IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> NHỮNG THIÊNG LIÊNG NHÂN TẠO, Tham khảo
Depad
bài Jan 7 2017, 06:57 PM
Bài viết #1


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 677
Gia nhập vào: 16-May 13
Từ: Nha Trang - Khánh Hòa
Thành viên thứ.: 94,101



NHỮNG THIÊNG LIÊNG NHÂN TẠO


Đại đa số những gì mà Phật tử cho là thiêng liêng và huyền bí trong kinh sách ngày nay thật ra chỉ là các sản phẩm sáng tạo của một số người da phàm mắt thịt.
Những người da phàm mắt thịt nầy là những đại tổ, trưởng lão của các tông phái khác nhau trong Phật giáo. Và một trong các mục đích chánh của sự sáng tạo nầy chỉ là để thu hút tín đồ đi theo tông phái của họ.


Khi cầm một quyển kinh lên có ai bao giờ tự hỏi quyển kinh nầy của ai soạn, soạn hồi nào và trong hoàn cảnh lịch sử gì hay không?
Khi đọc một câu kinh có ai bao giờ suy ngẫm câu kinh nầy thật sự có ý nghĩa gì, có liên hệ ra sao với toàn quyển kinh và tất cả các quyển kinh khác trong tôn giáo ấy hay không?

Tôi có.

Sau một thời gian làm việc đó, tôi không khỏi đi đến kết luận là hầu như tất cả kinh sách đều do con người sáng tác ra ở một thời điểm nào đó trong lịch sử để đáp ứng nhu cầu lúc ấy của họ. Những nhu cầu nầy phần lớn là vì lý do tôn giáo, nhưng cũng có khi là vì lý do chính trị và quyền lợi vật chất.
Các khái niệm trong tôn giáo cũng vậy. Chúng xuất xứ từ những kinh sách trên. Do đó vô số khái niệm tín ngưỡng trong các tôn giáo mà tín đồ cho rằng thiêng liêng, huyền bí đều thật ra dựa trên những mẩu chuyện sáng tạo bởi con người.

Nói cách khác, kinh sách và các khái niệm tín ngưỡng thiêng liêng chẳng qua là con người tự vẽ bùa mà đeo. Khi quỳ sụp lạy trước mặt một pho tượng uy nghi hay thả hồn thanh thoát qua lời kinh tụng ngân nga, tín đồ không biết nhớ, và không muốn biết nhớ, về gốc gác thật sự của những khái niệm, những nghi lễ nầy.
Tôi muốn lấy lịch sử Phật Giáo Đại Thừa ra làm thí dụ.

Có nhiều dữ kiện lịch sử cho thấy hầu như tất cả kinh sách và ý niệm thiêng liêng của Phật giáo hiện hành đều chỉ là những sản phẩm triết lý phong phú được soạn thảo nhiều thế kỷ sau khi Thích Ca qua đời, và rất có thể không phản ảnh gì cả con đường ông đã đi.

(Điều nầy cũng không có nghĩa là tôi cho rằng kinh sách và phương cách hành đạo của Tiểu Thừa chứa đựng trung thực hoàn toàn lời dạy nguyên thủy của Thích Ca Mâu Ni. Như tôi đã có lần nói, ngày nay không ai có thể quả quyết 100% về chi tiết những gì Thích Ca đã truyền dạy khi còn tại thế. Hơn nữa, vì sự thịnh hành của tông phái Đại Thừa qua nhiều thế kỷ, một số tư tưởng lẫn nghi lễ cúng bái của các chùa chiềng Tiểu Thừa cũng đã bị “đồng hóa” ít nhiều bởi Đại Thừa)

Tôi có thể tóm lược vài tài liệu soạn thảo, nhận xét và phê bình của một số sử gia tôn giáo nổi tiếng như sau:

- Không bao lâu sau khi Thích Ca qua đời, có một sự xung đột trầm trọng giữa tư tưởng của nhóm người cho là họ đi theo đường lối nguyên thủy của Thích Ca với tư tưởng của nhiều nhóm khác.

- Những nhóm khác nầy thu nhận vào thêm các ý niệm huyền bí (thí dụ như Bồ Tát cứu khổ, nhập cảnh Tây Phương Cực Lạc, cõi Trời, tiên thánh, thần thông, v.v.) từ các tôn giáo khác. Một trong những nhóm nầy ngày nay là tông phái Đại Thừa.

