IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

 
Reply to this topicStart new topic
> Thuyết Yoga Kundalini
Thelast
bài Aug 15 2007, 03:47 PM
Bài viết #1


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Câu hỏi 1:

Kundalini Yoga là gì và nó có thể giúp phương tây như thế nào?

Tại sao phương pháp để thực tỉnh Kundalini của Thầy hỗn loạn hơn là như truyên thống, cách thức kiểm soát chúng?


Sự tồn tại là năng lượng, sự chuyển động của năng lượng bên trong cũng vậy, có nhiều cách và nhiều hình thức.

Như sự tồn tại của con người được liên quan, năng lượng này là năng lượng Kundalini là trung tâm năng lượng của tinh thần và thân thể con người. Năng lượng cũng có thể tồn tại dưới dạng hiển lộ hoặc không được hiển lộ. Nó có thể ở nguyên trong hạt giống, hoặc có thể nổi lên trong một mẫu (dạng) rõ ràng. Mọi năng lượng là: hoặc trong cái hạt giống, hoặc trong cái hình thể rõ ràng. Kundalini có nghĩa toàn bộ tiềm năng của bạn, khả năng của bạn. Nhưng nó là một hạt giống; nó là cái tiềm năng. Những cách thức tỉnh Kundalini là những cách để làm cho tiềm năng của bạn hiển lộ. Điều đầu tiên trong tất cả là, Kundalini không phải là cái gì đó duy nhất. Nó đơn thuần chỉ là năng lượng của con người. Nhưng bình thường chỉ một bộ phận của nó thực hiện chức năng, một phần rất nhỏ. Thậm trí phần đó (thì ) đang thực hiện chức năng không hài hoà; nó trong sự xung đột. Đó là cái cảnh khổ cực, Cái nỗi đau đớn. Nều năng lượng của bạn có thể hài hoà chức năng rồi thế thì bạn cảm thấy hạnh phúc trọn vẹn, nhưng nếu nó trong sự xung đột- nếu như nó đối kháng tới chính nó- rồi bạn cảm thấy khốn khổ. Tất cả cảnh nghèo khổ có nghĩa rằng năng lượng của bạn trong xung đột, và tất cả hạnh phúc trọn vẹn, có nghĩa rằng năng lượng của bạn trong hoà điệu. Tại sao toàn bộ năng lượng chỉ là tiềm tàng, không hiển lộ? Nó chưa được cần nhiều như cuộc sống hằng ngày được liên quan- Nó thì chưa được mong muốn có. Chỉ một phần đó trở thành có chức năng để được đòi hỏi, được thách thức. Cuộc sống hàng ngày không là một thách thức với nó, vì vậy chỉ một phần rất nhỏ trở nên rõ ràng( hiển lộ). Và thậm trí phần nhỏ này, phần đã được biểu lộ thì không hài hoà vì cuộc sống hằng ngày của bạn không được hợp thành một tổng thể thống nhất (tích hợp- hội nhập). Những nhu cầu của bạn trong xung đột. Xã hội yêu cầu một thứ và những bản năng của bạn yêu cầu cái gì đó hoàn toàn mâu thuẫn. Những yêu cầu xã hội và những yêu cầu cá nhân trong xung đột. Xã hội có những yêu cầu của nó; giá trị đạo đức và tôn giáo có những yêu cầu của họ. Những xung đột này đã cản trở con người vươn tới một tổng thể hài hoà sự tồn tại. Chúng ta đã tạo ra con người rời từng mành. Vào buổi sáng một thứ được yêu cầu; vào buổi chiều một cái gì khác lại được yêu cầu. Vợ bạn yêu cầu cái gì đó từ bạn, mẹ bạn yêu cầu cái gì đó khá trái ngược. Khi đó cuộc sống hằng ngày trở thành một sự đòi hỏi mâu thuẫn với bạn, và cái bộ phận nhỏ bé trong toàn bộ năng lượng của bạn cái phần mà đã trở thành rõ ràng bị hút trong xung đột với chính nó. Cũng còn có những xung đột khác. Phần mà đã trở thành rõ ràng- hiển nhiên sẽ luôn luôn trong xung đột với phần mà vẫn còn chưa trở thành là biểu lộ- chứng tỏ thực tế sẽ luôn luôn xung đột với tiềm năng. Tiềm năng sẽ đẩy chính nó để được biểu lộ, và thực tế sẽ đàn áp nó. Nói theo tâm lý ngôn ngữ học, sự vô ý thức, (tiềm thức) luôn luôn trong xung đột với sự có ý thức. Sự có ý thức sẽ cố gắng thống trị tiềm thức, vì nó đang luôn luôn trong sự nguy hiểm của cái vô ý thức đang biểu lộ chính nó. Sự có ý thức thì ở dưới sự điều khiển còn cái tiềm năng, cái vô ý thức thì không.

