theo truyền thuyết, người đầu tiên nhận thức được các lẽ âm dương biến hoá của Trời Đất, vạn vật là vua Phục Hy (khoảng 44 thế kỷ trước Tây lịch), người minh thị đề cập đến cái dụng của Ngũ hành là vua Hạ Vũ (khoảng 22 thế kỷ trước Tây lịch). Đến thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, tại nước Tề (nay là tỉnh Sơn Đông) có học giả Trâu Diễn, căn cứ vào Kinh Dịch, đã phổ biến hết tinh thần và công dụng của Âm dương, ngũ hành không những vào sự vật thiên nhiên mà còn cả vào việc người nữa. Do đó, người đời sau coi Trâu Diễm như người khai sáng ra phái Âm Dương. Phái này chính là nguồn gốc của phái Lý Số do các học giả đời Tống sau này sáng lập. Đến đời Hán, học giả Dương Hùng (53 trước Tây lịch - 20 Tây lịch) tham bác kinh Dịch và Đạo đức kinh mở ra ngành Lý số học sơ khai qua tác phẩm Thái huyền kinh.Đến đời Tống sơ (khoảng thế kỷ thứ 10) một nhân vật đạo gia kiêm nho gia là Trần Đoàn tự là Đồ Nam, hiệu là Hi Di tiên sinh, tinh thông cả Lý Số học của các nhà đi trước đã tổng hợp các kiến giả về lý Thái cực của vũ trụ, lấy tượng số mà xét sự vận chuyển của Trời Đất, suy diễn ra hành động của vạn vật rồi áp dụng các hệ quả của Lý thái cực vào Nhân tướng học đế giải đoán tâm tình, vận số của con người , mở đầu cho Lý Số và Tướng số học. Từ đó về sau, quan niệm Âm Dương, Ngũ hành được áp dụng rộng rãi vào Nhân tướng học và thành ra một thành tố bất khả phân trong tướng thuật.
cool.gif Nội dung của Thuyết âm Dương, Ngũ hành
Theo cổ nhân Trung Hoa, lúc đầu vũ trụ chỉ là một khối hỗn độn, không có hình dạng rõ ràng được gọi là thời Hỗn mạng. Trong sư Hỗn mạng đó, bàng bạc cái lẽ vô linh linh diệu gọi là Thái cực. (Sở dĩ gọi là Thái cực vì nó huyền bí và vô tận nên không thể xác định rõ bản thế cuả nó ra sao). Tuy nhiên, dẫu không biết được chân tính và chân chất của cái lẽ Thái cực huyền vi song ta có thể dựa vào sự quan sát về tính cách biến hoá của vạn vật mà suy ra được cái đông thể của Thái cực. Căn bản của sự chuyển biến hoá được biểu lộ bằng hai trạng thái tương phản là Động và Tĩnh. Động gọi là Dương, Tĩnh gọi là Âm. Dương lên đến cực độ thì lại biến ra Âm. Hai cái trạng thái tương đối của cái Bản thể nguyên khởi duy nhất (Thái cực) cứ tiếp diễn mãi, điều hợp với nhau, sinh sinh hoá hoá không ngừng mà sinh ra Trời, Đất, Người cùng vạn vật. Vì Âm Dương phối hợp, đun đẩy lẫn nhau nên có sự biến chuyển. Sự biến chuyển chính là nền tảng của Dịch. Do đó, trong phần chú giải kinh Dịch, Khổng Tử đã nói” Âm nhu Dương Cương, Cương nhu tương thôi sinh nhi biến hoá” (Nghĩa là Âm thì mềm, Dương thì cứng, cứng mềm đun đẩy lẫn nhau chuyển hoá thành thiên hình vạn trạng). Theo cổ nhân, mỗi chu trình gồm bốn giai đoạn: a) Nguyên: Khởi đầu của sự biến hoá cool.gif Hạnh: Sự thông đạt, hội hợp các thành tố c) Lợi: Sự thỏa đáng các điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng d) Trinh: Sự thành tựu chung cuộc của một chu trình sinh ra sự vật .
