IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

 
Reply to this topicStart new topic
> Một cách nhìn mới về nguyên nhân bệnh tật, và phương pháp điều trị
Diệu Minh
bài Aug 24 2008, 01:39 PM
Bài viết #1


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 17,027
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5




Một cách nhìn mới về nguyên nhân bệnh tật và phương pháp điều trị
Nguyên lý về sức khoẻ
Nanogel – Minhkhai75@gmail.com


Tạo hoá đã ban tặng cho bạn, cũng như mọi sinh vật sống khác, một cơ thể có khả năng tự chữa lành bệnh. Khả năng này thực sự huyền diệu. Cơ thể bạn thực hiện vô vàn phép màu mỗi một ngày, những phép màu mà tất cả khoa học và y khoa chỉ có thể thoáng thấy một cách lờ mờ. AND của bạn chứa đựng bản thiết kế của cơ thể bạn trong tình trạng hoàn thiện, và cơ thể bạn luôn luôn đấu tranh chỉ để trở nên hoàn thiện như vậy.
Sức khoẻ là đặc quyền của bạn. 75 đến 100 nghìn tỷ tế bào hình thành nên cơ thể bạn là riêng rẽ và mỗi tế bào được thiết kế để có lợi cho sức khoẻ. Khoẻ mạnh là tình trạng tự nhiên của chúng. Khi các tế bào của bạn khoẻ mạnh, cơ thể của bạn khoẻ mạnh. Mỗi phút bạn còn sống, cơ thể bạn đang tự chữa lành bệnh.
Nhưng nó đang làm việc chống lại những điều bất khả thi, ô nhiễm, thức ăn rỗng, thức ăn bị nhiễm độc, hoá chất và dược phẩm, sự tấn công không ngừng của các gốc tự do, và vì thế bạn đang thoái hoá ti
Môi trường ô nhiễm = Trái đất bị bệnh = Tế bào bị bệnh! do :
Thiếu ô xy trong lành
Thiếu dinh dưỡng và những chất quan trọng
Độc tố và tính axít quá nhiều
Các gốc tự do ( Free radicals)
Áp lực quá nặng.

Không dược phẩm nào có thể ngừng được thoái hoá. Không dược phẩm nào có thể mang đến sự tái sinh.
Nhưng tình trạng có thể được xoay chuyển , dinh dưỡng có thể đảo ngược thoái hoá và mang lại sự tái sinh. Và điều này là cái gì đó vượt qua sự kiểm soát của bạn. Trao cho cơ thể bạn mọi thứ nó cần để làm công việc mà nó muốn thực hiện, được lập trình để thực hiện, và nó sẽ làm được điều đó.
Những gì nó cần để hoạt động hợp lý là một sự cung cấp đủ loại dinh dưỡng thiết yếu phù hợp và liên tục - kết hợp với một lối sống lành mạnh vì sức khoẻ.
Để có một cơ thể khỏe mạnh cơ thể cần có một chế độ ăn uống cân bằng và đầy đủ các chất dinh dưỡng .
Các chất dinh dưỡng cơ bản :
Axít béo 1
Axít amin 10
Khoang chất 14
Nguyên tố vi lượng 20
Vitamins 15
Tổng 60
Bất kể sự thiếu hụt nào của một trong 60 chất dinh dưỡng trên đều có hại cho sức khỏe của bạn
Dinh dưỡng thiết yếu duy nhất là ôxy. Nó cần cho tất cả các quá trình chuyển hoá. Nó là nhiên liệu chính của cuộc đời. Bạn có thể sống nhiều tháng không có thức ăn, nhiều ngày không có nước, nhưng chỉ vài phút không có ôxy bạn sẽ chết. Bệnh tật là kết quả của sự thiếu hụt ôxy mà nó xảy ra do axxit. Các chất axit làm mất oxy. Các chất kiềm hấp thụ, chứa đựng, và vận chuyển ôxy. Nhiễm axit dẫn đến tuần hoàn kém mà nó làm tăng thêm sự thiếu hụt ôxy tại cấp độ tế bào, cộng thêm vào đó là thói quen thở yếu và không khí bị rỗng và ô nhiễm.
Một cơ thể nhiễm axit, đói ôxy dễ bị tổn thương do vi khuẩn, virus, các gốc tự do, và các chất độc khác.
Tình trạng nhiễm axit xảy ra do thiếu hụt dinh dưỡng mà nó mang đến do ăn uống không hợp lý, thức ăn đã chế biến, đất trồng bị suy thoái, phân bón có hoá chất bị phân đoạn, và khả năng hoạt động bất hợp lý của cơ thể để tiêu hoá, luân chuyển, và phân phối dinh dưỡng vào các tế bào một cách hiệu quả và bài tiết các chất thải một cách hiệu quả.
Tiến sĩ, Bác sĩ Y khoa (MD: Doctor of Medicine) Arthur C.Guyton, tác giả nổi tiếng thế giới của cuốn Sách Giáo khoa về Sinh lý học Y khoa (được sử dụng để đào tạo sinh viên y khoa), nói:
“ Bước đầu tiên trong việc duy trì sức khoẻ là kiềm hoá cơ thể. Các tế bào của một cơ thể khoẻ mạnh là kiềm, trong khi các tế bào của một cơ thể bệnh tật là bị nhiễm axit - dưới 7.0 độ pH. Tế bào càng nhiều axit, chúng ta càng ngày càng ốm hơn. Nếu cơ thể không thể kiềm hoá các tế bào, chúng trở nên bị nhiễm axit và như thế bệnh tật bắt đầu. Cơ thể chúng ta sinh ra axit như là một phụ phẩm của cơ chế chuyển hoá bình thường. Nhưng cơ thể chúng ta không sản xuất ra chất kiềm, vì thế chúng ta phải cung cấp chất kiềm từ một nguồn bên ngoài để giữ cho chúng ta tránh khỏi bị nhiễm axit và chết.”

Tiến sĩ, Bác sĩ Y khoa Thiên nhiên Liệu pháp (ND: Doctor of Naturopathic Medicine) Jeff Bennert đã tuyên bố rằng chữa lành bệnh chỉ có thể bắt đầu khi độ pH được tăng lên đến và được duy trì ít nhất là 7. Dưới mức đó, cơ thể giống như một cái thuyền có lỗ thủng, quá bận rộn đắp vá lỗ thủng để thực hiện bất kỳ sự tiến lên nào.
Tiến sĩ, Bác sĩ Y khoa Theodore A. Baroody, đặt tựa đề cho cuốn sách về sự sinh sản của ông Kiềm hoá Hay là Chết. Và đó là những gì mà ông muốn nói.Kiềm hoá là cơ sở của việc hoàn trả cho cơ thể sức khoẻ. Và đó là chương trình làm việc của chúng ta :
“ Đầu tiên chúng ta Kiềm hoá, Sau đó chúng ta Tẩy rửa và Giải độc. Chúng ta đưa cơ thể vào sự cân bằng mới, tiếp sinh lực cho nó, nuôi dưỡng nó bằng các khối chất dinh dưỡng hợp lý để nó có thể tự sửa chữa và tái tạo lại một cách hoàn hảo nhất.” Đôi khi có người nói họ không cần các chất bổ sung, họ vẫn đang khoẻ mà không cần chúng. Nhưng thực tế là, họ đang bổ sung thật sự dù họ không nhận các chất bổ sung, Khi máu bị nhiễm quá nhiều axit, mà nó đang luôn làm điều này, bởi vì cơ thể không thể chiết xuất đủ các chất khoáng có tính kiềm hoá (được biết đến như là tầng đệm hay các chất đệm) từ thức ăn mà chúng ta ăn, nó lấy canxi và các khoáng chất khác từ xương, mô, các cơ quan, và AND của tế bào chúng ta. Đây là một quá trình bổ sung khẩn cấp mà nó dẫn đến chứng loãng xương và các bệnh thoái hoá khác và làm tổn thương hệ miễn dịch, cũng như làm cho chúng ta dễ bị nguy hiểm đối với các bệnh lây nhiễm. Các chứng loãng xương, chất béo no tích tụ cholesterol, và huyết áp cao, mặc dù là một phần chiến lược của cơ thể để tồn tại, nhưng chúng cũng có những tác dụng ngược. Chất béo đã được nhận ra là nguy hiểm đối với sức khoẻ hơn là hút thuốc, và sự nguy hiểm của chứng loãng xương, mảng bám, và huyết áp cao cũng đã được nhiều người biết đến.
Tốt hơn nhiều là thực hiện các bước cần thiết để loại trừ các nguyên nhân và nghịch đảo quá trình thoái hoá!
Tôi không nói về việc tìm ra các loại dược phẩm tốt hơn, vì dược phẩm không thể nghịch đảo sự thoái hoá được; dược phẩm không thể chữa khỏi bất cứ cái gì. Tôi đã trải qua một khoảng thời gian dài, để thấy những người thân yêu và những người khác nhận những loại thuốc được kê đơn một cách đúng đắn và ngày càng ốm yếu hơn và đi đến một cái chết khủng khiếp trong nỗi sợ hãi và đau đớn trước thời gian của họ, dưới điều kiện chăm sóc y khoa tốt nhất, đắt nhất mà tiền có thể mua được. Dược phẩm xử lý các triệu chứng (hậu quả) chứ không phải nguyên nhân, và xử lý triệu chứng mà không loại trừ được nguyên nhân chỉ có thể dẫn đến kết quả ốm ngày càng nặng hơn, có thể điều đó không xẩy ra ngay lập tức, nhưng cuối cùng dứt khoát là như vậy, và cuối cùng luôn luôn đến quá nhanh. Chắc chắn, dược phẩm có thể bảo vệ đời sống của bạn khi bệnh phát lên, tạm thời làm cho bạn cảm thấy khoẻ hơn, đôi khi làm dịu cơn đau của bạn, và đó là phần tốt, nhưng dược phẩm không thể nghịch đảo sự thoái hoá được. Không thuốc nào có thể mang đến sự tái sinh, và không thuốc nào sẽ làm được như vậy. Các bạn phải hiểu rõ điều này hơn ai hết bởi chính các bạn cũng đã không ít lần tham gia vào”trò chơi” này .
Chỉ có dinh dưỡng thích hợp liên tục được áp dụng mới có thể mang đến sự lành bệnh thật sự. Chỉ khi cơ thể bạn được nuôi dưỡng một cách hợp lý liên tục, nó mới có thể đạt được và duy trì sức khoẻ thật sự.
Bạn phải cung cấp hàng ngày cho cơ thể bạn mọi thứ nó cần để hoạt động hợp lý, và cần bổ sung dinh dưỡng thích hợp đầy đủ. Bổ sung không chỉ là một lựa chọn thông minh, nó còn là một sự cần thiết nếu bạn quan tâm đến sức khoẻ - bởi vì bạn không thể có tất cả các dinh dưỡng thiết yếu từ thức ăn của bạn, bất kể bạn chọn lựa cẩn thận như thế nào đi chăng nữa bất kể bạn ăn một cách hữu cơ hay tự nhiên như thế nào. Các dinh dưỡng thiết yếu là những nguyên tố mà cơ thể cần hàng ngày để hoạt động hợp lý và không thể tạo ra hay tổng hợp từ các nguyên tố khác và vì thế phải được cung cấp trong thực đơn hàng ngày.
Và bất kỳ sự thiếu hụt dinh dưỡng thiết yếu nào, dù điều đó nghe có vẻ tầm thường hoặc không quan trọng, nhưng nếu không được điều chỉnh, sẽ dẫn đến ốm đau , bệnh tật và chết yểu.
Việc bạn tuân theo hướng dẫn cho sức khoẻ chặt chẽ như thế nào tuỳ thuộc vào việc bạn ốm như thế nào hoặc việc bạn muốn có sức khoẻ như thế nào? Cố vấn về chế độ ăn uống vừa qua đời - Georges Ahsawa đã từng nói, “Một người khoẻ mạnh có thể ăn bất cứ thứ gì mà người ấy muốn.” Bạn càng khoẻ, bạn càng có xu hướng hoặc thậm chí phá vỡ quy tắc. Nhưng bạn biết có bao nhiêu người khoẻ mạnh thật sự? Không nhiều, nếu có. Bên cạnh đó, nếu bạn khỏe mạnh thật sự, bạn có nghĩ rằng bạn muốn làm hỏng tình trạng đó? Ngược lại, bạn càng ốm yếu, việc tuân theo quy tắc càng quan trọng. Các quy tắc thì đơn giản và như nhau, bất kể là bạn đang khoẻ mạnh và muốn giữ sức khoẻ hoặc bạn đang ốm yếu và muốn vượt qua bệnh tật, đạt được hoặc duy trì sức khoẻ : giảm cân, tối đa hoá tình trạng sung sức, ổn định đường trong máu, hoặc kéo dài tuổi thọ. … Bạn phải giải độc và tẩy sạch, kiềm hoá máu, cân bằng và tiếp sinh lực cho cơ thể để chuẩn bị cho nó môi trường nội tại hợp lý để hoạt động hợp lý và cung cấp cho nó các khối dinh dưỡng hợp lý và đầy đủ.
Trao cho cơ thể bạn cơ hội – nó sẽ thực hiện phần còn lại!
Các hướng dẫn cho dinh dưỡng thích hợp không phải là đầy đủ. Trong một thế giới lý tưởng các hướng dẫn này là đầy đủ, nhưng thực tế là máu của chúng ta đang bị rút mất các nguyên tố thiết yếu, cộng thêm với các hoá chất độc hại, và chúng ta đang bị gốc tự do tấn công không ngừng. Chúng ta hàng ngày đang bị các gốc tự do tấn công tới tấp nhiều hơn 10 phút so với ông bà cố của chúng ta phải đối mặt trong toàn bộ cuộc sống của họ. Ngay cả khi bạn ăn uống tốt, bạn cũng không thể nhận đủ các chất chống ôxy hoá chỉ từ thức ăn của bạn để chống lại mức cao chưa từng có của các gốc tự do.




