IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

4 Trang V  < 1 2 3 4 >  
Reply to this topicStart new topic
> Cẩm nang tụng niệm của Phật tử, Hand book of Buddist recitation
Thelast
bài Sep 28 2007, 08:39 AM
Bài viết #11


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



TỤNG NIỆM VÀ THỰC HÀNH

Đối với một Phật tử, nếu chỉ tụng niệm Pháp Paritta thôi thì sẽ không đủ để có thể đạt được tất cả các ý định và mục tiêu của một cuộc sống hạnh phúc; đó chỉ là một hành vi thuộc khẩu nghiệp tốt ( Vacikamma, khẩu nghiệp) của một người sùng mộ. Người ấy cũng phải hết sức nỗ lực về mặt thân( Kayakamma, Thân Nghiệp) nhằm đạt được mục đích hoạch định. Một Phật tử chánh phải tư duy đúng đắn ( Manokamma, Ý nghiệp) và trù liệu chính xác những gì ưu tiên phải làm về những hoạt động thuộc khẩu rồi thực hiện chúng một cách kiên nhẫn. Sự giải thoát bằng cách làm việc, cầu nguyện và tin tưởng là nét đặc trưng quan trọng gồm ba mũi nhọn phát triển bản thân họ để có đủ phẩm tính hầu đạt được thành công thế gian trong đời này và đại lạc siêu phàm về sau. Một Phật tử phải khép mình vào kỷ luật để tịnh hoá sự suy nghĩ, đạo đức và quan điểm của mình về cuộc đời. Do đó, để đạt được Niết bàn thì việc tụng niệm các Kinh (sutta), các thuyết giảng và Pháp ngữ của Đức Phật chỉ là một phần chứ không phải là toàn bộ nhiệm vụ thiết yếu mà Phật tử phải hoàn thành trong việc tìm cầu giác ngộ của mình.

Tụng nhiều chẳng thực hành,
Đâu hưởng phần lợi ích
của một đời tu tập.
Chẳng khác kẻ chăn bò,
chỉ đếm bò người khác,
Kinh pháp cú: phẩm song yếu: 19

Tụng trăm kệ vô nghĩa,
chẳng bằng câu Chân nghĩa,
nghe song tâm liền tịnh.
Kinh pháp cú: Phẩm Ngàn: 102

Thực ra, Giáo huấn của Đức Phật, hay Giáo Pháp là những nguyên lý hướng dẫn để Phật tử thực hiện công việc hàng ngày của họ một cách đúng đắn. Tuy nhiên, nếu không có sự thực hành hay làm việc thực tế, thì hoàn toàn chẳng thành tựu được điều gì.

Chính các ông phải hết sức nỗ lực;
Như lai chỉ là người dẫn đường;
Nhờ thiền định, những ai bắt đầu trên con đường này sẽ thoát khỏi sự trói buộc của Ma Vương.
Kinh Pháp cú: Phẩm Đạo: 276

Chớ để Lời Phật vuột mất;
chớ để Phút giây này vụt qua!
Bỏ lỡ phút giây này,
Sẽ khóc than đau đớn.
Tr.403

Katiyana, hãy thức dậy, tỉnh thức
An toạ chân xếp bằng.
Chờ đầy ngập hồn trầm,
Luôn tỉnh thức cảnh giác.
Đứa con nói phóng lãng,
Chớ để cho tử thần
dễ dàng hạ gục ngươi
vì tự mình mê đắm
Tr, 411

Như thế, ở đây nó là lời đề nghị quý báu để chúng ta tư duy đúng đắn, nói lời chân thật và làm việc siêng năng để đạt được bất kỳ mục đích nào có thể được vì lợi ích của cá nhân cũng như hạnh phúc của toàn thể nhân loại.

Nào, giờ đây chúng ta hãy tụng niệm Kinh Tình Thương (Metta Paritta Sutta), và sẽ thực hành yêu thương mỗi người và tất cả; để tất cả chúng sinh đều có thể sống hạnh phúc trong đời này và đời sau đó đạt được Hạnh phúc Tối thượng, Niết Bàn

Cầu mong tất cả quý vị thoát khỏi nguy hiểm,
Và thụ hưởng đời sống hàng ngày trong hạnh phúc!

