IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Niệm Ân Đức Phật là một Pháp môn tu thiện xảo?, Xuất xứ bài kệ 9 Ân Đức Phật?
Just Mini
bài Aug 23 2007, 08:46 AM
Bài viết #1


Rinkitori Tojimomi
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 125
Gia nhập vào: 7-February 07
Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ
Thành viên thứ.: 3





Niệm Ân Đức Phật là một Pháp môn tu thiện xảo?


Khi tôi tu tập lần đầu tiên ở Miến (2004), sau vài tháng công phu, tự dưng tâm tôi nhớ tới Đức Phật hơn hẳn mọi khi rất nhiều và tôi đi hỏi các vị sư và các sư cô về 9 ân Đức Phật là gì?
Thấy ai cũng "ú ớ",... tôi để chuyện đó lặn xuống...
Thời kỳ thứ hai sang Miến tu... một lần đang đi thiền hành... tâm tôi tự dưng nhớ tới thầy tôi và ô tô ma tích (Automatic) chỉ trong sát na nó lập tức nhớ tới Phật - như thế thầy là một đường dẫn... và Phật là gì? không là gì cả mà chỉ là một năng lượng có những đặc tính sau: tôi lầm nhầm nhớ từng ân của Đức Phật... ân thứ nhất: Ứng cúng... ân thứ 2: Chánh Biến Tri... tôi niệm nhớ tới được ân thứ 8 và ân thứ 9 thì tôi không nhớ nổi nữa...
Chek lai tâm mình, thấy tâm làm sao mà nó an lạc thảnh thơi chưa từng có...???? banana.gif

Tâm tôi nó nghĩ: nhớ tới Phật tuyệt thế này mà sao lâu nay mình cứ nhớ tới mấy người đời cho phiền não ra nhỉ?

Khi tôi trình Pháp với thầy tôi, thì thầy bảo: hễ cứ thấy Pháp là thấy Phật! Mấy tháng sau sư TP nói với tôi: có thể cô đã thấy PHÁP rồi? tôi thấy hơi kỳ vì một vị sư không lo chuyện mình mà cứ thích đi đánh giá người khác?

Tôi đem kinh nghiệm đó trình Pháp với thầy tôi và thầy tôi "nhân cớ đó" dạy tôi: cô này nhiều trí tưởng tượng lắm... niệm Ân Đức Phật thêm vào... Như thế là hành trang tâm linh của tôi trên con đường Vipassana từ đó có thêm "mục" niệm Ân Đức Phật....

Nhưng đó lại là công án đối với tôi, niệm Ân Đức Phật thì niệm như thế nào?
Mahajana - Bắc tông thì chỉ có hán nôm: Nào là Ứng Cúng, Chánh Biến Tri...
Therevada - Nam tông hay Nguyên thuỷ thì: Araham, nào là Sammasambuddho,...


Bí rồi, lên trình Pháp, hỏi thầy:
- Ở Việt Nam chúng con chỉ có hai loại: một là hán nôm cũng không gì dễ hiểu; một loại Pali thì cũng thế...
Thầy tôi bảo: Niệm Ân Đức Phật bằng tiếng Việt!

Ối trời ơi, như thế là bằng công án đối với tôi...
Làm sao đây??????

Thế là tôi chỉ còn mỗi bài ƯỚC NGUYỆN: tôi ước gì quyển "Pháp môn niệm Phật" nói rõ về 9 Ân Đức Phật đã được xuất bản của sư Hộ Pháp... bằng văn xuôi, bây giờ làm sao cho NÓ THÀNH VĂN VẦN đễ nhớ, dễ đọc, dễ thuộc....?

Làm sao cho câu chữ sắp hàng đi vào nề nếp....?

Thế là câu chữ nó sắp hàng đi ra trước mặt tôi và tôi chỉ hoàn toàn thụ động là người ghi chép lại ý tưởng của tồn tại...

Và tôi bỗng hơn cả vui mừng: hai phương pháp OHSWA và VIPASSANA đã gặp gỡ nhau trong bài thơ: hai phương pháp mà tôi thích đưa vào hệ thống giáo dục phổ cập cho Việt Nam và toàn cầu đã gặp nhau ở MỘT PHÁP....

Tôi mang tờ giấy ghi chép bài kệ trình Pháp kiểu Bắc tông, kiểu thiền tông... về 9 Ân Đức Phật đó lên trình Pháp với thầy tôi... thấy cái ngạo khí của tôi ngút trời sao đó, vừa mở mồm trình Pháp, thầy mắng luôn: mày thích làm thì mày về Việt Nam mà làm! và thầy tôi không thèm nghe, không thèm nhìn, không thèm muốn biết tôi định nói cái gì....

Toàn bộ "cử toạ" tức là tăng ni sinh... lặng người đi vì thấy tôi bị mắng bất ngờ... tôi điềm nhiên nhìn tâm phản ứng của tôi lúc đó và không bao giờ quên....

Hôm sau, không nén nối tò mò, chị Thiện ngồi ăn cùng bàn lân la trò chuyện: bắt đầu từ khen đôi tất của tôi đang đi ở chân: cái tất của Trâm đẹp nhỉ, phối mầu rất hay... chả là con gái tôi đan cho mẹ đôi tất chân bằng len... rồi không nén nối tò mò, chị hỏi:
- Bao giờ Trâm đi về Việt Nam?
Tôi bất ngờ với câu hỏi và chỉ kịp phản ứng:
- Em chưa biết...
Tức là tôi hoàn toàn không có ý định đi về Việt nam bởi sự đuổi của thầy tôi tẹo nào, mà theo lối suy nghĩ của con người bình thường có logic thì tôi phải chuẩn bị khăn gói quả mướp để đi về khi bị thầy la mắng như thế...
Hôm sau nữa, có một cô Việt Kiều cũng không nén nối tò mò... lân la tới tận Koti - buillding tôi ở) và hỏi:
- Cô Trâm có định về Việt Nam khi nào?
Tôi đáp:
- Con chưa có ý định về Việt Nam.
Bị hỏi bất ngờ tôi chỉ kịp đáp thế.

Khi tôi mang cái KINH NGHIỆM bị thầy đuổi... thực ra chỉ là một sự kích phát năng lượng... và tôi thấy lúc đó có một luồng khí sộc lên vùng tiểu não và nó ê ê lúc sau thì nó bình thường... thấy rõ một luồng khí đi lên đầu qua dọc cột xương sống... và nó chạy ở trên vùng tiểu não của tôi ra sao... lúc sau cái tâm nó nói ở trong: Việt Nam chán phè mình mới sang đây, mà nay thầy đuổi... thế thì chỉ còn Niết Bàn nhảy vô NGỒI ĐÓ là xong chuyện... tôi bỗng phì cười thầm vì cái tâm tôi bĩ cực nó liền sinh thái lai... Cực âm sinh dương và ngược lại... thầy tôi thường dùng các kỹ thuật âm dương một cách thiện xảo để giúp tâm tôi không bị dính mắc với bất cứ thứ gì... khi vào trường thiền,... đi sâu vào Pháp hành thì thiền sinh chỉ còn bị dính mắc với các kinh nghiệm của họ...

Thầy tôi đã dùng các loại khen ngợi tới đỉnh của khen... và các loại chê bai và thậm chí đuổi về VN như một đề mục thiền để cho tôi dễ quán tâm một cách thật là điêu luyện không ngờ... nhưng khi học xong bài thì tôi trưởng thành và lại còn hiểu được ý của thầy...

Khen - chê, vinh - nhục, được - mất, xấu - tốt... chúng tôi đều được học hành chu đáo...
Có lần tôi nghĩ là thầy không còn quan tâm tới tôi và sự tu tập của tôi nữa... thì đúng lúc đó thầy bảo: tôi thấy cô dạo này giải đãi...thế nghĩa là ý nghĩ của mình luôn luôn không có lợi ích cho Pháp hành như vậy đấy, nó ngáng trở sự thật... hèn chi mà thầy ghi trong tài liệu hành thiền: không suy nghĩ, không suy tư, không xét đoán... để cho tâm quan sát và trực giác phát triển bén nhạy...


