IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> 50 năm thực nghiệm về giáo dục ý chí, SAKURAZAWA NYOICHI (OHSAWA)
Thelast
bài May 28 2007, 08:31 AM
Bài viết #1


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



50 NĂM THỰC NGHIỆM VỀ GIÁO DỤC Ý CHÍ
(“ISHI” KYOIKY GỌU NEN NO JIKKRN HOKOKU)

SAKURAZAWA NYOICHI (OHSAWA)
A.M Ngô Thành Nhân dịch


MỤC LỤC
Lời nhà xuất bản

Lời người dịch

Lời nói đầu

Chương I: Căn bản của tất thảy nền giáo dục: Giáo dục ý chí.

Chương II: Giáo dục ý chí.

Chương III: Nền giáo dục trong thế giới văn minh.

Chương IV: Một thế giới mới: Thế giới hoà bình nhờ giáo dục sáng tạo

Món ăn đúng phép của các dựng phụ (Phụ nữ có thai)

Chương V: Trật tự vũ trụ

Chương VI: Kết luận


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
2 Trang V  < 1 2  
Start new topic
Trả lời (10 - 15)
Thelast
bài May 29 2007, 02:49 PM
Bài viết #11


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Xin dẫn đôi chứng thực:

1- Vị mục sư ở trung tâm Tin lành trên bờ sông Ogou’e, cách bệnh viện của Schweizer 2 cây số trong miền rừng núi Phi châu, ông Mayer và bà vợ có 3 đứa con gái nhỏ (5,3 và 1 tuổi). Cả 3 đều ốm lề rề khiến cho cha mẹ chúng rất âu lo. Hai ông bà phải đến tận vị y sĩ cách đó hằng mấy trăm cây số ở trên bờ bể để chữa thuốc. Món ăn thức uống chỉ ròng là đồ hộp chở từ bên Pháp đem sang. Tôi và nhà tôi đến ở nhà ấy trong nhà ấy 3 tháng, cả 2 vợ chồng và 3 đứa bé đều lành tất cả bệnh. Thật không gì sung sướng bằng trông thấy mấy đứa bé ngoan ngoãn bận y phục Nhật chạy rong chơi trong cảnh núi rừng.

2- Cách đây không lâu có một vị du khách người Nhật đến ở trong một khách sạn tại cảnh làng của Đức, gần Schwartzard, người ta đồn rằng trong làng ấy có một đứa bé con người Nhật. Y tọc mạch hỏi thăm và đến tận nơi cho biết:

- Đấy, đứa bé con Nhật đấy!

- Vậy người Nhật cha sinh của em là ai? Hiện ở đâu?

- Cha nó là Ohsawa, hiện nay đang ở Hoa kỳ. Mỗi năm ông ấy đi du lịch vòng quanh thế giới một lần. Đứa bé này là con của tôi. Từ lâu tôi không sinh đẻ, nay sinh đẻ ra nó chính nhờ thực hành phương pháp chính thực đúng theo sách của Ohsawa. Cháu đây chính nhờ ăn cơm mà sinh ra, con của Ohsawa đấy. Kìa ông xem nó giống hệt người Nhật không?

Vị du khách rất lấy làm ngạc nhiên. Theo như bà mẹ của em bé nói thì em này chẳng có cử chỉ gì là người Đức, mà hoàn toàn giống người Cực Đông. Hiện tại Âu Châu và Hoa kỳ đã có trên 120 em bé kiểu này. Những em bé Ohsawa, chính nhờ thực hành phương pháp chính thực mà có. Phần đông trong số em bé ấy có tướng mạo giống người Đông phương, lại đôi đứa có vẻ hệt như người Nhật!

Chính đây là cái chìa khoá đã giải quyết được chỗ bí mật của vấn đề di truyền và nhân tướng.

Điểm chung đặc biệt của các em bé nhờ ở thực hành phương pháp chính thực sinh ra là sức khoẻ tuyệt đối, thứ nữa là so với các anh chị khác của chúng thì chúng thông minh hơn nhiều. Vì thế Lima và tôi mỗi khi đi đến nơi nào cũng được chúng xem như ông bà nội của chúng.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài May 29 2007, 02:50 PM
Bài viết #12


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



MÓN ĂN ĐÚNG PHÉP CỦA CÁC DỰNG PHỤ

Thật không có gì thiết yếu cho đời sống của con người và xã hội cho bằng món ăn thức uống của bà mẹ trong thời kỳ thai nghén. Thời kỳ ấy là thời kỳ thiết lập ra cơ sở trọn đời của con người. Thời kỳ ấy tức thời kỳ phản phục của quá trình tiến hoá trong 3 tỷ năm rút ngắn lại!

Thật không có gì có ảnh hưởng hơn đối với đời người cho bằng món ăn thức uống trong thời kỳ thai nghén!

Như trên tức là căn bản giáo dục của con người trong thời kỳ thai nghén.

Việc giáo dục về sinh lý học và sinh vật học trong thời kỳ thai nghén và thanh niên cũng rất quan trọng như trong thời kỳ thai nghén vậy. Trong cỡ tuổi này nếu người ta cho ăn những thức ăn đúng phép, thế nào lớp thanh niên và thiếu niên cũng giữ được đúng theo “7 điều kiện của sức khoẻ”. Và ai cũng đã giữ được một cuộc đời hạnh phúc. Họ sẽ thành ra người độc lập, không nương dựa vào ai, tự học, tự lập lấy. Một người như thế, thế nào cũng gây dựng được một gia đình lạc thú. Họ sẽ nỗ lực gây dựng được một xã hội hạnh phúc, một quốc gia hạnh phúc. Nếu trong số 10 người có được 1 người như thế, tức trong 100.000 triệu người có được 10 người như thế, xứ sở họ sẽ thành được một xứ sở tự do và hoà bình. Nếu trong thế giới có được 10 nước như thế, trên mặt địa cầu sẽ thấy rõ cảnh Hoà bình vĩnh viễn và lối giết người từng đám theo lối chiến tranh thảm ngược là cảnh chẳng bao giờ thấy ở loài cầm thú, không còn thấy nữa, cảnh hoà bình (tức là thế giới mà cảnh giết người từng đám không còn nữa) là cảnh toàn nhân loại tha thiết vậy. Nhưng muốn cho có cảnh ấy, ngoài cách giáo dục về sinh vật học và sinh lý học ra, thật không còn có cách giáo dục nào hoặc phương pháp nào giản đơn hơn nữa.

Trải 54 năm, tôi đã đi khắp thế giới để diễn thuyết và trước thuật truyền bá phương pháp giáo dục về sinh vật học và sinh lý học này tôi đã thấy rõ được hiệu quả chứng thực vô số. Những thực chứng ấy đã được in ra trong các sách và tạp chí riêng của tôi.

1) Ông William Dufty, người Mỹ, 50 tuổi, nguyên sĩ quan không quân được huân chương cao cấp của nước Anh, Pháp, Thuỵ sĩ, sau cuộc đệ nhị thế chiến ông bị bệnh, phải nằm bệnh viện 10 năm, rán chịu ôm cái thân hình nặng trĩu 80 kg như xác chết sống vậy, không biết cách gì hơn.