BAN BIÊN TẬP CHÙA PHẬT GIÁO DHAMMIKARAMA (MIẾN ĐIỆN)


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Sep 28 2007, 08:41 AM
Bài viết #12


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



MAHA PARITTA PALI
ĐẠI MINH HỘ KINH


Xin dâng lòng tôn kính lên Ngài, Đức Phật Toàn năng, Tối Quý, và Tự Giác Ngộ Tối Thượng.

Lời khẩn cầu hay Cầu nguyện

1. Chư Thiên, các Ngài đang an trú trong
Các vùng phụ cận của mười ngàn thế giới,
cầu mong các Ngài quang lâm tới đây, và
lắng nghe Thánh Giáo của Đức Thế Tôn, ó thể làm phát sinh
hỷ lạc linh thánh và sự giải thoát viên mãn

1. Ô, chư Thiên, giờ đây chính là lúc
lắng nghe giáo pháp.

2. Xin kính dâng lòng sùng kính của chúng con lên
Ngài, Đức Phật Toàn Năng, Tôn quý và Tự Giác Ngộ Tối Thượng
là giáo lý c

3. Những người đạt được tâm an định,
những người quy y nơi Tam Bảo thiêng liêng, ở đây
trong thế gian này và những cõi giới khác;
Các Thần linh ở thế gian và
Các cõi trời, luôn bận tâm
Gom góp và tích luỹ công đức.
Chư Thiên và các Thiên vương
Đang an trú trên Núi Tu Di vương giả,
ngọn núi vàng tráng lệ.
và cầu mong tất cả những bậc đức độ
cùng đến đây để lắng nghe những
lời tôn quý của Đấng Hiền Minh Vĩ Đại,
là nền tảng của sự hài lòng và
an lạc.

4. Chư vị Quỷ, Thần và
Trời Phạm Thiên trong mọi thế giới,
Xin hoan hỷ với bất kỳ hành vi tán thán nào
Chúng con đã làm đối với tất cả quý vị bằng sự hoàn toàn mãn nguyện và
Thành công to lớn.

5. Hoan hỷ trong việc chia sẻ
Phần thưởng này, cầu mong tất cả được thuận lợi và
sống hoà hợp với giáo lý của Ngài

6. Cầu mong thế giới luôn hưởng được sự giàu có
Thế gian cũng như tâm linh.
Cầu mong chư Thiên luôn luôn bảo vệ
Lãnh thổ cũng như thế giới.

7. Cầu mong tất cả quý vị và những môn đồ của quý vị
được hạnh phúc,
cầu mong quý vị cùng tất cả quyến thuộc
được hoan hỷ và không đau khổ

8. Cầu mong quý vị có thể được bảo vệ thoát khỏi
những nguy hiểm của những kẻ bạo ngược, những kẻ trộm cướp,
địch thủ, những phi nhân, lửa, lũ lụt, ma quỷ, gốc cây, gai góc,
những hành tinh xấu, dịch bệnh, kẻ phạm luật,
người theo dị giáo, những kẻ nghịch đạo, và những hiểm nguy từ voi, ngựa,
bò, chó, rắn độc, bọ cạp,
rắn đầu đồng, beo gấu, linh cẩu,
heo rừng, trâu dữ, mọi loài dã thú,
yêu tinh, ma quỷ vv..và những nguy hiểm từ những sự sợ hãi, bệnh tật và tai ách khác nhau.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Oct 1 2007, 08:10 AM
Bài viết #13


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



1. HẠNH PHÚC KINH

(MANGALA SUTTA)


Tụng ngày chủ nhật


Đôi khi Kinh Hạnh Phúc (Mangala Sutta) được Phật tử rất quý trọng như Mahamangala Sutta- Kinh Đại Cát tường.

