IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

2 Trang V  < 1 2  
Reply to this topicStart new topic
> Axit Và Kiềm, hay triết lý âm dương dưới quan điểm y học phương Tây
Thelast
bài Jul 23 2007, 04:50 PM
Bài viết #11


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Chương II

Axit và Kiềm - Sự tiếp cận Phương Tây


1. Axit và kiềm trong gia đình

Bạn có thể nhìn thấy axit trong ôtô. Chất lỏng chứa trong bình ắc quy là axit. Đây là axit mạnh - axit sulfuric. Nếu chất lỏng rơi trên quần áo bạn, sẽ gây cháy vải. Nó có vị chua.

Nghĩa của từ axit là vị chua, sắc, nhức nhối. Trong axit có vị chua của cam, của bưởi, của nho, của sữa chua. Chúng ta không thể nhận biết một axit bằng vẻ bên ngoài. Có cách đơn giản, thuận tiện nhất để phát hiện ra axit; đó là giấy quỳ. Giấy quỳ là hợp chất rau xanh, được chiết xuất từ cây địa y (Lichen). Khi gặp axit, giấy quỳ biến thành màu đỏ. Bạn có thể mua giấy quỳ ở các hiệu thuốc. Đó là loại giấy hút nước, được ngâm trong dung dịch quỳ và được phơi khô. Giấy quỳ được làm thành những giải giấy và có hai màu: màu xanh và màu đỏ. Loại màu xanh là để thử axit, và màu đỏ để phát hiện kiềm.

Đổ ít dấm vào một chiếc cốc, rồi nhúng giấy quỳ màu xanh vào; màu xanh biến thành màu đỏ. Axit có trong dấm đã làm thay đổi màu. Dấm, về cơ bản là dung dịch axit acetic yếu. Axit acetic, trong thương phẩm được dùng để làm ra các hợp chất được gọi là acetate. Phim ảnh, lụa nhân tạo, một số đồ nhựa và men tráng đồ sắt kẽm là acetate. Rửa sạch cốc có chứa dấm và vắt nước chanh vào cốc rồi nhúng giấy quỳ vào đó, giấy quỳ sẽ biến thành màu đỏ, bởi vì nước chanh có chứa axit citric.

Ngoài việc nước chanh và dấm có chứa axit, được phát hiện bằng giấy quỳ màu xanh; ta còn có thể nhúng những mẩu giấy quỳ xanh vào một số thực phẩm chứa nhiều nước như nước nho, nước cà chua, sữa chua v...v... và nhận rõ phản ứng của giấy quỳ.

Ta còn nhận thấy axit tannic có trong trà và càfê. Axit tannic còn được gọi là tannin. Bạn có thể phát hiện tannin trong các thứ đồ uồng này bằng giấy quỳ.

Thuốc giặt, thuốc muối làm nở bánh và xà phòng, khi được hoà tan trong nước, chúng tạo ra hợp chất kiềm. Kiềm cũng giống như axit, thể hiện rõ đặc tính khi ở trong dung dịch nước. Kiềm khô hoặc axit khô thì không hoạt động. Nói chung, kiềm biến giấy quỳ màu đỏ thành xanh. Vậy tại sao kiềm lại có thể biến giấy quỳ màu đỏ thành màu xanh? Ta hãy đổ một ít ammoniac vào một chiếc cốc rồi nhúng giấy quỳ đỏ vào đó. Giấy quỳ đỏ sẽ biến thành màu xanh. Vôi, nước hoặc sữa của magiê cacbonat (milk of magnesia) biến đổi giấy quỳ màu đỏ thành màu xanh.

Khi đem trộn axit với kiềm, sẽ có phản ứng nhanh. Chúng trung hoà lẫn nhau, và khi điều này xảy ra thì cả hai đều biến mất. Trong cốc, lúc này xuất hiện nước và một hợp chất được gọi là muối. Từ muối là tên chung để nói tới chất Natri clorua (sodium chloride) được dùng trong nấu ăn. Nhưng trong hoá chất, muối là tên chung để chỉ một nhóm hợp chất hữu ích. Dưới đây là các loại muối trong gia đình:

Tên gọi chung ------------------ Tên hoá chất
Muối ------------------ Natri clorua
Bột nở ------------------ Natri cacbonat
Borac ------------------ Natri tetraborate
Xà phòng ------------------ Natri stearat
Thạch cao ------------------ Canxi sulfate
Phấn viết ------------------ Canxi cacbonat