Tính axit trong cơ thể - tác nhân gây lão hóa



Trái cây tươi mang tính kiềm.
Ở trẻ mới sinh, cơ thể có tính kiềm. Theo thời gian, những tế bào trong cơ thể sẽ có tính axit cao hơn và bắt đầu biểu lộ “tuổi tác” của chúng. Còn cơ thể người cao tuổi và đau ốm thường bị “ô nhiễm” các chất thải axit độc hại. Sự nhiễm axit đó có thể xảy ra trong tế bào, ngoài tế bào, trong tất cả các cơ quan, mô, xương và dịch cơ thể…
Sự tích lũy những chất độc có tính axit trong cơ thể là một đặc điểm của quá trình lão hóa. Trong đời sống thường nhật, các tế bào sẽ tạo chất thải, hệ tiêu hóa cũng tạo ra những sản phẩm thải và môi trường xung quanh ta sẽ đưa độc chất vào cơ thể. Sức khỏe và sự lão hóa được phản ánh qua việc cơ thể có thể loại bỏ những loại độc chất nào, cũng như bao nhiêu độc chất còn lưu lại trong tế bào và các mô?
Quá trình lão hóa bắt đầu từ lúc chào đời và diễn biến liên tục, cho dù không có sự ô nhiễm từ thức ăn hoặc môi trường mà chúng ta đang sống. Thậm chí, ngay trong một môi trường hoàn hảo, cơ thể trẻ sơ sinh vẫn tạo ra những sản phẩm thải và đây là một kết quả tất yếu của quá trình bài tiết, chuyển hóa thức ăn, các quá trình tạo năng lượng trong cơ thể…
Nếu chúng ta giữ cho da và những cơ quan khác, các tuyến, các cơ và tất cả những mô có độ kiềm giống như khi còn là một trẻ sơ sinh thì chúng ta sẽ được “trường sinh bất lão”.
Những dấu hiệu ban đầu chứng tỏ mô cơ thể có tính axit là: có vấn đề về da (mụn, eczema, chốc lở...); hơi thở có mùi khó chịu và lưỡi bị đóng trắng; lo âu, trầm cảm, kích động, hoang mang, choáng váng, nhức đầu; mệt mỏi, muốn ngủ nhiều, yếu ớt, năng lực kém hoặc giảm hoạt động. Nhức toàn thân, đau cơ, đau khớp; buồn nôn, khó chịu cũng là biểu hiện sớm của các mô có tính axit. Các biểu hiện khác bao gồm: tiêu chảy hoặc táo bón, ợ nóng, sưng phù, nước tiểu khai và có màu sẫm; nhịp tim bất thường, tuần hoàn kém, khó thở, lạnh tay chân; dị ứng với thức ăn và hóa chất.
Nếu mô nhiễm axit lâu dài, cơ thể sẽ có những biểu hiện như loãng xương, ung thư, bệnh tim mạch; miễn dịch kém, dễ bị nhiễm nấm, nhiễm khuẩn; rụng tóc, tiểu đường, viêm khớp, thống phong, suy thận, sỏi trong gan và túi mật, có bệnh về hệ tiêu hóa, mắt; dị ứng, rối loạn tâm thần nghiêm trọng, đau nửa đầu...
Việc giảm khẩu phần ăn có thể giúp làm chậm quá trình lão hóa. Lời khuyên này nghe qua có vẻ là vô lý, nhưng cũng đáng để chúng ta suy ngẫm. Nếu cơ thể hấp thu ít thức ăn thì số lượng độc chất từ thức ăn có thể sẽ giảm, vì có thể giảm quá trình xử lý thức ăn, lưu trữ và bài tiết chất thải.
Chúng ta cũng có thể điều chỉnh axit cơ thể (độc chất nội tế bào và ngoại tế bào) bằng cách ăn uống những loại thực phẩm có tính kiềm, và quan trọng là có những hoạt động tạo nên kiềm tính như tập thể dục, thở sâu, thư giãn, thiền...
Tính acid hoặc kiềm của một số thực phẩm
Rất kiềm: Gồm những loại rau non, tươi; trái cây mọc hoang được hái chín cây. Dưa tây (melon) được xem là có tính kiềm mạnh, kế đó là chà là, xoài, đu đủ, những loại dịch ép trái cây tươi, nước ép dược liệu, rau cải ăn sống, xà lách xoong, rong biển... (Ngành Thực dưỡng đã chỉ ra một bảng thực phẩm có tính a xít và kiềm rất đầy đủ…đề nghị xem quyển “A xít và Kiềm -cẩm nang Thực dưỡng”, trang 113, NXB VHDT, chúng ta còn có kiềm dương, kiềm âm, a xít dương, a xít âm…)
Kiềm nhẹ: Đậu, giá, hạt... Đậu khô có tính acid nhẹ nhưng khi thành giá, chúng trở nên có tính kiềm trung bình. Đậu tươi có tính kiềm nhẹ, đặc biệt khi chúng còn xanh.
Dược liệu khô, trà dược, rau cải, các loại hạt, gia vị tươi (đặc biệt là gừng, gừng càng tươi thì kiềm tính càng cao), mật?... là những thực phẩm thể hiện tính kiềm nhẹ.
Trung tính: Dầu thực vật, sản phẩm từ đậu nành, đậu luộc, hạt rang...
Axit nhẹ: Trà, cà phê, gà vịt, rượu nguyên chất, bơ, phó mát (cheese), bánh nướng, khoai tây, muối tinh luyện, dấm trắng, sốt cà chua....
Axit mạnh: Thịt đỏ, chất làm ngọt nhân tạo, dược phẩm, thức uống có ga, nước ngọt. Đường thẻ trắng là một loại thực phẩm có tính axit mạnh. Thức uống đóng hộp là “hại” nhất vì chúng chứa đường, chất làm ngọt nhân tạo với hàm lượng cao axit phosphoric.... Các loại thức uống này sau khi tiêu hóa sẽ để lại một “kho” axit trong cơ thể chúng ta. Các loại dịch ép trái cây nếu được uống ngay sau khi ép thì có tính kiềm, nhưng nếu đã đóng hộp hoặc lưu trữ lâu thì lại có tính axit.
Trong đời sống, đôi khi chúng ta vẫn cần phải ăn những loại thực phẩm có tính axit. Với những trường hợp này, tính axit có thể được trung hòa nếu bạn ăn thêm một ít rau cải tươi. Tuy nhiên, để trung hòa tính axit, ta không cần phải dùng những thực phẩm có tính axit và kiềm trong cùng một bữa ăn. Chẳng hạn, ta có thể bù đắp kiềm tính cho khẩu phần ăn có tính axit sau vài giờ (sau khi thức ăn có tính axit đã được tiêu hóa) bằng một ít dưa tây. Nếu một bữa ăn đảm bảo được 10% protein và 90% rau cải thì nó sẽ có tính chất từ trung tính đến kiềm nhẹ.
Các thực phẩm có nhiều tính kiềm là những loại giàu enzyme và ở trạng thái tự nhiên. Chúng sẽ trở nên axit hơn nếu được nấu nướng (đặc biệt là thực phẩm rán, cháy). Các loại thực phẩm để lâu, đóng hộp, xông khói hoặc làm khô, thức ăn chứa những hóa chất dùng trong chế biến cũng giàu axit.
Sống trong môi trường đô thị ồn ào náo nhiệt, tính acid trong cơ thể sẽ tăng cao do ảnh hưởng của khí thải, xe cộ, tiếng ồn và đặc biệt là khói thuốc. Khói thuốc sẽ lấy đi oxy trong cơ thể và làm hạ mức pH, tăng tính acid và làm giảm năng lượng cơ thể. Tất cả những yếu tố này sẽ làm cơ thể bị lão hóa một cách nhanh chóng và hậu quả là gây ra bệnh tật.
Trạng thái tinh thần và cảm xúc của chúng ta cũng có tác động vô cùng quan trọng đến tính axit hoặc kiềm trong cơ thể. Cảm xúc bi quan sẽ làm tăng axit trong cơ thể cũng như axit niệu????. Thể chất bị tổn thương cũng sẽ tiết ra rất nhiều axit.
Những tổn thương về tinh thần có thể sản sinh ra axit nghiêm trọng hơn là những tổn thương về thể chất. Stress sẽ tạo nên axit cơ thể và chất này càng làm stress trở nên trầm trọng hơn. Vòng luẩn quẩn này có thể được “cắt đứt” bằng cách nghỉ ngơi, tập thiền, bổ sung những thực phẩm có tính kiềm....
Bổ sung không chỉ là một lựa chọn thông minh. Bổ sung là cần thiết - nếu bạn quan tâm đến sức khoẻ.
Việc đó tất cả bắt đầu và kết thúc trong tâm trí. Đầu tiên bạn phải muốn việc đó. Và sau đó bạn phải biết bạn có thể làm việc đó. Cố gắng thôi chưa đủ tốt. Cố gắng để lại một cơ hội cho thất bại, và khi cơ hội đó tồn tại, thất bại dễ dàng là kết quả. Làm là hành động tích cực. Biết rằng bạn sẽ thành công và sau đó làm những gì mà việc đó đòi hỏi. Và những gì việc đó đòi hỏi là sự thay đổi. Tuân theo thực hiện cùng những điều như nhau và mong đợi một kết quả khác nhau là một loại ngu xuẩn. Nếu bạn muốn sự thay đổi, bạn phải thực hiện sự thay đổi.
Làm gì
Ăn gì
Không ăn gì
Nhận nhiều ánh nắng mặt trời
Nhận nhiều không khí sạch và học cách để thở hợp lý và thực hành điều đó.
Tập thể dục một cách thích hợp.
Nghỉ ngơi một cách thoả đáng.
Nghĩ ngợi một cách hợp lý và duy trì thái độ phù hợp.
Uống nhiều nước tốt nhất có thể kiếm được – chưng cất hoặc được xử lý với cách tăng thêm điện tử bằng Can xi San hô của Công ty Công nghệ Hải dương. Uống nhiều nước hàng ngày, nếu ra nhiều mồ hôi cần uống nhiều hơn. (Điều này chỉ phù hợp với những người ăn mặn và ăn nhiều thức ăn có độc tố, ngành Thực dưỡng biết cách cư xử tử tế với trái cật, bắt nó làm việc nhiều là làm hại nó, do vậy một chế độ ăn hợp lý và đi tiểu chừng mực là biểu hiện sức khoẻ lành mạnh, đi tiểu nhiều làm suy yếu thận và ngược lại…)
Ăn thực phẩm sống nguyên chất.
Uống nước ép rau đậu, được làm khi còn tươi và có chất hữu cơ.
Ăn phần lớn rau đậu, càng nguyên chất càng tốt, một vài loại có thể nấu, tập trung vào giống lá xanh.
Ăn vài loại trái cây
Ăn vài loại ngũ cốc nguyên chất, gạo nâu - gạo lứt (chưa tinh chế), hạt kê.
Ăn vài loại thịt, cá, và gia cầm - tối thiểu hoá và loại trừ thịt đỏ và phải chắc chắn là không phải cá nuôi.
Ăn trứng, sống, chần, luộc, nấu bằng bơ tại nhiệt độ thấp – nhưng không bao giờ rán. Ngành Thực dưỡng không khuyên ăn trứng vì nó có độ dương gấp 3 lần thịt và có nhiều cholesterol… tài liệu này các bạn đọc nó hãy đọc với thái độ tham khảo, có nhiều đoạn họ phân tích rất hay nhưng cái kiểu khuyên ăn trứng này và ăn dưa (chỉ có ở phương tây) xem chừng “không vào được” với hàng rào lý thuyết đã được trang bị kỹ lưỡng của chúng ta - Ngọc Trâm.
Ăn thức ăn nguyên chất, có chất hữư cơ.
Thực hiện một chương trình bổ sung cấp cao, đầy đủ.
Không uống thức uống có cacbonat.
Không uống thức uống có caffein.
Không uống thức uống có cồn.
Không uống thức uống có đường.
Không ăn hydrat cacbon đã tinh chế (nói chung các sản phẩm bột trắng, mì sợi, bột nhồi, nướng)
Không ăn thức ăn đã chế biến (Jack LaLanne, cố vấn sức khoẻ hiện vẫn đang phô bày sức mạnh vào tuổi chín mươi, đã nói rằng nếu nó là nhân tạo, không ăn nó. Nếu nó đến trong một cái hộp, không ăn nó. Nếu nó đến trong một cái bao, lon hoặc chai, không ăn nó.)
Không ăn đường (Đọc nhãn hàng – Có đường trong hầu hết mọi thứ. Nhưng nếu chúng ta không thức ăn đã chế biến, chúng ta không cần lo lắng về các nhãn hàng, đúng không?)
Không sử dụng đường hoá học (chất làm ngọt nhân tạo), đồ uống dành cho ăn kiêng, các sản phẩm ăn kiêng, các sản phẩm có đường hoá học, các loại đạm (protein) từ thực vật thuỷ phân, các loại đạm thực vật, các loại gia vị tự nhiên.
Không ăn bơ thực vật.
Không rán với dầu – Các loại dầu có lợi cho sức khoẻ nhất bị chết khi đun nóng.
Không uống nước ép trái cây.
Không uống hay ăn bơ sữa - trừ khi nó còn nguyên chất và hữu cơ.
Không ăn thức ăn rán.
Không ăn thịt quá lửa hay bị cháy.
Nguyên nhân của Bệnh tật

Bệnh tật, lây nhiễm cũng như thoái hoá, không phải là những bí mật khó hiểu, hoặc không thể tránh được.
Tình trạng của các tế bào và hệ miễn dịch của chúng ta xác định cái cách mà cơ thể chúng ta phản ứng như thế nào với vô số chất độc mà chúng ta liên tục dễ bị.
Từ lúc chúng ta thành hình, quá trình sống được thực hiện theo bản thiết kế được chứa trong AND của chúng ta. AND nắm giữ mã di truyền cho cuộc đời, sức khoẻ của chúng ta, và các đặc điểm vật chất của cơ thể chúng ta. AND, trừ khi tự nó bị biến đổi, hình thành nên cơ thể chúng ta với một tình trạng hoàn thiện, và các tế bào của chúng ta luôn luôn đấu tranh để đạt được tình trạng hoàn hảo đó.
Thế thì chuyện gì sai?

1. A xít và các gốc tự do

Các gốc tự do và a xít hầu như là có các tác động tương tự nhau đối với cơ thể.
Các gốc tự do là những nguyên tử hoặc phân tử (nhóm các nguyên tử cùng nhau tạo thành do các điện tử tham gia) mà chúng đã mất điện tử (electron) và chỉ có các điện tử lẻ đôi trong quỹ đạo ngoài cùng hoặc vỏ của chúng, và chúng, đang trong tình trạng mất cân bằng đó, đang tìm kiếm nhằm có được các điện tử để trở nên ổn định.
A xít chứa các ion hydro mang điện dương (protons), trong khi các gốc tự do có thể là các ion mang điện dương của bất kỳ nguyên tố hay phân tử nào, mặc dù không phải tất cả các ion mang điện dương đều là các gốc tự do. Để là các gốc tự do, chúng phải không ổn định cộng với việc mang điện dương. Ví dụ, ion canxi mang điện dương (Ca++), nhưng vỏ ngoài bao gồm 8 điện tử mà không có các điện tử lẻ đôi, vì thế ion ổn định và không tìm kiếm để thay thế điện tử và như thế không phải là một gốc tự do.
Gốc ô xy mang điện tích dương được gọi là Peoxit (Super-Oxide). Nó là gốc tự do gây hại, hoạt hoá, có số lượng lớn nhất trong các gốc tự do. Thuật ngữ “chống ôxy hoá” ban đầu được tạo ra để mô tả một chất mà nó có thể trung hoà gốc ôxy, mặc dù thuật ngữ này được sử dụng để chỉ bất kỳ chất nào có thể trung hoà bất kỳ gốc tự do nào.
Về cơ bản, cả hai axit và các gốc tự do là những ion có điện tích dương, những nguyên tử thiếu điện tử. Trong một nguyên tử cân bằng, số lượng các điện tử mang điện tích âm bằng với số lượng các proton có điện tích dương. Khi các nguyên tử cân bằng mất điện tử, chúng bị bắt buộc phải tìm kiếm để trung hoà tình trạng mất cân bằng của chúng bằng cách lấy các điện tử từ các nguyên tử khác. Phần lớn điều này thường xảy ra gần AND của tế bào. Khi một điện tử bị lấy ra khỏi một nguyên tử hoặc phân tử, nguyên tử hoặc phân tử đang ổn định lúc trước bây giờ là một gốc tự do mang điện tích dương, đến lượt nó sẽ bị cưỡng bách phải trung hoà chính nó bằng cách lấy điện tử từ nguyên tử hay phân tử đang ổn định khác.

Quá trình của gốc tự do lặp lại thành một phản ứng chuỗi mà nó, nếu không được điều chỉnh, sẽ dẫn đến kết quả là cái chết của cơ thể.

Sự hư hại mà nó xảy ra từ gốc tự do là vì bất cứ khi nào một nguyên tử hoặc phân tử chia tách, năng lượng được giải thoát. Nguyên lý này tương tự với nguyên lý mà cơ thể chúng ta sử dụng để sinh ra năng lượng từ việc phá vỡ, hay chia tách các phân tử trong thực phẩm mà chúng ta ăn, nhưng việc này được thực hiện bằng một phương pháp được kiểm soát bên trong cơ quan tử (mitochondria = organelles: hạt cơ quan, cơ quan tử) của tế bào, và năng lượng thoát ra được chuyển để cơ thể sử dụng. Nhưng năng lượng thoát ra khi các điện tử bị xé rách từ các nguyên tử và phân tử do axit hoặc các gốc tự do sinh ra các vụ nổ nguyên tử rất nhỏ, không kiểm soát được mà chúng phá hoại hoặc giết các tế bào. Nếu các tế bào còn sống có lẽ chúng sẽ biến đổi, và khi các tế bào đã biến đổi nhân bản chúng, các tế bào con sẽ có các khuyết tật di truyền tương tự như các tế bào mẹ - một quá trình dẫn đến ung thư và các bệnh thoái hoá khác.

Sự phá hoại đi cùng với a xít không chỉ đến từ việc tấn công trực tiếp lên các tế bào. Khi các lưu chất của cơ thể bị nhiễm axit, khả năng của các lưu chất để hấp thụ oxy bị tổn thương nghiêm trọng, trong khi mọi tế bào của cơ thể cần dồi dào ôxy liên tục.

Nguyên nhân trực tiếp của tất cả bệnh tật là thiếu hụt ôxy, mà nó xảy ra do các nguyên nhân khác như bị nhiễm axit đã đề cập ở trên, mà nó xảy ra bởi sự phá hoại của các gốc tự do được thừa nhận do ăn uống thiếu các chất chống ôxy hoá.

2. Nguyên nhân sau cùng của tất cả các bệnh là thiếu hụt dinh dưỡng

Khi dinh dưỡng được áp dụng một cách hợp lý và điều độ, tất cả các chức năng sẽ đúng chỗ của nó. Các axit, các gốc tự do, vi khuẩn có hại, vi rút, men, và nấm các loại sẽ được trung hoà, ôxy và các dinh dưỡng thiết yếu khác sẽ được cung cấp cho các tế bào đúng hạn độ, và chất thải sẽ được bài tiết một cách hiệu quả.
Khi một người bị đau tim đó là do các tế bào cấu thành cơ tim bị thiếu ôxy và có thể không hoạt động nữa, và khi các tế bào cấu thành cơ tim không thể hoạt động, thì cơ tim không thể hoạt động.

Đòi hỏi ôxy liên tục là như nhau với mọi mỗi tế bào trong mọi mỗi cơ quan, tuyến, cơ, dây thần kinh, và xương trong cơ thể chúng ta. Bạn có thể không có thực phẩm nhiều tháng. Bạn có thể không có nước nhiều ngày. Nhưng bất kể sức khoẻ của bạn ra sao, nếu bạn ngưng thở vài phút, bạn sẽ chết. Và đó là những gì chính xác xảy ra khi nhiễm axit, ngoại trừ điều đó xảy ra chậm trên một khoảng thời gian dài. Sự thiếu hụt oxy do môi trường nhiễm axit kết hợp với sự phá hoại trực tiếp do axit gây ra một đường xoắn âm được gọi là sự thoái hoá mà nó sẽ tiếp tục trở nên xấu hơn cho đến khi nó giết bạn - trừ khi bạn thực hiện những thay đổi cần thiết để điều chỉnh tình trạng này.

Axit sẽ là hư hỏng hầu như bất cứ thứ gì chúng gặp, thậm chí cả kim loại. Chúng thực hiện điều này bằng cách xé toạc các điện tử ra khỏi các nguyên tử và các phân tử cấu thành nên vật chất. Nếu bạn lấy axit của ắc quy và rót nó vào lòng bàn tay của bạn nó sẽ đốt cháy đúng chỗ đó qua da bạn và sau đó đúng chỗ đó qua thịt bạn. Cái đang cháy chính xác là gì? Đó là hàng triệu điện tử đang bị xé khỏi hàng triệu nguyên tử và phân tử với hàng triệu vụ nổ nguyên tử rất bé - tất cả năng lượng đó được giải thoát do nhiệt rất cao.