Biến hoá là ngoại biểu của Thái cực mà đạo Dịch căn cứ trên sự biến hoá của vũ trụ và vạn vật. Do đó, Kinh Dịch mô tả diễn trình chuyển hoá (Dịch) một cách khái quát như sau: “ Dịch hữu Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh Ngũ hành: Đạo Dịch có nguồn gốc là Thái cực, Thái cực sinh ra hai Nghi (Âm và Dương) hai Nghi sinh ra bốn Tượng (bốn trạng thái tượng trưng bằng bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông) bốn tượng sinh ra tám Quẻ (Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài) tượng trưng cho Trời, Đầm, Lửa, Sấm, Gió, Núi, Nước, Đất) tám Quẻ sinh ra năm Hành (năm loại nguyên tố cấu tạo ra vạn vật hữu hình Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Khởi đầu của sự biến hoá rất đơn giản, rồi từ cái đơn giản đó mà chuyển hoá dần dần để thành ra phồn tạp. Vì Âm Dương là hai thành tố đầu tiên của vũ trụ, nên được Kinh Dịch chọn là biểu tượng căn bản và tượng trưng bằng hai cái vạch đơn giản: a) Vạch liên tục tượng trưng cho Dương
cool.gif Vạch gián đoạn ( - - ) tượng trưng cho Âm
Trong phép biến đổi hoá để sinh ra Bát quái, hai vạch tượng trưng cho Âm Dương lần lượt chồng chất lên nhau theo nền tảng tam tài mà thành ra tám Quẻ căn bản với hình dạng và ý nghĩa tượng trưng sau đây:
1 - Kiền tượng trưng cho Trời
2 - Đoài tượng trưng cho Đầm, Ao
3 - Ly tượng trưng cho Lửa
4 - Chấn tượng trưng cho Sấm
5 - Tốn tượng trưng cho Gió
6 - Cấn tượng trưng cho Núi
7 - Khảm tượng trưng cho Nước
8 - Khôn tượng trưng cho Đất
Đó là tám Quẻ nguyên thủy gọi là” Tiên thiên Bát quái” do vua Phục Hy (4477 - 4363) trước Tây lịch vạch ra để giải thích cái lẽ Âm Dương biến hoá của Thái cực. Về sau vua Hạ Vũ (2205 - 2163 trước Tây lịch) đặt ra Cửu trù (chín pháp lớn) phối hợp với Bát quái và tính cái số của Ngũ hành trong việc giải thích lẽ biến hoá của vũ trụ và vạn vật. Tới đời Tây Chu, vua Văn Vương, trong thời gian bị giam ở ngục Dũ Lý (khoảng thế kỷ 11 trước Tây lịch) đã dành thì giờ nhàn rỗi diễn lại các quẻ tiên thiên Bát quái của Phục Hy thành tám quẻ, Bát quái mới gọi là hậu thiên Bát quái với các ý nghĩa thiên về nhân sự để dùng vào việc bói toán và suy gẫm việc người. Con Văn Vương là Chu Công Đán về sau có giải thích thêm đôi chút về ý nghĩa và công dụng của kẻ Bát quái, nhưng rất ngắn và mơ hồ, chỉ có các kẻ có thiên tư đặc biệt tâm truyền mới có ánh mắt hiểu được. Tình trạng của Dịch lý từ thượng cổ đến trước khi Khổng Tử ra đời chỉ có như thế mà thôi. Đến đời Đông Chu, Khổng Tử (511 - 478 trước Tây lịch) đem kiến giải của mình bổ xung vào các điều truyền lại của Dịch lý đời Chu, san định lại và viết thành Kinh Dịch trong đó bao gồm cả Âm Dương, Bát quái và Ngũ hành. Căn cứ theo ý nghĩa thông thường, cổ nhân gán cho Âm Dương Ngũ hành, các ý nghĩa tượng trưng sau đây: Dương: Tượng trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng, sinh động, cứng cát, ban ngày, đàn ông ….. Âm: Tượng trưng cho mặt trăng, tối tăm, nguội lạnh, bất động, mềm nhão, ban đêm, đàn bà ….