Đất, đặc biệt ở những nơi tối tăm, có bóng râm – nơi có nhiều rêu, thì thường có chứa nhiều axit (biến giấy quỳ màu xanh thành màu đỏ). Để kiểm tra tính axit, hoặc tính kiềm của đất, ta chỉ cần hoà đất vào trong nước, rồi dùng giấy quỳ để thử. Nếu giấy quỳ màu đỏ thành xanh, thì đó là đất kiềm. Nếu giấy quỳ xanh biến thành đỏ thì đó là đất chua (mang tính axit).

Nói chung, quá trình chuyển hoá của thế giới thực vật là từ axit tiến đến kiềm; trong khi quá trình chuyển hoá của thế giới động vật là từ kiềm tới axit.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Jul 23 2007, 04:52 PM
Bài viết #12


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



2. Axit và Kiềm là gì?

Theo bách khoa toàn thư của Funk và Wagnall thì:

Axit và Kiềm là những hợp chất có chứa nguyên tố Hydro và có khả năng giải phóng ion Hydro tích điện Dương (H+) trong phản ứng hoá học.

Tính axit là thuật ngữ tương đối, phụ thuộc vào khả năng cho, hay nhận ion Hydro. Bởi vậy, nước được xem là trung tính; hoạt động như là một chất kiềm khi tan trong axit acetic, và cũng được xem như là một axit khi tan trong amoniac lỏng.

Hầu hết các axit đều có đặc trưng là vị chua, phản ứng mạnh đối với một số thuốc nhuộm hữu cơ (đáng lưu ý là nhuộm đỏ giấy quỳ xanh), có khả năng hoà tan một số kim loại (như kẽm) và giải phóng hydro, có khả năng trung hoà chất kiềm.

Kiềm là loại hợp chất hoá học, còn được gọi là Ba-dơ, có khả năng tạo ion (OH_) trong dung dịch. Đặc tính của kiềm, thông thường là trái ngược với axit, trung hoà axit và sinh ra muối. Thuật ngữ kiềm lúc đầu là dùng để chỉ muối được chắt lọc qua tro của cây; chủ yếu gồm có carbonate sodium (NaCO3) và potassium (K), nhưng hiện nay, thường là hydroxide of alkali metals (Hydroxide sắt kiềm), Lithium, Sodium, Potassium, Rubidium, Cesium, Francium và amoniac gốc, NH4... Chất kiềm đều hoà tan trong nước và phần lớn ở dạng hợp chất sắt kiềm (Alkali metals). Hợp chất săt kiềm đều có hoá trị 1 và tích điện dương mạnh.

Nguyên tử có các Proton ở giữa (hạt nhân) và điện tử xoay quanh quỹ đạo.

Năm 1913, nhà khoa học ngưòi Đan Mạch tên là Neils Bohr, đã đưa ra ý kiến về một mẫu nguyên tử và đã giúp ích nhiều cho các nhà hoá học cho đến tận ngày nay. E.L Rutherford đã chứng minh rằng khối lượng của nguyên tử tập trung ở hạt nhân cực kỳ nhỏ bé, tích điện dương. Di chuyển không ngừng trong quỹ đạo khép kín quanh hạt nhân là những vệ tinh tích điện âm, được gọi là điện tử. Các điện tử di chuyển trong quỹ đạo tích điện âm, cân bằng với điện dương trong hạt nhân để duy trì hoạt động bình thường, đó là sự trung hoà điện.

Lấy một nguyên tử hydro (H), Nguyên tử bao gồm một proton ở trong và một điện tử chạy xung quanh. Nếu nguyên tử hydro bị mất đi điện tử này thì nguyên tử (H) chỉ còn lại proton, được gọi là ion hydro dương (H+). Đây không phải là trình trạng bình thường của nguyên tử (H), đây là tính không bền vững, hay là tính linh hoạt trong hoá học. Chính proton (H+) này đã kích thích lưỡi, gây ra vị chua. Dung dịch hoá chất có vị chua được gọi là axit. Những hợp chất kết hợp nhiều proton được gọi là kiềm; chúng có thừa proton, như (OH -).