Người ta nói rằng, Đức Phật đã thuyết giảng những sự cát tường thật sự lý tưởng ra sao cho một vị thần nào đó khẩn cầu giải nghĩa. Cuối cùng Đức Phật mô tả tỉ mỉ 38 điều cát tường được gọi là siêu việt nhất. Đây là Kinh đầu tiên và nổi tiếng nhất trong mười một Minh Hộ Kinh ( paritta sutta) được ấn định trong Phật giáo. 15 câu kệ tiếp bằng tiếng pali được ghi nhớ và tụng niệm không chỉ để bảo vệ tránh khỏi những sự nguy hiểm mà còn là phương tiện nhằm thành tựu mỹ mãn mọi mục đích khó khăn trong phạm vi công việc thế gian và chứng ngộ xuất thế gian.

Bài này cũng thường được các tu sĩ tụng niệm ngay sau khi họ được tôn kính và phục vụ chính thức hay không chính thức bởi những cư sĩ. Những Phật tử sùng mộ tin rằng khi lắng nghe tụng niệm bài Kinh những điều cát tường này, họ sẽ không bị thất bại trong mọi lãnh vực và đi lại khắp nơi đều được bình an- bây giờ và mãi mãi- từ lúc này cho đến vĩnh cửu.

Bản Kinh này gồm 15 bài kệ, là một nguồn cảm hứng kiệt xuất vô tận của những Phật tử sùng mộ. Nó gây hứng khởi khuyến khích đạo đức của xã hội và đưa ra những nguyên lý hướng dẫn mà mọi Phật tử đều có thể tuân theo vào những giai đoạn khác nhau của sinh hoạt hàng ngày của họ.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Oct 1 2007, 08:12 AM
Bài viết #14


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



MANGALA- SUTTA

HẠNH PHÚC KINH


Dẫn nhập

a. Ý nghĩa của thuật ngữ “ Cát tường” đã được chư thiên và con người nghiên cứu trong 12 năm; tuy nhiên họ không thể xác định được thực nghĩa của chúng. Vì thế Kinh 38 điều cát tường giảng rõ vấn đê này.

b. Những gì có thể tiệt trừ mọi tội lỗi và điều xấu, được Đức Phật Tối thượng giảng rõ vì lợi ích và hạnh phúc của toàn thế giới. Xin hãy đến đây! Giờ đây chúng ta hãy tụng niệm Kinh Những Điều Cát Tường

c. Chính tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Thế Tôn đang an trụ gần thành Xá Vệ (Savathi) tại rừng Kỳ Thọ (Jeta) trong sự hoan hỷ của ông Cấp Cô Độc (Anathapindika). Khi ấy một vị thần mà hào quang rực rỡ sáng ngời toàn bộ rừng Kỳ Thọ, tới thăm Đức Thế Tôn vào lúc nửa khuya. Ông cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn và đứng nép sang một bên. Và khi đứng như vậy, ông bạch với Đức Thế Tôn theo vần điệu của thi kệ

1. Nhiều vị trời và người khao khát hạnh phúc từng suy xét về những điều Cát tường. Cầu mong Đức Phật giải nghĩa cho con những điều Cát tường tối thượng thực sự là gì.

2. Không nên kết giao với kẻ ngu mà hãy kết giao với người trí; và tôn kính những ai đáng kính- đây là cát tường tối thượng

3. Ngụ cư nơi thích hợp; được phú cho những công đức được tích tập trong quá khứ, và tự củng cố mình trong chánh hạnh- đây là cát tường tối thượng

4. Có tri kiến uyên bác; thiện xảo trong các khoa học; tu tập nghiêm túc trong giới luật và nói lời hoà nhã- đây là cát tường tối thượng.

5. Phụng sự cha mẹ; Giúp đỡ vợ con;

6. Rộng lượng bố thí; hành xử đúng giới luật giúp đỡ thân quyến của quý vị và thực hiện những hành vi không lầm lỗi- đây là cát tường tối thượng.

7. Tránh làm điều ác; tự chế không phạm tội; Tự kềm chế không uống rượu và tinh tấn trong giới luật- đây là cát tường tối thượng.

8. Sùng kính; khiêm tốn; bằng lòng biết ơn những người tử tế và giúp đỡ mình; nhận thức giáo pháp đúng lúc- đây là cát tường tối thượng.