Kim: Vàng, bạc, hiểu rộng ra là tất cả các chất kim thuộc
Mộc: Cây trong rừng, nói tổng quát ra là mọi thực vật trên mặt đất
Thủy: Nước và nói rộng ra là các chất lỏng
Hỏa: Lửa, hơi ấm
Thổ: Đất đá, nói chung Thổ bao gồm mọi loại khoáng chất trừ kim loại
Về phương diện siêu hình. Âm Dương không phải là cái khí vật chất hữu hình hữu thể mà chỉ là biểu thị tượng trưng cho hai trạng thái tương đối, mâu thuẫn như nóng lạnh, sáng với tối, cứng với mềm, sinh với diệt, khoẻ với yếu …. Về phương diện ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành, ta cũng đi đến kết quả tương tự .Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ ngoài tính cách vật chất của nó kể trên có một ý nghĩa tượng trương có tính cách tương sinh tương khắc trong sự biến hoá của muôn vật diễn ra hàng ngày trước mắt. Trong tướng học, người ta rất chú trọng đến Ngũ hành và thường hiểu Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ theo cả hai ý nghĩa: vật chất lẫn siêu hình qua sự tượng hình chuyển ý của văn tự từ nghĩa hẹp đến nghĩa rộng.
c) Ảnh hưởng của thuyết ngũ hành trong nhân sinh quan Trung Hoa
Từ quan niệm là một lý thuyết triết học thuộc phần Hình nhi thượng từ đời Tống trở đi, Âm Dương thuộc Ngũ hành được đem áp dụng vào lãnh vực Hình nhi hạ. Đại đa số học giả Trung Hoa và các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng văn hoá sâu đậm của Trung Hoa đã dùng lý thuyết Ngũ Hành đem giải thích và gán ghép các đặc tính của vật chất được siêu hình hoá của Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vào các lãnh vực thường dụng của nhân loại, điển hình là các trường hợp sau đây:
1 - Phương hướng, màu sắc, bốn mùa
1a) Mộc tượng trưng cho Mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông Mùa Xuân khí hậu mát mẻ như sương buổi ban mai, biểu hiện khởi đầu của một chu trình biến hoá mới của vạn vận bắt đầu hồi sinh và tăng trưởng. Mặt đất về Mùa Xuân, đâu đâu cũng một màu xanh thắm, Thái dương bắt đầu mọc ở phương đông. Tất cả đều bàng bạc ý nghĩa của Âm Dương tương thôi với Dương lấn lướt Âm một cách tương đối trong cái trung dung của Âm Dương (Âm Dương tỷ hoà thì vạn vật mới sinh). Do đó, cổ nhân đã lấy Mộc tượng trưng cho mùa Xuân, màu Xanh, phương Đông.
1b) Hỏa biểu thị mùa Hạ, màu Đỏ, phương Nam Mùa hè nóng nực bức như lửa thiêu, Dương cương lên đến cùng cực. Hoa lá đặc trưng của mùa này như lụa và phượng vĩ trổ bông màu đỏ, phương Nam gần như ấm áp quanh năm nên Hỏa tượng trưng cho mùa Hạ, màu Đỏ và phương Nam vậy.
1c) Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu Trắng, phương Tây Mùa Thu là giai đoạn cho Âm Dương tương thôi bình hoà khí trời nóng quá, không lạnh lắm, nhưng Dương cương bắt đầu suy, Âm nhu bắt đầu thịnh. Mặt trời lặn ở phương Tây sau khi đã mọc ở Phương Đông. Trời Mùa Thu thường có mây trắng ngà bao phủ, nên cổ nhân mới nhân đó mà chọn Kim tiêu biểu cho mùa Thu, màu trắng và phương Tây. Nói khác đi, theo Ngũ hành thì mùa Thu, sắc trắng phương Tây thuộc Kim.
1d) Thủy tiêu biểu cho mùa Đông, màu đen, phương Bắc Hiện tượng độc đáo nhất của mùa Đông là tuyết rơi, giá buốt, cảnh vật ảm đạm, cửa nẻo đóng kín, tối tăm. Tuyết là một trạng thái của nước, phương Bắc thường hay có tuyết nên với tinh thần tượng hình, chuyển ý, cổ nhân Trung Hoa chọn hành Thủy để tượng trưng cho mùa Đông, màu Đen, phương Bắc.