Trong các dịch cơ thể của chúng ta thì giữa máu và dịch tế bào - giữa axit và kiềm, luôn luôn có sự thay đổi từ cái này sang cái khác và luôn giữ điều kiện không thay đổi của kiềm hoặc của axit. Axit và kiềm là hai mặt của một đồng tiền, một đặc tính của bất kỳ dung dịch nào.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Aug 1 2007, 08:59 AM
Bài viết #13


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



3. Axit và Kiềm trong cơ thể người

Cơ thể chúng ta tiết ra hoặc duy trì nhiều loại dịch khác nhau. Nồng độ pH khác nhau. Dịch quan trọng nhất trong số các loại dịch cơ thể đó là máu. Trong máu thường xuyên có độ kiềm nhẹ.

Bảng 1. Độ pH

Axit ----------------------------------- pH ----------------------------------- Kiềm ----------------------------------- pH
Dịch dạ dày ----------------------------------- 1.5 ----------------------------------- Nước bọt ----------------------------------- 7.1
Rượu vang ----------------------------------- 3.5 ----------------------------------- Máu ----------------------------------- 7.4
Bia ----------------------------------- 4.4 ----------------------------------- Nước biển ----------------------------------- 8.1
Sữa bò ----------------------------------- 6.5 ----------------------------------- Dịch tụy ----------------------------------- 8.8
Xà phòng ----------------------------------- 9.1
Baking soda ----------------------------------- 12.0

Hoạt động của cơ thể sản sinh ra axit lactic và carbone dioxide (C02). Trong nước, carbon dioxide trở thành carbonic acid. Axit phosphoric và axit sulfuric được sinh ra trong cơ thể, do việc ôxi hoá phospho và sulfur có trong máu. Điều này làm cho máu nhiễm axit. Mặt khác, những nguyên tố kiềm như Na, K, Mg và Ca được sử dụng nhiều; chúng có nhiều trong thực phẩm rau. Dịch dạ dày mang tính axit, được tiết ra để tiêu hoá những thực phẩm kiềm. Tính axit trong máu giảm đi nhờ có mật (mang tính kiềm) và chủ yếu là nhờ việc ăn thực phẩm thực vật có khả năng tạo ra kiềm, làm cho máu mang tính kiềm.

Nồng độ axit trong dung dịch phụ thuộc vào số lượng ion Hydro (H+). Cũng tương tự, nồng độ kiềm trong dung dịch phụ thuộc vào sự kết hợp giữa hydro (H) và ôxy (O); chúng đựoc bổ sung điện tử tự do, tích điện âm và được gọi là ion hydrôxil (OH-)

Nước tinh khiết ở nhiệt độ 220 C, thì trong 10 000 lít nước có 1 gram ion hydro, hay là hàm lượng hydro là bằng1/10 triệu (1/107 hay 10 – 7).Trong nước tinh khiết thì hàm lượng hydrôxil ion là 10-7. Thông thường, người ta dùng nồng độ pH = 7 để chỉ hàm lượng ion hydro. Nếu hàm lượng ion hydro trong dung dịch là 10- 6 thì pH là 6. Điều này cho ta thấy được hàm lượng axit trong dung dịch. Nếu hàm lượng ion hydro là 10 -8 thì pH là 8. Do vậy, nếu pH lớn hơn 7, thì dung dịch là kiềm. Nếu nhỏ hơn 7, thì dung dịch là axit.

Độ pH trong máu là 7.4; có nghĩa là máu mang tính kiềm nhẹ. Độ kiềm này phải được duy trì thường xuyên; mọi sự thay đổi dù nhỏ, đều nguy hiểm. Nếu hàm lượng ion hydro trong máu tăng pH 6.95 (vượt quá ranh giới sang axit) thì gây hôn mê và dẫn đến chết. Nếu hàm lượng ion hydro trong máu giảm đi từ pH 7.4 xuống pH 7.7 sẽ gây co giật cơ. Nếu máu nhiễm axit, tim sẽ đập chậm, tiến tới ngừng đập, và nếu máu nhiễm nhiều kiềm thì gây co thắt tim và ngừng đập.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Aug 1 2007, 09:00 AM
Bài viết #14


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



3. Axit và Kiềm trong cơ thể người

Cơ thể chúng ta tiết ra hoặc duy trì nhiều loại dịch khác nhau. Nồng độ pH khác nhau. Dịch quan trọng nhất trong số các loại dịch cơ thể đó là máu. Trong máu thường xuyên có độ kiềm nhẹ.