Trước đây 2 năm, ông xem các sách của tôi và khởi sự thực hành phương pháp chính thực theo lời chỉ dẫn của tôi, thế mà ông tự chữa lành được bệnh, trẻ lại 20 tuổi và sút mất 37 kg trong 6 tháng. Ông ta quá sức vui mừng, để tỏ lòng biết ơn, ông quyết tâm từ nay về sau trọn đời thực hành phương pháp trường sinh. Sau 3 ngày lành bệnh ông viết ra quyển “You are all Sampaku” (Các bạn tất thảy là tam bạch). Công việc tuy tốn công phu (trải 1 năm), nhưng danh tiếng của ông được vang dội. Ông đã tuyên bố sẽ dịch tất cả tác phẩm của tôi để giới thiệu với các bạn Tây phương.

2) Philipe Fagan, một thanh niên xứ Texas, người nóng tính, hay đấu khẩu, thân hình đầy thương tích, cậu ta sang Nhật để học phương pháp chính thực tức nguyên lý Hoà bình.

Cậu khởi sự ăn số 7 (tuyệt đối còn gạo lứt muối mè) từ tháng 10 năm trước (1965). Một thời gian rất ngắn, cậu trở thành một thanh niên bảnh bao, hiền lành, trầm tĩnh dễ thương, cậu tuyên bố sẽ ăn số 7 trong 10 năm - kể từ nay đã được 5 tháng để bù lại 27 năm cậu ăn uống bậy bạ. Hàng ngày bữa trưa nào cậu cũng ăn tại nhà tôi. Để trả ơn, cậu ta giữ phần trả lời các thư từ khắp xứ trên thế giới gửi đến cho tôi bằng Anh văn. Bữa nào cũng như bữa nào, từ cảnh chùa Động vân tự cậu đi chân gánh đến cho chúng tôi 30 lít nước giếng trong trẻo để dùng nấu bữa ăn cho độ 20 người trong nhà.

3) Bà Legaye, ở Bruxelles (Bỉ) từ 26 năm nay bị nhiều chứng bệnh kinh niên, tựu trung có bệnh ung thư. Trước đây 10 năm bà thực hành tất cả bệnh và trẻ lại 20 tuổi. Từ đây bà đi theo tôi khắp nơi. Bà đã qua tới Nhật 2 lần với tôi và lưu lại Nhật trên 1 năm. Mỗi bữa tối bà đi từ khách sạn đến nhà tôi để ăn cơm, tốn mất 3.000 yên tắc xi. Bà cho rằng được đến ăn cơm với chúng tôi thật trong đời không gì sung sướng bằng, mặc dầu chúng tôi chưa có dịp nói chuyện riêng cặn kẽ với bà, vì lúc nào trong nhà cũng có độ 20 người khách ăn cơm. Trước đây 10 năm bà có cho chúng tôi 1 triệu yên và sau đó mỗi năm cho thêm, tính có cả 10 triệu yên trong 10 năm.

4) Cô Cuilitz ở Bruxelles (Bỉ) sau khi thực hành phưong pháp trường sinh, co lành được bệnh, nhân sinh quan của cô đổi ra khác hẳn, cô bỏ ra tặng tôi một số nhà vườn xứng đáng 20 triệu yên.

5) Một tiểu thư Mỹ, cô Pletrersky ở Nữu ước bị bệnh gần chết, nhờ phưong pháp trường sinh cứu cô sống trở lại, cô để dành số tiền trên 2 nam để qua thăm nước Nhật, nhưng rồi không đi, đem số tiền ấy tặng cho người Việt nam thực hành phương pháp trường sinh. Rõ là một cái gương sáng trong việc chuyển hoán nhân sinh quan.

6) Bà Teal Ames, một nữ tài tử vô tuyến truyền hình, nhờ phương pháp trường sinh cứu khỏi các bệnh tật, cô bèn từ giã nghề của cô hàng tháng lương hưởng 200 ngàn yên và hy sinh tất cả của cải, hiến thân chịu nhọc nhằn mở ra xưởng máy chế các món ăn trường sinh Chico-Sanincororate ở Mỹ. Hàng ngày cô lăn bột trong xưởng này để lo chế ra bánh mỳ lứt, lấm lem lấm luốc chẳng khác nào cô bé Lọ lem (Cedrillon). Thế rồi sau đó cũng có một “hoàng tử” đến rước cô về kết nghĩa trăm năm.

7) Đúng 5 năm trước đây, báo chí các nước có đăng về việc “Tân xuất Ai cập ký” là việc 34 người theo phương pháp trường sinh, lên xe bỏ Nữu ước ra đi, băng ngang qua cảnh sa mạc và núi non miền cao nguyên phủ tuyết của Mỹ châu để đến California. Vị Moise chỉ đạo cho cuộc “Tân xuất Ai cập ký” ấy là một “người Nhật tên gọi là Georges Ohsawa”?

8) “Giết người bằng đạo Thiền” – Tháng 11 năm 1965, chiến tuyến trường sinh đã tràn ngập Hoa kỳ như nước lụt, tự nhiên bị phản kích ghê gớm:

Bà Simon, một nghệ thuật gia trẻ tuổi (24 tuổi) rất chân thuần như một vị thần, một đứa bé ngây thơ, bà là một trong hàng trăm người Mỹ đã hăng say theo phương pháp trường sinh. Trước khi chết bà có viết cho tôi nhiều bức thư đầy ý nghĩa, biểu lộ được tính cách của bà.

Khoảng đầu năm 1965 bà cùng chồng bà khởi sự thực hành phương pháp trường sinh vừa trong một tuần lễ hai vợ chồng đã chữa được lành bệnh nan y một cách thần kỳ. Những bệnh của hai ông bà chỉ vì ăn uống bậy bạ cùng dùng những thức ăn ma dược thường ngày trong 10 năm về trước, nên chẳng có phương pháp nào chữa trị. Riêng về bà Simon mắc những bệnh thần kinh suy nhược, tâm trạng bệnh, ho, lao, trúng độc ma dược, chữa được lành, nhưng sau khi lành, bà có thêm nhiều món ăn khác vào các món ăn trường sinh. Vì thế mà bà chết ngày tháng mười.

Ai nấy đều biết những hàng phụ nữ thuần chân và ngây thơ như ấu nhi, tấm lòng trong trắng như ngọc, phần nhiều hay khiếm khuyết vè phương diện xét lại mình (tự kỷ phê phán), thành phải chịu một tối hậu bi thảm. Thân phụ của bà là một đoàn trưởng đoàn luật sư, ông ta ra mặt công kích “phương pháp trường sinh của Nhật” khắp trên báo chí và radio, vì thế sách vở của tôi bị cấm không được bán, cuộc vận động về phương pháp trường sinh bị cấm ngặt, ông Dufty là người viết ra quyển “You are all Sampaku” và nhà xuất bản đều bị kiện, cô Irma Paule tổng thư ký của Viện Ohsawa cũng bị kiện. Rõ thật là một “cú” ghê tởm cho cuộc vận động phương pháp trường sinh ở Mỹ. Giữa tháng 11 năm ấy trên các báo chí, radio, vô tuyến truyền hình, khắp nơi đều có nói tới. Nhưng cũng nhờ có việc kiện tụng, công kích ấy thành ra phong trào thực hành phương pháp trường sinh đáng lẽ xẹp đi thì trái lại càng ngày càng bành trướng gấp mấy lần trước kia, số người theo thực hành càng ngày càng vô số.