Như vậy bài thơ mà tôi đắc ý nhất đời... đã bị một CHƯỞNG của thầy tôi ... ban phước như vậy đó:


9 ÂN ĐỨC PHẬT


Ngài là bậc diệt tận
Tất cả mọi phiền não
Xứng đáng được cúng dường
Nên gọi bậc Ứng cúng.

Ngài là bậc tự mình
Chứng ngộ Tứ Thánh Đế
Đạt giác ngộ viên mãn
Nên gọi Chánh Biến Tri.

Ngài là bậc toàn hảo
Cả minh và cả hạnh
Có một hạnh đơn giản
Tưởng rằng rất dễ làm
Mỗi bữa ăn chừa ra
Bốn năm miếng mới no
Là Ngài đã dừng lại
Ai làm được như vậy
Chánh niệm được liên tục
Bệnh tật ít viếng thăm
Nhất là ăn thức ăn
Như ở thời Đức Phật
Ngài là bậc toàn giác
Trí tuệ siêu tam giới
Của pháp hành Thiền Tuệ.

Ngài là bậc thuyết Pháp
Những chân lý nhiệm mầu
Đem lại nhiều lợi ích
Cho tất cả chúng sinh.

Ngài là bậc thông suốt
Biết rõ hết tất cả
Mọi điều trong tam giới.

Ngài là bậc điều phục
Ai có duyên với Ngài
Từ ác chuyển sang lành
Từ phàm lên bậc thánh.

Ngài là thầy cao quí
Của cả thiên và nhân.

Ngài là bậc song tuệ
Tuệ một của Chư Phật
Và loại tuệ thứ hai
Tuệ giáo hoá chúng sanh.

Ngài là bậc ân đức
Bậc siêu xuất tam giới
Thành tựu do trọn đủ
Ba mươi Ba-la-mật
Và sáu ân đặc biệt
Chỉ có Ngài mới có.

Ngày nào cũng niệm tưởng
Đến hồng ân Đức Phật
Đức tin sẽ trọn đủ
Trí tuệ sẽ sáng suốt
Phát sanh nhiều hỷ lạc
Thêm nhiều lòng dũng cảm
Tránh khỏi mọi tai ương
Phước thiện được tăng trưởng.


Shwe - Oo - Min, 15 - 12- 2005, Myanmar
Nanissari - Ngọc Trâm, Phỏng theo “Pháp môn niệm Phật” của sư Hộ Pháp, NXB TP HCM


Sau một thời gian, bài kệ này cứ láy đi láy lại trong tâm tôi và sáng nay tôi đọc được tâm tôi nó muốn sửa chữ NGÀI thành chữ PHẬT và tôi đã cho khắc bia đá bài kệ này với chữ Phật thay vào chữ Ngài!

Thật là ngoạn mục khi tôi thấy tâm tôi nó thông minh như thế...

9 ÂN CỦA ĐỨC PHẬT

Phật là bậc diệt tận
Tất cả mọi phiền não
Xứng đáng được cúng dường
Nên gọi bậc Ứng cúng.

Phật là bậc tự mình
Chứng ngộ Tứ Thánh Đế
Đạt giác ngộ viên mãn
Nên gọi Chánh Biến Tri.

Phật là bậc toàn hảo
Cả minh và cả hạnh
Có một hạnh đơn giản
Tưởng rằng rất dễ làm
Mỗi bữa ăn chừa ra
Bốn năm miếng mới no
Là Ngài đã dừng lại
Ai làm được như vậy
Chánh niệm được liên tục
Bệnh tật ít viếng thăm
Nhất là ăn thức ăn
Như ở thời Đức Phật
Ngài là bậc toàn giác
Trí tuệ siêu tam giới
Của pháp hành Thiền Tuệ.

Phật là bậc thuyết Pháp
Những chân lý nhiệm mầu
Đem lại nhiều lợi ích
Cho tất cả chúng sinh.

Phật là bậc thông suốt
Biết rõ hết tất cả
Mọi điều trong tam giới.

Phật là bậc điều phục
Ai có duyên với Ngài
Từ ác chuyển sang lành
Từ phàm lên bậc thánh.

Phật là thầy cao quí
Của cả thiên và nhân.

Phật là bậc song tuệ
Tuệ một của Chư Phật
Và loại tuệ thứ hai
Tuệ giáo hoá chúng sanh.

Phật là bậc ân đức
Bậc siêu xuất tam giới
Thành tựu do trọn đủ
Ba mươi Ba-la-mật
Và sáu ân đặc biệt
Chỉ có Ngài mới có.

Ngày nào cũng niệm tưởng
Đến hồng ân Đức Phật
Đức tin sẽ trọn đủ
Trí tuệ sẽ sáng suốt
Phát sanh nhiều hỷ lạc
Thêm nhiều lòng dũng cảm
Tránh khỏi mọi tai ương
Phước thiện được tăng trưởng.

Sửa chữa và bổ sung ngày 23 - 8 - 2005

Chú thích:
• Tứ thánh đế:
1- Khổ thánh Đế: Đó là ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp
2- Tập Thánh Đế: (tập thánh đế) là nguyên nhân của khổ: Tham ái
3- Diệt Khổ Thánh Đế: (Diệt thánh đế) Đố là Niết Bàn
4- Đạo Thánh Đế: pháp hành chứng ngộ Niết Bàn, pháp diệt khổ thánh đế.
• Minh- có ba Minh:
1- Túc mạng minh: Biết rõ tiền kiếp thuộc chúng sinh nào, tên gì, dòng dõi, nghiệp, balamật, hạnh phúc hay đau khổ…nhớ rõ mọi chi tiết.
2- Thiên Nhãn Minh: Như mắt chư thiên, trí tuệ, biết rõ quá khứ, vị lai của mọi chúng sinh
3- Lậu Tận Minh: Trí tuệ, thiền tuệ siêu tam giới, diệt mọi tiền khiên tật tích luỹ từ vô lượng kiếp …
Có 8 Minh nữa, gồm 3 Minh- nt- ngoài ra còn thêm:
1- Túc mạng Minh, 2- Thiên nhãn Minh, 3- Lậu tận Minh, 4- Thiền tuệ Minh: biết rõ sự sanh diệt của danh pháp, sắc pháp, trí tuệ chứng đắc 4 đạo quả và Niết bàn. 5- Hoá tâm minh: có khả năng hoá thân theo mong muốn, do năng lực thiền định, 6- Thần thông Minh: hoá thành nhiều người, tàng hình, hiện hình, đi xuyên qua núi, đi trên hư không..., 7- Thiên nhĩ thông: có khả năng nghe như tai của chư thiên, nghe được tiếng người, súc sanh, tiếng chư thiên gần xa do năng lực thiền định, 8- Tha tâm Minh: Biết tâm người khác, chúng sinh khác đang nghĩ gì, thiện hoặc bất thiện. Đó là Tam Minh và Bát Minh
• 15 Hạnh:
1- Có giới đức hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh.
2- Thu thúc lục căn thanh tịnh.
3- Biết tri túc trong vật thực.
4- Tinh tấn tỉnh thức.
5- Có đức tin không lay chuyển.
6- Trí nhớ: Thường có trí nhớ.
7- Hổ thẹn: Biết hổ thẹn không làm điều ác.
8- Ghê sợ: Biết ghê sợ không làm mọi tội ác.
9- Đa văn túc trí: Học nhiều hiểu rộng các pháp.
10- Tinh tấn: tâm tinh tấn không ngừng nghỉ.
11- Trí tuệ: Có trí tuệ hiểu biết rõ các pháp.
12- Đệ nhất thiền
13- Đệ nhị thiền
14- Đệ tam thiền
15- Đệ tứ thiền ( hữu sắc và vô sắc)
• 6 Ân Đức đặc biệt:
1- Tự chủ Tam giới: Đức Thế Tôn hoá pháp thiền thông song hành, một bên nước, một bên lửa ở 2 lỗ mũi, 2 lỗ tai, 2 con mắt….
2- Tự chủ siêu tam giới: Đức phật thuyết pháp xong, các hàng đệ tử đồng thanh nói Sadhu- Sadhu, trong thời gian, không gian ngắn ngủi ấy, Đức Thế Tôn có thể nhập Alahán Thánh quả định để hưởng sự an lạc Niết Bàn.
3- Chánh pháp: Đức Thế Tôn chứng đắc 9 siêu tam giới: 4 thánh đạo, 4 thánh quả và Niết bàn, diệt toàn bộ 1500 loại phiền não và khiên tật do tích luỹ từ vô lượng kiếp quá khứ.
4- Tiếng tốt lành: Ân Đức Thế Tôn lan truyền khắp mọi chúng sinh, từ cõi người đến cõi long vương, chư thiên ở 6 cõi trời dục giới, và cả chủ phạm thiên ở cõi trời vô sắc giới cũng niệm tưởng ân đức Phật.
5- Hạnh phúc: Đức Thế Tôn đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, có hào quang 6 mầu pháp mầu phát ra mát mẻ từ kim thân ngài. Nhân loại, chư Thiên, phạm thiên đến hầu đảnh lễ lúc nào cũng cảm thấy hạnh phúc an lạc phát sanh hỉ lạc. Cho nên nhiều chúng sinh đó đến hầu Đức Thế Tôn bao nhiêu lần cũng cảm thấy chưa đủ.
6- Nguyện ước thành tựu: Đức Phật khi còn là Bồ Tát Sumedha có nguyện ước thành tựu điều gì thì sẽ giáo hoá chúng sinh được như mình, như sau:
- Như lai tự mình chứng ngộ tứ thánh đế- trở thành Đức Phật rồi sẽ giáo hoá chúng sinh cùng chứng ngộ Tứ thánh đế-để trở thành bậc thánh nhân ( tự giác, giác tha)
- Như lai tự mình giải thoát khổ sanh tử luôn hồi trong 3 giới 4 loài rồi sẽ giáo huấn chúng sinh cũng được giải thoát cảnh khổ sanh tử luân hồi trong 3 giới 4 loài ( tự độ- độ tha)
- Như lai tự mình vượt qua biển khổ luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc rồi sẽ dẫn dắt chúng sinh cùng vượt qua biển khổ luân hồi đạt đến Niết Bàn an lạc ( tự đắc- đắc tha)
7- Tinh tấn không ngừng: Hàng ngày Đức Thế Tôn có sự tinh tấn không ngừng hành 5 phận sự gọi là 5 phận sự của Đức Phật:
1- Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ: Sau khi khất thực, độ ngọ, thuyết pháp, quy y, xuất gia…Đức Phật về chùa
2- Phận sự sau khi độ ngọ: Dạy chư tăng cố gắng học hành mọi phận sự Tứ Thánh Đế, mọi pháp không giải đãi, tiến hành tứ niệm xứ.
3- Phận sự canh đầu đêm: Giáo huấn chư tỳ khưu, trả lời câu hỏi,..
4- Phận sự canh giữa đêm: Đạo Phật cho phép chư thiên, Phạm thiên trong 10.000 thế giới đến hầu ngài và hỏi pháp.
5- Phận sự canh chót đêm: Đoạn đầu: Đức Phật đi kinh hành. Đ giữa: Đức Phật nghỉ ngơi, năm nghiêng bên phải, tự biết thức dậy. Đêm chót Đức Phật nhập đại bi định quán xét suốt tất cả xem chúng sinh nào có duyên thành thánh, ngài đến độ