Bảng 1. Độ pH

Axit ----------------------------------- pH ----------------------------------- Kiềm ----------------------------------- pH
Dịch dạ dày ----------------------------------- 1.5 ----------------------------------- Nước bọt ----------------------------------- 7.1
Rượu vang ----------------------------------- 3.5 ----------------------------------- Máu ----------------------------------- 7.4
Bia ----------------------------------- 4.4 ----------------------------------- Nước biển ----------------------------------- 8.1
Sữa bò ----------------------------------- 6.5 ----------------------------------- Dịch tụy ----------------------------------- 8.8
Xà phòng ----------------------------------- 9.1
Baking soda ----------------------------------- 12.0

Hoạt động của cơ thể sản sinh ra axit lactic và carbone dioxide (C02). Trong nước, carbon dioxide trở thành carbonic acid. Axit phosphoric và axit sulfuric được sinh ra trong cơ thể, do việc ôxi hoá phospho và sulfur có trong máu. Điều này làm cho máu nhiễm axit. Mặt khác, những nguyên tố kiềm như Na, K, Mg và Ca được sử dụng nhiều; chúng có nhiều trong thực phẩm rau. Dịch dạ dày mang tính axit, được tiết ra để tiêu hoá những thực phẩm kiềm. Tính axit trong máu giảm đi nhờ có mật (mang tính kiềm) và chủ yếu là nhờ việc ăn thực phẩm thực vật có khả năng tạo ra kiềm, làm cho máu mang tính kiềm.

Nồng độ axit trong dung dịch phụ thuộc vào số lượng ion Hydro (H+). Cũng tương tự, nồng độ kiềm trong dung dịch phụ thuộc vào sự kết hợp giữa hydro (H) và ôxy (O); chúng đựoc bổ sung điện tử tự do, tích điện âm và được gọi là ion hydrôxil (OH-)

Nước tinh khiết ở nhiệt độ 220 C, thì trong 10 000 lít nước có 1 gram ion hydro, hay là hàm lượng hydro là bằng1/10 triệu (1/107 hay 10 – 7).Trong nước tinh khiết thì hàm lượng hydrôxil ion là 10-7. Thông thường, người ta dùng nồng độ pH = 7 để chỉ hàm lượng ion hydro. Nếu hàm lượng ion hydro trong dung dịch là 10- 6 thì pH là 6. Điều này cho ta thấy được hàm lượng axit trong dung dịch. Nếu hàm lượng ion hydro là 10 -8 thì pH là 8. Do vậy, nếu pH lớn hơn 7, thì dung dịch là kiềm. Nếu nhỏ hơn 7, thì dung dịch là axit.

Độ pH trong máu là 7.4; có nghĩa là máu mang tính kiềm nhẹ. Độ kiềm này phải được duy trì thường xuyên; mọi sự thay đổi dù nhỏ, đều nguy hiểm. Nếu hàm lượng ion hydro trong máu tăng pH 6.95 (vượt quá ranh giới sang axit) thì gây hôn mê và dẫn đến chết. Nếu hàm lượng ion hydro trong máu giảm đi từ pH 7.4 xuống pH 7.7 sẽ gây co giật cơ. Nếu máu nhiễm axit, tim sẽ đập chậm, tiến tới ngừng đập, và nếu máu nhiễm nhiều kiềm thì gây co thắt tim và ngừng đập.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Aug 5 2007, 09:37 PM
Bài viết #15


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Có hai hợp chất được hoà tan trong huyết tương. Một là sodium bicarbonate (NaHCO3) và một là carbonic acid (H2CO3) (axit dễ bay hơi). Nếu ta tăng thêm lượng axit carbonic, thì máu nhiễm axit. Nhưng nếu ta thở sâu và nhanh trong vòng hai, ba phút thì nồng độ CO2 trong phổi sẽ giảm, tạo cho phổi đào thải CO2 ra khỏi máu. Có nghĩa rằng H2CO3 trong máu bị mất CO2 và trở thành H2O. Và thế là máu trở thành ít axit hơn kiềm.