Bà Simon là một người phụ nữ thuần chân, thuần tính, thuần ai. Nhưng cái vẻ đơn thuần chính trực ấy, cũng như đa số người Mỹ bà thiếu hẳn trí phán đoán và chỗ suy tư. Rốt cuộc bà phải chịu một vận mạng tối hậu bi thảm, chỉ vì bà chẳng hiểu gì về lý thuyết cả, mặc dầu bà rất nhiệt tâm về thực hành.

Trường hợp của bà khiến cho thấy rõ “Triết lý không kỹ thuật là vô dụng, kỹ thuật không triết lý là nguy hiểm”.

Mỗi khi đưa ra mọt lý thuyết và chủ nghĩa gì mới, không làm sao tránh khỏi chỗ nguy hiểm ấy được. Lý luận không thực hành, triết lý không kỹ thuật đều vô dụng. Kỹ thuật và khoa học không có lý luận cũng như không có triết lý, đều nguy hiểm. Nói về y học, giáo dục, chính trị, kỹ nghệ, nông nghiệp nếu không có nguyên lý tức là Đệ nhất Nguyên lý: Đại nghĩa, nguyên lý sinh mạng (sức khoẻ, ưu mỹ, hạnh phúc, tự do, chính nghĩa) tức là “Trật tự vũ trụ vô hạn”, thảy đều như thế cả. Nền y học và giáo dục hiện đại nói ra như khó tin mà sự thật thì chẳng biết gì đến sinh mạng! Chính trị không có mục đích gì khác hơn là độc chiếm quyền thế và dùng bạo lực, công thương, nông đều nhận lầm cho rằng mối lợi là nguyên lý. Nhất là nông nghiệp là một ngành sản xuất ra số thực phẩm để nuôi sinh mạng, thế mà cũng nhắm vào mối lợi làm mục đích. Hiến pháp của Nhật bản lấy nông nghiệp làm cơ bản cho chính trị. Trong 3 thần sắc của Nhật có một cái chú trọng dùng nông nghiệp theo đường chính thực sinh hoạt làm Quốc thị.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài May 29 2007, 02:51 PM
Bài viết #13


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



CHƯƠNG V. GIÁO DỤC BIỆN CHỨNG PHÁP THỰC DỤNG KHUYẾCH SUNG ĐƯỢC NỀN LÝ LUẬN HỌC HÌNH THỨC

TRẬT TỰ VŨ TRỤ

Cách đây bốn trăm năm văn minh tư tưởng Tây phương được truyền qua Cực Đông đồng thời với thánh Fragois Savier. Những mũi tên tuyên truyền đầu tiên đã bắn ra từ ngày Marco Polo và Magellan bắt đầu đi thám hiểm. Tuy vậy các nước Cực Đông trở thành thực dân địa của văn minh Tây phương chỉ mới vòng trên một trăm năm nay. Riêng về tinh thần Nhật bản bị thực dân địa hoá vừa trong vòng một trăm năm, tuy quá muộn màng, nhưng ngay từ ngày khai phóng môn hộ để rước triều lưu nước ngoài, dân chúng liền say mê nền văn minh ấy.

Nói cho đúng, lúc ban đầu chỉ vì nhu cầu về quân sự mà phải thế, nhưng tiếp theo đó lại nỗ lực du nhập kỹ thuật, rồi khoa học, học thuật. Ngày nay nước Nhật đã ngang hàng với Âu Mỹ về phương diện chế tạo thuyền bè, camera, đồng hồ, công nghệ vải bò, radio, tuy vậy về phương diện lý luận mặt tinh thần chẳng du nhập được gì thuần tuý, vì lẽ rằng ở phương diện này Tây phương chẳng có gì đáng để ý cả. Lý luận mà Nhật bản đã du nhập của Thái Tây đều là phản động lực, kỹ thuật, tương đối, tiện nghi, thống kê, cơ giới, khế ước như “Tôn giáo” quân chủ chủ nghĩa, nguyên lý đa số quyết định, tân hoá luận, hạnh phúc luận (hạnh phúc của tối đại đa số), hình thức luận lý học, nam nữ bình quyền, nhân khẩu luận, dân ước luận, dân quyền luận, xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, nguyên tử luận, cơ giới luận. Những cái đó tất thảy là thể tài lý luận. Nhưng về vật chất là kỹ thuật đơn giản. Chẳng có gì là lý luận, nguyên lý, pháp lý. Ở Đông phương gọi rằng lý và pháp chỉ là chân lý vĩnh viễn, vạn pháp quy nhất, Đạo, Duy thức, Đại vũ trụ pháp tắc, sinh mệnh, đại nghĩa, Thần, tuỳ theo đấy mà có danh hiệu khác biệt nhau. Ở Tây phương chẳng bao giờ có tư tưởng nhất nguyên luận như thế, cho nên họ đặt ra vô số lý luận khác nhau để thay thế cái gọi là duy nhất (Đạo hoặc Đại nghĩa). Những lý luận của Tây phương trước sau gì cũng cần phải nhất nguyên hoá. Tuy vậy từ Thales, He’raclite, De’mocrite, Epicute đến nay, người Tây phương chỉ có biết nhị nguyên luận, chẳng bao giờ biết đến nhất nguyên luận là gì. Thế giới nhị nguyên luận là thế giới đối lập, tương khắc, vì thế trong các tầng lớp xã hội, mặc dầu với điều kiện nào, chỉ thấy ròng nỗi tương khắc, đối lập, tương tranh, chiến tranh bất tuyệt. Chẳng bao giờ có hoà bình, chẳng bao giờ có đại đồng (đoàn kết) chỉ là muôn đời vạn kiếp phá hoại mãi mãi. Ngày nay chúng ta để ý xem chỗ nào đã có nền văn minh khoa học xâm nhập vào đều có quang cảnh ấy.