3. Sự phá hoại của gốc tự do và axit

Sự phá hoại của gốc tự do được biết là dẫn đến ung thư, không biết là nó đến từ hút thuốc (một hơi thuốc đưa 375.000 gốc tự do vào cơ thể), phơi nắng quá lâu, ăn thịt bị cháy, dầu đun nóng, hay các tác động của bất kỳ chất độc nào có từ ăn uống, không khí, hoặc hấp thụ qua da. Cũng vậy, axit và các gốc tự do được sinh ra do sự trao đổi chất của chính cơ thể. Ví dụ, carbon dioxide hình thành trong quá trình trao đổi chất tạo ra axit carbonic khi bị phân huỷ trong máu. Tập thể dục sinh ra axit lactic trong cơ do việc phá vỡ glucogen, nó gây ra đau cơ. Một sản phẩm phụ của sự chuyển hoá thức ăn là axit uric, nó gây ra các vấn đề, ví dụ như là bệnh gút nếu không được trung hoà.Peoxit (gốc ôxy) là gốc tự do số một do cơ thể sinh ra, nhưng cơ thể cũng sinh ra peoxit không biến đổi để trung hoà các tác động của nó – đã giúp cho chúng ta có đủ các khoáng chất hợp lý mà các khoáng chất này được sử dụng để tạo ra peoxit không biến đổi sẵn sàng trong các hệ thống của chúng ta. Sự chuyển hoá của tất cả các thực phẩm sinh ra một chất axit của loại này hay loại khác. Protein bị phá vỡ thành axit amin, chất béo bị phá vỡ thành axit béo, đường và hydrat carbon đi qua chu trình axit citric trước khi là nhiên liệu cuối cùng sinh ra năng lượng. Những axit đó là cần thiết cho sự sống. Thậm chí AND cũng là một axit, axit deoxyribonucleic. Căng thẳng (stress) trong cuộc sống của chúng ta là yếu tố hình thành axit lớn nhất, vì độ axit đậm đặc của hormon được giải thoát do phản ứng sinh lý (“the fight-or-flight reaction”: tạm dịch là “phản ứng sinh lý”).
Một loạt những thay đổi về sinh lý, như sự tăng lên trong nhịp tim, áp suất máu của động mạch, glucoza trong máu, được bắt đầu bởi hệ thần kinh giao cảm để huy động các hệ thống trong cơ thể phản ứng với stress.)
Cơ thể có một hệ thống thích hợp để xử lý các gốc tự do và axit – nhưng chỉ khi đủ số lượng các khoáng chất thích hợp và các dinh dưỡng khác có sẵn. Nếu chúng không đủ, cơ thể sẽ rút các khoáng chất mà nó cần để tồn tại ra khỏi xương và các tế bào của các cơ quan và mô.

Nếu bạn lấy một axit nhẹ như giấm và đặt một cái xương gà vào đó, sau một lúc axit sẽ rút các khoáng chất ra khỏi xương (các nguyên tử mất cân bằng điện tạo nên axit cần các khoáng chất từ xương là các các vật cho điện để đạt được cân bằng), làm cho xương mềm ra, và khi khô nó sẽ giòn. Axit có tác động tương tự lên xương trong cơ thể chúng ta – và đó được gọi là chứng loãng xương.

Tôi chắc rằng, nghe có vẻ ngu xuẩn đối với một người đang chịu bệnh đó, nhưng chứng loãng xương là một điều tốt. Tại sao điều này như thế là bởi vì việc lọc các khoáng chất khỏi xương đã thật sự bảo vệ cuộc sống của họ, bởi vì nếu chúng không có một “vật dự trữ đệm” của các khoáng chất trong xương của họ để rút ra nhằm trung hoà axit, độ pH của họ sẽ hạ xuống dưới mức cần thiết để cung cấp cho đời sống, và họ sẽ chết. Các lưu chất của cơ thể phải duy trì độ pH giữa 7,32 và 7,44 để khoẻ mạnh, và các mức của máu phải duy trì độ pH giữa 7,35 và 7,45 hoặc nếu không bạn sẽ chết. Đó là một dải hẹp có dung sai rất nhỏ.

Để cho cơ thể khoẻ mạnh, các lưu chất của cơ thể, ngoại trừ axit của dạ dày và nước tiểu, phải duy trì kiềm, không phải là một điều dễ dàng đạt được khi chúng ta liên tục bị tấn công tới tấp bởi axit và các gốc tự do từ môi trường của chúng ta, và gần như mọi thứ chúng ta làm và mọi thứ chúng ta ăn đều sinh ra các chất thải có axit trong cơ thể chúng ta.

Chứng loãng xương bảo vệ cuộc sống của một người không được nhầm lẫn với việc cơ thể tự chữa lành bệnh. Loãng xương là một bệnh thoái hoá. Cơ thể đang bảo vệ chính nó khỏi một loại bệnh như là một sự lựa chọn để chết. Cơ thể đang ưu tiên việc sử dụng các khoáng chất của nó để giữ cho cơ thể tồn tại. Trung hoà axit, thậm chí phải trả giá bằng xương, quan trọng hơn là mất toàn bộ sự sống, và tiềm thức vĩ đại của bạn đủ khôn ngoan để biết sự khác biệt đó và thực hiện quyết định đó. Nhưng giữ cho một người tồn tại thì cực kỳ khác biệt với việc chữa lành cho người đó và mang đến cho người ấy sức khoẻ thực sự.


4. Cơ thể có khả năng kỳ diệu để tự chữa lành

Nhưng chỉ khi các điều kiện nội tại là hợp lý và các dinh dưỡng thích hợp có sẵn liên tục cho nó.

Giả sử bạn cắt ngón tay của bạn. Nó không quá nặng, vì thế bạn không lo lắng băng bó hoặc thậm chí vệ sinh nó. Dưới các hoàn cảnh bình thường, cơ thể sẽ làm sạch, tẩy uế, và chữa lành vết thương một cách hoàn toàn đến nỗi mà thậm chí dấu vân tay sẽ được tái tạo chính xác với cái mà trước khi nó bị thương. Mã đối với ngón tay hoàn thiện của bạn được lưu giữ trong AND của bạn, và khi hệ miễn dịch của bạn và các tế bào khác cùng làm việc để sửa chữa hư hại, chúng phục hồi phần đó một cách hoàn hảo. Thật là một cách chữa lành kỳ lạ!

Nhưng giả sử bạn bị bệnh tim. Đó có phải là một quả tim bị thương không? Tại sao quá trình chữa lành tương tự không được áp dụng? Tại sao cơ thể không tự chữa cho nó khỏi bệnh đó? AND có bao gồm mã cho quả tim hoàn thiện không? Sự thật là các nguyên lý tương tự được áp dụng đối với bệnh tim và tất cả các bệnh thoái hoá. Nhưng lý do mà chúng ta không lành bệnh chỉ là bởi vì bệnh thoái hoá vẫn còn do liên tục bị thương. Ví dụ, nếu mỗi lần vết cắt trên ngón tay của bạn bắt đầu lành, bạn cắt mở nó ra lần nữa bằng một con dao, nó không thể lành. Bạn phải khử được nguyên nhân gây thương trước khi việc chữa lành có thể tiến hành. Tương tự như vậy đối với bệnh tim và mọi bệnh thoái hoá khác, mà chúng vẫn còn do việc gây thương vẫn tiếp tục bởi axit.

Cơ thể đang cố gắng phục hồi các khu vực bị hư hại của tim, nhưng axit cũng đang bận rộn phá huỷ các tế bào mới đang được tạo ra, và tim không thể chữa lành. Không có một loại thuốc, liệu pháp hay cách chữa trị riêng biệt nào có thể mang đến sự chữa lành hoặc phục hồi của tim – và sẽ không bao giờ có. Tim chỉ có thể tái tạo khi môi trường axit bên trong là hợp lý và cơ thể được cung cấp bằng các khối dinh dưỡng cần thiết.
Cơ thể đang tái tạo mỗi phút giây bạn đang sống, nhưng nếu việc gây thương hoặc phá huỷ các tế bào xảy ra với tốc độ nhanh hơn là chúng có thể được thay thế, bạn có sự thoái hoá. Thoái hoá nghĩa là bạn đang chết. Và nó là ảnh hưởng trực tiếp của axit lên các tế bào của cơ thể bạn.
Có người nói với chúng tôi rằng họ không cần bổ sung dinh dưỡng, vì họ đang đầy đủ mà không cần chúng. Vâng, họ được chấp nhận, có thể họ bị viêm khớp nhẹ hoặc bất cứ bệnh gì tương tự, nhưng họ không lo lắng về nó. Họ nên lo lắng! Họ nên nhận thức được rằng họ không chỉ bị viêm khớp nhẹ hoặc bất cứ bệnh gì như thế. Những gì họ bị là sự bắt đầu của bệnh mà cuối cùng sẽ giết họ, và họ nên lo lắng ngay bây giờ, khi nó đang trong giai đoạn đầu, khi mà họ có thể dễ dàng hơn làm điều gì đó cho nó. Càng muộn, càng khó khăn. Hơn nữa, quá trình axit đang phá huỷ các khớp của họ cũng đang làm việc tương tự trên tất cả các cơ quan, các cơ, thần kinh của họ - mọi tế bào trong cơ thể họ.

Tất cả dược phẩm đều có axit. Nếu bạn bị phụ thuộc vào dược phẩm, chính tình trạng axit đó trước hết là nguyên nhân gây bệnh sẽ bị tăng lên do chính dược phẩm, cơ thể sẽ ngừng hoạt động, và cái chết sẽ là kết quả.

Nguyên nhân của bệnh phải được loại trừ và điều đó xảy ra chỉ thông qua dinh dưỡng hợp lý và duy trì cân bằng độ pH của các lưu chất của cơ thể.

Lấy ung thư làm ví dụ. Những gì mà người ta gọi ung thư không phải là bệnh, nó là triệu chứng, là hậu quả, là các tế bào bị biến đổi, là khối u. Khi họ giết tất cả tế bào ung thư hoặc lấy ra tất cả các khối u bằng phẫu thuật, bạn sẽ có trạng thái môi trường cơ thể tương tự, vì thế các triệu chứng chắc chắn trở lại, và bạn sẽ phải sống trong nỗi sợ hãi về điều đó. Axit và các gốc tự do là những gì đầu tiên gây ra ung thư. Axit và các gốc tự do phá hoại các tế bào và làm cho chúng biến đổi, và hệ miễn dịch không đủ mạnh để dò tìm và tiêu diệt các tế báo bị biến đổi trước khi chúng nhân bản ngoài vòng kiểm soát.
Hiên nay họ đang thực hiện và cố gắng tiêu diệt “ung thư” bằng hoá chất và phó xạ, và đôi khi việc điều trị phá huỷ được các tế bào ung thư, nhưng nó cũng phá huỷ các tế bào khác trong cơ thể, các tế bào có lợi cho sức khoẻ, các tế bào cần thiết, đặc biệt là các tế bào của hệ miễn dịch. Bây giờ bạn quay trở lại với tình trạng axit tương tự để bắt đầu tất cả quá trình lại một lần nữa – nhưng với một cơ thể đã suy yếu và hệ miễn dịch đã suy yếu. Nhiều bác sĩ chuyên khoa ung bướu sẽ không sử dụng hoá chất hay phóng xạ lên sự xuất hiện ung thư lần hai bởi vì họ biết rằng hậu quả tàn phá của các liệu pháp đó trên một cơ thể đã thật sự suy yếu thường dẫn đến kết quả là cái chết.

Phương pháp hợp lý là củng cố, cân bằng, và nuôi dưỡng tất cả hệ thống của cơ thể một cách đồng thời. Nếu hệ tuần hoàn của bạn yếu, hậu quả sẽ là oxy, dinh dưỡng, hormones, và các thành phần khác của hệ miễn dịch, mà chúng sử dụng máu cho việc vận chuyển các chất cho sự sống của chúng đến các tế bào của cơ thể, sẽ thất bại để phân phối một cách đúng đắn. Dinh dưỡng tốt nhất trên thế giới để ăn là gì nếu bạn không thể tiêu hoá nó, và các dinh dưỡng không thể đến nơi mà chúng cần phải cung cấp?

Bất kỳ sự rối loạn nào cũng dẫn đến nhiều rối loạn hơn cho đến khi sức khoẻ của bạn trở nên xấu hơn . Đó là tại sao chúng ta cần bắt đầu thực hiện các điều chỉnh càng sớm càng tốt, ngay từ bây giờ của bất cứ vấn đề nào, có còn hơn không, trước khi bất kỳ vấn đề nào tiến triển.