1e) Thổ tiêu biểu cho Đất, màu Vàng, Trung ương Người Tàu phát tích ở lưu vực sông Hoàng Hà, đất đai ở đây màu vàng (hoàng thổ) nên dựa vào sự vật để định tên, lấy đất tiêu biểu cho chất Thổ và màu vàng tượng trưng cho sắc Thổ. Bởi người Tàu lấy địa phương của họ làm trung tâm quan sát, tự coi mình là người trung Thổ, danh xưng là Trung quốc nên màu vàng, vàng là màu trung ương, Thổ là Hành chủ bao gồm cả bốn hành còn lại với lý do Địa tải sơn hà vạn vật (Sông núi, muôn loài vạn vật đều do đất chứa đựng).
2 - Năm đức tính căn bản của con người
Trên bình diện đạo đức, năm đức tính căn bản để phân định kẻ lương tri với kẻ bại hoại là Nhân Nghĩa Lễ Trí và Tín, gọi chung là Ngũ thường. Dựa vào ý nghĩa siêu hình của Ngũ hành và đặc tính bao quát của Ngũ thường người ta đã đi đến chỗ Ngũ hành hoá Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín.
2a) Nhân ứng với Mộc: Nhân chủ ở chỗ thanh tĩnh, ung dung tự tại, không cạnh tranh bao dung và đãi người đồng đẳng. Thảo mộc, vốn không di động cạnh tranh, loài tùng bách quanh năm xanh tươ, bất chấp gió sương, nóng lạnh, tượng trưng cho thái độ an tĩnh, ung dung tự tại. Cây cỏ còn để người che mưa tránh nắng, không phân biệt một ai. Hoa quả trong chốn sơn lâm ai thưởng thức cũng được. Cái đức tự nhiên lưu hành của thảo mộc tương tự như đức Nhân của bậc thức giả nên Mộc được coi là biểu tượng của đức Nhân ở nhân loại. Do ở ý nghĩa mà Khổng Tử đã nói” Nhân giả nhạo sơn (Bậc nhân giả thích núi) vì trên núi có thảo mộc tượng trưng cho đức Nhân của tạo vật.
2b) Nghĩa ứng với Kim: Luôn luôn thích ứng với phép tắc thiên nhiên hoặc công lý, hằng cửu, không biến chất, cứng cỏi không sờn. Đó là những ý nghĩa bao quát của Nghĩa. Loài Kim thuộc như vàng luôn luôn giữ mãi vẻ sáng cứng rắn, khuyết biết tiết, dù ở nơi này hay nơi khác, lúc nào cũng vậy, phảng phất ý nghĩa của đức Nghĩa nên cổ nhân lấy Kim tượng trưng cho Nghĩa.
2c) Lễ ứng với Hỏa: Lễ gồm chung tất cả những gì soi sáng khuôn phép, tạo nên tôn trọng duy trì diềng mối, phát huy chân lý tự nhiên lưu hành, Tế tự là một hình thức cụ thể của Lễ, biểu dương sự tôn kính. Một trong những cái ứng dụng của Hỏa là soi sáng tại nơi, làm hiển lộng cái tôn kính quỷ thần của con người nên cái dụng (về phương diện ý nghĩa triết học) của Hoả và Lễ tương đồng, nên Lễ ứng với Hoả.
2d) Trí ứng với Thủy: Kẻ trí không điều gì là không thấu triệt, nước không đâu là không thông qua. Cái đức của Trí và Nước có sự tương đồng đại lược nên người xưa đã nói một cách đầy biểu tượng” Trí giả nhao Thủy” (Bậc trí giả thích nước). Do đó, Thủy tượng trưng cho Trí.
2e) Tín ứng với Thổ: Bản chất của Thổ là không bao giờ sai chạy. Thảo mộc dựa vào đất mà sống và đất cứ theo từng mùa nhất định mà thúc đẩy sự sinh diệt của cây cối theo đúng chu trình chuyển hoá tự nhiên của tạo vật, không bao giờ sai chạy. Do đó, so với Tín thì bản chất của Tín và Thổ về ý nghĩa tổng quát có những nét tướng đồng.