- Trong quá trình tranh giành ưu thế qua một số thế kỷ sau đó, nhiều ý niệm huyền bí được yêu chuộng bởi Phật tử thời bấy giờ được biến cải và bổ xung vào các kinh sách Đại Thừa. Nhiều kinh sách Đại Thừa mới cũng được soạn thảo thêm trong thời kỳ nầy với mục đích chính là bành trướng tông phái của họ.

- Nhiều kinh sách và khái niệm tín ngưỡng trong Phật giáo hiện nay là sản phẩm của tông phái Đại Thừa. Các kinh sách và khái niệm tín ngưỡng nầy chỉ bắt đầu xuất hiện từ khoảng 2 thế kỷ đầu Công Nguyên trở về sau.

Hầu như tất cả các diễn tiến và thời điểm lịch sử dùng trong các tài liệu trên đều được công nhận bởi ngay cả các học giả của tông phái Đại Thừa.

Trong phần trích dẫn dưới đây, tôi tô đậm những câu chữ mà tôi cho rằng liên quan nhiều đến đề tài nầy và do đó đáng chú ý đến.

Một trong những tác giả nêu trên là Hòa Thượng Thích Minh Châu, một tu sĩ Đại Thừa (về sau chuyển sang Tiểu Thừa) đã từng là viện trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh trước 1975.

Trong bản dịch của tác phẩm "Đại Thừa và sự Liên Hệ với Tiểu Thừa" nguyên tác bởi Nalinaksha Dutt, khi nói về giai đoạn tạo thành của Đại Thừa ông cho rằng:
“Ðể theo kịp đà phát triển của tư tưởng, các cựu tông phái phải cố gắng vượt bực để kiện toàn và giữ vững vị trí của mình. Và kết quả của sự cố gắng này là chúng ta có văn học Abhidhamma của phái Theravàda (Thượng tọa bộ) và phái Sarvàstivàda (Nhất thế hữu bộ) …. Xét về nội dung của tập Kathàvatthu, thuộc phái Thượng tọa bộ, chúng ta thấy rõ rằng sự phát triển văn học Abhidhamma không những để kiện toàn quan điểm riêng biệt của mình, mà cũng để công kích quan điểm của đối phương và thành lập quan điểm của mình đối với chúng. Do vậy, chúng ta có thể nói rằng giai đoạn này không những chứng kiến sự xuất hiện của nhiều tông phái mới mà cả sự phát triển mới mẻ của những tông phái cũ.

….

Ngoài sự cố gắng của tân, cựu tông phái cạnh tranh nhau trong địa hạt văn học, chúng ta cũng chứng kiến một sự tranh chấp sắc bén để truyền bá giáo lý từng tông phái trong quần chúng và chính nhờ sự tranh chấp này, đạo Phật được truyền bá rất rộng rãi trong dân chúng.”

Về Tứ Diệu Đế, HT Thích Minh Châu cho rằng:

“Nhưng chúng ta phải công nhận rằng tuy lý Tứ đế, lý Duyên khởi và Vô vi Niết bàn đều được tất cả các học phái công nhận, nhưng vị trí của chúng, theo quan điểm của từng học phái, lại sai khác nhau như trời vực. Sự thật, xung quanh ba nguyên lý này,đã phát triển rất nhiều ý kiến mâu thuẫn, nhiều học phái phát sanh, mỗi học phái cố gắng nêu rõ quan niệm của mình về ba nguyên tắc này là đúng, còn quan niệm của các học phái khác là sai lầm.”

Tác giả thứ hai là Hòa Thượng Thích Hoàng Giác, một tu sĩ Đại Thừa từng trụ trì chùa Đại Bi Quan Âm ở California cho đến khi qua đời tháng 7 năm 2011. (Cho những người tôn sùng tước vị: trước đó ông cũng đã từng là Phó Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ và là Giáo Thọ Sư Chùa Quang Thiện ở Ontario.)

Khi được hỏi về Kinh Thủ Lăng Nghiêm, bộ ba Kinh A Di-Di-Đà, Kinh Dược Sư và Kinh Địa Tạng, HT Thích Hoàng Giác nói:

“Xét về phương diện lịch sử, các Kinh mà Phật tử vừa đề cập trên quả là ra đời rất muộn. Vẫn biết rằng tất cả Kinh điển là do các bậc đại đệ tử của Đức Phật nhớ và biên tập lại, nhưng dựa vào ngôn ngữ và nội dung của các Kinh đó, các nhà nghiên cứu Phật học uyên bác, đặc biệt là chư Tăng Ni cũng như các giới nghiên cứu, học giả đều thừa nhận có những bộ kinh ra đời hơi muộn hoặc rất muộn và tư tưởng có đôi phần không tương hợp với tinh thần Phật giáo thuở ban đầu. Theo như Thầy hiểu, các bộ Kinh ra đời sau được những vị có chức năng truyền bá giáo pháp thời ấy phương tiện, quyền biến trước tác, rồi ghi là Kinh do đức Phật thuyết.