9. Kiên nhẫn; biết vâng lời; thăm viếng các tu sĩ; luận bàn Giáo pháp đúng lúc- đây là cát tường tối thượng.

10. Thực hành hạnh xả ly; thạnh tịnh; nhận ra các chân lý cao quý; chứng ngộ Niết bàn- đây là cát tường tối thượng.

11. Tâm bất động khi tiếp xúc với bát phong (những thăng trầm) của đời sống (những thay đổi thuộc thế gian); thoát khỏi âu lo xao xuyến; thanh tịnh không ô nhiễm; và hoàn toàn an lành- đây là cát tường tối thượng.

12. Những người thực hành các điều cát tường này luôn luôn thành công khắp mọi nơi, và đạt được hỷ lạc (hạnh phúc) khắp chốn. Với họ đây là những điều cát tường tối thượng.

Mangala Sutta, Kinh những điều Cát tường kết thúc tại đây.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Oct 1 2007, 08:13 AM
Bài viết #15


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



2. KINH TAM BẢO


A. Lược sử tóm tắt.

Trong thời Đức Phật, thành Tỳ Xá Ly ( Vesali) khốn khổ vì nạn đói đã giết chết hàng ngàn gia đình nghèo khó. Bởi có quá nhiều xác chết thối rữa nên những tinh linh xấu ác thường lui tới thành phố và dẫn đến dịch bệnh không thể tránh khỏi. Bị quấy nhiễu bởi ba hiểm hoạ đói kém, ma quỷ và bệnh truyền nhiễm này, cư dân thành Tỳ Xá Ly tìm sự giúp đỡ của Đức Phật, lúc đó Ngài đang ở tại thành Vương Xá (Rajagaha).

Vì lòng từ bi sâu xa, Đức Phật đi đến thành phố bị dịch Tỳ Xá Ly, theo sau là hàng trăm tu sĩ kể cả Đại Đức A Nan (Ananda). Đúng lúc Đức Phật đến thành phố, một cơn mưa xối xả đổ xuống cuốn trôi những xác chết thối rữa. Nhờ đó thành phố được rửa sạch và bầu không khí trở nên thanh tịnh.

Sau đó Đức Phật thuyết tuyên thuyết Kinh Tam Bảo cho Đại Đức A Nan và hướng dẫn ông đi quanh thành phố tụng niệm bài Kinh như một phương tiện bảo vệ cho cư dân thành phố Tỳ Xá Ly.

Đại Đức A Nan tuân lời và rắc nước cam lồ từ bình bát của Đức Phật để trục xuất những tinh linh xấu ác. Nhờ đó, cuối cùng bệnh dịch bị đẩy lùi.

Sau đó Đức A Nan nhanh chóng tường trình sự việc cho Đức Phật, Ngài đang chờ ông tại Hội Trường Thành Tỳ Xá Ly. Rồi Đức Phật tụng bài Kinh này và giảng nghĩa giá trị nền tảng của Kinh cho tập hội đệ tử. Do vậy, việc tụng niệm bài Kinh đã được Đức Thế Tôn và Tăng đoàn tán thành.

Theo bản Dịch mẫu của Miến Điện, bản Kinh này được soạn thảo gồm 21 bài kệ không vần với phần giới thiệu mở đầu. Kinh này thường được xem như sự miễn dịch hay định nghĩa những Đức hạnh của Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Oct 1 2007, 08:16 AM
Bài viết #16


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



RATANA- SUTTA

KINH TAM BẢO


Dẫn nhập

1. Nhớ lại tất cả những Đức hạnh này của Đức Phật chẳng hạn như:

Khởi đầu từ thời Phát Nguyện Cao Quý của Ngài ( pháp nguyện trở thành vị Phật Tối Thượng trong sự hiện diện của Đức Phật Nhiên Đăng (Dipankara), Đức Như lai đã hoàn thành tất cả 30 viên mãn (Ba la Mật), đó là: mười Ba la Mật thông thường, mười Ba la Mật siêu việt (Upaparamitas), và mười Chân Đế Ba la Mật (paramattha paramitas); năm Đại hy sinh; ba cách Thực hành, đó là thực hành vì hạnh phúc của thế gian, vì hạnh phúc của thân bằng quyến thuộc, và vì lợi ích của việc thành tựu Phật Quả của Ngài, và việc Ngài tự nhiên được thụ thai trong bụng mẹ ở kiếp cuối cùng này; sự đản sinh của Ngài; sự Đại xả; kinh nghiệm của sự khổ hạnh; sự hàng phục ( năm loại) Tử thần (Ma vương) khi ngồi dưới gốc cây Bồ Đề; sư Chứng ngộ Trí Tuệ Toàn Giác; việc thuyết giảng Kinh chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavatthana sutta); và chín quy luật siêu xuất thế gian: Trưởng lão A Nan tôn kính đã thực hành tụng niệm Kinh bảo hộ suốt ba đêm, trong ba bức tường thành Tỳ Xá Ly.