Còn một cách khác để cơ thể ngăn chặn việc tăng axit qua chất điều hoà máu (blood buffer). Đây là hỗn hợp giữa axit yếu và muối của ba-dơ mạnh. Chất này giữ pH không cho dao động đến mức cực điểm và chống lại thay đổi hàm lượng của ion hydro. Còn có nhiều điều nữa nói về chất này. Theo Cannon, tác giả của ấn phẩm “Sự khôn ngoan của cơ thể”:

Nếu một axit dễ bay hơi như hydrochloric acid (HCl), hoặc Lactic acid (được đặc trưng bởi nhóm HL) được đưa vào máu; axit này sẽ kết hợp với Na trong sodium carbonate và giải phóng carbone dioxide theo phương trình sau:

HCl + NaHCO3 = NaCl + H2O + CO2

hay là HL + NaHCO3 = NaL + H2O + CO2

(Ghi chú: NaL, một loại kiềm, là biến chất của của HL, một loại axit).

NaCl là muối ăn thông thường, trung tính, không độc hại. H2O và CO2 tạo ra carbonic acid (H2CO3) quen thuộc, dễ bay hơi. Khi bổ sung axit mạnh như HCl hoặc HL sẽ làm máu tạm thời nhiễm axit, do việc gia tăng carbonic acid. Như chúng ta đã biết, bất cứ khi nào tăng CO2 thì trung tâm hô hấp bị kích thích; kết quả là tăng nhanh nhịp thở để thải bỏ axit dư thừa - Cả hai được sinh ra do việc hoán vị từ NaHCO3 như nêu trong phương trình trên. Bây giờ CO2 gia tăng, vì NaHCO3 đã bị giảm. Ngay sau khi carbon dioxide (CO2) dư thừa bị thải ra ngoài (qua phổi), thì tỉ lệ bình thường giữa H2CO3 với NaHCO3 dần dần trở lại; phản ừng bình thường của máu được khôi phục và phổi thôi không thở sâu nữa.

Trong tình huống nêu trên, cho thấy Natri bicarbonade (NaHCO3) có trong huyết tương đã giúp bảo vệ máu tránh khỏi sự gia tăng đáng kể lượng axit dư thừa trong máu. Vì có khă năng điều hoà này, nên NaHCO3 được gọi là chất xúc tác. Còn có thêm loại muối điều hoà nữa nằm trong máu, đặc biệt là huyết cầu đỏ - là alkaline sodium phosphate (Na2HPO4).

Khi lượng axit gia tăng trong máu, thì không chỉ có sodium bicarbonate “Điều hoà”, mà cả alkaline sodium phosphate cũng tham gia, như được nêu trong phương trình sau:

Na2HPO4 + HCl = NaH2PO4 + NaCl

Một lần nữa lưu ý rằng, muối ăn thông thường (NaCl) đựơc tạo ra, và cả axit sodium phosphate cũng mới được tạo ra. Điều mới xuất hiện, đó là cả kiềm và acid sodium phosphate đều là chất trung tính.

Axit mạnh HCl đã bị thay đổi như thấy trong phương trình; vì vậy không làm thay đổi phản ứng của máu ở mức độ quan trọng - bằng cách biến đổi kiềm, thành dạng axit phosphate. Tuy vậy, acid phosphate có phản ứng axit nhẹ và không được tích tụ trong hệ thống chất dịch. Không giống như acid carbonic, đây là thứ axit không dễ bay hơi, do vậy không thể thở ra ngoài được. Trường hợp này, thận đóng vai trò trong việc hạn chế sự giao động của axit và kiềm trong máu.

Nếu lượng axit (không dễ bay hơi) gia tăng, thì hậu quả sẽ là không thở được và axit sẽ xuất hiện trong máu; sẽ xuất hiện mối nguy hiểm, đó là các chất ba-dơ có cố định trong muối máu, nhất là Na (sodium) có thể bị đào thải qua thận, và cơ thể bị mất (Na). Trường hợp này, cần lưu ý rằng ammonia (NH3), đây là chất kiềm có thể được sử dụng để trung hoà axit (ở vị trí của Na). Ammonia là sản phẩm phế thải của quá trình tổng hợp; nó biến đổi thành chất trung tính- nước tiểu, và bị đào thải. Tuy nhiên, mất những ba-dơ cố định như Na, Ca và K là điều đe doạ, vì muối ammoniac được tạo ra sẽ đi vào máu rồi đi qua thận.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Aug 5 2007, 09:43 PM
Bài viết #16


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



4. Lý thuyết mới về axit và kiềm

Lý thuyết mới về axit và kiềm xác định rằng axit là bất cứ chất nào cho proton (H+ ion), và kiềm là bất kỳ chất nào có kết hợp với proton. Axit là người cho proton và kiềm là người nhận Proton.