Dưới ánh sáng của những nhà nghiên cứu có phương pháp, dựa vào văn bản học hoặc khảo cổ học, chúng ta không thể phủ nhận giá trị công trình khám phá của họ. Mặc dầu các công trình khám phá đó chưa hẳn là có lợi đối với những người có niềm tin mãnh liệt đối với Kinh điển lâu nay mà các vị ấy đã thọ trì…”

Một tác giả nữa là Thiền Sư Daisetsu Teitaro Suzuki, giảng sư nổi tiếng của Đại Học Otani, Kyoto, từng thuyết giảng ở nhiều đại học Mỹ và Âu châu.

Khi nói về kinh Lăng Già- Lankavatara Sutra, mặc dù được nhiều người tin là đã ghi lại những lời dạy của Ðức Phật tại đảo Tích Lan, trong cuốn "The Lankavatara Sutra - A Mahayana Text" (1931), ông Suzuki cho rằng bộ kinh này không phải là những lời do chính Ðức Phật nói ra, nhưng được biên soạn về sau bởi các tác giả vô danh, dựa theo triết lý Bắc Tông.

Cũng về bộ kinh Lăng Già, theo giáo sư H. Nakamura ("Indian Buddhism", 1987) thì có nhiều phiên bản của bộ kinh này, và nội dung các phiên bản có phần khác nhau.Ða số các học giả đều kết luận rằng có lẽ kinh này được biên soạn vào những năm 350-400 Tây lịch.
Tác giả sau cùng tôi dùng để dẫn chứng là John R. O'Neil, một học giả nghiên cứu sử học và tôn giáo và là viện trưởng Tâm Thần Học Chuyên Nghiệp của California. Ông đã viết bài “Sự Hình Thành của Đại Thừa” (http://www.buddhanet.net/budsas/uni/1-bai/phap010.htm) mà tôi trích đăng một phần dưới đây.

Theo tôi, những phần nầy tóm lược đầy đủ và tương đối ngắn gọn về những dữ kiện liên quan đến sự hình thành và phát triển của tông phái Đại Thừa.

Phong trào phát triển một đường lối Phật Giáo mới, về sau nầy được gọi là Mahayana (Đại thừa), bắt đầu thành hình trong thời gian 250 năm, từ năm 150 TCN đến 100 CN, là kết quả tích tụ của nhiều phát triển vốn có từ trước. Nguồn gốc của nó không liên hệ với một cá nhân nào, và cũng không đặc biệt liên kết với một tông phái nào của thời kỳ Phật Giáo sơ khai. Có thể phong trào đó khởi dậy từ nhiều nơi trong xứ Ấn Độ, tại miền nam, miền tây bắc và miền đông.

Phong trào nầy có ba đặc tính tổng quát. Thứ nhất là sự đồng tình hết lòng với quan niệm về Bồ Tát Đạo vốn đã được một vài tông phái nguyên thủy khởi xướng từ trước. Thứ hai, họ đưa ra một vũ trụ quan mới, dựa vào các pháp quán kiến về Đức Phật mà dưới cái nhìn mới, đã trở thành một vị siêu nhân, siêu thế.Thứ ba, họ có những quan niệm mới về A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Vi Diệu Pháp), phát nguồn từ kết quả thiền quán về "không tính" sâu kín của vạn vật và từ đó cómột nhãn quan triết lý mới. Từ ba đặc tính nầy, phát sinh một định hướng mới về giáo pháp của đạo Phật và tạo ra hằng loạt các diễn giải mới lạ, và dần dần tạo nắn thành một phong trào gọi là Đại thừa với tính chất riêng biệt.
Mahayana đi vào lịch sử như một liên hiệp lỏng lẻo của nhiều nhóm, mỗi nhóm liên kết với một hay nhiều kinh điển mới. Các kinh điển nầy được viết ra bằng các phương ngữ miền Trung Ấn chẳng bao lâu sau khi chúng được trước tác. Tiếp theo là các sửa đổi, rồi dần dần trở thành một loại ngữ văn "Sanskrit tạp", rất gần với Sanskrit cỗ, ngữ văn quý trọng của Ấn Độ …

Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 28th April 2024 - 04:31 PM