Như Người mẹ đã từng nói, “Phòng bệnh hơn chữa bệnh” (“Một gram phòng bệnh có giá trị bằng một cân chữa bệnh”).
Kiềm hoá vì Sức khoẻ
Những khái niệm cơ bản về sự cân bằng axit/kiềm của cơ thể
Như chúng tôi đã công bố trước đây, cơ thể của chúng ta được “Tạo ra Một cách Kỳ diệu”. Chúng ta tất cả đều biết dịch dạ dày có khá nhiều axit để giúp tiêu hoá thức ăn. Đá vôi mà bạn đặt trong vườn nhà bạn, ngược lại, chỉ là chất đối lập với axit - được gọi là bazơ hay kiềm. Chúng ta có thể đo lường chất gì đó có độ axit hay độ kiềm là bao nhiêu bằng nhiều kỹ thuật khác nhau và chúng ta gọi sự cân bằng axit/kiềm là độ pH
‘pH’ nghĩa là gì và tại sao nó lại quan trọng?
Thang độ pH đi từ 0 (rất axit) đến 14 (rất kiềm). 7 độ pH là trung tính chính xác (không có axit cũng không có kiềm). Mỗi sự thay đổi 1 điểm trên thang độ pH (ví dụ từ 7 độ pH xuống 6 độ pH) là tăng lên gấp 10 lần trong độ axit. Từ 6 xuống 5 là tăng lên 10 lần nữa trong độ axit. Như thế một chất dịch có 7 độ pH là gấp 100.000 lần mạnh hơn một chất dịch có 2 độ pH. (10 X 10 X 10 X 10 X10)
Cơ thể chúng ta được thiết kế để giữ cho máu có độ pH nằm giữa 7,35 và 7,45, khoảng độ này chỉ có một chút kiềm để nó có thể mang ôxy từ phổi đến các tế bào để sinh năng lượng cho chúng ta. Nếu độ pH trong máu chúng ta dưới 7,35 hoặc trên 7,45 chúng ta sẽ gần đến cái chết. Vì thế cơ thể chúng ta sẽ làm mọi thứ mà nó có thể để giữ cho máu có độ pH là 7,4. Máu có một số cơ chế để cân bằng pH của nó, như là việc tước đoạt các chất khoáng thiết yếu của các bộ phận khác cơ thể (như canxi) để trung hoà axit và để giữ mức kiềm hợp lý trong máu. Nếu cơ thể tước đoạt chất khoáng của các chất dịch và các cơ quan, chúng sẽ trở nên bị nhiễm axit hơn (một điều xấu như chúng ta sẽ thấy trong vài phút nữa).
Phần lớn các enzyme cũng cần một môi trường có độ pH giữa 6 và 8 để hoạt động một cách thích đáng. Vì thế, giữ cho các chất dịch của cơ thể có độ pH trên 6 là điều quan trọng.
Bác sĩ Arthur Guyton trong Sách Giáo khoa về Sinh lý học Y khoa đã tuyên bố: “ Bước đầu tiên trong việc duy trì sức khoẻ là kiềm hoá cơ thể. Các tế bào của một cơ thể khoẻ mạnh có tính kiềm trong khi các tế bào của một cơ thể bị bệnh có tính axit. Vì cơ thể chúng ta không sản xuẩt được kiềm, nên chúng ta phải cung cấp kiềm từ một nguồn bên ngoài để giữ cho chúng ta tránh bị nhiễm axit và chết.”
Làm sao mà tôi có thể đo được độ pH của cơ thể tôi?
Năm 1972, Bác sĩ Carl Reich đã khám phá rằng số đo pH của nước bọt là đại diện cho độ pH của toàn bộ cơ thể. Độ pH của nước bọt thật sự là một thước đo về “ứng suất” của kiềm (the alkalinity “stress”) mà nó có trong cơ thể. Nếu chúng ta đo độ pH của chúng ta bằng nước bọt giữa:
7.0 đến 7.5 (Xanh biển đến Tía) - Cơ thể khoẻ mạnh
6.0 đến 6.5 (Xanh lục nhạt) - Bệnh có thể phát triển
4.5 đến 5.5 (Vàng) - Bệnh có thể đã thật sự có mặt
Nhiều yếu tố tác động đến pH của chúng ta bao gồm tuổi tác, mức độ tập thể dục, nước chúng ta uống, không khí chúng ta thở, và thực phẩm chúng ta ăn. Theo thời gian, cơ thể chúng ta có thể nhiễm thêm axit. Có 150 bệnh thoái hoá gồm có ung thư, loãng xương, cao huyết áp, bệnh tim, dị ứng đối với thuốc men và thức ăn, giảm trí nhớ, đái tháo đường, v.v… tất cả đã được thấy có quan hệ với các chất dịch của cơ thể có axit hay sự nhiễm axit.
Nhiễm axit như thế nào đẫn đến các bệnh thoái hoá?
Ôxy là chìa khoá đối với sức khoẻ của tế bào. Chúng ta phải giữ ôxy xung quanh các tế bào và trong máu của chúng ta ở mức độ tốt. Các chất dịch có axit không thể giữ được tốt lắm ôxy đã hoà tan. Chúng ta cần các chất dịch có kiềm trong cơ thể để giữ ôxy.
Về mặt kỹ thuật, các nguyên tử H+ trong một axit kết hợp với ôxy để hình thành H2O (nước). Vì thế, ôxy có xu hướng trung hoà axit (tận dụng hết H+ tìm được trong axit) nhưng điều đó cũng tận dụng hết ôxy đễn nỗi không còn ôxy cho quá trình chuyển hoá của tế bào.
Tuy nhiên, các chất dịch chứa kiềm có thể giữ được ôxy đã hoà tan, đó là điều tại sao máu phải có một lượng nhỏ kiềm để mang ôxy đến các tế bào của chúng ta. “Bệnh tật không thể tồn tại trong một chất dịch có kiềm. Các chất dịch của cơ thể có kiềm giàu ôxy làm tăng thêm khả năng để tiêu diệt virus”.
Có một sự tác động lẫn nhau không ngừng của pH của các chất dịch bên trong tế bào và các chất dịch bên ngoài tế bào. Thông thường, độ pH của tế bào là 6.5 hoặc cao hơn và glucoza của đường bị phá vỡ thành các nucleotide mà chúng là các khối chất cơ bản của AND (bản thiết kế gốc của cơ thể). Nếu, nói một cách khác, các chất dịch bên trong một tế bào quá nhiễm axit (pH là 6.0 chứ không phải như bình thường là 6.5) phân tử glucoza của đường vỡ ra làm đôi hình thành nên 2 phân tử axit lactic mà chúng làm cho bên trong tế bào cuối cùng nhiễm thêm axit. {1} “Đây có lẽ là lý do chính tại sao dẫn đến kết quả nhiễm axit trong các bệnh thoái hoá, và tại sao việc tăng độ pH của dịch chất cơ thể có thể có kết quả trong việc điều trị bệnh. Tóm lại, bằng việc giữ cho cơ thể chúng ta một ít kiềm, chúng ta có thể giữ cho các chất dịch và các cơ quan của cơ thể tăng thêm khả năng để giữ ôxy, và chúng ta có thể giảm bớt sự mẫn cảm đối với các bệnh thoái hoá. Cũng vậy, trong ruột của chúng ta và các chất dịch khác của cơ thể có men, nấm và mốc. {2} Một số trong các loại đó rất quan trọng để tiêu hoá, và chúng ta sẽ chết nếu không có chúng. Các loại khác, mà chúng không phải là cái đáng mong muốn, có thể chiếm giữ các khu vực nào đó của cơ thể nơi đó chúng có thể phá hoại các mô của chúng ta (động mạch, thành tế bào, v.v…), đó có thể là một nguyên nhân gây bệnh hoặc làm cho chúng ta dễ bị nhiễm bệnh. Các loại men, nấm và mốc đó phát triển mạnh trong môi trường cơ thể nhiễm axit. Và, đến lượt, các chất thải của chúng rất nhiều axit, điều đó có thể dẫn đến một phản ứng chuỗi của sự tăng trưởng các chất đó. Và chúng ta thấy hậu quả trong sức khoẻ của chúng ta. Vì vậy, khi chúng ta giữ cho các chất dịch của cơ thể có kiềm, chúng ta có thể ngăn chặn được các loại men, nấm và mốc không mong muốn đó.
Cũng vậy, người ta đã phát hiện ra rằng dường như không có sinh vật gây bệnh, bao gồm vi khuẩn, virus, nấm, men, các tế bào amip hoặc ung thư có thể sinh sản trong một môi trường được ôxy hoá (có kiềm) cao.
Làm sao tôi có thể duy trì độ pH của chất dịch cơ thể gần sát với độ trung tính?
Điều đầu tiên chúng ta nên làm là uống nhiều nước sạch (tốt nhất là nước cất). Uống nhiều nước giúp dội sạch các chất cặn bã do quá trình trao đổi chất ra khỏi cơ thể. Các loại nước ngọt có cacbonat rất nhiều axit. Loại trừ soda ra khỏi thực đơn của bạn là một bước lớn đầu tiên trong việc trung hoà hay kiềm hoá các chất dịch của cơ thể chúng ta . Chúng ta nên học để biết những thức ăn nào có axit để tránh chúng và tập trung vào các thức ăn có kiềm. Bác sĩ Baroody trong cuốn sách của ông “Kiềm hoá hay là chết - Khoẻ hơn nhờ cân bằng kiềm-axit hợp lý” đã đặt vào cùng một danh mục các loại thức ăn và độ axit, độ kiềm của chúng. Chúng tôi đã gộp nhiều loại thực phẩm vào trong một bảng để bạn có thể tìm thấy một cách hữu dụng.
Cơ thể không thể sử dụng can xi mà không có ma nhê và trong sữa có rất ít ma nhê. Đạm động vật trong sữa sản sinh ra một môi trường axit trong cơ thể. Axit đó phải được trung hoà và cơ thể đánh cắp can xi từ xương để trung hoà axit. Như vậy, thay vì đạt được chắc xương (bone mass >< bone loss) với sữa, thực tế lại giảm sự chắc xương vì uống sữa????.
“Xương gãy vì phụ nữ ăn thức ăn sai tạo ra tình trạng axit trong dòng máu của chính họ, mà nó phải được trung hoà bằng can xi có sẵn. Cơ thể đạt được cân bằng bằng cách lấy can xi ra khỏi xương của chính nó. Do đó, những người ăn nhiều đạm động vật nhất là những người phải chịu tỷ lệ ngày càng tăng của chứng loãng xương. Tương tự, Tập san Dinh dưỡng Chữa bệnh (1995; 61, 4) đã khẳng định sự thật này:
Hãy nói về can xi một chút. Can xi thật sự là một kim loại. Chất bột trắng mà chúng ta nghĩ (như phấn) thật sự là cacbonat can xi. Can xi tự nó (trong hình thái cơ bản của nó) không thể được hấp thụ vào cơ thể. Nó phải được phá vỡ thành cái gọi là can xi ion (Ca++). Ca++ là can xi có điện tích dương. Trong hình thái này, nó có thể được cơ thể hấp thụ, điều đó gọi là “có thể sử dụng được về mặt sinh học” (bioavailable: The ability of a drug or other substance to be absorbed and used by the body. Orally bioavailable means that a drug or other substance that is taken by mouth can be absorbed and used by the body. Khả năng của một loại thuốc hoặc chất khác được cơ thể hấp thụ và sử dụng. Có thể sử dụng được về mặt sinh học bằng đường miệng nghĩa là một loại thuốc hoặc chất khác được đưa vào bằng đường miệng có thể được cơ thể hấp thụ và sử dụng.)

Khi được đưa vào dưới hình thức viên nhộng, cacbonat can xi phải được phá vỡ thành các ion can xi (Ca++) mà nó cần axit clohydric tìm thấy trong dạ dày. Nó cũng cần vitamin D để thu được can xi và chuyển nó đến các tế bào. Tuy nhiên, can xi có thể được kết hợp với các nguyên tố khác từ thức ăn mà nó chứa mức oxalat cao (như rau bina, dừa, củ cải đường, đậu tương, hạt điều, v.v…) và các thức ăn có phot pho cao (như thịt), các nguyên tố đó sẽ ức chế việc hấp thụ can xi. Vì thế can xi khó được hấp thụ. Cacbonat can xi trong dạ dày trung hoà nhiều axit của dạ dày.

Can xi (thực tế là Oxit Canxi) dưới dạng túi trà (có sẵn từ HTN) khi bỏ vào nước phá vỡ thành các ion Ca++ (và OH-) trực tiếp có thể sử dụng được về mặt sinh học, không cần trung hoà axit của dạ dày và không đòi hỏi Vitamin D. Đây cũng là tại sao chúng ta gọi nó là Can xi San hô ion.

Các hình thái thông thường của can xi “có thể bán không cần kê đơn bác sĩ” gồm có: {4}
Calcium Carbonate trong dạng được biết đến như Caltrate®, Oyster Shell calcium, or Tums® v.v…. Calcium Carbonate chỉ có 40% calcium và nó được biết là chỉ 10% calcium được hấp thụ từ carbonate. Như vậy, 1000mg calcium carbonate chỉ cung cấp 40mg calcium có thể dùng được.
Calcium Citrate như Citrical® chỉ có 21% calcium và các nhà khoa học nói rằng chỉ có 50% calcium được hấp thụ từ citrate. Như thế, 1000mg calcium citrate chỉ cung cấp 105mg calcium có thể dùng được.
Tribasic Calcium Phosphate, được biết đến như Posture® chỉ có 39% calcium và chỉ 10% trong số đó được hấp thụ. Như vậy, 1000mg calcium phosphate mang lại chỉ 39 mg có thể dùng được.
Calcium Lactate (sữa can xi) bình thường được tìm thấy trong các sản phầm chế biến từ sữa và có 37% calcium với chỉ 33% từ sữa được hấp thụ. Như thế chỉ 105mg calcium có thể dùng được có từ 1000mg sữa calcium.
Ionic Calcium (Ca++) có sẵn trong Coral Calcium Gold ™ của HTN và có 100% calcium và 98% được hấp thụ. Calcium San hô là hợp chất calcium carbonate hữu cơ duy nhất trực tiếp tạo ra hình thái có ion của nó. Như thế 1000mg Calcium San hô mang lại 40% calcium ion mà nó có 98% được hấp thụ mang lại 392mg calcium có thể dùng được.
Can xi san hô dạng túi trà của HTN, bỏ vào nước, cung cấp hơn 70 khoáng chất vi lượng khác cần thiết không chỉ cho hoạt động của emzim mà còn cho nhiều chức năng khác của cơ thể. Các khoáng chất này có từ mối quan hệ cộng sinh của vi tảo sống cộng sinh (the zooxanthellae micro-algae) tăng trưởng cùng san hô.

Tôi cần bao nhiêu can xi được hấp thụ?
Các nhà nghiên cứu dinh dưỡng của Đại học Purdue đã thiết lập năm 1997 số lượng trung bình nhu cầu canxi theo nhóm tuổi. Những phụ nữ có thai và các bà mẹ đang cho con bú, con gái 11 - 20 tuổi, những người bị căng thẳng thần kinh hoặc thể xác mức cao, hoặc những người bị loãng xương cần đến 2.000 mg hàng ngày . Cũng vậy, Viện Sức khoẻ Quốc gia đề nghị: {4}

Tuổi Can xi lấy vào được đề nghị hàng ngày
*giả sử khoảng 10% được hấp thụ thật sự (xem ghi chú phía dưới)
Người lớn 1000 mg
Phụ nữ đã tắt kinh 1500 mg
Người lớn trên 65 1500 mg
Phụ nữ có thai/cho con bú 1200-1500 mg
Thanh niên (11-24) 1200-1500 mg
Trẻ em dưới 11 800-1200 mg
• Vui lòng chú ý: Theo bác sĩ Kurt Grange những giới hạn đó được xác định một cách điển hình theo số lượng can xi lấy vào, nên có giả sử rằng bạn thật sự hấp thụ chỉ khoảng 10% của lượng bạn uống vào bằng miệng. Vì thế các con số đó thật sự chỉ ra một lần uống, lượng can xi được hấp thụ là giữa 80 và 150 mg can xi.
Can xi San hô ion trong mỗi túi mang lại khoảng 371mg can xi được hấp thụ.
'':BỆNH TẬT TRONG CƠ THỂ CON NGƯỜI LÀ DO MẤT CÂN BẰNG KHOÁNG CHẤT VA NGUYÊN TỐ VI LƯƠNG GAY NÊN''
Tiến sỹ Khoa học Mỹ : Linus Pauling - 2 lần giải thương Noben
Nhưng ở tôi, tôi có một lượng thông tin lớn mà các bạn có thể nhận được và tôi muốn được chia sẻ cùng các bạn:

1.Bệnh loét dạ dày (lở bao tử)

Trong số các bạn có người đã từng nghe trước đây người ta cho nguyên nhân của bệnh loét dạ dày là do stress mà ra. Nhưng 50 năm trước, ngành thú y chúng tôi đã hiểu được rằng bệnh loét dạ dày ở heo là do vi khuẩn. Đương nhiên không phải vì thế mà chúng tôi áp dụng phẫu thuật dạ dày heo để điều trị cho chúng. Vì như vậy sẽ rất tốn kém và sau đó nếu bán được con heo đó giá bán sẽ tăng lên đến 550 USD/kg thịt heo băm.
Chúng tôi biết một thứ khoáng chất được gọi là Bizmar, dùng nó vẫn trị được cho heo chứng bệnh này, không cần đến một can thiệp phẫu thuật nào cả. Chúng tôi đã làm như vậy và chỉ tốn phí tổn khoảng 5 USD trong một đầu heo.
Cách điều trị đơn giản chỉ bằng khoáng chất Bizmar và các khoáng chất khác cộng với Tetracyline. Thế mà mãi đến năm 1994, vào khoảng tháng 2 có trường đại học Quốc gia mới công bố rằng bệnh loét dạ dày có thể trị khỏi bằng phương pháp kết hợp các chất khoáng, Bizmar và Tetracylin! Nếu ai chưa biết Bizmar là gì, xin cứ ghé vào cửa hàng thực phẩm hoặc bất cứ hiệu thuốc nào hỏi có thể mua nó với giá 2 USD một lọ thuốc màu hồng có tên là PEPTOBIZMAR. Cứ vậy đem về dùng, có thể trị được bệnh loét dạ dày. Và một lần nữa các bạn lại phải chọn: Trị khỏi bệnh với giá 5 USD hay đưa cổ cho người ta “ chém”!

2. Bệnh ung thư

Một căn bệnh rất đáng sợ, là nguyên nhân chết được xếp vào hàng thứ hai của người Mỹ. Tháng giêng năm 1993 tại Viện ung thư học Boston, thuộc trường y, sau khi theo dõi những người mắc ung thư, đã công nhận về việc cung cấp chế độ ăn để phòng bệnh này. Các kết luận dựa trên công trình nghiên cứu được tiến hành ở Trung Quốc tại tỉnh Hà Nam. Tỉnh này được chọn để tiến hành các cuộc nghiên cứu, vì người ta ghi nhận ở đó số người mắc bệnh ung thư có tỉ lệ cao nhất.
Người ta nghiên cứu 29.000 người trong vòng 5 năm. Những bệnh nhân được cấp lượng vitamine và khoáng chất vượt gấp 2 lần liều lượng so với người Mỹ thường dùng. Chẳng hạn, liều dùng vitamine đối với người Mỹ là 60mg/ngày, thì người bị ung thư ở đấy được dùng đến 120mg. Ông Alain Paul người nhận 2 giải Nobel nói rằng: Nếu bạn bị ung thư, bạn phải dùng đến 10.000mg/ngày.

Thế là các vị thầy thuốc kiếm ăn bằng nghề nghiệp của mình lại nổ ra một cuộc tranh luận với ông ấy. Nhưmg những người đang cãi vã đó thì hiện nay đang vui vẻ, đang ngự trên “ Thiên đàng” rồi, còn Alian Paul vẫn sống trên mặt đất và vẫn còn khoẻ mạnh. Năm nay ông đã 94 tuổi, làm việc 14h trong ngày, 7 ngày trong tuần, đang sống trong một trang trại chăn nuôi( raich), tại bang Califonia và giảng dạy cho trường Đại học Califonia ở San – Francisco. Vậy, các bạn hãy chọn đi, hoặc phải nghe theo lời giáo huấn của các bác sĩ đáng kính đang ngồi chễm chệ trên “Thiên đàng”, hoặc nghe theo lời khuyên của tiến sĩ Paul?
Thế là, rất hoàn toàn tự nhiên và vô hại khi ta sử dụng gấp đôi liều vitamine A và C so với tiêu chuẩn lâu nay quy định. Không kém phần quan trọng khi dũng Kẽm ( Zn), Riboflavine( Vitamine B2), Molipden vv… Nhưng có một nhóm đặc biệt có lợi đó là bộ ba: Vitamine E, Beta – Carotene và Selenium ( Se). Ba hợp chất này cần dùng với liều gấp đôi hàng ngày. Nếu làm được như vậy mà đạt được 50% lợi ích, cũng đã tốt lắm rồi.
Trong số những người bệnh được sử dụng vitamine, Beta – carotene, Selenium trong vòng 5 năm thì trường hợp tử vong của những người mắc chứng nan y đã giảm 10%. Còn đối với ung thư hết thuốc chữa thì bộ 3 này đã cứu thoát được 13%.
Tại Hà Nam, cứ 100 người tình nguyện được chữa bằng phương pháp này đã thoát chết được 21 người.
Những thông tin như vậy, lẽ ra các thầy thuốc phải thông báo lại cho các bạn, đằng này họ lại cứ điềm nhiên toạ thị, tôi cảm thấy nực cười!