Khi đã phát khởi sự cảm thông sâu sắc như tôn giả A Nan đã làm,

2. Sự vinh quang của những đức hạnh đó đã được chấp nhận bởi các vị thần tụ hội từ hàng tỷ tỷ thế giới, và trong thành Tỳ Xá Ly.

3. Bởi năng lực của những đức hạnh đó ba loại tai hoạ đã đột phát là dịch bệnh, phi nhân và đói kém cũng được tẩy trừ một cách nhanh chóng. Xin hãy đến đây! Chúng ta hãy tụng niệm Kinh bảo hộ này

4. Bất cứ chúng sinh nào đã tụ hội ở đây, dù trên thiên giới hay dưới thế gian, cầu mong tất cả chúng sanh đều được an bình, và cũng xin chú tâm lắng nghe những lời này

II. Vì thế, hỡi các Ngài, xin hãy lắng nghe. Xin ban rải lòng từ ái đến tất cả các chúng sanh. Cả ngày lẫn đêm, họ cúng dường các Ngài. Vì thế, xin khéo léo bảo hộ họ với sự tận tâm

III. Bất cứ kho báu nào ở đây, dù trong thế gian hay ngoài thế gian; bất kỳ châu báu nào trong những cõi trời; không thứ gì sánh được với Đấng Toàn Giác. Châu báu này (sự thiêng liêng) chính là Đức Phật Giác Ngộ. Bởi sự xác quyết và Chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

IV. Sự An định, giải thoát và bất tử linh thánh đó đã được Đấng Thánh giả- Thích Ca thiền định viên mãn chứng ngộ. Không gì sánh được với Giáo pháp này. Châu báu này hiện diện trong Pháp. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

V. Đấng Giác ngộ Tối Thượng đã tán thán con đường thanh tịnh khi gọi nó là sự Thiền định khiến phát sinh kết quả tức thì không thể sai lầm. Không gì sánh được với sự thiền định như thế. Quả thực Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn nhất.

VI. Tám vị được những bậc linh thánh tán thán; các ngài tạo thành bốn cặp, là đệ tử của Đức Thế Tôn, các ngài xứng đáng được cúng dường. Các tặng vật được cúng dường cho ngài sẽ phát sinh. Kết quả tốt lành. Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý, cầu mong được đại lạc viên mãn.

VII. Những người nỗ lực chuyên cần với tâm vững vàng và kiên cố, được giải thoát trong thời gian Truyền pháp của Đức Phật Cồ Đàm. Họ thành tưu trạng thái tối thượng đạt được sự bất tử. Họ thụ hưởng an bình viên mãn một cách tự nhiên. Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

VIII. Như cột trụ chôn sâu trong đất đứng bất động trước những cơn gió lộng khắp bốn phương, vì thế ta cũng tuyên bố rằng người thấy những chân lý cao quý (Tứ Diệu Đế) nhờ trí tuệ phân biệt là người chánh trực không thể lay chuyển. Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

IX. Những người phát triển Tứ Diệu Đế đã được Đấng Trí Tuệ Thâm sâu thuyết giảng rõ ràng, mặc dù họ có thể sao nhãng thái quá; nhưng vẫn không bị rơi vào cõi thứ tám (trong cõi Kamabhumi) (Dục giới). Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

X. Đồng thời với sự thành tựu Thiền quán của họ, ba khía cạnh của tâm thức được từ bỏ, đó là ngã kiến, nghi ngờ và tà kiến trong các nghi lễ và bất kỳ sự suy đồi nào khác nếu có ( giới cấm thủ).