Lắm kẻ, dầu người phương Tây cũng thế, nhìn tới cảnh tương lai mà âu lo, phải đem lòng suy nghĩ tới tính cách bi tráng bi kịch của nền khoa học văn minh. Các nhà như Montaigne, Montesquieu, Voltaine, Rousseau, Dideot, các nhà thuộc phái Bách khoa toàn thư đều là những nhà tư tưởng mà cũng là những nhà xuất phát ra những tấu khúc tên báo, nhưng thảy đều thất bại. Cho đến các nhà như Kant, Schopenhauer và Hegel vẫn để tâm tới cực Đông có ý thiết lập một thế giới quan nhất nguyên luận, nhưng rồi cũng thất bại. Gần đây như Spengler, Sammuel, Butler, Emerson, E.Carpenter.... đã tiên đoán rằng nền văn minh khoa học nếu không cho chỗ thoát về thế giới nhất nguyên luận, thế nào cũng tự diệt, không thể nào tránh khỏi. Alexis Carrel đã nhận thấy nhất nguyên luận của sinh mệnh trong phương diện y học và sinh hoá học một cách mơ hồ và thần bí, nhưng ông vẫn tìm ra chỗ vĩ đại của sinh mệnh, là cái đã giải quyết tất cả những nỗi đối lập, tương khắc thành ra nhất nguyên luận, nhờ chỗ tương bổ nhau. Louis Kervran đã phát kiến được thật sự việc chuyển hoán nguyên tử trong sinh thể nhờ chỗ nghiên cứu về phần chuyên môn sinh vật học, sinh hoá học, điện khí sinh lý học, cuối cùng ông phát kiến được ý nghĩa sâu xa trong lời nói của Thomas d’Aquin: “Nếu không nắm chắc được bản thể sinh mệnh lực thì tất thảy trí thức đều là đắc tội”. Tuy vậy ông ta cũng như tất thảy các nhà khoa học khác, vì không hiểu được nhất nguyên luận của Đông phương cho nên ông chỉ ôm chỗ phát kiến không tiền của ông mà đi về chỗ trầm một.

Từ đây W.Hetlen (sinh năm 1904) nhảy lên sân khấu. Năm 23 tuổi ông này phất kiến được “Nguyên lý Heiler-London”, nổi danh một nhà đại lý luận vật lý học giả. Lúc đệ nhị thứ chiến ông trốn thoát ách độc tài Nazis Đức, chạy qua Ái Nhĩ Lan. Sau ngày đại chiến kết liễu, ông làm giám đốc viện Đại học lý luận vật lý ở Zurich. Năm 1961 ông cho xuất bản các bài diễn thuyết của ông thành lập tập sách nhan đề là “chỗ nhận thức của người và khoa học”. Năm sau đó có bản dịch bằng chữ Anh được xuất bản. Đại khái ông chủ trương: “Trong khi nền văm minh khoa học càng phát triển ghê gớm chừng nào, thì đúng như Sáng thế ký (Mặc thị lục) đã nói, trên mặt địa cầu này đầy những cảnh bi thảm không tiền diễn ra cảnh đại tội ác, đại phá hoại, toàn nhân loại đi theo con đường tương sát. Tại sao khoa học lại dẫn dắt loài người tới vận mạng bi thảm như thế?”


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài May 29 2007, 02:51 PM
Bài viết #14


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Trả lời câu hỏi ấy thật vô cùng giản đơn.

Ngày từ bước đầu khoa học đã phạm một lỗi lầm rất lớn. Các nhà sáng tạo khoa học chỉ nhìn thấy chỗ nhị nguyên của vật chất và không gian trong vũ trụ này, vì thế họ bỏ không gian ra ngoài, không để tâm nghiên cứu, chỉ tìm về căn nguyên của vật chất rồi tưởng tượng ra một đơn vị gọi là nguyên tố. Chỗ tưởng tượng ấy được ôm ấp từ hai nghìn năm nay, đến đầu thế kỷ 20 này họ lợi dụng vào những tối tân kỹ thuật, cho rằng cái gọi là nguyên tố của đơn vị vật chất tuyệt đối chân thật, một giống thiệt tại, nghĩa là họ chỉ phát kiến ra một cái nguyên tố không tưởng, một cái không tưởng của hình chơi trẻ con, tất thảy là mộng tưởng, một cái mộng tưởng của kẻ ngu đần.

“Vật chất là một hình ma của số học thần xuất qui một, biến hoá một cách thần bí ở không gian” Đr.Lapp đã nói trong quyển “MATI e`re” (Vật chất) của ông như thế. Cách định nghĩa về vật chất như thế là chỗ kết luận chân thật của các nhà khoa học, mặc dầu xem đấy như lời tráo phúng tự thú nhận chỗ thất bại của mình!

Trong khi khoa học nghiên cứu về thế giới hình nhi hạ hữu hạn, tương đối giới, vật chất giới, khoa học tưởng đâu rằng vật chất bao tàng được một số khí lực tương đưong 3x10 (???) với chất lượng của nó. Khoa học phát kiến ra một phương tiện để rút ra độ một phần nghìn của khí lực ấy, đem dùng chế ra quả bom nổ một tiếng đã giết được 100 nghìn người! Vì thế mà khoa học đã dùng bạo lực chưa từng có trong lịch sử loài người để chi phối thế giới.

Từ 5.000 năm trước, Đông phương đã phát kiến ra pháp tắc sáng tạo và chuyển hoán đồng thời nhất quán chi phối thế giới tương đối, vật chất, tuyệt đối giới, tinh thần và sinh mệnh giới.

Ví dụ như nhà khoa học Tây phương lúc thế kỷ 20 đã phát kiến ra loại nhôm (aluminium), nhưng cho đến nay vẫn chưa biết cách hợp kim thiệt dụng của loài ấy, thế mà tại Đông phương từ 3 nghìn năm trước kia Trung Quốc đã đem ra chế tạo các đồ dùng để nấu ăn trong nhà bếp. Tại học hiệu của Lão tử, có những thuật luyện kim và chuyển hoán nguyên tử, người ta chế ra vàng, trái lại khoa học hiện nay còn đang nghiên cứu thuật luyện kim ấy.

Tại Đông phương người ta lỡ làng với việc nghiên cứu thế giới vật chất, vì nghĩ rằng muốn chinh phục thế giới bằng cách nghiên cứu về hoàng kim, chỉ là việc hoa quỳnh một chốc không đáng kể. Vì những tư tưởng sau này đã thâm nhập vào não, như “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”, “Chi viên tinh xá chung quanh” (thế giới tương đối chỉ thoáng qua như tiếng chuông của nhà chùa), “Sa la song thọ sắc” (có thịnh thì có suy), “kẻ ngạo mạn sẽ mất tăm, như giấc mơ mùa xuân”, “kẻ bạo ngược sẽ bị tảo trừ như bụi bay trước gió”...Bởi vậy nền văn minh khoa học không được bành trướng ở Cực đông vẫn có lý do, và chính những nhà khoa học người Nhật hiện đại là hàng đã “chịu rửa tội” văn minh Tây phương từ lúc thiếu thời, hoàn toàn chẳng hiểu gì cả. Những kẻ đặc biệt trong số ấy thừa nhận rằng: Đông phương là nghệ thuật kỹ xảo kinh nghiệm phái, khác hẳn Tây phương là lý luận và khoa học.

Trái lại Tây phương không có lý luận căn bản, và cho rằng kinh nghiệm tập thành, thường thức chỉnh đốn là cái nền học thuật duy nhất của họ. Cái khoa học này tức là chỗ mù quáng của kinh nghiệm chủ nghĩa thuộc phán đoán lực của họ. Khoa học ấy chỉ có lý luận cơ giới nguyên tử luận, ấu trĩ và không tưởng, chẳng có gì là nghiên cứu đến nguồn gốc và động cơ khiến cho có được bản chất khả năng tính của kinh nghiệm ấy. Chỗ chứng minh của khoa học là tấn hoá luận, di truyền thuyết, dẫn lực, phân tử lực, hạch lực và tất thảy những tắc pháp và phản thuyết của khoa học.