Ngọc Trâm


--------------------
Mini chan ga ichiban



..::Mini::..
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
Diệu Minh
bài Jul 21 2016, 10:10 AM
Bài viết #2


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 16,981
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



ÂN ÐỨC PHẬT THỨ BA

III- Itipi so Bhagavà vijjàcaranasampanno

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Vít-xà-chá-rá-ná-săm-băn-nô).
Ðức Thế Tôn có ân đức Vijjàcaranasampanno = Ðức Minh Hạnh Túc.
Ðức Minh Hạnh Túc là bậc có trọn đủ Tam minh, Bát minh và 15 Ðức hạnh cao thượng.
Tam Minh
1- Túc mạng minh: Là trí tuệ thấy rõ, biết rõ, nhớ rõ trở lại tiền kiếp từ một kiếp, hằng trăm kiếp, hằng ngàn kiếp, hằng vạn kiếp, hằng triệu kiếp, hằng triệu triệu kiếp... Ðối với Ðức Phật Toàn Giác có khả năng ghi nhớ lại vô số kiếp không có giới hạn. (Còn đối với Ðức Phật Ðộc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác có giới hạn).
Túc mạng minh biết rõ tiền kiếp thuộc loại chúng sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, ba la mật, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ... đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết.
2- Thiên nhãn minh: Là trí tuệ thấy rõ biết rõ như mắt của chư thiên, phạm thiên, có khả năng thấy rõ biết rõ kiếp quá khứ, kiếp vị lai của tất cả chúng sinh.
Thiên nhãn minh có hai loại:
a) Tử sanh minh: Là trí tuệ biết rõ sự tử, sự tái sanh của tất cả chúng sinh.
Ðức Thế Tôn có Tử sanh minh này biết rõ chúng sinh sau khi chết rồi do nghiệp nào cho quả tái sanh ở cảnh giới nào.
cool.gif Vị lai kiến minh: Là trí tuệ thấy rõ những kiếp vị lai của chúng sinh.
Chư Phật dùng Vị lai kiến minh này để thọ ký chúng sinh trong những kiếp vị lai xa xăm; còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất nữa sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, bậc Ðộc Giác Phật, bậc Thánh Thanh Văn...
3- Lậu tận minh: Là trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới đó là 4 Thánh Ðạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 4 pháp phiền não trầm luân không còn dư sót; đồng thời Ðức Thế Tôn tận diệt được tất cả mọi tiền khiên tật (vàsanà) do tích luỹ từ vô lượng kiếp trong quá khứ.
Bát Minh
1- Túc mạng minh.
2- Thiên nhãn minh.
3- Lậu tận minh.
4- Thiền tuệ minh: Trí tuệ thiền tuệ tam giới thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp sắc pháp, và trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới chứng đắc Thánh Ðạo Tuệ, Thánh Quả Tuệ và Niết Bàn.
5- Hoá tâm minh: Trí tuệ có khả năng hoá thân khác theo mong muốn của mình, do năng lực của thiền định. Như trường hợp Ðức Phật thuyết tạng Vi Diệu Pháp vào hạ thứ bảy tại cung Tam thập tam thiên suốt ba tháng. Mỗi ngày đến giờ đi khất thực, Ðức Phật hoá thân khác như Ðức Phật tiếp tục thuyết pháp, còn chính Ðức Phật thật đi khất thực ở Bắc câu lưu châu. Khi độ ngọ xong trở lại cung trời thay thế Ðức Phật hoá thân, chỉ có một số ít chư thiên, phạm thiên bậc cao có nhiều oai lực mới biết được.
6- Thần thông minh: Trí tuệ có khả năng biến hoá nhiều phép thần thông khác nhau do năng lực thiền định, như một người hoá thành nhiều người, tàng hình không ai thấy, hiện hình nơi khác, đi xuyên qua núi, đi trên hư không...
7- Thiên nhĩ minh: Là trí tuệ như tai của chư thiên có khả năng nghe được nhiều thứ tiếng người, tiếng súc sanh, tiếng chư thiên gần xa do năng lực thiền định.
8- Tha tâm minh: Là trí tuệ có khả năng biết đến tâm của người khác, chúng sinh khác đang nghĩ gì, thiện tâm hoặc bất thiện tâm.
Ðó là Tam minh, Bát minh.