XI. Họ cũng thoát khỏi bốn tội căn bản, và không còn vi phạm sáu trọng tội. Châu báu (sự thiêng liêng) này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

XII. Mặc dù có thể họ vẫn còn làm hành vi bất thiện thuộc thân, khẩu hay ý, nhưng họ không thể che dấu nó. Bởi chính vì nó đã được bày lọ ra nên sự che đậy như thế là điều không thể đối với đã thấy được con đường. Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn

XIII. Giống như vẻ rực rỡ của khu rừng đầy hoa nở trong cái nắng nóng ban đầu của những tháng hè ấm áp, mặc dù thế sự huy hoàng của thánh pháp đã được tuyên thuyết. Vì sự thành tựu tối thượng dẫn đến Niết bàn. Châu báu này hiện diện trong Đức Phật. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

XIV. Đấng Quang vinh, bậc thấu biết sự quang vinh, ban phát và đem lại sự quang vinh, và là Giáo pháp quang vinh đã được thuyết giảng vô song. Châu báu này hiện diện trong Đức Phật. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

XV. Nghiệp trước của họ chấm dứt và nghiệp mới không còn phát sinh. Lòng tham muốn sự hình thành trong tương lai bị lui bước. Chủng tử tái sanh được chấm dứt và họ không còn muốn tái sanh nữa. Như ngọn lửa đèn lụi tắt, các bậc hiền minh nhập Niết Bàn. Châu báu này hiện diện trong Tăng Đoàn. Bởi sự xác quyết vào chân lý này, cầu mong được đại lạc viên mãn.

XVI. Bất cứ chúng sanh nào đã tụ hội tại đây, dù trên thiên giới hay dưới thế gian, xin hãy đến đây, chúng ta hãy kính lễ Đức Phật (Đấng Toàn Giác), bậc được trời và người tôn kính (Thiên Nhân Sư). Cầu mong được hưởng đại lạc viên mãn.

XVII. Bất cứ chúng sinh nào đã tụ hội tại đây dù trên thiên giới hay dưới thế gian, xin hãy đến đây, chúng ta hãy kính lễ Pháp (Giáo lý); (Đấng Toàn Giác), bậc được trời và người tôn kính.

XVIII. Bất cứ chúng sanh nào đã tụ hội tại đây dù trên thiên giới hay dưới thế gian, xin hãy đến đây, chúng ta hãy kính lễ Tăng Đoàn; ( Đấng Toàn Giác), bậc được trời và người tôn kính. Cầu mong được đại lạc viên mãn.

Kết thúc Kinh Tam Bảo (Ratanasutta).


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Oct 2 2007, 03:41 PM
Bài viết #17


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



3. KINH TỪ BI


LƯỢC SỬ:

Sau đó, Đức Phật an trú tại thành Xá Vệ (Savatthi) trong vườn của ông cấp cô độc, và một nhóm tu sĩ được Đức Phật cho phép thiền định trong một khu rừng xa trong thời gian nhập hạ của họ. Những vị tăng ẩn náu dưới những tàng cây lớn làm chỗ tạm trú và dấn mình thật mãnh liệt vào thực hành thiền định.

Các thọ thần cứ trú trong khu rừng này không thể trú trên cây ngay trên đầu những tu sĩ, bởi các tu sĩ được thấm nhuần năng lực tâm linh để thiền định, và họ an toạ trên mặt đất. Vì thế các thọ thần rất bực tức và chán nản; và khi họ biết những tu sĩ sẽ ở đó suốt mùa mưa, vào bạn đêm họ cố làm cho những tu sĩ kinh sợ. Mục đích của họ là quấy phá những tu sĩ bằng nhiều cách khác nhau.

Trong những thời gian sống dưới những điều kiện quá quắt như thế, những tu sĩ bị quấy phá việc thiền định vội trở về trình lại với Đức Phật những khó khăn của họ. Do đó Đức Phật dạy họ nên tụng bài Kinh Từ Bi và toả lòng Từ ái đến tất cả chúng sanh. Được sách tấn bởi sự giúp đỡ này, các tu sĩ thiền giả trở lại khu rừng và thực hành những bài nguyện theo giáo huấn của Đức Phật khiến toàn bộ bầu không khí ở đó được thầm đẫm những niệm tưởng từ bi. Các thọ thần rất hài lòng và thấm nhiễm năng lực của lòng từ bi. Từ đó trở về sau họ để yên cho các tu sĩ thiền định mà không quấy phá nữa.