Bởi vậy khoa học của Tây phương là kỹ thuật, khác hẳn chỗ học vấn của Đông phương là cái học đi tới con đường tinh thần nhất nguyên, một cách học độc lập, tự học, tự tập. Vì thế mà Tây phương không thể hiểu thấu được căn bản của khả năng ký ức lực, không biết được sinh mệnh lực đã áp dụng phán đoán lực trong sinh hoạt thực tế hàng ngày với bất luận điều kiện nào.

Chính chỗ ấy mà khoa học không đi con đường nào khác hơn là đi vào con đường phá hoại sinh mệnh lực. Chỗ chứng minh rất hiển nhiên chỉ cho ta thấy trong đối chứng y học hiện đại, chỉ có việc mạt sát chứng trạng, phá hoại, hoặc che đậy, hoặc thay thế các triệu chứng. Những phát minh khác của khoa học đem dùng vào việc giao thông và thông tin tiện lợi, dùng vào việc sinh hoạt dễ dàng, tiết ước, tăng gia khoái lạc, sung túc dục vọng, chẳng qua là một sự phung phí ghê gớm thế giới không gian và thời gian, một sự phá hoại cơ cấu tự nhiên đào thải, chỉ làm cho sinh mệnh nhân loại và toàn thể sinh vật thành ra đê hạ. Cuộc phát minh lớn nhất của văn minh khoa học tức là loại hung khí không tiền: bom H.

Nguyên động lực khiến cho khoa học đến một kết quả như thế tức là hình thức lý luận học đã chi phối tư tưởng Tây phương. Giá phỏng quay trở lại căn nguyên của phương pháp ấy, một phương pháp có thể áp dụng ở thế giới hình nhi hạ học, tiến lên phát triển thành vũ trụ vạn hữu luận lý học, nhất quán cả thế giới hình nhi hạ học cũng như thế giới hình nhi thượng học, tất thảy thành quả của khoa học sẽ làm có sinh mệnh được diên trường, cảnh nhân sinh càng sâu sắc, vui thú gấp lên, và thế giới cũng trở nên tự do và hoà bình


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài May 29 2007, 02:52 PM
Bài viết #15


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Giáo sư Heiler lấy tư cách là nhà lý luận vật lý học, phản tỉnh lại, phát kiến được chỗ khuyết điểm của văn minh khoa học Tây phương nên lớn tiếng hô hào phương pháp cải tạo nền văn minh khoa học liều lĩnh đến cơ hồ bị trục xuất khỏi khoa học giới và xã hội Tây phương, chẳng khác nào nguy hiểm phải chịu hoả hình ngày xưa. Ông nói:

“Muốn cứu nền văn minh khoa học của Tây phương thoát khỏi cảnh bi thảm tối hậu, chỉ duy có một con đường là gấp bỏ hẳn cuộc nghiên cứu hình nhi hạ học, phải đổ tâm lực vào việc nghiên cứu hìh nhi thượng học!”.

Tiếng kêu của con chim gần chết nó bi thảm biết bao! Câu cuối cùng trong bản danh trước “L’homme cet Inconnu” Dr.A.Carrel cũng thốt ra những lời thống thiết như thế:

“Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một nền văn minh đã đi vào đường suy sụp, từ nay mới tự mình thấy rõ nguyên nhân chỗ khiếm khuyết của mình. Có lẽ sẽ lợi dụng trí thức này để nhờ vĩ lực của khoa học trợ giúp hầu có thể thoát khỏi vận mạng bi thảm của quá khứ nhân loại chăng. Hãy bước vào con đường mới! Ngay bây giờ chúng ta phải gấp tiến lên!”.

Sau Alexis Carrel 30 năm, trong tác phẩm của W.Heiler cũng nài nỉ khẩn thiết với nền văn minh Tây phương phải nhắm tới một thế giới quan hình nhi thượng học của Đông phương để tiến bước vượt qua hẳn khoa học đi!

Trong 60 năm qua của tôi, tôi đã đọc hàng mấy nghìn cuốn sách của các nhà khoa học Tây phương, tôi rất khâm phục chỗ đại quan và dũng khí của 4 nhà là Claude Bernard Rene’ Quinton, Alexis Carrel, Louis Kervran. Nhưng tôi nhận thấy chỗ tự kỷ phê phán của người thứ 5 là Heiler về văn minh tây phương có vẻ sâu sắc hơn 4 nhà kia nhiều.

Giáo sư Heiler kết luận rằng phải gấp tới việc nghiên cứu về hình nhi thượng học của Đông phương, tôi thiết tưởng muốn có một phương pháp cụ thể, người Đông phương phải lãnh vai dìu dắt. Tôi lấy làm may mắn trải qua 54 năm qua. Chỉ một mình gánh lấy công việc ấy, theo chỗ kinh nghiệm của tôi, tôi xin lấy toàn lực vạch ra một lược đồ cho người Tây phương cũng như người Đông phương đã Âu hoá và bị hoá thành người thực dân địa cầu Tây phương như sau:

1) Nhờ phương pháp trường sinh “hoà” chỉ trong 10 ngày đã thay đổi tất cả huyết dịch trong cơ thể.

Bác sĩ sinh lý học Đức Dr.Butenant nói rằng xích huyết cầu trong huyết dịch con người thường trong 1 giây (1’’) đã hoại đi 2 triệu, vì thế tất cả huyết dịch chỉ trong 10 ngày dã hoàn toàn thay đổi mới.

Theo chỗ chứng minh của nhà tiên tri Daniel nói: “...chỉ trong 10 ngày là chúng trở nên đẹp đẽ, hiền lành, chỉ có ăn toàn những ngũ cốc và uống nước lã”. Tôi không được hiểu chỗ ấy, nhưng theo kinh nghiệm lâu năm của tôi, tôi khuyên nên ăn tuyệt đối số 7 trong 10 ngày.

Chữ “hoà” trong Hán văn đặt ra từ mấy nghìn năm nay. Chữ ấy biểu thị chỗ anh trí của người xưa và trí phán đoán tối cao của nhân loại. Chữ “Hoà” tức là hoà bình vĩnh viễn, gồm có chữ “Hoà” là lúa ở một bên và chữ “khẩu” là miệng ở một bên, nghĩa là cái miệng có ăn ngũ cốc thì được hoà bình. Tôi thật vô cùng ca ngợi năng lực trừu tượng xảo diệu của người xưa. Họ tóm tắt bộ não quan sát về sinh vật học, sinh lý học, trải mấy ngàn năm, chỉ trong một chữ đủ cho ta thấy rằng muốn thật sự hoà bình, chỉ duy dùng thực liệu bằng ngũ cốc. Người xưa dã đem ra thực hành trong cảnh sinh hoạt hàng ngày của dân chúng, không cần nhắc nhở mà chẳng ai quên.

2) Thực hành phương pháp trường sinh của chữ “Hoà”, học tập vũ trụ biên chứng pháp (vô song nguyên lý, tức kinh dịch của Hoàng đế ngày xưa) đem áp dụng vào hiện đại văn minh khoa học.