15 Ðức Hạnh Cao Thượng

1- Có giới đức hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh.
2- Thu thúc lục căn thanh tịnh: thu thúc khi thấy bằng mắt, nghe bằng tai, ngửi bằng mũi, nếm bằng lưỡi, tiếp xúc bằng thân, suy nghĩ bằng ý hoàn toàn thanh tịnh.
3- [b] Biết tri túc trong vật thực: nhận vật thực vừa đủ thọ thực, khi thọ thực đàng hoàng, còn 4-5 miếng cơm nữa đủ no, biết ngừng lại để dành uống nước, không dùng no quá.[/b]
4- Tinh tấn tính thức: ngày, đêm tinh tấn hành phận sự, nghĩa là suốt ngày không ngủ, ban đêm có 3 canh; canh đầu: ngồi hành đạo, đi kinh hành; canh giữa: (22 giờ khuya) nằm nghỉ ngủ trong tư thế nằm nghiêng bên phải, có trí nhớ trí tuệ trước khi ngủ, sẽ thức dậy lúc cuối canh giữa; canh chót: (2 giờ sáng) hành đạo, đi kinh hành... Gọi là tinh tấn luôn luôn tính thức.
5- Ðức tin: có đức tin không lay chuyển.
6- Trí nhớ: thường có trí nhớ.
7- Hổ thẹn: biết tự mình hổ thẹn, không làm mọi tội ác.
8- Ghê sợ: biết ghê sợ, không làm mọi tội ác.
9- Ða văn túc trí: học nhiều hiểu rộng tất cả các pháp.
10- Tinh tấn: có tâm tinh tấn không ngừng nghỉ.
11- Trí tuệ: có trí tuệ hiểu biết rõ tất cả các pháp.
12- Ðệ nhất thiền: có đệ nhất thiền hữu sắc và vô sắc.
13- Ðệ nhị thiền: có đệ nhị thiền hữu sắc và vô sắc.
14- Ðệ tam thiền: có đệ tam thiền hữu sắc và vô sắc.
15- Ðệ tứ thiền: có đệ tứ thiền hữu sắc và vô sắc.
Ðó là 15 đức hạnh cao thượng.
Ðức Thế Tôn có trọn đủ Tam minh, Bát minh và 15 Ðức hạnh cao thượng hợp với trí đại bi để tế độ chúng sinh, có hữu duyên nên tế độ, cứu vớt chúng sinh ấy giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Vijjàcarana-sampanno = Ðức Minh Hạnh Túc.
Niệm Ân Ðức Vijjàcaranasampanno
Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Vijjàcaranasampanno"này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Vijjàcaranasampanno..., Vijjàcaranasampanno..., Vijjàcaranasampanno...", hoặc câu Ân Ðức Vijjàcaranasampanno: "Itipi so Bhagavà Vijjàcaranasampanno..., Itipi so Bhagavà Vijjàcaranasampanno..., Itipi so Bhagavà Vijjà-caranasampanno...", làm đối tượng thiền định...
(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham).
-ooOoo-









ÂN ÐỨC PHẬT THỨ TƯ

IV- Itipi so Bhagavà Sugato

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Sú-gá-tô)
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Sugato = Ðức Thánh Thiện.
Sugato có 4 ý nghĩa:
1- Ngự theo Thánh Ðạo.
2- Ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối.
3- Ngự đến mục đích cao thượng bất thoái chí.
4- Thuyết pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh.
Giải thích:
1- Sugato có ý nghĩa ngự theo Thánh Ðạo như thế nào?
Ðức Thế Tôn ngự (hành) theo Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh là:
- Chánh kiến: Trí tuệ thấy chân chính, đó là trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế.
- Chánh tư duy: Tư duy chân chính, đó là tư duy thoát khỏi ngũ trần, tư duy không thù oán, tư duy không hại chúng sinh.
- Chánh ngữ: Lời nói chân chính, đó là không nói dối, không nói lời đâm thọc chia rẽ, không nói lời thô tục, không nói lời vô ích.
- Chánh nghiệp: Hành nghiệp chân chính, đó là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.
- Chánh mạng: Nuôi mạng chân chính, đó là không sống theo tà mạng do hành ác.
- Chánh tinh tấn: Tinh tấn chân chính là:
* Tinh tấn ngăn ác pháp phát sanh.
* Tinh tấn diệt ác pháp đã sanh.
* Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sanh.
* Tinh tấn làm cho tăng trưởng thiện pháp đã sanh.
- Chánh niệm: Niệm chân chính, đó là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.
- Chánh định: Ðịnh chân chính, đó là định tâm trong đệ nhất thiền, đệ nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền, đệ ngũ thiền siêu tam giới có Niết Bàn làm đối tượng.
Thánh Ðạo hợp đủ 8 chánh này đồng sanh trong Thánh Ðạo tâm, Thánh Quả tâm, có Niết Bàn làm đối tượng.
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự theo Thánh Ðạo.
2- Sugato có ý nghĩa ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối như thế nào?
Ðức Thế Tôn là bậc đầu tiên chứng ngộ Niết Bàn bằng trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới, đó là 4 Thánh Ðạo Tuệ, 4 Thánh Quả Tuệ, nên Ngài có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối.
Về sau, Ðức Thế Tôn thuyết pháp tế độ các hàng đệ tử cũng chứng ngộ Niết Bàn bằng Thánh Ðạo Tuệ, Thánh Quả Tuệ, nhưng những bậc Thánh Thanh Văn này không có Ân Ðức Sugato như Ðức Thế Tôn, vì không phải bậc đầu tiên chứng ngộ Niết Bàn.
Do đó, chỉ có Ðức Thế Tôn mới có Ân đức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết Bàn an lạc tuyệt đối.
3- Sugato có ý nghĩa ngự đến mục đích cao thượng, bất thoái chí như thế nào?
Ðức Bồ Tát đạo sĩ Sumedha, tiền thân của Ðức Thế Tôn, đã phát nguyện sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác, được Ðức Phật Dìpankara thọ ký còn 4 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa, sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác có danh hiệu Gotama. Từ đó, Ðức Bồ Tát trở thành cố định tiếp tục bồi bổ pháp hạnh ba la mật: 10 bậc thường, 10 bậc trung và 10 bậc thượng gồm đủ 30 pháp hạnh ba la mật suốt 4 a tăng kỳ và 100 ngàn đại kiếp bất thoái chí. Ðến kiếp chót, Ðức Bồ Tát Siddhattha từ bỏ ngai vàng đi xuất gia đã trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác.
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa ngự đến mục đích cao thượng bất thoái chí.
4- Sugato có ý nghĩa thuyết pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh như thế nào?
Ðức Thế Tôn tuỳ thời thuyết pháp chân lý chắc chắn đem lại sự lợi ích cho chúng sinh, nếu không đem lại lợi ích, thì Ðức Thế Tôn không thuyết pháp.
Ðức Thế Tôn biết rõ 6 trường hợp; trường hợp nào nên thuyết giảng và trường hợp nào không nên thuyết giảng như sau:
1- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng pháp ấy.
2- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe hài lòng, hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng pháp ấy.
3- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, dầu người nghe hài lòng, hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng pháp ấy.
4- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỉ, Ngài không thuyết giảng pháp ấy.
5- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỉ, Ngài biết tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.
6- Ðức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe hài lòng, hoan hỉ, Ngài biết tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Sugato với ý nghĩa thuyết pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh.
Ân Ðức Sugato có 4 ý nghĩa tóm tắt này, đặc biệt đáng ghi nhớ ý nghĩa đức Sugato thuyết pháp chân lý đem lại lợi ích cho chúng sinh.
Niệm Ân Ðức Sugato
Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Sugato" này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Sugato..., Sugato..., Sugato...",hoặc câu Ân Ðức Sugato: "Itipi so Bhagavà Sugato..., Itipi so Bhagavà Sugato..., Itipi so Bhagavà Sugato...", làm đối tượng thiền định...
(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham).
-ooOoo-