Định nghĩa này về axit cũng tương tự như quan điểm cũ, nhưng định nghĩa về kiềm thì có hàm ý rộng rãi hơn trước. Phương trình sau đây thể hiện rõ điều này:

Axit ------------------------------------------------------------------------ Kiềm
1) ---------------------- HCl ----------------------  ---------------------- H + + Cl -
2) ---------------------- HCN ----------------------  ---------------------- H + + CN -
3) ---------------------- CH3COOH ----------------------  ---------------------- H + + CH3COO -
4) ---------------------- H2CO3 ----------------------  ---------------------- H + + HCO3-
5) ---------------------- HCO3 ----------------------  ---------------------- H + + CO3-
6) ---------------------- H2SO4 ----------------------  ---------------------- H + + HSO4-
7) ---------------------- HSO4 ----------------------  ---------------------- H + + SO4-
8) ---------------------- NH4 ----------------------  ---------------------- H + + NH3-
9) ---------------------- NH3 ----------------------  ---------------------- H + + NH2-
10) ---------------------- H2O ----------------------  ---------------------- H + + OH -
11) ---------------------- H3O ----------------------  ---------------------- H + + H 2O -

Theo quan niệm mới về axit và kiềm thì nước và ammoniac có thể là axit và cũng có thể là kiềm, như những thí dụ sau:

1) Trong phương trình 10, nước cho H+ do vậy nước là axit.
2) Trong phương trình 11, nước nhận H+, do vậy nước là kiềm.
3) Trong phương trình 9, ammoniac cho H+, do vậy ammoniac là axit.
4) Trong phương trình 8, ammoniac nhận H+, do vậy ammoniac là kiềm.

Kết luận, axit và kiềm là hai điều kiện đặc trưng của một dung dịch. Bất cứ dung dịch nào cũng mang tính chất hoặc là nhiều axit, hoặc là nhiều kiềm. Nếu tính axit mạnh, thì dung dịch là axit. Tuy vậy, không có axit tuyệt đối và cũng không có kiềm tuyệt đối. Trong dung dịch axit thường vẫn chứa một số yếu tố kiềm. Trung tính là một điều kiện lý tưởng, trong đó lượng axit (H +) và kiềm (OH -) là ngang nhau. Đó là điều lý tưởng, mà không phải là thực tế. Trong thực tế, những gì chúng ta ăn hoặc uống, thì hoặc là có nhiều axit hơn hoặc nhiều kiềm hơn mà thôi.

Tính chất của axit và kiềm là rất quen thuộc trong quan niệm Âm-Dương của người Phương Đông. Điều này đã được nói trong sách cổ đại của Trung quốc như Đạo đức Kinh và Nội Kinh. Quan niêm về Âm-Dương là quan niệm về sự sống. Đây không phải là tĩnh (bất biến): những điều kiện của Âm và Dương luôn luôn đổi thay trong suốt cuộc sống - cũng hoạt động chính xác như axit và kiềm trong cơ thể chúng ta. Tôi nhận ra ở đây có sự giống nhau giữa quan niệm về hoá học, về sự sống của người Phương Tây (axit và kiềm) với quan niệm về sự sống của người Phương Đông (Âm-Dương). Axit và kiềm có thể định lượng được, còn Âm-Dương thì khó định lượng, mà thiên về triết học. Do đó, có thể hiểu rằng người Phương Tây là những ngưòi thực dụng hơn, nên họ phát triển nhận thức về axit và kiềm, còn người Phương Đông là những người thiên về tâm linh hơn, nên họ phát triển về Âm-Dương. Tuy vậy, đối với chúng ta, điều quan trọng là cần hiểu cả hai quan niệm này ở mức độ như nhau, để nhằm đem lại một sức khoẻ lành mạnh. Trong sách, tôi cố gắng kết hợp cả hai quan niệm này.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Diệu Minh
bài Oct 10 2020, 06:13 AM
Bài viết #17


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 16,911
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



http://thucduong.vn/forums/index.php?showtopic=7396


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post

2 Trang V  < 1 2
Reply to this topicStart new topic
2 người đang đọc chủ đề này (2 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 28th March 2024 - 07:39 PM