3 - Năm cung bậc trong âm nhạc
a) Cung (âm thấp nhất) ứng với Thổ
cool.gif cool.gif Thương ứng với Kim
c) c) Giốc ứng với Mộc
d) d) Chủy ứng với Hỏa
e) e) Vũ ứng với Thủy

ỨNG DỤNG CỦA ÂM DƯƠNG TRONG TƯỚNG HỌC
Âm Dương trong nhân tướng học không có tính cách cứng nhắc như thế nhân vẫn tưởng mà lại rất tương đối. Ngửa lên gọi là Dương, úp xuống gọi là Âm, cứng là Dương, mềm là Âm …….Nói một cách tổng quát thì Trời có Âm Dương. Đàn ông được xem là Dương, đàn bà là Âm, nhưng chỉ là điều khái lược. Trong mỗi con người lại cũng có phân biệt Âm và Dương nữa. Toàn thể thân thể đàn ông là Âm, nhưng bộ phận sinh dục lại là Dương nên có tên là dương vật. Toàn thể đàn bà là Dương, nhưng bộ phận sinh dục lại là Âm nên mới có danh là âm hộ. Xương được coi là Dương, thịt được coi là Âm Phía mặt bên trái là Dương, phía mặt bên phải là Âm Phía trên của khuôn mặt (kể từ chính giữa thần mũi) thuộc Dương, phía dưới thuộc Âm. Phần thân trước là Dương, phần thân sau là Âm Trong khu vực thuộc mắt, phần trên là Dương, phần dưới coi là Âm, mắt trái là Dương, mắt phải là Âm Những phần lồi lõm của xương khuôn mặt là Dương, những phần trũng xuống coi là Âm. Dương thì lộ liễu và hướng lên. Âm thì ẩn tàng và hướng xuống. Dương cốt ở an hoà, Âm cốt ngay ngắn, Dương chủ về cứng rắn, Âm chủ về mềm mại. Âm Dương trong mỗi con người cần phải Hòa, phải Thuận, Hoà có nghĩa là xương ngay ngắn, không lệch, không cong, thần khí thanh nhã. Thuận là thịt phải được phân bố đều đặn khắp châu thân. Âm Dương thuận hoà chủ về phúc thọ. Nếu như xương lộ mà không ngay ngắn, thịt chỗ nhiều chỗ ít không hợp lẽ tự nhiên (chẳng hạn bộ phận này quá nhiều thịt, bộ phận kia lại quá cằn cỗi) thì gọi là Âm Dương không thuận hoà. Hoặc Âm thịnh Dương suy (thịt nhiều mà bệu, xương lại nhỏ và yếu, không cân xứng) hoặc Dương cường Âm nhược (cốt lộ, thịt ít) đều là các tướng phản lại nguyên tắc Âm Dương thuận hoà: chủ về hung hiểm bất tường. Nói một cách tổng quát, vô luận nam nữ, trong mỗi con người (hình tướng, tính cách, khí sắc, thanh âm, phần vô hình cũng như phần hữu hình) đều bị nguyên lý Âm Dương chi phối. Đàn ông bản chất vốn Dương nhưng cần phải có Âm thích nghi điều hoà. Đàn bà vốn thuộc Âm nhưng phải có Dương để phụ giúp. Nếu khống thế, đàn ông chỉ có thể Dương thuần mà không có Âm chất thì sẽ mất sự khống chế cần thiết, đàn bà chỉ có Âm nhung mà không có Dương chất thêm vào thì trở thành quá mềm yếu và không tự tiến triển được. Tuy nhiên dù Dương thuận phải có Âm chất để điều hoà cho thích nghi nhưng Âm không được lấn át phần Dương. Nếu Âm chất thái quá người ta gọi là Dương sai. Âm nhu tuy phải cần Dương cương để tiết giảm phần xấu và phát huy phần tốt nhưng nếu phần Dương lấn át hẳn phần Âm (vốn là phần căn bản) thì trường hợp đó mệnh danh là Âm thác. Nguyên tắc tổng quát trên áp dụng cho tất cả các bộ vị trọng yếu trong con người. Nghĩa là các bộ vị không được vi phạm các điều cấm kỵ của nguyên lý Âm Dương thích nghi. Nói khác đi, không được phạm vào Âm thác hoặc Dương sai. Đi sâu vào phần chi tiết ta phân biệt:
a) Dương hoà: Tính cách Dương mạnh mẽ nhưng được tiết chế đúng mức cần thiết thì gọi là Dương hoà, Dương hoà bao gồm:
- Đầu tròn, đỉnh đầu bằng phẳng
- Đầu hơi có góc cạnh, mặt hơi vuông vức, trán có xương tròn nổi lên rất rõ
- Ngũ nhạc nổi nhưng không quá lộ liễu, Sơn căn nổi khá cao gần ăn thẳng lên Ấn đường
- Lông mày mọc xếch lên cao và có uy lực, lông mày hơi có góc cạnh (hình thù lông mày gập cong lại như hình chữ, chứ không cong như hình bán nguyệt hoặc thẳng như chữ)
- Sợi lông mày hơi hướng về phía trên
- Mắt có chiều dài rõ rệt và có tụ thần
- Sắc diện hoà ái, chẳng cần phải lập uy mà vẫn có vẻ oai nghiêm tự nhiên
- Nói năng mau chậm thích nghi với từng câu chuyện, tư tưởng khoáng đạt, lâm sự quyết đoán chuẩn xác, xử trí quang minh, đi đứng thung dung.