ÂN ÐỨC PHẬT THỨ NĂM

V- Itipi so Bhagavà Lokavidù

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Lô-ká-vn-đu)
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Lokavidù = Ðức Thông Suốt Tam Giới.
Ý nghĩa Loka
Loka: Thế giới đó là các pháp có sự sanh, sự diệt, sự thành, sự hoại,... nhất là ngũ uẩn chấp thủ của mình, gọi là thế giới.
Thế giới có 3 loại:
1- Chúng sinh thế giới (sattaloka).
2- Cõi thế giới (okàsaloka).
3- Pháp hành thế giới (sankhàraloka).
Ðức Thế Tôn có hai loại trí tuệ đặc biệt mà Chư Phật Ðộc Giác và bậc Thánh Thanh Văn không có là:
- Trí tuệ thấy rõ biết rõ căn cơ cao thấp của mỗi chúng sinh.
- Trí tuệ thấy rõ biết rõ phiền não ngấm ngầm, thiện nghiệp, ác nghiệp của mỗi chúng sinh.
Cho nên, Ðức Thế Tôn có khả năng thông suốt cả ba thế giới.
1- Thế nào gọi là chúng sinh thế giới?
Chúng sinh thế giới:
* Về nơi sanh có 4 loại:
- Thai sanh: Chúng sinh sanh từ bụng mẹ như: loài người, trâu, bò...
- Noãn sanh: Chúng sinh sanh từ trứng như: gà, vịt, chim...
- Thấp sanh: Chúng sinh sanh từ nơi ẩm thấp như: con dòi, con trùn,...
- Hoá sanh: Chúng sinh sanh hiện hữu ngay tức thì như: chư thiên, phạm thiên, loài ngạ quỷ, atula, chúng sinh địa ngục, con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất này...
* Về uẩn có 3 loại:
- Chúng sinh có ngũ uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn ở cõi dục giới và cõi sắc giới.
- Chúng sinh có tứ uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn (không có sắc uẩn) ? cõi vô sắc giới.
- Chúng sinh có nhất uẩn: sắc uẩn (không có 4 danh uẩn) ? cõi sắc giới Vô tưởng thiên. V.v...
Ðức Thế Tôn biết rõ tất cả mọi loài chúng sinh có căn cơ cao hoặc thấp; có phiền não ngấm ngầm nặng hoặc nhẹ, có bản tánh riêng của mỗi chúng sinh; có nguyện vọng cao quý hoặc thấp hèn, có 5 pháp chủ [*] già dặn hoặc còn non nớt...
[*] 5 pháp chủ: tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ.
Chúng sinh có khả năng chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả trong kiếp hiện tại, hoặc kiếp vị lai trở thành Toàn Giác Phật, hoặc Ðộc Giác Phật, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác bậc nào...
Chúng sinh không có khả năng chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả trong kiếp hiện tại bởi do nguyên nhân nào...
Ðức Thế Tôn thông suốt tất cả các loài chúng sinh không còn dư sót.
2- Thế nào gọi là cõi thế giới?
Cõi thế giới là nơi tạm trú của tất cả các loài chúng sinh hiện hữu tuỳ theo thiện nghiệp, ác nghiệp cho quả và hỗ trợ chúng sinh.
Tam giới
Tam giới là một thế giới nhỏ, gồm có 31 cõi:
- Dục giới có 11 cõi.
- Sắc giới có 16 cõi.
- Vô sắc giới có 4 cõi.
* 11 cõi dục giới.
- 4 cõi ác giới:
* Cõi Ðịa ngục: có tuổi thọ không nhất định.
* Cõi Atula: có tuổi thọ không nhất định.
* Cõi Ngạ quỷ: có tuổi thọ không nhất định.
* Cõi Súc sanh: có tuổi thọ không nhất định.
- 7 cõi thiện dục giới:
* Cõi Người: có tuổi thọ không nhất định.
* Cõi Tứ đại thiên vương: có tuổi thọ 500 tuổi trời, bằng 9 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 50 năm cõi người).
* Cõi Tam thập tam thiên: có tuổi thọ 1.000 tuổi trời, bằng 36 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm cõi người).
* Cõi Dạ ma thiên: có tuổi thọ 2.000 tuổi trời, bằng 144 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 200 năm cõi người).
* Cõi Ðâu xuất đà thiên: có tuổi thọ 4.000 tuổi trời, bằng 576 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm cõi người).
* Cõi Hoá lạc thiên: có tuổi thọ 8.000 tuổi trời, bằng 2.304 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 800 năm cõi người).
* Cõi Tha hoá tự tại thiên: có tuổi thọ 16.000 tuổi trời, bằng 9.216 triệu năm cõi người. (Bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 1.600 năm cõi người).
* 16 cõi sắc giới phạm thiên.
- Ðệ nhất thiền hữu sắc có 3 cõi:
* Cõi Phạm chúng thiên: có tuổi thọ 1/3 a tăng kỳ kiếp trụ. (Vivattatthàyì asankheyyakappa = a tăng kỳ kiếp trụ của trái đất.)
* Cõi Phạm phụ thiên: có tuổi thọ 1/2 a tăng kỳ kiếp trụ.
* Cõi Ðại phạm thiên: có tuổi thọ 1 a tăng kỳ kiếp trụ.
- Ðệ nhị thiền hữu sắc có 3 cõi:
* Cõi Thiểu quang thiên: có tuổi thọ 2 đại kiếp. (Ðại kiếp = trải qua 4 a tăng kỳ: thành - trụ - hoại - không của kiếp trái đất.)
* Cõi Vô lượng quang thiên: có tuổi thọ 4 đại kiếp.
* Cõi Quang âm thiên: có tuổi thọ 8 đại kiếp.
- Ðệ tam thiền sắc giới có 3 cõi:
* Cõi Thiểu tịnh thiên: có tuổi thọ 16 đại kiếp.
* Cõi Vô lượng tịnh thiên: có tuổi thọ 32 đại kiếp.
* Cõi Biến tịnh thiên: có tuổi thọ 64 đại kiếp.
- Ðệ tứ thiền sắc giới có 7 cõi:
* Cõi Quảng quả thiên: có tuổi thọ 500 đại kiếp.
* Cõi Vô tưởng thiên: có tuổi thọ 500 đại kiếp.
* Cõi Phước sanh thiên: có 5 cõi dành riêng cho bậc Thánh Bất Lai chứng đắc đệ tứ thiền hữu sắc:
- Cõi Vô phiền thiên: có tuổi thọ 1.000 đại kiếp.
- Cõi Vô nhiệt thiên: có tuổi thọ 2.000 đại kiếp.
- Cõi Thiện hiện thiên: có tuổi thọ 4.000 đại kiếp.
- Cõi Thiện kiến thiên: có tuổi thọ 8.000 đại kiếp.
- Cõi Sắc cứu cánh thiên: có tuổi thọ 16.000 đại kiếp.
* 4 cõi vô sắc giới phạm thiên.
- Không vô biên xứ thiên: có tuổi thọ 20.000 đại kiếp.
- Thức vô biên xứ thiên: có tuổi thọ 40.000 đại kiếp.
- Vô sở hữu xứ thiên: có tuổi thọ 60.000 đại kiếp.
- Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên: có tuổi thọ 84.000 đại kiếp.
1 thế giới có tam giới, gồm có 31 cõi.
1 tiểu thế giới có 31.000 cõi.
1 trung thế giới gồm có 31 triệu cõi.
1 đại thế giới gồm có 31 triệu triệu cõi hay 31.000 tỉ cõi.
Ðức Thế Tôn không những thông suốt 31.000 tỉ cõi mà còn thông suốt vô lượng thế giới(ananta-cakkavàla).
3- Thế nào gọi là pháp hành thế giới?
Pháp hành thế giới đó là ngũ uẩn chấp thủ do nhân duyên cấu tạo, nên có sự sanh, sự diệt.
Chúng sinh thế giới và cõi thế giới thuộc về thế giới do Chế định pháp (Pannattidhamma),còn pháp hành thế giới thuộc về Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma).
Ðức Thế Tôn thông suốt pháp hành thế giới có nhiều loại như sau:
- Thế giới có 1 pháp: tất cả chúng sinh được tồn tại do nhờ nhân (àhàra).
- Thế giới có 2 pháp: danh pháp và sắc pháp.
- Thế giới có 3 thọ: thọ khổ, thọ lạc, thọ xả.
- Thế giới có 4 pháp dẫn đến quả: vật thực dẫn cho sanh mạng được tồn tại; xúc dẫn đến thọ; tác ý dẫn cho quả tâm; tâm dẫn cho tâm sở nương nhờ và sắc pháp phát sanh từ nghiệp.
- Thế giới có 5 uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
- Thế giới có 6 xứ bên trong: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý và có 6 xứ bên ngoài: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp...
Ðức Thế Tôn thông suốt cả vô lượng thế giới, bắt nguồn từ thế giới ngũ uẩn của mình.
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Lokavidù = Ðức Thông Suốt Thế Giới.