3. Bệnh viêm khớp ( arthrite)

Từ tháng 09/1993, trường đại học Harward và bệnh viện Boston đã bắt đầu dùng chất Protein của gà để trị bệnh viêm khớp cho người.
Những bệnh nhân này được chọn khi chữa bằng các loại thuốc khác không mang lại kết quả. Họ đã từng được trị bằng phương pháp tiêm Aspirine, Mesotricide, Predniselon, Cortizon và các lý liệu pháp khác. Duy còn một điều là họ chưa dùng đến sự can thiệp phẫu thuật nữa thôi, để thay thế các khớp xương. Lúc đó tôi nói với các thầy rằng : “ Các thầy nghe đây ! Những bệnh nhân này đã từng khổ sở vì chứng bệnh ấy lâu rồi, nếu họ tình nguyện ráng chịu khổ thêm 90 ngày nữa, tức 3 tháng, tôi sẽ tiến hành một thí nghiệm nhỏ”.
Lúc đó có 29 người tình nguyện. 29 người này y học không còn khả năng chữa trị được và tiến triển của bệnh không còn khả quan hơn.
Tôi trị cho họ như sau : Mỗi sáng cho họ dùng một muỗng cafe bột sụn gà được nghiền nát, mịn hoà với nước cam. Tất cả các bệnh nhân này được trường y ở Harward theo dõi. Và sau 10 ngày triệu chứng viêm và cảm giác đau biến mất. Sau 30 ngày họ đã tự cho phép mình đi lại, làm được một cái gì đó rồi. Sau 3 tháng các chức năng của khớp xương đã hoàn toàn bình phục.
Bây giờ tôi xin kể thêm cho các bạn một chuyện có vẻ khôi hài đấy ! Chuyện nực cười này dính đến một vị bác sỹ mà tôi đã có dịp nói ở trên. Ông làm tại trường đại học y Harward. Ông ta tuyên bố rằng sụn gà chính là một vị thuốc ! Vì lẽ nếu một cái gì đó giúp ta trị được bệnh thì đích thị cái đó có thể gọi là thuốc và có thể đem kê đơn bán được. Thế là cái đầu tính toán của ông ta bắt đầu cuống cả kê lên, bấm tay vào máy tính …300 USD một viên con nhộng, tất cả 25 bệnh nhân sẽ là ..vv…thực ra, ta có thể đi ra hiệu thuốc nào đó để mua NOXYJELON là đủ, với giá rẻ ! Các bạn đều biết rõ loại thuốc này. Nó được dùng để cho móng chân, móng tay và tóc không bị gãy. Hợp phần cơ bản của nó là trộn vào các dây gân của bò. Đó là chất củng cố xương và sụn của các bạn. Nếu ta dùng nó với liều lượng 0,5 muỗng cafe/ ngày, hoà cùng với nước cam theo tỷ lệ cứ một aoxơ ( ounce ) 100 pound trọng lượng cơ thể, kết hợp với các chất khoáng dạng keo. Lần sau khi tôi đến hội trường đây, các bạn sẽ nhất định nhảy lên và hôn tôi tới tấp cho mà xem, nếu các bạn còn nhớ đến các vụ chữa viêm khớp này.

4. Bệnh Alzheimer.

Hồi trước có ai trong số các bạn có nghe thấy người ta nói tới chứng bệnh Alzheimer chưa (còn gọi là bệnh D)?
Nay chắc mọi người đều đã biết rồi. Khi tôi còn trẻ, lúc đó chứng bệnh Alzheimer chưa xuất hiện. Ngày nay nó đã trở thành một chứng bệnh trong các bệnh phổ biến. Cứ một trong hai người đến tuổi 70 thì bị chứng bệnh này. Con số như vậy kể cũng đáng sợ thật! Còn trước đây, chứng bệnh ấy đã có trong gia súc rồi. Các bạn thử hình dung xem các trại chủ sẽ tổn thất như thế nào, nếu con heo nái đang nuôi mà không nhớ được vì sao nó đi đến máng ăn và đến đó để làm gì? Do đó 50 năm về trước ở nơi này đã được các trại chăn nuôi giải quyết. Từ lúc đó chúng tôi đã biết dùng đến vitamine liều cao để khắc phục nó.
Lẽ ra các bạn phải nhận ra thông báo của các bác sĩ tư của mình từ tháng 7/1992 rồi mới đúng, vì Viện nghiên cứu khoa học Califonia, San-Diago năm 1992 đã công bố rằng vitaminE làm chậm quá trình mất trí nhớ do bệnh Alzheimer gây ra. Cả vấn đề này nữa, họ cũng đã lạc hậu so với ngành thú y gần 50 năm!
Nghe như vậy, có thể có bạn nào đó khi bị bệnh sẽ muốn đi bác sĩ thú y để chữa cho ăn chắc chăng? (cười)

5. Bệnh sỏi thận

Trong số các bạn ngồi đây đã có bạn nào khổ sở vì bệnh sỏi thận chưa? Vâng tôi đã thấy một số cánh tay giơ lên rồi đấy! OK
Khi các bạn mắc phải chứng bệnh này bác sĩ thường xuyên bạn hãy đề phòng, đừng bao giờ dùng những chất dinh dưỡng có thành phần Cacil, đừng dùng những phế phẩm bất kỳ nào từ sữa có Cacil, cũng như bất cứ thực phẩm nào có nó trong đó. Các ông ấy nói rằng Cacil nếu đưa vào sẽ xuất hiện trong thận và tạo ra sỏi thận. Thật ra thì Cacil trong thận xuất hiện là xuất phát từ bản thân xương chúng ta. Khi cơ thể bạn thiếu Cacil xương không đặc dễ tạo ra sỏi trong thận. Hàng ngàn năm trước, con người biết cách ngừa bệnh sỏi thận, mật cho gia súc rồi. Người ta cho nhiều Cacil hơn vào khẩu phần ăn của chúng, người ta cộng thêm Mg và Bo.
Những con bò đực, cừu và các loại gia súc cho sữa, khi chúng bị chứng bệnh này, lúc giải phẫu ra mới biết là thiếu Cacil. Chúng ta mà mắc phải bệnh này đôi lúc cũng muốn chết quách đi cho rảnh nợ!
Chúng tôi biết cách phòng ngừa chúng. Lẽ ra các bạn cũng phải được các bác sĩ của mình cho biết từ năm 1993 mới đúng, họ phải nói để các bạn biết rằng, Cacil có tác dụng làm giảm nguy cơ bị sỏi thận. Người ta đã nghiên cứu gần 40.000 bệnh nhân, được chia thành 5 loại nhóm. Nhóm nhận được số lượng cacil nhiều hơn thì không có người nào mắc bệnh sỏi thận cả. Các bạn nên nhớ, như tôi đã nói với các bạn rằng, tuổi thọ trung bình của các bác sĩ theo thống kê chỉ 58 tuổi, còn chúng ta thì đến những 75,5 tuổi. Hoá ra các nhà chuyên môn, những người đang dạy cho chúng ta phải sống như thế nào cho khoa học và cam đoan chắc với chúng ta rằng, chúng ta không được dùng nhiều muối, cafein, không nên ăn kem sữa với dầu ô liu thì mất sớm hơn độ tuổi trung bình của chúng ta. Trong khi đó những người có độ tuổi thọ từ 120 đến 140 lại cứ thản nhiên cho muối vào tách trà, uống nó đến 40 tách trong ngày, chế biến kem sữa với dầu ô liu mà vẫn sống đến 120 tuổi. Vậy các bạn tin vào ai? Tin vào những người sống trên 120 tuổi hay tin vào những người chết trong độ tuổi 58, các bạn hãy chọn lấy!
Chí ít, tôi cũng kính trọng một số người trong họ. Trong số đó, có bác sĩ Storward Cardred, 38 tuổi và là một bác sĩ gia đình, ông nghiên cứu về những vấn đề của bệnh Phình động mạch( Aneuvrisme), đó là chứng làm phình động mạch do cơ kém đàn hồi.
Nhưng từ năm 1957, chúng tôi được biết đến nguyên nhân của chứng Anewvrisme là do thiếu đồng (Desieit Cuivrique) trong cơ thể. Lúc bấy giờ, chúng tôi đang nghiên cứu đồ án về vấn đề này. Chúng tôi theo dõi 200.000 con gà Lôi Tây ( gà Tây). Chúng tôi cho chúng khẩu phần gồm 90 chất dinh dưỡng. 13 tuần lễ đầu tiên tròn một số nửa gà đã chết vì chứng phình mạch. Chúng tôi bổ sung vào khẩu phần ăn của chúng gấp đôi số lượng đồng hữu cơ, các trại chủ phát huy số gà lên đến 500.000 con, nhưng lúc đó không còn con gà lôi nào mắc bệnh này nữa. Chúng tôi tiếp tục nghiên cứu trên chuột, mèo, chó, heo… Cuối cùng đi đến kết luận : Nguyên nhân của bệnh phình động mạch là do thiếu đồng.


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Diệu Minh
bài Aug 24 2008, 01:43 PM
Bài viết #2


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 17,027
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



6. Bệnh sớm bạc tóc (già trước tuổi)

Đây là dấu hiệu cho biết bạn đang thiếu đồng trong cơ thể. Ngoài ra, da còn nhăn nheo do cơ kém đàn hồi; xuất hiện các quầng dưới mắt, các đường nhăn trên mặt, làm bạn giống như trái táo khô, da bắt đầu võng xuống: Trên hai chi trên, ngực, bụng, cổ…Và lúc ấy bạn đi mỹ viện để mổ lấy ra các lớp lòng thòng này.
Gặp trường hợp đó, thực tế và an toàn hơn, bạn nên dùng khoáng chất dạng keo (mineraux colloidaux).
Tôi xin giới thiệu với các bạn một nhân vật nữa – Bác sĩ Marin Carter. Ông ấy chết vào lúc 57 tuổi, có bằng bác sĩ tại trường Y Harward, học vị tiến sĩ y học ở Yelye. Khi mổ tử thi, người ta xác định ông ta chết do chứng bệnh phình động mạch chủ theo kết luận của bệnh viện thuốc đại học Rockefeller. Tại sao ông ta chết? Do thiếu đồng! Ông ta cũng thuộc loại có nước giải rẻ tiền đấy!
Lại một ví dụ khác nữa. Đó là một luật sư nổi tiếng ở Detroit Elen Josys, bà ta chết lúc 44 tuổi. Bà có chân trong một câu lạc bộ thể thao nổi tiếng nhất. Các bạn biết đấy, ngày này hầu như mọi phụ nữ đều muốn có một bộ xương rắn như thép với chi phí rẻ nhất bà ta cũng bị chết vì chứng phình động mạch. Theo kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy những triệu chứng của bà giống như bại liệt hoặc xuất huyết não. Đó cũng là chứng thiếu Đồng đặc trưng. Và bà cũng thuộc loại người có nước giải rẻ tiền.
Có ai trong các bạn đã từng nghe về một nhân vật có tên là Stuward không nhỉ? Ông đã viết 5 quyển sách gây dư luận xôn xao về sức khoẻ, một trong những tác giả Y học giỏi nhất ở Boston. Sách của ông viết về chế độ ăn kiêng để giảm trọng lượng cơ thể, được viết vào lúc ông chưa tròn 20 tuổi. Tôi muốn được các bạn theo dõi về một tấm gương về ăn kiêng của vị này. Ông ta chết do chứng bệnh Nhồi máu cơ tim ( Cardiomuopathie). Nguyên nhân của chứng này là thiếu Selen.
Một số trại chủ chỉ đơn giản đi đến các cửa hàng thức ăn gia súc và mua Selen dưới dạng tiêm hoặc đóng viên cho gia súc của mình, nhằm ngăn ngừa chứng bệnh ấy. Bác sĩ Stuward Burkeer, tác giả của 5 quyển sách về dinh dưỡng lại chết vì bệnh thiếu Selen trong thành phần dinh dưỡng của mình lúc mới có 44 tuổi, ông ấy cũng thuộc loại người có nước giải rẻ tiền đấy thôi!
Các bạn hãy tin tưởng rằng, chúng ta có thể phòng ngừa được chứng nhồi máu cơ tim với giá phí tổn 10 cent trên ngày nếu bạn không hiểu được điều đó thì quả là lạ đấy! Tại sao chúng ta không dùng Selen với giá 10 cent trên ngày để tự cứu lấy mình?
Nhiều người trong số các bạn có lẽ biết đến bà này. Bà tên là Hel Clard, chết vào tuổi 47 do chứng nhồi máu cơ tim trong lúc bà là chuyên viên khoa viện tâm đồ ở Sait-Louis.
Chắc các bạn từng thế thế nào về những con bò cái cho rất ít thành phần cacil trong sữa. Chúng thường lân la tới những nơi có đá, sương, kiên trì nhai những vật lạ, nhai cả những hòn cuội, những mẫu tấm lợp ximăng đó là bệnh Panka. Người trại chủ có kinh nghiệm biết mình phải làm gì ông ta bổ sung vào khầu phần ăn của bò sữa những khoáng chất, nếu không chúng sẽ lần lượt xơi tái tất cả vật liệu đang có trong chuồng bò của ông ta.
Ở con người hiện tượng này cũng thường xảy ra. Các chị phụ nữ có mang thường hay thèm thứ này thứ nọ. Có khi họ thèm cả những thứ Trời mới hình dung nổi, chẳng hạn như dưa chuột quết với kem sữa…Có gì đâu, cái thai đang phát triển, lấy đi của cơ thể thai phụ những khoáng chất cần thiết cho nó.
Xin khuyên các bạn một chút. Hãy theo dõi xem tay và mặt mình, nếu phát hiện thấy những đốm đỏ, đó là dấu hiệu bạn đang thiếu Selen đấy. Cần uống nó dưới dạng keo trong vòng 6 tháng, mọi vết đỏ sẽ biến mất hết. Sau nửa năm lại phải trị một lần nữa. Vì có thể vết đỏ chỉ biến mất ngoài da, nhưng lại tạo ra trong các cơ quan nội tạng như ở vỏ não, tim, gan, thận.

7. Một số khoáng chất ảnh hưởng đến cơ thể:

Chrome và Vanadium: Trong các bạn ngồi đây bạn nào bị lượng đường trong máu thấp? Vâng, khoảng 10% ! Chắc các bạn thường thấy ở trẻ con rất háu ăn đường. Chúng đang thiếu Chrome và Vanadium đấy. Thiếu Cr và V, lượng đường thiếu trong máu sẽ thấp, đó là hiện tượng của bệnh tiểu đường (Diabete) thiếu thiếc(Sn) thì sao? Hiện tượng phổ biến là hói đầu. Tôi thấy nhiều người trong hội trường này đang thiếu thiếc đấy! Nếu không kịp thời chữa các bạn sẽ bị điếc cho mà xem.
Còn thiếu Bore (Bo) ? Các bà cần thiết và coi trọng Bo. Nó giúp ta giữ được Calci trong xương để ngừa bệnh loãng xương. Bo còn giúp ta sản xuất Oestrogene cho nữ, còn đối với đàn ông, Bo còn giúp sản sinh ra Testogene. Phụ nữ thiếu Bo phải chịu nhiều điều phiền toái trong thời kỳ mãn kinh (monopause), thanh niên thiếu nó sẽ bị điếc, có hiểm hoạ là bị liệt dương sớm (Impotension)
Thiếu kẽm (Zn) dấu hiệu đầu tiên cho thấy thiếu kẽm là ăn không biết ngon. Điều đó sẽ đưa đến suy dinh dưỡng.
Trong thí nghiệm đối với các con vật nghiệm cho thấy, có khoảng 7 chất khoáng kéo dài tuổi thọ của chúng ta lên gấp đôi. Con người ta, tôi xin nhắc lại ở đây: Cần 90 thành phần dinh dưỡng, trong đó: 60 khoáng chất, 16 vitamine, 12 acid amine đạm, acid amine béo. May cho chúng ta là các loại thảo mộc đã có sẵn acid amine, vitamine và acid béo tối cần thiết cho cơ thể. Vậy là tốt quá rồi! Chỉ cần dùng 15 đến 20 hợp phần sẵn có trong thảo mộc hàng ngày, được kết hợp một cách đúng đắn, sao cho cơ thể nhận được 90 thành phần cần thiết.
Đứng về mặt lý thuyết là có thể đạt được đấy, nhưng thực tế ít ai nhận được số lượng vitamine, acid amine, acid béo như vậy trong khẩu phần ăn của mình. Vì vậy tôi khuyên các bạn, nếu muốn giữ mạng sống của mình cần phải bổ sung đầy đủ số lượng nói trên.
Ngược lại các bạn không bao giờ sống đến 120 tuổi và 140 tuổi đâu! Mặt khác về khoáng chất, hiện nay vấn đề này cũng trở thành câu chuyện bi thảm đây!
Ngày nay tuyệt đại bộ phận rau quả chúng ta đang ăn không có chứa một khoáng chất nào tối cần thiết cho cơ thể cả. Vì sao vậy? Vì trong đất trồng trọt, các khoáng chất đã bị khai thác hoặc bị sói mòn đến cạn kiệt. Thế thì rau quả lấy đâu ra khoáng chất để cung cấp cho chúng ta?
Tôi chuẩn bị sẵn có cho các bạn một bản photocopy, tài liệu của Thượng viện Hoa Kỳ, 2.64 – trong khoá 2, đại hội lần thứ 74. Trong đó có nói rằng hàm lượng vitamine, chất khoáng trong các trang trại của ta đã biến mất, mất mùa màng, ngũ cốc, hạt, rau quả đều kém chất lượng do chúng không còn chứa khoáng chất nữa. Những người dùng thường xuyên các loại rau màu ấy sẽ bị liên quan đến việc thiếu khoáng chất.
Biện pháp còn lại là bổ sung chất khoáng vào thức ăn hàng ngày nhằm phòng ngừa và điều trị các chứng bệnh nói trên.( Biên bản Đại hội toàn quốc Hoa Kỳ đã ghi rõ như vậy đấy!). Đó là biên bản ghi vào năm 1936.
Nhưng đến nay tình hình có được cải thiện hơn không? Không! Rất tiếc còn tệ hại hơn! Nguyên nhân: Các trại chủ của họ chỉ bổ sung vào đất của họ Natri, Kali và Phosphore thôi. Ai có quyền bắt họ phải bổ sung vào đất trồng trọt của trang trại mình đến 60 chất khoáng? Bởi lẽ, việc đó không dính dáng đến việc tăng sản cho mùa màng của họ cả. Cho nên cứ sau mỗi vụ thu hoạch thì đất càng mất một lượng chất khoáng. Nếu bắt họ cứ bỏ thêm các vi lượng, giá thành sản phẩm sẽ lên cao, bán không chạy, tài khoản của họ bị thâm hụt, đưa họ đến phá sản mất!
Tình hình thực tế như vậy đấy, và tôi có thể nói trước với các bạn rằng, chúng ta đang đứng trên bờ vực thẳm của tai hoạ. Cho nên chúng ta phải gánh lấy trách nhiệm đối với sức khoẻ của chúng ta. Phải tự giác dùng các chất khoáng bổ sung.
Chữa bệnh : Quan điểm Phật giáo Tây Tạng
Nanogen – Minhkhai75@gmail.com