cool.gif Âm thuận Tính cách Âm rất rõ ràng nhưng không quá ủy mị hèn yếu thì gọi là Âm thuận. Được coi là Âm thuận khi:
- Đầu tròn, mặt hơi vuông nhưng vẫn không xoá hẳn được những nét tròn trịa
- Ngũ nhạc đều có dáng phảng phất hình tròn (nhưng không nổi bật các nét tròn đó)
- Sơn căn mạnh mẽ có thế. Án đường bằng phẳng, rộng
- Lông mày hơi cong mà mắt lại hơi dài (không được quá dài)
- Tiếng nói hơi nhỏ nhưng âm thanh rổn rản trong trẻo
- Nói năng từ tốn, nhưng không chậm, phản ứng không nhanh nhưng không quá trễ hoặc lỳ lợm
- Sắc diện hoà nhã khiến người ngoài dễ sinh thiện cảm
- Xử sự ôn hoà
c) Kháng Dương Tính cách Dương quá mạnh không có sự tiết chế đúng mức thì gọi là Kháng Dương. Các chỉ dấu của Kháng Dương bao gồm:
- Đầu tròn nhưng đỉnh đầu nhọn
- Mặt có những bộ vị nổi tròn thành từng cục
- Ngũ nhạc nổi tròn mà đầu có dạng nhọn, nhỏ
- Lông mày ngắn mà cong vòng hoặc ngắn mà thế của mày lại hướng lên
- Mắt lồi và tia mắt long lanh
- Tai nhọn và dựng đứng
- Tiếng nói lớn nhưng giọng điệu quê kệch hoặc giọng rè
- Tính tình nóng nảy thô bạo, xử sự sơ xuất, không nghĩ trước, không lo sau khiến người quan sát thoáng qua đã nhận được ngay sự thô lỗ.
d) Cô Âm Chỉ có những cách Âm thuần túy mà không có Dương tính để hỗ trợ thì gọi là Cô Âm. Đặc tính này được phát hiện ra ngoài qua các dấu hiệu sau đây:
- Toàn thể đầu và khuôn mặt đều chỉ có hình vuông, hoặc thiên về hình vuông, hoặc đầu lớn mà khuôn mặt lại quá nhỏ không tương xứng
- Chính diện thì nhìn thấy bằng phẳng mà trắc diện lại thấy ở phần giữa lõm xuống
- Mắt sâu mà lông mày mọc lan xuống tận bờ mắt hoặc mắt sâu mà xương lông mày thô, hoặc lông mày quá đậm mà ngắn
- Râu ria quá râm rạp, không thích nghi với tóc
- Tiếng nói như có vẻ khò khè ở cuống họng, điệu nói chậm rãi mà trong đó lại xen kẽ âm thanh chói tai hoặc thanh mà đứt đoạn
- Sắc diện lúc nào cũng có vẻ u uất, xử sự quá tính toán, cân nhắc khiến người ngoài thoáng thấy đã nhận ra ngay là con người ác hiểm.