Kinh dịch là bản sách của Phục hy sáng chế cách đây mấy ngàn năm, và cách đây 2500 năm Khổng tử san định. Khổng tử cho rằng Kinh dịch là bản kinh diễn tối cao của nhân sinh, nên nói: “Nếu 50 tuổi khởi sự học Dịch sẽ không có lỗi lầm lớn”, “Bìa sách rách 3 lần”, “Bản sách của đế vưong”.

Cách đây 40 năm tôi xuất bản quyển “Đông phương khoa học và triết lý thống nhất nguyên lý” tại Pháp, tôi có giới thiệu việc áp dụng kinh dịch. Quyển sách này mỗi năm tái bản cho đến ngày nay, và bản bằng Anh ngữ sẽ xuất bản theo yêu cầu của nhà sách “Đông-Tây”.

Trước đây 2 năm tôi có giới thiệu tại văn phòng khoa công nghiệp Feitzer rằng: Trong các ky ốt ở New York người ta bán dịch kinh với giá thường 65 cents. Đấy là quyển sách tối cổ của thế giới, quyển sách của hoá học nguyên luận, nguyên tử chuyển hoán pháp, hoặc là khoa học nguyên luận và giáo dục học nguyên luận. Người ta cho người thư ký đến mua, có các sách Kinh dịch dịch ra Anh văn, pháp văn đủ loại, nhưng người Tây phương xem đến chẳng hiểu gì, vì rằng hai chữ Dịch kinh vẫn dịch y như thế, đáng lẽ hai chữ ấy dịch cho sát nghĩa bằng “cuốn sách vạn hữu chuyển hoán thư”, “nguyên tử chuyển hoán thư” thì dễ hiểu hơn.

3) Kinh dịch là một biện chứng pháp thiệt dụng có thể áp dụng trong tất cả các vấn đề sinh hoạt hàng ngày, bất luận nơi nào, lúc nào của chúng ta. Dầu cho các bé con học sinh ở các trường tiểu học cũng có thể học vài giờ hiểu thấu được. Cho đến các giáo sư ở viện đại học cũng có thể dùng làm một la bàn để giải quyết các vấn đề khó khăn về hoá học, vật lý, y học, kinh tế, chính trị, nông nghiệp. Các nhà khoa học Nga xô đã thắng Mỹ khi Mỹ thất bại trong công cuộc vũ trụ thuyền hành, thường nhún nhường tuyên bố: “Chúng tôi thành công được chính nhờ nơi biện chứng của chúng tôi”, mặc dầu Marx đã ngộ diễn vạn hữu biện chứng pháp của Đông phương bảo rằng: chính phản hộp (the`se –antithe`se –synthe`se), nghĩa là hai sinh ra ba, hai và ba sinh ra một.

4) “Thiệt dụng biện chứng pháp” tôi dùng để mệnh danh tạm kinh dịch, dùng để giải quyết được vô số vấn đề nan giải của hiện đại, nhất là có thể thiết lập được hoà bình.

5) Lại nữa “Thiệt dụng biện chứng pháp” tức “Vạn hữu luận lý học” không những lưu thông ứng dụng trong thế giới tuyệt đối và vô hạn nữa; còn hình thức luận lý học và khoa học chỉ có giá trị trong thế giới hữu hạn, tương đối hình nhi hạ học và vô thường giới.

Cái biện chứng thực tiễn này đồng thời mở ra một sanh lộ cho con đường bế tắc của thế giới nhất nguyên luận của vô hạn tuyệt đối.

6) Làm cơ sở cho văn minh khoa học tức là nhị nguyên luận của hình thức lý luận học, và cái luận lý ấy làm căn cơ cho khái niệm thường thức cảm giác phán đoán. Luận lý ấy bỏ qua trực giác, cảm hứng, hoặc nữa là không thể hiểu thấu những chỗ ấy. Vì thế cho nên các nhà cách mạng phát kiến được tân thuyết thường bị mạt sát, chịu phải cảnh bị áp bức bi thảm, bị xử tử vì bạo lực. Cứ mỗi lần như thế thì con đường tiến bộ của khoa học lại bị trở ngại.

7) Thiệt dụng biện chứng pháp đem tính cách giản tố của nó là Âm và Dương để phân loại tất cả nỗi đối lập tương khắc, nhờ tính chất tương bổ của nó, thành ra có được khả năng chuyển hoán tất cả.

Những chuyện thần tiên của Đông phương như chuyện “Một nghìn lẻ một đêm”, “Tây du ký”, “Ailibaba vương tử”, “Tấm thảm bay”, và những kỳ tích thần thoại...viết ra với mục đích thâm khắc chỗ ưu việt của biện chứng thực tiễn ấy vào tâm não của người ngay từ lúc bé thơ. Những truyện ấy chỉ cho chúng ta thấy chỗ bí quyết chuyển hoán nỗi bất khả năng thành ra khả năng, chính là bản thể sinh mệnh. Đấy cũng là bí quyết của Lão tử: “Vô vi nhi hoá”, “bất chiến nhi thắng”, “bất thuyết nhi thuyết phục”, từ “tích tiểu thành địa” hoặc như binh pháp của Tôn tử “Phụ tức thăng” hoặc như tinh thần Jesu “chỉ núi, núi dời ra biển”.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài May 29 2007, 02:53 PM
Bài viết #16


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



CHƯƠNG V KẾT LUẬN

Trải 54 năm, tôi truyền bá phương pháp giáo dục sinh lý hoc và sinh vật học của Đông phương trong khắp thế giới, là vì:

1) Một phương pháp rất giản đơn và rất thực tiễn, mọi người đều có thể áp dụng lập tức, bất luận chỗ nào để xác lập một cảnh sống tự mình kiểm soát lấy bản thân mình cho nhục thể được hoà bình (tức tuyệt đối kiện khang, bất lão trường thọ, được an ninh không tai hoạ, kinh tế an định, vĩnh viễn quân bình, chẳng bao giờ tuỳ luỵ kẻ khác).

2) Một phương pháp khiến cho trí phán đoán của tất thảy mọi người được gia tăng một cách tự nhiên theo sinh lý học và sinh vật học, ai ai cũng có khả năng đạt được chỗ phán đoán tối cao, có thể nhận xét được tất thảy các tư tưởng và hành động, các kỹ thuật.