Chữa bệnh là gì ? Chúng ta hiểu gì về chữa bệnh ? Có phải chúng ta nói chữa bệnh về thân, chữa bệnh về tâm lý/tâm hồn/tâm thức, hoặc cả thân lẫn tâm. Sự liên quan giữa thân và tâm là gì ?
Vô số kỹ thuật chữa bệnh hiện đại được xem là cách chữa trị hữu hiệu cho căn bệnh của thân thể, những triệu chứng của ung thư, AIDS, bệnh mệt mỏi kinh niên, hoặc những chứng bệnh khác. Nếu một người không hết bệnh, hoặc bệnh tình tái đi diễn lại hoặc phát tác lại sau một thời gian, điều nầy được xem như là cách chữa bệnh đã thất bại. Trong trường hợp nầy, việc nầy cũng rất thường xảy ra, đối với y sĩ hoặc nhà thương chăm sóc cho « bệnh nhân » hay cho rằng bệnh nhân đã làm điều gì đó sai lầm, bệnh nhân đã không tuân theo chỉ dẫn một cách nghiêm khắc, như kiêng ăn hoặc không thiền định đủ hoặc làm điều gì khác mà không tuân theo lời khuyên của y sĩ, nhà thương. Trong những trường hợp nầy, y sĩ, nhà thương đều bó tay, hết hy vọng. Để tránh các vấn đề nầy, chúng ta cần xem xét và cần có một quan điểm chữa bệnh bao hàm toàn diện, không những chỉ chữa bệnh nơi thân mà còn chữa luôn bệnh nơi tâm.
Tâm thức là Người Sáng Tạo
Để am hiểu việc chữa bệnh từ quan điểm của Phật giáo, điểm khởi đầu có ích là hãy xem xét quan niệm của Phật giáo về tâm thức. Tâm thức là một thứ không có hình thể. Nó không có hình dạng, không có màu sắc, không có giới tính và nó có khả năng nhận dạng hoặc hiểu biết. Cơ sở bản chất của tâm thức là trong sạch, không giới hạn và lan tỏa khắp nơi, giống như mặt trời chiếu rọi trong bầu trời quang đãng không gặp chướng ngại nào. Vấn đề hoặc bệnh tật mà chúng ta trải nghiệm giống như mây che phủ mặt trời. Y như đám mây lâu lâu che phủ mặt trời nhưng không cùng bản chất của mặt trời, bệnh tật và các vấn đề của chúng ta là tạm thời và nguyên nhân của nó có thể được tẩy rửa nơi tâm thức.
Từ quan điểm Phật giáo, tâm thức là kẻ sáng tạo bệnh tật và sức khỏe. Thật vậy, tin rằng tâm thức là kẻ sáng tạo tất cả các vấn đề của chúng ta. Và như vậy, nguyên nhân căn bệnh là ở nơi nội tại. Tiềm năng thật là vô hạn! Có lẽ anh đã quen thuộc với quan niệm về nghiệp, nghĩa là hành động. Tất cả các hành động của chúng ta đều để lại dấu ấn trong dòng tâm thức và có năng lực để chín muồi vào lúc nào đó trong tương lai. Tất cả những hành động nầy đều có tính cách tích cực, tiêu cực hoặc trung dung. Những hạt giống nghiệp không khi nào bị đánh mất. Những hạt giống tiêu cực có thể chính muồi bất cứ lúc nào dưới dạng tiến trình của bệnh tật; những hạt giống tích cực hình thành dưới dạng của sự sung sướng, sức khỏe hoặc thành công.
Để chữa căn bệnh hiện tại, chúng ta phải tiến hành những hoạt động tích cực ngay bây giờ. Để ngăn ngừa bệnh hoạn xảy ra trong tương lai, chúng ta phải thanh tịnh hóa, hoặc giải tỏa, dấu ấn của nghiệp tiêu cực được giữ lại trong dòng tâm thức. Nghiệp là kẻ sáng tạo của tất cả bệnh tật và đau khổ. Nếu chúng ta không có nghiệp tiêu cực, chúng ta sẽ không bị bệnh hoặc bị người khác gia hại.
Phật giáo xác định rằng tất cả mọi thứ xảy ra cho chúng ta hiện nay là kết quả của những hành động trong quá khứ, không chỉ trong kiếp sống nầy mà trong những kiếp sống khác nữa. Những gì chúng ta làm hiện nay quyết định những gì xảy ra cho chúng ta ở tương lai. Nói về việc chữa bệnh hiện tại đến tương lai, chủ định là chú ý đến hành động của chúng ta hoặc nghiệp. Việc nầy cần có chánh niệm liên tục đối với tất cả hành động của thân, miệng, ý. Chúng ta cần phải tránh những hành động mang nguy hại đến cho chính chúng ta và người khác.
Như vậy, Phật giáo là một triết lý về trách nhiệm cá nhân. Chúng ta có khả năng điều khiển lấy vận mạng của mình, bao gồm trạng thái thể chất và tinh thần. Mỗi người trong chúng ta đều có tiềm năng bất tận – Tại sao có những người dễ bị bệnh trong khi các người khác lại luôn khỏe mạnh ? Hãy xem bệnh ung thư da. Tất cả những người phơi nắng hàng giờ dưới ánh mặt trời, một số bị bệnh ung thư da nhưng số khác lại không sao. Tình trạng bên ngoài đều giống nhau đối với tất cả mọi người, nhưng chỉ có một số người bị bệnh.
Nguyên nhân thứ hai của bệnh ung thư – mặt trời - là nguyên nhân bên ngoài, nhưng nguyên nhân chính là các hành động quá khứ - dấu ấn để lại trong tâm thức là nguyên nhân nội tại. Cũng vậy, tất cả những người bệnh ung thư thường có những phản ứng khác nhau đối với cùng một loại thuốc trị. Một số người thì có thể lành bệnh hoàn toàn. Một số người thì khỏi bệnh chỉ trong một thời gian rồi lại tái phát. Số người khác thì bệnh trạng trở nặng hơn và qua đời. Như thế, nói một cách hợp lý, ta nên nhìn lại tâm thức để hiểu rõ về nguyên nhân của các kết quả khác nhau. Phật giáo cho rằng để trị dứt căn bệnh, không những chỉ chữa trị căn bệnh bằng thuốc men, hoặc những cách chữa trị khác, mà còn phải trị luôn nguyên nhân gây ra bệnh trạng, nó bắt nguồn từ tâm thức. Nếu chúng ta không chữa trị hay thanh tịnh hóa bản tâm, bệnh hoạn và vấn đề sẽ còn tái diễn hoài hoài.
Đây giới thiệu sơ về «cách chữa trị cao nhất». Để dẹp bỏ hết những «rác rưởi» khỏi tâm thức, khi có thể dẹp bỏ tất cả những dấu ấn, hành động, và những ý nghĩ xấu trong quá khứ, chúng ta vĩnh viễn có thể thoát khỏi bệnh hoạn và các vấn đề. Chúng ta có thể đạt được cách chữa bệnh cao nhất – đó là một trạng thái vĩnh viễn với hạnh phúc và sức khỏe khang kiện. Để chữa bệnh cho tâm thức và thân thể, chúng ta phải diệt trừ những ý nghĩa và dấu ấn tiêu cực, và thay thế bằng những dấu ấn, ý nghĩ tốt lành. Kẻ thù nội tại. Gốc rễ của tất cả bệnh tật và vấn đề của chúng ta là sự ích kỷ, mà chúng ta có thể gọi nó là kẻ thù nội tại. Tính ích kỷ làm cho chúng ta có những hành động tiêu cực, và hành động xấu nầy tạo nên dấu ấn tiêu cực trong dòng chảy của tâm thức.
Những hành động tiêu cực do thân, khẩu hay ý, như những ý nghĩ ganh tỵ, giận dữ và tham lam. Những ý nghĩ ích kỷ làm tăng lòng tự kiêu, và kết quả là có thêm những cảm giác ganh tỵ đối với những người giỏi hơn chúng ta, và làm cho ta có cảm giác tự mãn, kiêu căng đối với những người dở hơn chúng ta, và có tính hay cạnh tranh để đạt cho bằng được điều mình muốn. Tất cả những cảm giác nầy làm cho tâm thức không vui, và bị dao động. Mặt khác, những ý nghĩ và hành động làm lợi ích cho người khác sẽ đem lại niềm hạnh phúc và an lạc cho tâm.
Sống tỉnh thức, Chết tỉnh thức
Việc quan trọng là tìm hiểu để biết xem khi chết, chúng ta sẽ ra sao. Khái niệm Phật giáo cho rằng lúc lìa đời, tiềm thức chứa đựng tất cả những dấu ấn nghiệp thức từ các đời quá khứ, sẽ xa rời thể xác.
Sau bốn mươi chín ngày giữa trạng thái trung ấm giữa các đời sống, thần thức sẽ thọ vào bào thai của người mẹ, hoặc ngay lúc cha mẹ giao hợp. Thế là một đời sống mới bắt đầu. Chúng ta mang theo vào mỗi đời sống mới một chuỗi dài lịch sử của những hành động trong quá khứ, với tiềm năng và cơ hội, xuyên qua vô số phương tiện khác nhau, nó có thể chín muồi vào bất cứ lúc nào.
Tâm thức lúc sắp chết rất là quan trọng và nó có thể ảnh hưởng đến tình trạng tái sinh của chúng ta. Như vậy, nhu cầu chuẩn bị tốt cho cái chết, và để chúng ta có khả năng tiến đến cái chết với một tâm thức an ổn, yên tịnh và thanh thản. Cái chết tự nó là việc tự nhiên, cái chết đến vì mạng sống chấm dứt, hoặc vì những chướng ngại nào đó mà phải chấm dứt không đúng lúc. Những chướng ngại xuất hiện từ tâm thức và có thể bị làm mất tác dụng bằng nhiều cách khác nhau. Một phương pháp thường được sử dụng trong Phật giáo Tây Tạng, để rời bỏ những chướng ngại trong cuộc sống, cần phải thực hành pháp phóng sinh. Thí dụ, các thú vật sắp sửa bị làm thịt hoặc bị làm mồi câu được mua về và thả ra.
Đối với những người đang bị những chứng bệnh khó chữa, điều quan trọng là thoát khỏi bệnh tật không có nghĩa là anh sẽ sống thọ. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra cái chết, và cái chết có thể đến với bất cứ ai vào bất cứ lúc nào. Không chỉ y dược của Tây Tạng nổi tiếng và có hiệu quả. Thông thường hễ thuốc sử dụng được là dược thảo, nhưng yếu tố đặc biệt nhất là quá trình làm thuốc, khi dược thảo được bào chế thì quý thầy tụng kinh và niệm chú, như vậy thuốc có hiệu quả cao hơn. Người ta cho rằng, dùng dược thảo loại nầy giúp chữa lành căn bệnh, hoặc giả, nếu người bệnh sắp chết, thì họ sẽ ra đi nhanh chóng, một cách thanh thản và không đau đớn. (Một học thuyết dựa trên kinh nghiệm cá nhân, thuốc đắng và khó uống cho nên người bệnh muốn mau bình phục để khỏi phải uống hoài loại thuốc nầy !)
Thuốc và nước được chúc phúc lành và sử dụng một cách rộng rãi. Tâm linh càng phát triển mạnh nơi một người thì sự chúc phúc và thực tập chữa bệnh càng có hiệu quả mạnh mẽ. Những viên thuốc nầy thường chứa đựng những di vật của các vị thiền sư, thánh nhân nổi tiếng, và các viên thuốc đó được ban cho năng lực. Vô số Lạt-ma Tây Tạng đã thổi hơi vào chỗ đau trên thân thể để làm giảm cơn đau hoặc để chữa lành vết thương. Tôi đã nhìn thấy một người bệnh AIDS (SIDA) có chân đau, và sau khi vị lạt-ma ngồi thiền miên mật rồi thổi vào chân anh trong vòng hai mươi phút, sau đó chân anh đã hết đau.
Lòng từ là năng lực để chữa lành bệnh.
Hình dung hay mường tượng cũng là một cách chữa bệnh mạnh mẽ. Một phương pháp hình dung một ánh sáng tròn như trái banh trên đỉnh đầu, với các tia sáng chiếu soi tất cả phương hướng. Hãy tưởng tượng ánh sáng lan rộng xuyên suốt cơ thể, phân hủy hoàn toàn tất cả các bệnh tật và vấn đề. Chú tâm đến hình ảnh cơ thể hoàn toàn bình phục, trong ánh sáng. Cách thiền nầy được xem có năng lực mạnh mẽ khi sử dụng cùng với sự hình dung về các hình ảnh thiêng liêng và niệm chú.
Tôi thường hay nói với các bệnh nhân Thiên chúa giáo là hãy hình dung ánh sáng như là chúa Jesus, với ánh sánh từ nơi chúa Jesus. Truyền thống Tây Tạng có vô số đức Phật (thánh thần) được mường tượng trong khi niệm chú. Đức Phật Dược Sư ; Chenrezig, hoặc Bố tát Avalokiteshvara (Quán Âm Từ Bi) ; hoặc một trong những vị có thọ mạng lâu dài như đức Phật Amitabha (A Di Đà). Các vị thánh, thần có nhiều khía cạnh an lạc, hòa bình hoặc dữ tợn. Các vị dữ thường được sử dụng để chữa những căn bệnh nặng như AIDS (SIDA). Nếu anh không cảm thấy thoải mái với những hình ảnh nầy, anh có thể sử dụng những vật khác như thủy tinh, hoặc đơn giản hình dung tất cả những năng lượng chữa bệnh phổ thông thấm nhuần vào cơ thể anh, biến đổi thân thể anh trở thành ánh sáng, và hãy tưởng tượng là anh đã hoàn toàn bình phục.Qua bao thế kỷ, vô số người sử dụng các phương pháp nầy, đã bình phục, kể cả những bệnh như phong hủi, tê liệt và ung thư. Mục đích của những thực tập nầy là để chữa lành tâm cũng như thân, để các chứng bệnh và các vấn đề không tái phát trong tương lai. Vô số chứng bệnh có liên quan đến việc tâm linh bị hư hại. Các vị Lạt-ma và các vị tu hành hay đọc những bài kinh và chú hoặc làm lễ cầu nguyện để chấm dứt việc tâm linh bị nguy hại và giúp cho người bệnh được khỏe lại. Một cô gái bảy tuổi bị chứng động kinh mà tôi quen, chứng động kinh biến mất sau các buổi lễ đọc kinh cầu nguyện. Bất cứ lúc nào khi cô gái bị cơn động kinh, cô ta đều thấy những hình ảnh ghê rợn tiến về phía cô. Sau các buổi lễ cầu nguyện, các cơn động kinh giảm dần và cô nhìn thấy một bức tường gạch ngăn cách cô và các hình ảnh ghê sợ kia. Bức tường nầy là màu sắc của chiếc áo tu sĩ. Dần dà các cơn động kinh và hình ảnh đó cùng nhau biến mất.
Tóm lại, chúng ta có thể nói những vật dụng cần thiết trong tiến trình chữa bệnh, cho cả người chữa và người bệnh, là sự từ bi, lòng tin và phẩm hạnh đạo đức.
Thay đổi tâm thức
Phương pháp chữa bệnh mạnh mẽ khác trong Phật giáo Tây Tạng là thiền định về những bài pháp được xem qua và thay đổi suy nghĩ. Những phương pháp nầy giúp cho anh nhận thấy vấn đề hoặc bệnh tật như một điều tích cực nào đó. Một vấn đề chỉ là vấn đề nếu chúng ta gọi nó là vấn đề. Nếu chúng ta nhìn vào một vấn đề một cách khác hẳn, chúng ta có thể thấy đây là một cơ hội để ta trưởng thành hoặc thực tập, và xem nó là một điều tích cực. Chúng ta có thể nghĩ rằng vấn đề nầy đang chính muồi từ nghiệp quá khứ, và sẽ không xuất hiện trong tương lai. Nếu một người giận ta, ta có thể chọn lựa tức giận lại hoặc là cảm ơn họ đã cho ta cơ hội để thực tập nhẫn nhịn và thanh tịnh hóa cái nghiệp nầy. Cần phải thực tập rất lâu, rất nhiều để có thể làm chủ những phương pháp nầy, ta có thể làm được. Chỉ là khái niệm của chúng ta thường hay mang lại cho ta sự sợ hãi và đau khổ. Thí dụ, có một số triệu chứng, dấu hiệu nào đó, và bác sĩ đặt tên « AIDS » hoặc ung thư.
«Cái chết» là một biệt hiệu khác có thể gây ra nhiều sợ hãi. Nhưng thực tế «cái chết» chỉ là một nhãn hiệu dành cho tình trạng: khi ý thức rời khỏi thân thể, và như vậy không có cái chết thật sự từ phía của nó. Điều nầy cũng liên quan đến khái niệm về «bản ngã» và tất cả những hiện tượng khác. Nó chỉ là những khái niệm và sự hiện hữu độc lập của nó là không thật.
Lạt-ma Zopa Rinpoche, một vị lạt-ma Tây Tạng đã giác ngộ, ngài nói rằng phương pháp chữa bệnh mạnh mẽ nhất, tất cả đều dựa vào từ bi, mong muốn giải thoát những chúng sinh khác khỏi đau khổ. Tâm thức từ bi – yên bình, an lạc, vui vẻ và thư giãn – là môi trường chữa bệnh lý tưởng. Một tâm thức tràn đầy từ bi chấm dứt việc chỉ nghĩ đến tình trạng đau khổ của chính bản thân. Bằng cách nghĩ tới những người khác, chúng ta nhận rõ không phải chỉ nỗi đau riêng của ta mà còn là nỗi đau của tất cả chúng sinh.
Nhiều người cho rằng kỹ thuật sau rất là hiệu quả và mạnh mẽ : Hãy nghĩ «Tôi đang trải nghiệm căn bệnh nầy hoặc nỗi đau, hay vấn đề nầy, nguyện cho tất cả các chúng sinh khác trên thế giới đều thoát khỏi bệnh tật, đau đớn và khổ não» hay «Tôi đang trải nghiệm nỗi đau, căn bệnh, vấn đề nầy thay thế cho tất cả chúng sinh khác.» Một người tự nguyện nhận lấy nỗi đau thay thế cho tất cả các chúng sinh khác, như chúa Jesus đã chịu nạn trên thánh giá. Kể cả cái chết cũng có thể sử dụng theo phương thức nầy: «Tôi trải nghiệm cái chết, nguyện cho tất cả các chúng sinh khác thoát khỏi sợ hãi và khó khăn trong tiến trình hấp hối». Chúng ta phải tự hỏi Mục đích cuộc sống của tôi là gì? Tại sao tôi mong muốn mình có sức khỏe tốt và sống lâu?»
Mục đích tối hậu của cuộc sống là để làm lợi ích cho chúng sinh. Nếu như chúng ta sống lâu hơn và chỉ tạo ra toàn những nghiệp xấu, tiêu cực, thì cuộc sống thật là vô nghĩa.
Cho và nhận cũng là một cách thiền có mãnh lực. Như khi anh hít vào, hãy hình dung là nhận lãnh đau khổ và nguyên nhân đau khổ của tất cả các chúng sinh, dưới dạng một làn khói đen. Khi hít vào làn khói đen, hãy hình dung làm vỡ tảng đá đen ích kỷ nơi tâm, hãy để cho lòng từ bi hiển hiện một cách tự do. Khi anh thở ra, hãy hình dung thở ra ánh sáng trắng mang hạnh phúc, niềm vui và trí tuệ đến các chúng sinh. Hãy phát triển lòng từ, việc nầy quan trọng hơn là có nhiều bạn, được giàu sang, học thức. Tại sao như vậy ? Bởi vì chỉ có lòng từ bi mới bảo đảm mang lại tâm thức vui vẻ, an lạc, và tâm thức an lạc là tốt nhất để giúp chúng ta vào lúc lâm chung. Chúng ta có thể sử dụng căn bệnh và vấn đề của chúng ta như một phương pháp mạnh mẽ để phát triển tâm linh, kết quả trong việc phát triển lòng từ bi và trí tuệ.
Phát triển cao nhất của các phẩm chất là nhận thức hoàn toàn về tiềm năng của ta, trạng thái giác ngộ hoàn hảo. Sự tỉnh thức mang lại cho ta rất nhiều lợi ích, và cho phép chúng ta giúp đỡ mọi người một cách rộng rãi. Đây là trạng thái cao tột để chữa lành căn bệnh.