Niệm Ân Ðức Lokavidù
Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Lokavidù" này, sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Lokavidù..., Lokavidù..., Lokavidù...", hoặc câu Ân Ðức Lokavidù: "Itipi so Bhagavà Lokavidù..., Itipi so Bhagavà Lokavidù..., Itipi so Bhagavà Lokavidù...", làm đối tượng thiền định...
(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham).
-ooOoo-





ÂN ÐỨC PHẬT THỨ SÁU

VI- Itipi so Bhagavà Anuttaro purisadammasàrathi

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô Phá-gá-voa Á-nút-tá-rô pú-rí-sá-đăm-má-sa-rá-thí).

Ðức Thế Tôn có ân đức Anuttaro purisa-dammasàrathi = Ðức Vô Thượng giáo hoá chúng sinh.
Ðức Thế Tôn giáo hoá các loại chúng sinh như: súc sanh, nhân loại, dạ xoa, chư thiên, phạm thiên trở thành bậc Thiện trí.
a) Giáo hoá loài súc sanh
Ðức Thế Tôn giáo hoá các loài súc sanh như rồng chúa Apalàla, rồng chúa Cùlodara, rồng chúa Mahodara... trở thành rồng hiền lành. Voi chúa Nàlàgiri rất hung dữ trong cơn say, chạy đến hại Ðức Thế Tôn, Ngài rải tâm từ đến voi chúa, ngay tức khắc voi chúa tính lại, bò đến quỳ mọp xuống hai bàn chân của Ðức Phật, Ngài giáo hoá voi chúa này trở thành voi hiền lành, biết quy y Tam bảo, thọ trì ngũ giới. Kể từ đó về sau, voi chúa rất hiền lành dễ thương, Ðức Thế Tôn đặt tên là voi chúa Dhanapàla.
cool.gif Giáo hoá người ác trở thành bậc Thánh nhân
Kẻ cướp sát nhân cắt ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ có biệt danh Angulimàla. Y có võ nghệ cao cường, một mình ở trong rừng, từng đoàn người 20 - 30 người đi qua khu rừng, không một ai thoát chết.
Một hôm, Ðức Thế Tôn một mình đi vào rừng, nơi trú ẩn của Angulimàla, để giáo hoá y. Y thức tính, từ bỏ sát nhân, xin xuất gia trở thành Tỳ khưu nơi Ðức Phật. Về sau không lâu Tỳ khưu Angulimàla chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, cho đến Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng...
c) Giáo hoá Dạ xoa ác trở thành bậc Thánh nhân
Tích dạ xoa Àlavaka ăn thịt người rất hung ác, tàn bạo, có nhiều phép mầu cực kỳ nguy hiểm. Ðức Thế Tôn đến ngự trên bảo tọa trong lâu đài của dạ xoa Àlavaka, y bực tức dùng mọi phép mầu để xua đuổi Ðức Thế Tôn ra khỏi cung điện của y. Nhưng y hoàn toàn bất lực, không xua đuổi Ðức Thế Tôn được.
Cuối cùng, y có những câu hỏi mà quên câu trả lời, y đã hỏi nhiều Sa môn, Bà la môn mà không một ai có thể trả lời đúng được. Nay y đem những câu hỏi ấy đặt điều kiện hỏi Ðức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn đã giải đáp đúng ý nghĩa những câu hỏi, dạ xoa Àlavaka vô cùng hoan hỉ liền chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo.
d) Giáo hoá phạm thiên tà kiến trở thành chánh kiến
Phạm thiên Baka ở cung trời sắc giới Quang âm thiên phát sanh thường kiến mê lầm. Ðức Thế Tôn từ chùa Jetavana, hiện lên cõi trời sắc giới để tế đ? phạm thiên Baka từ bỏ tà kiến trở lại chánh kiến...
Ðức Thế Tôn giáo hoá tế độ chúng sinh hữu duyên nên tế độ. Nghĩa là, những chúng sinh ấy tiền kiếp có liên quan với Ngài, hoặc tiền kiếp đã từng gieo duyên lành nơi chư Phật trong quá khứ, hoặc đã từng tạo ba la mật, gieo phước duyên trong giáo pháp của chư Phật ấy. Nay kiếp hiện tại, có duyên lành được Ðức Thế Tôn quan tâm đến, để giáo hoá tế độ chúng sinh ấy. (Không có nghĩa Ðức Thế Tôn gặp chúng sinh nào cũng giáo hoá tế độ chúng sinh ấy được cả thảy).
Ðức Thế Tôn giáo hoá những chúng sinh mà không có một ai có thể giáo hoá tế độ được, không có một vị nào sánh được như Ngài.
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Anuttaro purisa-dammasàrathi = Ðức Vô Thượng giáo hoá chúng sinh.
Riêng Ân Ðức Phật Anuttaro purisadamma-sàrathi: trong bộ Thanh Tịnh Ðạo, phần giảng dạy Ân Ðức Phật, Ân Ðức Phật này phân chia làm hai Ân Ðức riêng biệt.
- Anuttaro = Ðức Vô Thượng.
- Purisadammasàrathi = Ðức giáo hoá chúng sinh.
Giải thích:
- Ân Ðức Anuttaro = Ðức Vô Thượng như thế nào?
* Ðức Thế Tôn có giới đức trong sạch thanh tịnh không một ai trong toàn thế giới hơn Ngài.
Cũng như vậy,
* Có định đức trong sạch thanh tịnh...
* Có tuệ đức trong sạch thanh tịnh...
* Có giải thoát đức trong sạch thanh tịnh...
* Có giải thoát tri kiến đức trong sạch thanh tịnh không một ai trong toàn thế giới hơn Ngài.
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Anuttaro = Ðức Vô Thượng.
- Ân Ðức Purisadammasàrathi: Ðức giáo hoá chúng sinh như thế nào?
Ðức Thế Tôn giáo hoá các loài chúng sinh có duyên lành, mà không có một ai trong toàn thế giới chúng sinh có khả năng giáo hoá tế độ chúng sinh như Ngài được.
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Purisa-dammasàrathi = Ðức giáo hoá chúng sinh.

Niệm Ân Ðức Anuttaro purisadammasàrathi
Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Anuttaro purisadamma -sàrathi", này sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Anuttaro purisadammasàrathi..., Anuttaro purisadammasàrathi..., Anuttaro purisa-dammasàrathi...", hoặc câu Ân Ðức Anuttaro purisadammasàrathi: là "Itipi so Bhagavà Anuttaro purisadammasàrathi..., Itipi so Bhagavà Anuttaro purisadammasàrathi..., Itipi so Bhagavà Anuttaro purisadammasàrathi...", làm đối tượng thiền định...
(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham).
-ooOoo-