Hai điểm ấy tức là chỗ xác nhận được nội dung của bản thể “Trật tự vũ trụ” và “vô song nguyên lý”. Trật tự vũ trụ và vô song nguyên lý tức là bản tân diễn hiện đại thế giới về ý chí tối cao của Thần, của Đạo, của chính nghĩa, của Sinh mệnh, năm dồn tháng chứa trải mấy nghìn năm đã thành cũ kỹ (cổ sắc thương nhiên) đã thành ra ngẫu tượng, đầy mê tín, hư không và khía niệm về điểm thứ nhất, Trật tự của Vũ trụ dạy cho chúng ta chỗ “hằng thường của vô thường”. Điểm thứ nhì, vô song nguyên lý dạy cho chúng ta rõ động cơ của chỗ vô thường của sự chuyển hoán không ngừng của tất thảy mọi sự vật. Hiện trong thế giới kể số người hàng ngày thực hành nền giáo dục mới về sinh lý học và sinh vật học, kể trên cả triệu. Từ 15 năm nay tôi đi du lịch quanh thế giới mỗi năm một hai lần với nhà tôi. Trên 10 quyển sách bằng Pháp văn của tôi đã được phiên dịch ra hàng chục thứ ngoại ngữ. Hiện có độ 50 nhóm nghiên cứu về phương pháp trường sinh tại Mỹ châu và Âu châu. Hàng năm các trường hè về triết lý Cực đông được mở ra có ít cũng 3 nơi, có mười nghìn người tham dự. Có các tạp chí định kỳ tại Pháp, Mỹ, Đức, Ba-tây, Bỉ, Việt Nam. Trong khoá hè mở tại Nhật khoảng tháng 7 và tháng 8 năm nay, dự định có 300 người tới tham dự, đều là người thực hành phương pháp trường sinh ít nhất đã 3 năm. Có những phòng diễn giảng thường ngày tại Paris, Boston, New York, và Los Angeles.

Tôi đi đến chỗ nào cũng có xe cộ sẵn sàng cho tôi sử dụng như ở Mỹ, Âu, cho đến bến Ấn độ, Phi châu, và Việt nam cũng thế. Tại Nhật tôi đã giã từ “cảnh nhà vừa đủ che mưa gió”, còn tại các nước trong thế giới đã tặng cho tôi những cảnh nhà tối tân.

Đấy, chỉ nhờ nơi phương pháp giáo dục sinh lý học và sinh vật học mới được như thế. Mặc dầu đấy là một kinh nghiệm trong phạm vi hẹp hòi về cá nhân của tôi trong 54 năm, nhưng cũng đủ chứng tỏ rằng phương pháp này sẽ đem lại được nhiều khả năng tánh vô hạn, cần phải khá nhiều tư kim và đại quy mô, nhưng với sức tôi thì không thể nào làm nổi, không có cách gi làm hơn chỗ tôi làm. Mỗi ngày phải ứng tiếp với thư từ của các nước xa xăm trên toàn thế giới gửi đến, cũng chưa đủ sức thay.

Bây giờ đến phiên các bạn phải gánh lấy!

Nói cho tỏ tường việc thực hành các vấn đề thực tiễn thuộc về kỹ thuật của nền giáo dục sinh vật học, sinh lý học cùng vũ trụ trật tự, hình nhi thượng học của vô song nguyên lý, cách dạy về hình nhi hạ học (cách un đúc tinh thần, tư tưởng lực, phán đoán lực thuộc về sinh vật học, sinh lý học, cần phải viết ra đôi chục cuốn sách lớn. Riêng tôi đã cung cho các bạn trên 300 tác phẩm băng Nhật, Pháp, Đức ngữ để tham khảo. Tuy vậy cách giáo dục về sinh vật học, sinh lý học “không có văn tự” ít ra phải thực hành triệt để trong 10 ngày mới có thể hiểu thấu được. Xin kể sơ đôi loại sách báo như sau:

1- Tạp chí Blanc et Noir ở Pháp đã giới thiệu “G.O” 5 lần.
2- “Zen” băng Anh ngữ, Pháp ngữ.
3- Eien no Sho`ne (Vĩnh viễn thiếu niên). QI nói về Fraklin, Qz nói về Gandhi.
4- Atarashiki Sekai e (số 364-365) tạp chí này từ 35 năm lại đây do tôi chủ trương, bao nhiêu tư tưởng và hành động cùng kỹ thuật đều lấy chỗ tối cao phán đoán lực giảng theo vô song nguyên lý.
5- Kurarashu`man (Sinh vật học, sinh lý học, truyện ký).

Nhìn 74 năm qua tôi đem lòng suy tưởng, thấy ra được hạnh phúc vô cùng, không có cách gì cảm tạ ơn vũ trụ hơn nữa. Cảnh hạnh phúc của tôi đều do chỗ đại bất hạnh lúc ban sơ của đời tôi mà có: Cha tôi còn trẻ đã bị thất tích, mẹ tôi còn trẻ đã qua đời, các em trai em gái đều chết, riêng tôi lúc 16 tuổi bị ho lao thổ huyết nặng, thế rồi lưu lạc trên thế giới, nhất là các nước Văn minh Tây phương, tiếp xúc với 4 khổ cảnh của toàn nhân loại (sinh, bệnh, lão, tử). Nghĩa là tôi truyền bá phương pháp tự chữa lành bệnh của tôi cũng như Jesu còn trẻ tuổi đã truyền bá cách chữa bệnh của Ngài để cứu những kẻ bệnh hoạn thống khổ...Chỗ thành công không ngờ như thế là vì y học chính thống của xã hội Tây phương chỉ duy căn cứ vào nhị nguyên luận cùng hình thức luận lý học đều tỏ ra hoàn toàn bất lực đối với các bệnh như ung thư, gan, bệnh tinh thần, tâm trạng bệnh, các bệnh biến ứng. Những bệnh gọi là nan y kể từ đời Hyppocrate và Dê-Du đến nay đều thành ra nan y mãi, như bệnh cảm mạo cốt thống, suyễn, phong hủi, sói tóc... và còn vô số bệnh khác đã lộ đầu xuất hiện do y thuật phương Tây tạo ra. Vì những lẽ đó, y học tự nhiên của tôi (trường sinh) tức là y học chữa được tận căn của Đông phương đã lan tràn khắp mọi nơi chẳng khác nào lửa phất qua trên lớp cơ khô vậy.

Thế giới quan của Đông phương xét theo tinh thần Nhật bản tức là chỗ kết tinh của vạn hữu lý luận học. Chỗ ấy tức là nhị nguyên luận hoá tính chất nhất nguyên luận (Monisme polarissable). Hiện tượng ấy (vũ trụ vạn hữu) chia ra làm hai loại Âm Dương riêng biệt: Âm Dương tuy tương khắc đối lập, nhưng chuyển hoán thành ra tương bổ Âm Dương chuyển hoán chỗ đối lập tương khắc, kiểm soát lấy động cơ và khí lực của tất cả hiện tượng, hợp thành Âm Dương làm Một, sau cùng lại chuyển hoán tất cả:

Âm <---> Dương, Âm Dương <---> Một

Quan niệm này đã phát kiến ra trật tự của Vũ trụ tới tận gốc Âm và Dương và chỗ khả năng tác dụng làm cho Âm Dương tương dẫn tương xung. Không những Âm Dương có vẻ chính phản hợp mà thôi, mà còn có hình thức 1-- 2 --3.