Một cách nhìn mới về nguyên nhân bệnh tật và phương pháp điều trị
Nanogen – Minhkhai75@gmail.com
Sưu tầm tổng hợp:
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có viết một câu nhạc rất thơ mà cũng thấm đậm triết lí nhà Phật :
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”
Như để nhắc nhở sự mong manh, tính phi vĩnh cửu của một đời người. Nhưng lời nhạc và ý nghĩa của nó còn gián tiếp ví von một chân lí khoa học về sự cấu trúc cơ bản của cơ thể con người. Quả thật, theo thuyết sinh học phân tử (molecular biology), mỗi chúng ta được hình thành bắt đầu từ chỉ một tế bào. Tế bào này cứ phân chia liên tục và sản sinh ra nhiều tế bào mới để cấu tạo thành một con người “trưởng thành”. Do đó, cơ thể con người được cấu tạo bằng nhiều tế bào. Vài ước tính mang tính lí thuyết cho thấy con số tế bào trong con người dao động từ 60.000 tỉ đến 100.000 tỉ
Xin nhắc lại vài thông tin căn bản: trung tâm của mỗi tế bào là nhân (nucleus). Nhân hàm chứa những chất liệu di truyền mà ta thường gọi là DNA (viết tắt từ chữ deoxyribonucleic acid). Mỗi nhân thường có hàng triệu DNA. Mỗi DNA gồm có bốn mẫu tự (còn gọi là nucleotide): A (adenine), C (cytosine), G (guanine), và T (thymine). Một mảng DNA tạo thành một gien. Và nhiều gien tạo thành một bộ di truyền hay nhiễm sắc thể (chromosome). Cơ thể Con người có 23 đôi nhiễm sắc thể. Có thể nói một cách ví von bằng cách dùng quyển sách như là một ví dụ để minh họa cho mối liên hệ giữa gien, nhiễm sắc thể, và bases. Trong sách có 23 chương (chromosome); mỗi chương có nhiều câu chuyện (gien); mỗi câu chuyện có nhiều đoạn văn (exons); mỗi đoạn văn có nhiều chữ (codons); và mỗi chữ được viết bằng 4 mẫu tự (bases).
Gien có chức năng gửi các tín hiệu hóa học đi đến tất cả các nơi trong cơ thể. Những tín hiệu này có chứa đầy đủ các thông tin, các “chỉ thị” cụ thể cho các cơ quan trong cơ thể con người phải vận hành ra sao.
Nếu những gien trong cơ thể hoạt động “bình thường”, và sản phẩm hay tín hiệu của gien được chuyển giao một cách thích hợp thì cơ thể con người không có vấn đề; nhưng nếu trong quá trình vận hành của gien có sự cố thì hậu quả là cơ thể sẽ mất thăng bằng và dẫn đến bệnh tật cho con người.
Do đó, có thể nói rằng phần lớn những khác biệt về đặc tính của con người, kể cả thế chất và tâm thần, đều do tác động của hai yếu tố: di truyền và môi trường. Thật ra, nói chính xác hơn là những khác biệt giữa các cá nhân trong một quần thể là hệ quả của sự tương tác giữa di truyền và môi trường.
Các thuật điều trị nếu có thể hoặc bảo tồn hoặc thay thế nhưng hầu như không thể nào gọi là chữa khỏi được. Vì thế, không ai ngạc nhiên khi thấy hầu hết các thuật chữa trị hiện nay chỉ đem lại hiệu quả cho khoảng 60 phần trăm bệnh nhân, và trong nhiều trường hợp bệnh nhân lại chịu phản ứng phụ có hại cho sức khoẻ. Trong nhiều thập niên gần đây, nghiên cứu y khoa đã bắt đầu chuyển sang một phương hướng mới: đi tìm thuật chữa trị mới sao cho có thể ứng dụng cho từng cá nhân bệnh nhân. Đó cũng là nhờ tiến bộ của ngành sinh học phân tử, nghiên cứu về tế bào và cấu trúc di truyền của tế bào.
Do đó, có thể nói một cách vắn tắt rằng đa số các bệnh tật, dù là thể xác hay tinh thần, đều gần như có thể bắt nguồn từ những trục trặc của tế bào, hoặc gien. Nhưng hầu như tất cả các thuật chữa trị bệnh tật hiện nay lại có tính cách gián tiếp, và ước chừng. Giải phẫu, hay dùng dược phẩm đều chỉ là những phương pháp trợ tiếp, cầm chừng, và chỉ tấn công bề ngoài của căn bệnh, chứ chưa tiến sâu vào cơ chế hoạt động của tế bào. Ngoài ra, tất cả các thuật chữa trị này đều dựa vào số đông chứ không dựa vào cá nhân.
Vì tế bào là đơn vị cơ bản nhất của con người, và mỗi con người là một cá thể độc đáo (trên phương diện sinh học, không ai giống ai), nên việc chữa trị bệnh tật bằng cách thay thế các tế bào hay gien bị hỏng bằng các tế bào hay gien lành mạnh là một phương pháp đang được giới khoa học chú ý nhiều nhất hiện nay. Ngoài ra, việc thay thế những gien bị đột biến tai hại bằng những gien tốt cũng là một phương hướng chữa trị đang được ứng dụng cho một số bệnh. Chữa trị bằng tế bào hay bằng gien, nếu không là một hi vọng sau cùng, thì cũng là một phát triển quan trọng nhất trong hành trình chinh phục bệnh tật của con người.


Nói nôm na, cách chẩn đoán và điều trị bệnh cũng giống như giới kĩ sư tìm hiểu sự vận hành và cách sửa máy móc cơ khí khi gặp phải sự cố. Nói chung, đây là một chiến lược logic, và trong quá khứ đã thành công rực rỡ trong việc khám phá ra nhiều biện pháp chữa trị hữu hiệu cho nhiều căn bệnh ngặt nghèo.
Nhưng dù thành công, chiến lược này không cung cấp cho chúng ta một bức tranh toàn diện về bệnh tật, bởi vì nó chú trọng vào việc chữa trị căn bệnh hơn là chữa trị con người với căn bệnh. Nói cách khác, phương pháp phân tích cơ chế bệnh nguyên bệnh sinh theo trường phái y học Tây phương dường như bỏ quên phần con người trong phương trình bệnh tật. Chúng ta phải đi vượt qua câu hỏi “Cơ phận này vận hành ra sao” để đặt câu hỏi “Tại sao có cơ phận này”.
Cơ thể con người là một công trình với nhiều mâu thuẫn đồng tồn như thế. Nói một cách ví von nó tồn tại như một cặp phạm trù đối lập mà hỗ tương:
Nhận ra những mâu thuẫn trên chúng ta cảm thấy như cơ thể con người được thiết kế bởi một nhóm kĩ sư lỗi lạc nhưng thỉnh thoảng lại bị can thiệp bởi những tay phá hoại vụng về.
Đại đa số các nghiên cứu y khoa trong thời gian qua nhằm đi tìm nguyên nhân của bệnh tật và tìm thuật chữa trị. Ngược lại, y học tiến hóa đặt câu hỏi tại sao cơ thể con người được thiết kế như hiện nay để chúng ta mắc những bệnh như ung thư, tiểu đường, xơ vữa động mạch, phiền muộn, ho, v.v… Thành ra, y học tiến hóa cung cấp cho chúng ta một viễn cảnh lớn hơn, góc nhìn rộng hơn, nhằm giải thích bổ sung các kết quả của nghiên cứu y học.


Chọn lọc tự nhiên
Hai cụm từ chủ đạo trong y học tiến hóa là chọn lọc tự nhiên (natural selection) và “tiến hóa”. Chọn lọc tự nhiên thực ra là một nguyên lí (không phải là một lí thuyết) hết sức đơn giản nhưng dễ dẫn đến hiểu lầm. Ngày xưa, khi Charles Darwin đề xuất nguyên lí chọn lọc tự nhiên, ông chắc chắn chưa biết đến gien; ông chỉ quan tâm và dựa vào những khác biệt về đặc điểm của con người. Thành ra, ông phát biểu những ý kiến về chọn lọc tự nhiên dựa vào những thay đổi về đặc điểm con người với thời gian và một vài ý tưởng mơ hồ về “mã số” di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng ngày nay chúng ta biết đến gien và DNA cấu trúc của gien. Chúng ta biết rằng con người có khoảng 30.000 đến 35.000 gien, và gien tương tác với môi trường để tạo nên những đặc điểm khác nhau giữa con người.
Nguyên lí chọn lọc phát biểu rằng nếu những người với gien A có nhiều con cái hơn những người với gien B, thì về lâu về dài gien A sẽ trở nên phổ biến trong dân số hơn gien B, và gien B sẽ trở nên hiếm thấy trong dân số. Do đó, nói đến chọn lọc tự nhiên là nói đến (a) sự biến thiên về thông tin chứa trong gien làm nên những khác biệt về đặc tính một sinh vật; (cool.gif sự khác biệt về khả năng tái sản sinh của sinh vật, do hệ quả của © thay đổi thông tin trong gien qua nhiều thế hệ. Chìa khóa để hiểu chọn lọc tự nhiên là nhận thức rằng sinh vật không thay đổi, nhưng thông tin và gien trong sinh vật thay đổi theo thời gian.
Thành ra, ngăn ngừa đau đớn một cách vô ý thức bằng thuốc có thể dẫn đến nhiều hậu quả khó lường.
“Một phần lớn bệnh tật là hệ quả của sự cạnh tranh sinh tồn giữa các sinh vật.”
Tương tự trong con người, chọn lọc tự nhiên không thể cung cấp cho chúng ta một cơ chế phòng vệ toàn năng chống lại tất cả những độc tố và tác nhân gây bệnh, bởi vì những độc tố và tác nhân gây bệnh này thường tiến hóa nhanh hơn cơ thể con người!
“Thực tế phũ phàng là các tác nhân gây bệnh có khả năng thích nghi với bất cứ hóa chất nào mà con người dùng để tiêu diệt chúng. Một nhà khoa học nói một cách chua chát: "Cuộc chiến đã kết thúc, nhưng kẻ thắng trận là kẻ thù của chúng ta."
Càng ngày chúng ta càng lệ thuộc vào nhiều hóa chất, nhất là rượu và thuốc lá. Những hóa chất gây ra rất nhiều bệnh tật, làm tốn kém đến ngân sách gia đình và nhà nước, cũng như nạn tử vong non.
Đối với y tế công cộng, tiếp cận bệnh tật qua quan điểm của thuyết tiến hóa có ý nghĩa quan trọng, bởi vì nó giúp cho những người hoạch định chính sách suy nghĩ về thay đổi môi trường sinh sống của một dân số. Chẳng hạn như nhận thức rằng những sinh vật có khả năng lây truyền bệnh giữa các kí chủ (bệnh nhân) bại liệt là những sinh vật nguy hiểm có thể giúp ích cho việc phát triển chính sách y tế công cộng.


Quá trình lão hoá tự nhiên có sự cân bằng giữa quá trình lão hoá tế bào và khả năng tự làm mới tế bào (phân chia và tạo các tế bào mới).
Nhóm tác giả dự đoán là sự biểu hiện của protein p16INK4a có thể đã được lập trình nhằm phù hợp với sự tăng trưởng. Lượng protein p16INK4a tăng cùng với sự lão hoá nhằm chống lại sự gia tăng ảnh hưởng của ung thư ở các tế bào bị lão hoá. Như một sự lựa chọn, sự gia tăng biểu hiện của protein p16INK4a có thể phản ảnh sự suy giảm chức năng của tế bào bị lão hoá nhằm đáp ứng lại các nguy hiểm ngày càng tăng khi tế bào càng già.
Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng tiểu đường type 2 (dạng không phụ thuộc insulin) một phần có thể giải thích bởi sự hỏng chức năng của đảo tuyến tụy trong quá trình tạo ra tế bào mới kèm với tiến trình lão hoá. Kết quả nghiên cứu từ các tế bào có các nguồn gốc khác nhau như tủy xương, tuyến nội tiết ở tuỵ cũng như não cho thấy là p16INK4a đã chi phối quá trình lão hoá ở bằng cách giới hạn sự tự làm mới của các tế bào có khả năng nhân nhân đôi. Vai trò của p16INK4a kiểm soát sự cân bằng giữa quá trình tự làm mới và lão hoá của các mô còn lại cần tiếp tục được nghiên cứu.

Tác giả bài viết: GS Nguyễn Văn Tuấn
Bản quyền bài viết thuộc về GS Tuấn và website ykhoa.net
Ở đâu trên trái đất mà không có vi khuẩn? Trong đất, nước, không khí, từ núi lửa đến biển sâu, chỗ nào cũng có sự hiện diện của “cái que nhỏ” kích thước cực nhỏ. Đó là “cư dân” cổ xưa và đông đảo nhất trên trái đất này. Trong thế giới rộng lớn của vi khuẩn chứa đựng biết bao điều thú vị.