Trong thực tế, bản văn này là giáo lý của Đức Phật về lòng Từ, được coi như phương pháp thực hành gieo rắc lòng Từ nhằm đạt được sự thanh tịnh và anh bình- cuối cùng chứng ngộ được sự giải thoát và viên mãn.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Oct 2 2007, 03:42 PM
Bài viết #18


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



METTA SUTTA

TỪ BI KINH


a. Nhờ vào năng lực vinh quang của bài thuyết giảng về lòng từ này, các tinh linh không dám phô diễn những cảnh tượng khủng khiếp. Những ai tinh tấn hiến mình cho giáo lý này suốt ngày đêm,

b. sẽ ngủ an lành và không gặp ác mộng nào. Xin đến đây! Chúng ta hãy tụng niệm bài Kinh này được phú cho công đức như thế và những công đức khác.

1. Người có tái năng và biết liệu lường trong việc thành tựu sự an bình viên mãn phải làm việc có hiệu quả, chính trực, liêm khiết, không ba hoa, dịu dàng và khiêm tốn

2. Sống tri túc, thể hiện cung cách tốt đẹp, có trách nhiệm, sống tiết kiệm, thái độ trong sáng, thận trọng, giản dị và không dính mắc vào gia đình.

3. Người ấy không được vị phạm ngay cả một tội lỗi nhỏ nhất, bởi họ có thể bị những bậc hiền minh khiển trách. Họ phải suy niệm như vầy:

Cầu mong tất cả chúng sanh được hoan hỷ và được hưởng một cuộc đời an lành, hạnh phúc.

4. Bất cứ chúng sinh có hơi thở nào, có thể là những sinh linh yếu đuối hay mạnh mẽ cao hay to khỏe, thấp hoặc trung bình, mập hay ốm, không ngoại trừ ai,

5. Tất cả chúng sinh hữu hình hoặc vô hình những người đã sinh ra hoặc vẫn đang tìm kiếm nơi tái sanh.

Cầu mong tất cả chúng sanh này được hạnh phúc.

6. Chớ giẫn dữ người khác, không nên khinh thường ai ở bất kỳ nơi đâu; thể hiện bằng sự oán giận qua thân thể hay lời nói hoặc bằng sự thù hận không hoàn tất. Đừng mong muốn ai đau khổ

7. Giống như người mẹ bảo vệ đứa con duy nhất thậm chí bằng cả mạng sống của mình, hãy nuôi dưỡng tâm từ vô biên đối với mọi chúng sinh.

8. Hãy phóng toả vô vàn ánh sáng của Từ tâm đến toàn thể thế giới, lên trên, xuống dưới và mọi nơi không chướng ngại không ác tâm và thù địch.

9. Trong khi đi, đứng, nằm, ngồi hay ngồi dựa, chừng nào còn thức thì không nên lười biếng, hãy hiến mình cho sự tỉnh giác này. Điều này Đạo Phật gọi là “Đời người cao quý” (Cuộc đời Linh thánh).

10. Nếu thiền giả không rơi vào tà kiến (sự chấp ngã), có đạo đức và được phú cho sự nội quán hoàn hảo, đã tẩy sạch những tham muốn của giác quan, thì chắc chắn sẽ chẳng bao giờ tái sanh vào thai tạng nào nữa.

Kết thúc Kinh Từ Bi


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Oct 4 2007, 08:42 AM
Bài viết #19


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



4. KHANDHA PARITTA SUTTA

UẨN MINH HỘ KINH
(KINH VỀ SỰ HÌNH THÀNH CÁC UẨN)


Khanda paritta này là thần chú của Đạo Phật, hay điều làm vui thích, một điển hình của Phật Giáo cứu khổ ở Miến Điện. Theo tài liệu của Luật Tạng (Vinaya pitaka) trong tiểu phẩm (Cullavagga), điều này được cho là do chính Đức Phật soạn thảo khi một vi tu sĩ ở thành Xá Vệ ( Savatthi) bị rắn cắn chết. Đức Phật bày tỏ rằng điều này sẽ không xảy ra nếu vị tu sĩ đó rải lòng từ đến bốn loài rắn. Và tất cả tu sĩ đều được khuyên hãy tự bảo vệ mình đối với loài rắn bằng phương tiện của lòng từ do tụng niệm Uẩn Minh Hộ Kinh (Khandha paritta) mà Đức Thế Tôn đã soạn cho họ.