ÂN ÐỨC PHẬT THỨ BẢY

VII- Itipi so Bhagavà Satthàdevamanussànam

(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa xặt-tha-đê-voá-má-nút-sa-năng).
Ðức Thế Tôn có ân đức:
Satthàdevamanussànam = Ðức Thiên Nhân Sư.
Ðức Thế Tôn là bậc Tôn Sư giáo huấn tất cả chúng sinh những pháp đem lại sự lợi ích, sự an lạc kiếp hiện tại; những pháp đem lại sự lợi ích, sự an lạc trong kiếp vị lai; và những pháp hành đem lại sự an lạc cao thượng Niết Bàn, tuỳ theo căn duyên trí tuệ của mỗi chúng sinh.
A) Sự Lợi Ích An Lạc Kiếp Hiện Tại
Ðức Thế Tôn giáo huấn chúng sinh thực hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự an lạc trong kiếp hiện tại
(Anguttaranikàya-Atthakanipàta, kinh Dìghajànusutta)
4 pháp là:
1- Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp.
2- Biết giữ gìn của cải tài sản.
3- Có bạn lành, bạn tốt là bậc Thiện trí.
4- Biết sử dụng của cải có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình.
Giải thích :
1- Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp như thế nào?
Trong cuộc sống mỗi người nên chọn cho mình một nghề nghiệp lương thiện, không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ cả mình lẫn người [*] . Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp ấy, có trí tuệ hiểu biết chuyên môn trong nghề nghiệp để tạo ra nhiều của cải tài sản cho mình.
[*] Tránh 5 nghề: Nghề buôn bán vũ khí; nghề buôn bán người hoặc súc vật; nghề buôn bán rượu và các chất say; nghề buôn bán các loại thuốc độc sát hại chúng sinh; nghề sát sanh các loài thú để bán thịt.
2- Biết giữ gìn của cải tài sản như thế nào?
Của cải tài sản được tạo ra do đức tính siêng năng cần mẫn của mình, trong nghề nghiệp một cách hợp pháp. Người ấy nghĩ: "Ta nên giữ gìn cẩn thận những của cải tài sản này, tránh không để lửa cháy, nước ngập lụt cuốn trôi, bọn trộm cướp chiếm đoạt... giữ gìn của cải tài sản không bị hư mất".
3- Có bạn lành, bạn tốt là bậc Thiện trí như thế nào?
Muốn được lợi ích, tiến hoá, an lạc lâu dài, cần phải sống gần gũi, thân cận với bậc Thiện trí làm bạn thân thiết, để học hỏi những thiện pháp, ác pháp; để biết thiện pháp nên hành, ác pháp nên tránh xa; để noi gương tốt của bậc Thiện trí.
Bậc Thiện trí là người có đức tin chơn chánh; có giới trọn đủ; có đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng; thường hoan hỉ trong sự bố thí; có trí tuệ sáng suốt hiểu biết các pháp.
Nhờ gần gũi, thân cận bạn lành bạn tốt là bậc Thiện trí, nên mình mới có cơ hội học tập, để có đủ đức tin, có giới, học nhiều hiểu rộng, hoan hỉ trong sự bố thí, có trí tuệ hiểu biết các pháp.
4- Biết sử dụng của cải có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình như thế nào?
Nhờ sống gần gũi, thân cận với bạn lành, bạn tốt là bậc Thiện trí, nên học hỏi hiểu biết được con đường làm cho phát triển của cải, và con đường làm của cải suy đồi [*] .
[*] Con đường làm của cải suy đồi: kết bạn với người ác, ăn chơi đàng điếm, uống rượu, chơi cờ bạc. Con đường làm cho phát triển của cải: kết bạn với bậc Thiện trí, không ăn chơi đàng điếm; không uống rượu, không chơi cờ bạc.
Biết sử dụng của cải có chừng mực trong cuộc sống là:
-Không nên phung phí của cải quá mức.
- Không nên hà tiện quá mức.
Nên nghĩ rằng: "Phần thu của ta hơn phần chi, hoặc phần chi của ta kém hơn phần thu".
Trong cuộc sống phần thu tiền bạc của cải nhiều hơn mức phần chi, thì tiền bạc của cải có phần dư dật, để dành lúc bịnh hoạn ốm đau, lúc tuổi cao tác lớn không tạo ra của cải được, nhờ có dư của cải tiền bạc thì cuộc sống mới được an lạc.
Ngược lại, phần chi tiền bạc, của cải nhiều hơn mức phần thu, thì tiền bạc, của cải bị thiếu thốn, nên cuộc sống lâm vào cảnh túng thiếu khổ cực.
Biết sử dụng của cải có chừng mực tuỳ theo khả năng của mình là lúc nào cũng "phần thu hơn phần chi".
Ðó là 4 pháp thực hành đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc trong kiếp hiện tại.
cool.gif Sự Lợi Ích An Lạc Những Kiếp Vị Lai
Ðức Thế Tôn giáo huấn chúng sinh thực hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc những kiếp vị lai.
4 pháp là:
1- Có đức tin trọn đủ.
2- Có giới hạnh trong sạch và trọn đủ.
3- Có sự bố thí trọn đủ.
4- Có trí tuệ trọn đủ.
Giải thích
1- Có đức tin trọn đủ như thế nào?
Người Phật tử có đức tin trong sạch nơi 9 Ân Ðức Phật, 6 Ân Ðức Pháp, 9 Ân Ðức Tăng; tin nghiệp và quả của nghiệp trọn đủ.
Có đức tin trong sạch trọn đủ, nơi 9 Ân Ðức Phật rằng:
Ðức Thế Tôn,
- là bậc Arahán xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của chư thiên, phạm thiên, nhân loại.
- là bậc tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả đầu tiên trên toàn thế giới chúng sinh, trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác,
- là bậc có trọn đủ Tam minh, Bát minh và 15 Ðức hạnh cao thượng,
- là bậc Thánh Thiện giáo huấn sự thật chân lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng sinh.
- là bậc Thông Suốt toàn thế giới.
- là bậc Vô Thượng Giáo Hoá chúng sinh.
- là bậc Thiên Nhơn Sư.
- là Ðức Phật tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, rồi giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ như Ngài.
- là bậc Cao Thượng nhất trong toàn thế giới chúng sinh, do Ngài tự mình chứng đắc thành bậc Chánh Ðẳng Giác.
Và có đức tin trong sạch trọn đủ 6 Ân Ðức Pháp của Ðức Phật, 9 Ân Ðức Tăng, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật; và có đức tin trong sạch nơi nghiệp và quả của nghiệp. Tin rằng: "nghiệp thiện cho quả an lạc; nghiệp ác cho quả khổ". Ngoài ra, không tin một ai có quyền lực cho quả an lạc hoặc cho quả khổ cho mình.
2- Có giới trong sạch và trọn đủ như thế nào?
Người Phật tử là bậc Xuất gia hoặc hàng tại gia cư sĩ, là người có giới hạnh trong sạch và trọn đủ theo phẩm hạnh của mình.
- Người cận sự Nam - Nữ có ngũ giới; bát giới... trong sạch và trọn đủ.
- Bậc Sa di có 10 Sa di giới, 10 pháp hoại, 10 pháp hành phạt, 75 điều học, 14 pháp hành...
- Bậc Tỳ khưu có 227 giới, 14 pháp hành, giới kể đầy đủ có 91.805.036.000 điều giới.
3- Sự bố thí trọn đủ như thế nào?
Người Phật tử có tâm từ, tâm bi tế độ, hoan hỉ trong sự bố thí tuỳ theo khả năng của mình, có tác ý thiện tâm trong sạch hoan hỉ trước khi bố thí; hoan hỉ đang khi bố thí; hoan hỉ sau khi đã bố thí xong.
Người Phật tử không nên có tâm bỏn xẻn keo kiệt trong của cải và sự hiểu biết của mình, có ít thì bố thí ít, có nhiều thì bố thí nhiều tuỳ theo khả năng, tuỳ theo người thọ thí. Người thí chủ nên có sự suy tư đúng đắn rằng: được làm phước thiện bố thí là một cơ hội tốt cho mình. Vì của cải, tiền bạc không phải là phước thiện (là quả của phước thiện) thuộc về của chung cho mọi người, nếu ta không biết sử dụng đem làm phước bố thí, qua thời gian, của cải ấy cũng bị hư mất, không tồn tại lâu dài được; nếu ta biết sử dụng của cải ấy đem bố thí, để biến thành phước thiện chắc chắn thuộc của riêng mình, sẽ cho quả báu an lạc nhiều kiếp, có tính bền vững lâu dài. Hơn nữa, cơ hội làm phước thiện bố thí chỉ có con người ở cõi Nam Thiện Bộ Châu (trái đất chúng ta đang sống) này mà thôi; các chúng sinh ở cõi khác khó hoặc không có cơ hội thuận lợi làm phước thiện bố thí. Vì vậy, chúng ta chớ nên bỏ lỡ cơ hội bố thí ấy.