Thế giới quan này cho rằng cái hiện tượng của sinh hoạt hàng ngày như là sản vật phẩm của cuộc chuyển hoán bất đoạn vô hạn, mà cũng là một kẻ dẫn lộ cho tất cả các cuộc chuyển hoán tiếp theo, vì rằng nó thấu triệt được động cơ của cuộc chuyển hoán này. Thế cho nên là một phương pháp có thể chuyển hoán tất cả nỗi phân liệt, tương khắc, đấu tranh thành ra tương bổ. Một phương pháp khẳng định tất cả, chẳng có gì là phủ đinh bài xích. Cảnh sinh hoạt hàng ngày của cá nhân tức là trường tập luyện vui thú về kỹ thuật của việc chuyển hoán này. Không những đối với cái gì cũng không bài xích mà lại đem những cảnh khốn cùng, nguy hiểm khổ não, bi thảm, tội ác, vô tri chuyển hoán thành cảnh vui thú hạnh phúc, an lạc.

Trong cảnh ngộ này, không có cái gì là không vui thú, dầu cho cái xấu xa, bệnh khổ, kẻ mắc bệnh về tinh thần, kẻ dã man gì cũng đều hoan nghênh cả. Chúng ta không bao giờ cô cao độc xử. Chết hay sống cũng chẳng lấy gì làm sợ, chúng ta đều yêu mến cái xấu xa cũng như yêu mến cái tốt đẹp. Nếu không có thế giới quan như thế, người ta không thể hiểu thấu tư tưởng hoà bình duy nhất trong cái thế giới gọi lâ Một: một thế giới, một vũ trụ, một sinh mệnh, một xã hội, một địa cầu, gọi là thế giới một nhà, tất thảy người đều một nhà.

Thật là vô cùng hạnh phúc cho người Đông phương được có những tổ tiên đã phát kiến được phương pháp “Hoà’ nhờ cách ăn uống đúng phép hàng ngàn năm trước thời đại thần thoại, nghĩa là những thức ăn uống chính, tự mình có thể sinh ra được tư tưởng “Hoà” ấy.

Càng nghĩ đến những thức ăn vật dụng thường ngày của Tây phương là nguyên nhân bất hạnh của văn minh khoa học hiện đại do tinh thần thác loạn đã gây ra tức là một nền văn minh sáng lạn và vĩ đại, càng nghĩ đến những hung khí sát nhân và những người điên cuồng, càng thấy chỗ kỳ tích ủa tinh thần Đông phương.

Quan niệm về thế giới nhận rằng Đông phương là bào thai của 5 đại tôn giáo của loài người, cũng như một đại dương ngày đêm thu dụng tất cả vật dơ dáy cặn bã ở các nơi chảy về, nào xác chết, rêu rác, cá tôm, rồi chuyển hoán ra thành nước trong veo để nuôi dưỡng hàng vạn vạn loài cá khoẻ mạnh, vô số loài san hô hồng bạch, những loài đơn tế bào như ngọc thạch vô số thực vật, động vật đa tế bào. Nói tóm lại là nhờ sự chuyển hoàn mà sinh ra được một đại kỳ tích trong vũ trụ nhờ sinh mệnh! Đại dương là bậc sáng tạo ra sinh mệnh. Thế giới quan cũ kỹ của Đông phương đều lấy nhất nguyên lý để thuyết minh nhị nguyên luận, thiệt thế luận, bản chất luận. Nói về chỗ thực hành nguyên lý ấy thật vô cùng giản đơn đến nỗi khắp các nước phương Tây đều nhận là con đường của sức khoẻ và hạnh phúc, của tự do và chính nghĩa, dầu như tôi là kẻ vô danh, vô học, phi tài, một kẻ vô sản, trải qua 54 năm truyền bá nguyên lý kiện khang, hạnh phúc, tự do và chính nghĩa ấy bằng một thứ ngữ học rất ấu trĩ do tôi tự học lấy chứ chẳng nhờ một học hiệu nào xuất thân.

Các nhà như Bertrand Russel, một tối cao triết nhân của Anh quốc, đến năm 90 tuổi hô hào chuyển hoán phương pháp văn minh khoa học, vị giáo hoàng La mã một vị có quyền uy tối cao trong tôn giáo giới Âu châu; Bác sĩ Schweitzer được mệnh danh là một thánh nhân của thế kỷ; Toynbee là nhà bình luận tối cao của Anh quốc, một tư tưởng gia được thanh niên hiện đại khát vọng là Sartre; nhà khoa học như Heitler đều lớn tiếng kêu gọi hoà bình, yêu cầu đình chỉ việc ngược sát. Nghĩa là tất cả nhân loại khát vọng hoà bình. Thế mà chẳng một người nào biết được nguyên lý hoặc kỹ thuật có thể thiết lập được hoà bình, mà chỉ thấy hàng ngày phung phí ra hàng tỷ đồng yên để giết đàn bà trẻ con hoàn toàn vô tội. Ngay bây giờ tôi xin các nhà lãnh tụ của toàn thế giới hãy lấy chỗ kinh nghiệm của cá nhân mình suy nghiệm tới thế giới quan này của Đông phương đã có trên 5.000 năm nay, đấy là điểm quan trọng của chính trị, khiến cho mọi người được hoàn toàn hoà bình, dân chúng được an lạc trong cảnh tự do. Chính là một phương pháp giáo dục về cảnh sinh hoạt hàng ngày có thể thiết lập từ “Tu thân, tề gia đến trị quốc, bình thiên hạ”. Chính là một phương pháp hoà bình nhờ sự ăn uống đúng phép của mọi người, bất luận cho người nào và bất luận lúc nào. Chính là cảnh giáo dục về sinh lý học và sinh vật học ngàn xưa của Cực Đông, đấy là con đường duy nhất và gần nhất, dễ dàng nhất để thoát khỏi cảnh thống khổ.

Tôi thiết tha yêu cầu người ta xén gọt những chỗ khuyết điểm của phương pháp hoà bình nhờ ăn uống đúng phép này cho hoàn toàn, một phương pháp mà tôi đã đơn thân độc mã phổ biến từ 54 năm nay cho đến ngày 74 tuổi, không một ai giúp sức, người ta sẽ bổ khuyết vào và truyền bá phương pháp này đạt được cảnh hoà bình vĩnh viễn, cảnh hoà bình đầu tiên có trong lịch sử thế giới.

Phương pháp giáo dục của tôi phủ nhận các nền giáo dục xưa nay vì không những vô dụng mà còn có hại là khác. Chứng cớ rõ ràng là chỗ nào có nền giáo dục lan tràn tới thì chỗ ấy càng mọc ra vô số tội ác, vô số bệnh tật, vô số cảnh bất hạnh. Chứng cớ nhiều lắm: Kìa một y sĩ Nhật truyền bá vi khuẩn Typhus ở Tokyo, kìa loại thuốc an thai Thamidomide đã khiến sinh ra hàng mấy nghìn đứa trẻ con dị hình dị tướng....Các loài chó, các loài chim chóc có bao giờ cắp sách tới trường đâu, thế mà chẳng thấy con cái chúng phạm vào tội ác, ăn cắp, ăn trộm, nói dối, bệnh tật gì cả.

Tôi chủ trương phải có một nền giáo dục hoàn toàn mới, tức là nền giáo dục về ý chí và trước tiên phải chịu cảnh khổ cực, tức là cảnh đói và lạnh.

- Hết -


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post

2 Trang V  < 1 2
Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 2nd June 2024 - 03:11 PM