Paritta tương tự cũng được đề cập đến trong Bổn sanh truyện ( Jataka) là Khandha Vatta Jataka. Theo truyện, vị Bồ Tát (vị Phật sẽ thành) là một nhà tu khổ hạnh trong một kiếp trước được nghe những người bạn cùng tu khổ hạnh than phiền về những nguy hiểm mà họ gặp từ loài rắn. Do đó Ngài dạy họ niệm thần chú bằng tiếng pali, được gọi là Khandha paritta.

Giờ đây paritta này được tụng niệm để bảo vệ không chỉ chống lại những nguy hiểm của loài rắn như được biên soạn trong nguyên bản, mà thậm chí còn chống lại những sinh vật đáng sợ khác bao gồm loài bò sát, bọ cạp, rết, nhện, thằn lằn, chuột và chuột nhắt.

Tính chất đặc biệt của Kinh này là việc Đức Phật công khai tuyên thuyết năng lực của việc tụng niệm trong việc duy trì sự an lành của cá nhân, sự giữ gìn và bảo vệ cho cá nhân (Parittam). Theo bản dịch của Miến Điện, Paritta sutta này được soạn thảo gồm tám bài kệ bằng tiếng pali.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Oct 4 2007, 08:44 AM
Bài viết #20


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



KHANDHA- SUTTA

KINH NGŨ UẨN


Dẫn nhập

1. Giống như phép thiêng và thuốc thần, Kinh Ngũ Uẩn này tiêu trừ độc chất và những nguy hiểm khác của tất cả những sinh vật có nhiều độc tố.

2. Trong phạm vi ảnh hưởng của Đức Phật, ở khắp mọi nơi, luôn luôn vì tất cả chúng sanh và bằng mọi phương tiện, Kinh này ngăn ngừa những tai hoạ. Xin hãy đến đây! Chúng ta hãy tụng niệm Kinh bảo hộ này.

3. Cầu mong tôi có tình thương với loài rắn Vurupakkha; cầu mong tôi có tình thương với loài rắn Erapatha. Cầu mong tôi thương yêu loài rắn Chavyaputta. với loài rắn Kanhagotamaka cầu mong tôi cũng thương yêu chúng.

4. Với những loài không chân cầu mong tôi có tình thương. Cầu mong tôi có tình thương với loài hai chân; với loài bốn chân cầu mong tôi có tình thương: Cầu mong tôi có tình thương yêu với loài nhiều chân.

Cầu mong loài không chân đừng làm tổn hai tôi;
Cầu mong loài hai chân không làm tôn hai tôi;
Cầu mong loài bốn chân không làm tổn hại tôi;
Cầu mong loài nhiều chân đừng làm tổn hại tôi.

5. Tất cả sinh vật và mọi loài có hơi thở, tất cả chúng sanh không ngoại trừ ai, cầu mong tất cả có một nhãn quan hạnh phúc, và câu mong họ không rơi vào bất kỳ tội lỗi nào.

6. Đức Phật thì vô biên, vô hạn; Giáo pháp thì vô biên, vô hạn; Tăng Đoàn thì vô biên, vô hạn; những loài bò trườn; rắn, rết, bọ cạp, nhện, thằn lằn và chuột thì hữu hạn và đo lường được.

7. Tôi đã tự trông chừng mình, tôi đã tự bảo vệ mình; Mọi chúng sanh xấu ác hãy lùi xa. Nơi đây, con đón chào Đấng quang vinh và tôn kính Bảy vị Phật.

Kết thúc Khandha Sutta.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post

4 Trang V  < 1 2 3 4 >
Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 28th April 2024 - 04:17 AM