4- Có trí tuệ trọn đủ như thế nào?
Người Phật tử nên có trí tuệ hợp trong mọi thiện pháp. Khi bố thí, thí chủ nên có đại thiện tâm hợp với trí tuệ đang khi bố thí. Cũng như vậy, hành giả nên có đại thiện tâm hợp với trí tuệ khi giữ giới, khi tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ.
Thật ra, trí tuệ để cho trọn đủ là trí tuệ thiền tuệ trong tam giới thấy rõ biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế.
Trí tuệ gọi là trọn đủ chính là trí tuệ thiền tuệ siêu tam giới, đó là 4 Thánh Ðạo tuệ, đồng sanh trong 4 Thánh Ðạo tâm và 4 Thánh Quả tuệ đồng sanh trong 4 Thánh Quả tâm, có Niết Bàn làm đối tượng. Hành giả trở thành bậc Thánh nhân.
Ðó là 4 pháp thực hành sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho kiếp hiện tại, lẫn nhiều kiếp vị lai.
C) Sự Lợi Ích An Lạc Cao Thượng Niết Bàn
Ðức Thế Tôn có hai loại trí tuệ đặc biệt.
- Trí tuệ thấy rõ biết rõ căn duyên cao thấp của mỗi chúng sinh.
- Trí tuệ thấy rõ biết rõ phiền não ngủ ngầm của mỗi chúng sinh.
Hai loại trí tuệ đặc biệt này chỉ có nơi Ðức Phật Toàn Giác mà thôi, còn các bậc Thánh Thanh Văn hoàn toàn không thể có (2 loại trí tuệ này). Cho nên, mỗi khi Ðức Thế Tôn thuyết pháp tế độ chúng sinh nào, Ngài quán xét căn duyên của chúng sinh ấy. Chúng sinh nào đã từng tạo ba la mật nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ, đã từng gặp Chư Phật ở quá khứ thọ ký rồi. Nay kiếp hiện tại này gặp Ðức Phật, Ngài thuyết pháp giáo huấn hợp với căn cơ và duyên lành của chúng sinh ấy. Sau khi lắng nghe Ðức Thế Tôn thuyết pháp xong, có số chúng sinh liền chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
* Có số chứng đắc đến Nhất Lai Thánh Ðạo - Nhất Lai Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhất Lai.
* Có số chứng đắc đến Bất Lai Thánh Ðạo - Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai.
* Có số chứng đắc đến Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán.
Sự chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả này tuỳ theo 5 pháp chủ và ba la mật, nhất là trí tuệ ba la mật của mỗi chúng sinh.
Bốn bậc Thánh nhân này đều chứng đạt đến sự lợi ích, sự an lạc cao thượng Niết Bàn.
Ðức Thế Tôn thuyết pháp tế độ chúng sinh không những nhân loại, chư thiên, phạm thiên được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài, mà còn có loài súc sanh cũng được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài nữa.
Như tích Mandukadevaputta (Chư Thiên Ếch - Khuddkanikàya, bộ Vimànavatthu chuyện Mandukadevaputta.), tóm lược như sau:
-- Một thuở nọ Ðức Thế Tôn ngự đến bờ hồ Gaggarà thuyết pháp tế độ dân chúng Campà, một con ếch nhảy lên bờ hồ nằm nghe giọng nói của Ðức Thế Tôn, với đức tin trong sạch nơi Ngài.
Khi ấy, một người chăn bò đứng đằng sau lắng nghe pháp, tay cầm cây nhọn vô ý cắm xuống đất đụng phải đầu con ếch đang nằm nghe giọng nói của Ðức Thế Tôn với đức tin trong sạch, con ếch chết ngay khi ấy. Sau khi chết, do thiện nghiệp ấy liền hoá sanh làm thiên nam ở cõi Tam thập tam thiên trong một lâu đài bằng vàng nguy nga tráng lệ, có chư thiên nữ hầu hạ. Vị thiên nam quán xét rằng: "Ta từ đâu đến hoá sanh làm thiên nam ở cõi Tam thập tam thiên này?".
Vị thiên nam nhớ lại tiền kiếp mình là loài ếch sống dưới hồ Gaggarà, lên bờ nằm lắng nghe giọng Ðức Phật thuyết pháp, với đức tin trong sạch; kiếp ếch ấy chết rồi, do nhờ thiện nghiệp ấy được hoá sanh làm thiên nam ở cõi trời này. Thấy rõ Ðức Thế Tôn đang còn thuyết pháp tại gần bờ hồ Gaggarà, vị thiên nam ếch quyết định hiện xuống hầu Ðức Phật, còn đem theo lâu đài bằng vàng cùng chư thiên nữ, có hào quang sáng ngời đảnh lễ dưới hai bàn chân của Ðức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn biết rõ, nhưng muốn cho các hàng đệ tử thấy rõ quả báu nghe pháp, nên Ngài hỏi:
"Ko me vandàti padàni,
iddhiyà yasasà jalam.
Abhikkantena vannena,
sabbà obhàsayam disà".
"Này thiên nam, ngươi là ai mà có thân hình xinh đẹp, hào quang sáng ngời toả ra khắp mọi hướng, có nhiều oai lực, nhiều chư thiên nữ hầu hạ đến đây đảnh lễ dưới 2 bàn chân của Như Lai vậy?".
Chư thiên ếch bạch:
"Mandùko’ham pure asim,
udake vàrigocaro
Tava dhammam sunantassa,
avadhi vacchapàlako..."
"Kính bạch Ðức Thế Tôn, con là Manduka, mới kiếp trước đây, là con ếch nhỏ sanh và sống ở trong nước tại hồ này, con nhảy lên hồ đang nghe pháp của Ngài, chính tại nơi đây người chăn bò đứng nghe pháp vô ý cắm cây đụng đầu con, làm cho con chết.
Kính bạch Ðức Thế Tôn! Chỉ một khoảnh khắc, do nhờ đức tin trong sạch nơi giọng thuyết pháp của Ðức Thế Tôn, sau khi chết, do nhờ thiện nghiệp ấy liền hoá sanh làm thiên nam ở cõi trời, như Ngài nhìn thấy, con có thân hình xinh đẹp, hào quang sáng ngời toả khắp mọi nơi,con hưởng sự an lạc, có nhiều oai lực, nhiều chư thiên nữ hầu hạ.
Kính bạch Ðức Phật Gotama! Những chúng sinh nào có thời gian lâu dài được nghe pháp của Ngài, những chúng sinh ấy chóng được chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và đạt đến Niết Bàn pháp giải thoát khổ".
Sau đó, Ðức Thế Tôn quán xét thấy các hàng đệ tử có đức tin trong sạch, nên Ngài thuyết pháp tế độ, vị thiên nam Manduka cùng với 84.000 chúng sinh gồm có chư thiên và nhân loại đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Vị thiên nam Manduka cùng chư thiên nữ cung kính đảnh lễ Ðức Thế Tôn và chư Ðại Ðức Tăng xin phép trở về cõi trời.
Ðức Thế Tôn là bậc Tôn Sư không những dạy dỗ các bậc Xuất gia cũng như các hàng tại gia những pháp hành để chứng đạt đến pháp cao thượng, siêu tam giới pháp: 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, an lạc tuyệt đối, mà còn dạy dỗ những pháp hành để đem lại sự an lạc trong kiếp hiện tại và những kiếp vị lai, tuỳ theo căn duyên lành của mỗi chúng sinh.
Ví dụ: Ðức Phật dạy dỗ hàng tại gia phải biết chọn cho mình nghề nghiệp lương thiện, biết cách sử dụng của cải, biết nuôi mạng chơn chánh để đem lại sự an lạc trong kiếp sống hiện tại; dạy dỗ các bậc Xuất gia: Sa di, Tỳ khưu, chỉ dẫn từng li, từng tí; nào là mặc y, đi khất thực, thọ dụng vật thực đàng hoàng, chỗ ở sạch sẽ, dùng thuốc khi bệnh hoạn ốm đau; thậm chí còn chỉ dẫn khi tiểu tiện, đại tiện... Ðức Thế Tôn, bậc Tôn Sư dạy dỗ từ việc nhỏ cho đến việc lớn giải thoát khỏi biển khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Niệm Ân Ðức Satthàdevamanussànam
Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật "Ân Ðức Satthà- devamanussànam"này sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Satthàdevamanussànam..., Satthà-devamanussànam..., Satthàdevamanussànam...", hoặc câu Ân Ðức Satthàdevamanussànam: "Itipi so Bhagavà Satthàdevamanussànam..., Itipi so Bhagavà Satthàdevamanussànam..., Itipi so Bhagavà Satthàdevamanussànam...", làm đối tượng thiền định...
(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham).
-ooOoo-


Xâu chuỗi này thầy Tâm Hạnh cho tôi từ 2004, thầy mua ở Miến, hiện nó vẫn còn mùi thơm …


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 19th April 2024 - 06:50 AM