d) Âm thác, Dương sai Bản chất căn bản là Âm nhưng pha trộn quá nhiều Dương tính khiến phần Âm trở thành thứ yếu thì gọi là Âm thác. Ngược lạ, bản chất căn bản là Dương mà Dương tính quá yếu khiến Âm chất lấn át rõ rệt thì gọi là Dương sai. Dưới đây là các dấu hiệu bề ngoài của các hiện tượng trên
--Đầu tròn thuộc Dương, mặt vuông thuộc Âm, phía trước mặt thuộc Dương, phía sau gáy (ót) thuộc Âm cho nên đầu lớn mặt nhỏ, phía trước lớn mà phía sau nhỏ thì gọi là Dương sai
--Đầu vuông thuộc Âm, mặt tròn thuộc Dương, nếu như hai phần đó quá sai lệch thì gọi là Âm thác
--Phần lồi trên khuôn mặt thuộc Dương, phần lõm trên khuôn mặt thuộc Âm. Do đó, nếu Đông Tây Nam Bắc Nhạc nảy nở, cao ráo mà Trung nhạc lại trũng xuống thì gọi là Dương sai. Trái lại, bốn Nhạc phụ tuỳ đều trũng xuống hoặc bị phá hãm chỉ có Trung nhạc nổi cao một mình thì gọi là Âm thác
--- Chỉ có xương mà không có thịt, mắt lộ mà không có lông mày người lớn, tiếng nhỏ gọi là Dương sai
--Có quá nhiều thịt mà thiếu xương, lông mày rậm rạp lam xuống bờ mắt, chân tóc mọc thấp, Thiên thương hẹp, nhiều râu ria mà giọng nói khô khan ……đều được mệnh danh là Âm thác
--Mặt tuy lớn, nhưng sắc ảm đạm, thân hình tuy có vẻ nam tính mà bước chân lệch lạc ẻo lả như con gái thì gọi là Dương sai.
--Thân hình nữ mà cử chỉ mạnh bạo cứng cỏi như nam giới thì gọi là Âm thác

Tóm lại, vấn đề Âm thác, Dương sai rất phức tạp, khó mà lĩnh hội toàn vẹn nếu không có kiến giải sâu rộng, quan sát tinh tế. Chương này chú trọng đặc biệt đến hai nguyên tắc căn bản của Dương sai, Âm thác như sau:
1 - Đàn ông được gọi là thuần Dương mà lẫn lộn cá tính phụ nữ (bất kể về phương diện gì: đi, đứng, ăn, nói …..) khá rõ thì gọi là Chính Dương sai
2 - Đàn bà được coi là thuần Âm nếu, pha trộn nam tính (dù về phương diện gì cũng vậy) quá lộ liễu thì gọi là Chính Âm thác
Từ hai nguyên tắc căn bản trên, ta đi đến bốn hệ luận:
a) Bất kể nam, nữ đều lấy đầu, âm thanh, cốt cách tượng trưng cho Dương chất. Cho nên, không cần biết thân hình lớn hay nhỏ, điểm căn bản là phải lấy cốt cách trầm ổn, vững chãi, tiếng nói trong trẻo, rõ ràng có tiếng vang làm chính. Được như thế là cát tướng Tiếng khô khan, âm vận không có hoặc ngắn ngủi thì dầu thân hình lớn hay nhỏ đều không đáng kể gì tới vì đó là hung tướng, tượng trưng cho Dương sai.
cool.gif Bất kể nam nữ, đếu lấy khuôn mặt tượng trưng cho Dương, cho nên Ngũ nhạc nổi rõ nhưng không quá lộ liễu thô bỉ, râu tóc và lông mày thích nghi tương xứng là dấu hiệu cát tướng. Ngũ nhạc phá hãm, râu ria và lông mày quá đậm là hung tướng vì đó bị gọi là Âm thác
c) Thân hình to lớn khôi ngô mà khí phách nhỏ hẹp, xử sự thô lỗ, âm hiểm tàn nhẫn, chấp nể tiểu tiết, không biết quyền biến, đó là Dương không khống chế được Âm nên gọi là Dương sai
d) Người nhỏ mà xử sự xô bồ không có giới hạn, khí phách cuồng ngạo chỉ biết tiến mà không biết thoái lui khi cần thiết thì đó là Âm không kiềm chế được Dương nên gọi là âm thác.
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 15th July 2025 - 02:38 PM