Có mặt ở khắp nơi và ăn đủ thứ
Antony Van Leeuwenhoek là người đầu tiên nhìn thấy vi khuẩn vào năm 1683 bằng kính hiển vi tự chế. Ngày nay, các nhà khoa học đã xác nhận, trong 1 lít nước biển có tới hơn 20.000 loại vi khuẩn khác nhau. Toàn bộ cơ thể của chúng ta là “căn cứ khổng lồ” cho hàng tỷ vi khuẩn.
Lớp da của mỗi người là “mảnh đất” của hơn 100 triệu vi khuẩn cư trú. Chúng ở đường ruột, mũi, miệng, trong không khí, thức ăn, nước uống của con người. Có nhà nghiên cứu đã thốt lên: “Thì ra thế giới quanh ta toàn là vi khuẩn!”.
Vi khuẩn ăn đủ thứ. Vi khuẩn lam ăn... nước rồi nhả ôxy vào không khí. Loại vi khuẩn quang dưỡng thì chuyên ăn ánh sáng. Những loại khác lại thích món lưu huỳnh, khí hydro hay nhiều thứ vô cơ khác. Có nhóm vi khuẩn ưa dùng các loại hữu cơ như đường, axít hữu cơ... hay các dưỡng chất như nitơ, vitamin, hoặc các nguyên tố kim loại như magiê, mangan, sắt, kẽm, đồng, niken…
Các nhà khoa học đã phát hiện một số loại vi khuẩn hình sao, sống ở đáy biển và chỉ thích ăn dầu lửa. Có loại lại thích ăn đất và nhả ra vàng.
Sức chịu đựng không giới hạn
Vi khuẩn có sức chịu đựng dường như không giới hạn. Nếu như con người ở trong nhiệt độ xấp xỉ 100 độ C thì chắc chắn sẽ “chín” ngay sau ít phút. Nhưng một số loại vi khuẩn lại ưa sống ở những miệng núi lửa có nhiệt độ cao trên 100 độ C. Những loại vi khuẩn thích “luyện đan” như thế thuộc dòng vi khuẩn chịu nhiệt.
Thân nhiệt bình thường của con người là 37 độ C và nếu giảm xuống dưới 20 độ C, cơ thể sẽ rơi vào hôn mê và tim ngừng đập. Con người sẽ không thể sống ở điều kiện nhiệt độ thấp nếu không có các công cụ hỗ trợ. Nhưng vi khuẩn thì khác. Có dòng vi khuẩn ưa sống trong lớp băng lạnh giá ở cực trái đất, nơi nhiệt độ xuống tới âm 40 độ C... Đó là dòng vi khuẩn chịu lạnh.
Đặc biệt hơn nữa, trong môi trường axít khắc nghiệt vẫn có vi khuẩn sinh sống. Ngoài ra có những loại vi khuẩn ưa nước mặn, ưa môi trường kiềm và thậm chí không cần đến cả không khí vẫn sống khỏe.
Những công dụng kỳ lạ
Ngoài những công việc “thường ngày” của mình như tham gia sản xuất bánh mì, các loại tương, pho mát, bia và rượu; hay tạo ra rất nhiều hóa chất như kháng sinh, chất dẫn xuất nylon và insulin..., vi khuẩn còn làm được rất nhiều việc lạ đời.
Người ta đã lấy dòng vi khuẩn có khả năng phát sáng để sản xuất ra những vật dụng phát sáng trong nhà như ghế, bàn, đèn. Đã có hẳn một dự án về vi khuẩn phát sáng. Ngạc nhiên hơn nữa, vi khuẩn còn có khả năng “chụp ảnh”. Các “máy ảnh sống” này được giới khoa học sử dụng để nghiên cứu về công nghệ gene.

Với những loại vi khuẩn ưa “đánh chén” chất thải phóng xạ thì không có gì tuyệt vời hơn. Trong khi vấn nạn chất thải phóng xạ đang làm đau đầu giới khoa học và làm vơi hầu bao của nhiều quốc gia giàu có thì các nhà khoa học Mỹ đã phát hiện có tới hàng trăm loại vi khuẩn sống trong bãi rác phóng xạ và ăn dần chất thải đó.
Vi khuẩn biến đổi gene được dùng làm chất nổ tổng hợp để chế tạo tên lửa, làm keo dính (được coi là loại keo dính bền nhất thế giới), pin chạy bằng năng lượng vi khuẩn...
Thực phẩm chức năng - Xu hướng của thế giới hiện đại



Những năm gần đây, nhờ những thành tựu mới của công nghệ sinh học (CNSH), một số nước đã tạo ra được các loại thực phẩm thuốc (alicaments) hay còn gọi là thực phẩm chức năng (functional food). Các nước Tây âu gọi đây là dược phẩm dinh dưỡng (nutraceutics) hay thực phẩm bổ sung dinh dưỡng (food suplement ), còn Trung Quốc gọi là thực phẩm bổ dưỡng bảo vệ sức khoẻ. Các loại thực phẩm này nằm ở ranh giới giữa thức ăn và thuốc chữa bệnh. Theo dự báo của các chuyên gia, thì “thức ăn của con người trong thế kỷ XXI là thực phẩm chức năng”. Thức ăn không chỉ đảm bảo đủ calo, ngon, sạch, mà còn phải chứa các hoạt chất sinh học (HCSH) tự nhiên cần cho sức khoẻ và sắc đẹp, không chỉ điều khiển được các hoạt động chức năng của từng bộ phận trong cơ thể, tạo cho con người khả năng miễn dịch cao, chống sự lão hoá, tăng tuổi thọ, mà còn giúp con người phòng chống được một số bệnh, kể cả ung thư.
Công ty Sakyo - Nhật Bản đã đưa ra thị trường loại thức ăn “làm đẹp” (cosmetic food) và nhiều sản phẩm kỳ diệu khác như: Đồ uống có ga cho người có quá nhiều axit và huyết áp cao; chế phẩm từ vây cá mập làm tăng khả năng miễn dịch cho cơ thể; chế phẩm từ thịt rùa có khả năng chống tai biến mạch máu não. Một số thực phẩm “thông minh” đã xuất hiện ở châu âu có chứa các HCSH cần cho hoạt động của cấu trúc não bộ. Các chế phẩm chống ôxy hoá, chống lão hoá khá phong phú, được bào chế từ các HCSH như selen hữu cơ, carotenoid, các vitamin A, C, E, alinxin, zingerol... và các tiền hormone steroid (từ động vật) có tác dụng khử các gốc tự do, kích hoạt các enzym kháng ôxy hoá trong cơ thể... Trên thị trường của chúng ta đã có không ít loại thực phẩm chức năng của Trung Quốc như: Hải văn huyết nguyên (chế biến từ con ốc vằn), Tinh hoa khẩu phục dịch (dung dịch uống từ hoạt chất có cấu trúc phân tử 1-6 fructose diphotphat), Dung dịch cường lực sĩ (thuốc bổ thận), Viên nang ngự lộc tinh (từ máu hươu + giao cổ lan + phục linh), chế phẩm Khang Thai (sản phẩm hợp tác Mỹ - Trung Quốc dùng cho vận động viên - VĐV)... Ngoài ra còn xuất hiện một số loại thực phẩm chức năng được nhập từ Pháp và Hàn Quốc như Ribozinc, Stimol, Belaf... cung cấp cho cơ thể các nguồn bổ sung vitamin, khoáng chất.
Các nước phát triển có xu hướng ưa chuộng các thực phẩm chức năng hơn là dùng thuốc, theo quan điểm phòng bệnh hơn chữa bệnh. Chính vì vậy, đa số các tập đoàn sản xuất thuốc đang chuyển sang sản xuất thực phẩm chức năng và tìm được đối tượng tiêu thụ lớn hơn. Các chuyên gia kinh tế đã tính toán rằng, doanh thu hàng năm của các loại thực phẩm chức năng đã vượt con số 100 tỷ USD. Tại các nước trong khu vực, việc ứng dụng CNSH trong sản xuất thuốc và thực phẩm chức năng đang được quan tâm đặc biệt. Malaysia đã xây dựng Viện CNSH Dược phẩm nằm trong “Thung lũng CNSH - Bio Valley”; Trung Quốc xây dựng “Thung lũng thuốc” lớn nhất thế giới để sản xuất dược phẩm và là nước có nhiều thành công trong việc nâng cấp công nghệ y dược cổ truyền thành công nghệ cao.
Những thành tựu của công nghệ enzym - một mũi nhọn của CNSH trong việc tạo ra các peptid có chuỗi ngắn, trọng lượng phân tử thấp và có hoạt tính sinh lý, đang mở ra triển vọng mới đóng góp cho sự phát triển của công nghiệp chế biến thực phẩm chức năng theo hướng điều khiển các hệ enzym trong cơ thể. Thí dụ, các dipeptid có tác dụng chống tăng huyết áp, tetrapeptid chống thụ thai, heptapeptid ức chế hình thành di căn, hexa-decapeptid kích thích tăng miễn dịch... Chế phẩm dipeptid (Ile-Tyr) - ức chế ACE (enzym chuyển hoá antegiotensin) tách chiết từ thịt của cá cơm, cá mòi có thể giúp ngư dân, hải quân, thợ lặn làm việc lâu dưới biển vào mùa đông mà vẫn ấm người và không tăng huyết áp. Có thể dự báo rằng, trong tương lai các loại thực phẩm phân tử sẽ thịnh hành. Nó được điều chế từ nhiều chất dinh dưỡng giàu HCSH và các phân tử có hoạt tính, giúp phòng ngừa nhiều bệnh tật, khiến cơ thể vận hành lành mạnh theo đúng thuyết về gen và di truyền.
Tóm lại, nhiều phụ gia có HCSH từ động vật, cây cỏ, vi sinh vật... được đưa vào thành phần thực phẩm chức năng, lại có thể điều khiển được chức năng của từng bộ phận trong cơ thể và phòng chống một số bệnh, kể cả bệnh hiểm nghèo (tăng tạo máu, tăng trí nhớ, tăng hoạt động cơ bắp, tăng miễn dịch, chống lão hoá, chống “bất lực”, chống thụ thai, cai nghiện, chống di căn, phòng ngừa ung thư...). Có thể khẳng định rằng, ngày nay các chất dinh dưỡng chính (đạm, đường, béo...) lại trở thành vai trò phụ, còn các HCSH đưa vào thực phẩm lại trở thành chính yếu. Thức ăn mới này chính là các loại thực phẩm chức năng, sẽ góp phần cụ thể hoá một nguyện vọng xa xưa của loài người trên trái đất: Thức ăn của chúng ta sẽ là những vị thuốc của chúng ta!
Thực phẩm chức năng của Việt Nam - Thành công bước đầu và triển vọng
Đối với nước ta hiện nay, việc nghiên cứu tạo ra các chế phẩm thực phẩm chức năng với phương châm “công nghệ cao, bản sắc cổ truyền” đang là hướng nghiên cứu rất lý thú và có lợi thế, vì lẽ chúng ta có thế mạnh về tài nguyên sinh học nhiệt đới và có kho tàng kinh nghiệm phong phú của y học dân tộc. Từ việc sử dụng bột cóc làm thuốc chống bệnh còi xương cho trẻ em, việc sử dụng côn trùng và các động vật rừng với mục đích bổ dưỡng và làm thuốc chữa bệnh, đến việc sử dụng nhiều loại sản phẩm biển có giá trị dinh dưỡng cao, dược liệu quý có tác dụng “hồi xuân cường lực, cải lão hoàn đồng” như “nhất yến sào, nhì bào ngư”, món ăn “Bát trân” gồm 8 loại hải sản quý phục vụ các bữa yến tiệc trong cung đình khi xưa... Kho tàng kinh nghiệm này không ngừng được bổ sung từ thế hệ này qua thế hệ khác trong quá trình lao động sản xuất, chinh phục thiên nhiên và đang được y sinh học hiện đại soi sáng, chứng minh.
Gần đây, một số thực phẩm chức năng do Việt Nam sản xuất trên cơ sở ứng dụng CNSH để nâng cấp công nghệ cổ truyền, đã được đưa ra thị trường nhằm phục vụ nội tiêu và xuất khẩu. Đó là Pantocrin từ nhung hươu sao Việt Nam, rượu Tam xà, rượu Tắc kè, rượu Hải sâm... Trong đó, rượu bổ Tam xà (kích thích tiêu hoá, tuần hoàn, bổ dương, trị thấp khớp) được sản xuất bằng công nghệ enzym, chất lượng cao, được người tiêu dùng trong và ngoài nước ưa thích. Sản phẩm đã được nhận Huy chương vàng tại Hội chợ Triển lãm thành tựu kinh tế kỹ thuật tại Hà Nội, năm 1995. Những năm gần đây, một số sản phẩm từ tài nguyên sinh vật rừng và biển đã được sản xuất dưới dạng viên nang, viên nén, dung dịch uống... trên dây chuyền hiện đại tại nhiều xí nghiệp dược phẩm trong nước. Các sản phẩm này là kết quả nghiên cứu nghiêm túc của các chương trình khoa học và công nghệ do các viện nghiên cứu, các trường đại học trong nước tiến hành. Đó là các chế phẩm nhuận gan, lợi mật, tạo máu, dưỡng não, sáng mắt, tăng cường sinh lực (cho VĐV, lực lượng vũ trang và người lao động), phòng chống ung thư... đang được người tiêu dùng ưa thích. Các sản phẩm này hoàn toàn có thể thay thế hàng ngoại nhập.
Trong thể thao, việc sử dụng các kích tố hoá học tổng hợp đều bị cấm nghiêm ngặt. Việc nghiên cứu, tìm kiếm, khai thác các nguồn HCSH với mục đích tăng cường thể lực cho VĐV đang trở thành một cuộc ganh đua thầm lặng và mang tính bí mật giữa các quốc gia, thậm chí giữa các tỉnh, thành trong một quốc gia. Điều này là dễ hiểu vì nó có liên quan đến số lượng huy chương giành được. Những năm qua, chúng tôi “đã tiến quân ra biển” để tìm kiếm các nguồn HCSH tự nhiên. Dưới sự chỉ đạo của Giáo sư, Viện sỹ Đặng Vũ Minh, phòng thí nghiệm của chúng tôi đã tham gia một chương trình nghiên cứu về HCSH biển và đã có được một số kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Trong chương trình nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành phân tich sinh hoá 4 loài hải sâm ăn được (Holothuria scabra, Actynopyga echinites, Pachithyon rubra, Bahachia graeffei); 4 loài rắn biển ăn được (Lapemis hardwwickii Gray, Hydrophys cyanocintus, Microcephalophys gracillis, Praescula viperina) và loài cầu gai (Echinoidea)... Chúng tôi đã phát hiện được một số HCSH quan trọng có trong thịt của chúng, mà chưa thấy có tài liệu nào công bố: Các hormone steroid, glucozit triterpen, carotenoid, neuropeptid, các axit amin không thay thế được, các nguyên tố vi lượng có hoạt tính sinh lý (Fe, Zn, Cu, Se...). Các phát hiện mới này đã tạo cơ sở khoa học soi sáng cho kinh nghiệm y học cổ truyền và vấn đề quan trọng là đã dẫn chúng tôi đến các giải pháp công nghệ để sản xuất được một số chế phẩm thực phẩm chức năng phục vụ tăng cường sức khoẻ cho VĐV, lực lượng vũ trang và người lao động. Đó là các chế phẩm viên nang Hải sâm (từ hải sâm), Rabiton và Rabitam (từ rắn biển), Hagaton (từ hải long, cầu gai). Công nghệ sản xuất các chế phẩm này đều được tiến hành trên dây chuyền hiện đại của các công ty, xí nghiệp dược như: Xí nghiệp dược Trung ương 25, Công ty Cổ phần Dược Traphaco, và đã đăng ký chất lượng hàng hoá tại Cục Vệ sinh An toàn Thực phẩm, được Bộ Y tế cấp giấy phép sản xuất, lưu hành trong toàn quốc. Tác dụng y sinh học của các chế phẩm đã được nghiên cứu kỹ trong các mô hình thực nghiệm trên động vật, nghiên cứu trên lâm sàng tại Bệnh viện Bạch Mai và cuối cùng là ứng dụng trên VĐV. Kết quả cho thấy: Với liều 600 mg/ngày/người (chế phẩm hải sâm, rắn biển) đã giúp phục hồi, thậm chí phục hồi vượt mức hàng loạt chỉ tiêu sinh lý, nâng cao thể lực và thành tích của tất cả các VĐV trong thực nghiệm. Các chế phẩm này đã góp phần cải thiện tốt các chỉ tiêu tâm lý, hoạt động thần kinh, giúp các VĐV xử lý tốt các tình huống (100% VĐV không mắc lỗi tín hiệu điện tử), các chỉ tiêu thể lực tốt hơn và trong tập luyện đều đạt thành tích cao hơn so với đối chứng. Mới đây, trong một số công trình khoa học (của một nhóm nghiên cứu tiến hành trên 30 học sinh và 30 VĐV, và của 2 luận án Tiến sỹ) đã công bố những phát hiện bổ sung thêm về tác dụng của các chế phẩm hải sâm, Rabiton. Đó là các tác dụng dương tính lên hoạt động chức năng của trung ương thần kinh và tác dụng giải độc của chế phẩm viên nang hải sâm trong trường hợp cơ thể bị nhiễm độc thuốc trừ sâu - Fenobucarb, thuộc nhóm Carbamat đang dùng ở Việt Nam.
(Xin thưa là chính các vị đông y cao cấp, các thầy lang ở Việt Nam mà tôi hay biết có một số bị bệnh theo thuyết: sinh - lão - bệnh - tử; có một số vị vẫn bệnh tật, có người hai lần mổ… nhất là các vị thầy lang còn ăn thịt động vật dưới các hình thức nào đó, kể cả người ăn chay trường cũng không thoát khỏi định luật khắt khe đó của cuộc sống: là tất cả chúng ta đều phải chết, tuy nhiên chết như thế nào là một vấn đề khác, và sống thế nào để khoẻ mạnh thực sự mới là điều mà tiên sinh Ohsawa nhắm tới… đây là một thắc mắc của cá nhân tôi: Ngọc Trâm…).
Thế giới hiện đại đang có xu hướng quay về với các hợp chất thiên nhiên có trong động vật và cây cỏ, khai thác kinh nghiệm y học cổ truyền và nền văn minh ẩm thực của các dân tộc phương Đông, hạn chế tối đa việc đưa các hoá chất vào cơ thể - thủ phạm của các phản ứng phụ, quen thuốc, nhờn thuốc (hiện nay, 90-95% số nhóm chất quan trọng như kháng sinh, các loại vitamin, các nội tiết tố... có nguồn gốc hoá học tổng hợp). Xu thế này cùng với những thành công bước đầu đã đạt được và những tiềm năng to lớn của chúng ta về tài nguyên sinh học, đó là những cơ sở quan trọng để chúng ta đẩy mạnh nghiên cứu, sản xuất các loại thực phẩm chức năng - một lĩnh vực có nhiều triển vọng.







--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 25th April 2024 - 03:45 PM