Bạn có thể quản lý sự có ý thức, nhưng với một sự bùng nổ của vô ý thức bạn sẽ không trong sự ạn toàn (tình trạng bấp bênh). Bạn sẽ không thể quản lý được nó. ấy là sự sợ hãi của cái có ý thức. Như vậy đây là xung đột khác sâu hơn và lớn hơn cái đầu tiên: Xung đột giữa cái có ý thức và vô ý thức, giữa cái năng lượng mà nó đã trở thành rõ ràng và cái năng lượng đang có nhu cầu muốn được biểu lộ. Hai kiểu xung đột này là lý do tại sao bạn không phải trong sự hài hoà. Và nều bạn không phải trong hoà điệu, năng lượng của bạn sẽ trở thành đối kháng tới bạn. Năng lượng cần sự chuyển động, và sự chuyển động luôn luôn từ cái chưa biểu lộ về phía cái biểu lộ rõ ràng, từ hạt giống về phía trái cây, từ bóng tối về phía ánh sáng. Sự chuyển động này chỉ có thể khi không có sự đàn áp. Sự chuyển động hài hoà theo cách khác, thì năng lượng bị phá huỷ và năng lượng của bạn trở thành thù địch với bạn. Bạn trở thành cái nhà đã được phân chia chống lại chính nó; bạn trở thành là một đám đông. Khi đó bạn không duy nhất bạn không là nhiều. Điều này là tình trạng tồn tại phổ biến có liên quan đến những con người hôm nay. Nhưng điều này không cần thiết,đây chỉ là lý do tại sao ở nơi đó là sự thù địch và cảnh nghèo khổ? Hạnh phúc trọn vẹn và vẻ đẹp có thể đến chỉ khi năng lượng cuộc sống của bạn trong sự chuyển động, trong sự thư giãn, thanh thoát- không bị áp chế, được tự do; trở thành một tổng thể thống nhất, không phân mảnh; không phải trong xung đột với chính nó, nhưng duy nhất và có phối hợp hữu cơ. Khi năng lượng của bạn đến tới tính đồng nhất hài hoà này, cái đó được gọi là Kundalini. Kundalini là chỉ một giới hạn kỹ thuật cho toàn bộ năng lượng của bạn khi nó trong tính đồng nhất, trong sự chuyển động, trong hoà điệu, không có bất kỳ sự xung đột nào; khi nó là hợp tác, bổ xung và hữu cơ. Khi ấy và ở đó, có một sự biến đổi- vô danh và duy nhất. Khi những năng lượng trong xung đột, bạn muốn giải toả chúng. Bạn cảm thấy thoải mái chỉ khi nào năng lượng đối lập của bạn được giải thoát, ném đi. Nhưng bất cứ lúc nào bạn ném chúng ra khỏi năng lượng cuộc sống của bạn, khả năng tồn tại lâu dài của bạn đi xuống hoặc ra ngoài. Sự chuyển động trở xuống là sự chuyển động đi ra ngoài, và sự chuyển động hướng lên là sự chuyển động bên trong. Những năng lượng của bạn đi lên trên càng nhiều, chúng đi vào càng nhiều; chúng đi xuống càng nhiều, chúng di chuyển ra ngoài càng nhiều. Nều bạn ném những năng lượng mâu thuẫn của bạn ra khỏi bạn, bạn sẽ giảm thấy sự giải toả, nhưng cũng giống như bạn đang vứt đi cuộc sống của bạn không ngừng liên tục trong những mẩu và những đoạn, trong những sự xếp đặt. Điều đó là sự tàn sát. Nếu năng lượng chúng ta đều tự sát. Khi bạn đang ném ra năng lượng ra ngoài bạn cảm thấy được giải toả, nhưng sự giải toả chỉ hạn chế tức thời vì bạn là một nguồn không thay đổi của năng lượng. Năng lượng tích luỹ lần nữa và bạn sẽ phải tiếp tục giải thoát nó lần nữa.

Cái gì được biết thông thường ví dụ như niềm vui thích chỉ là một sự quăng ra những năng lượng mâu thuẫn. Điều thích thú có nghĩa rằng bạn được giải toả bởi một gánh nặng. Nó thì luôn luôn phủ định, không bao giờ tích cực, xác thực. Nhưng hạnh phúc trọn vẹn là tích cực, xác thực, nó chỉ đến khi những năng lượng của bạn được hoàn thành. Khi mà những năng lượng của bạn không được ném ra nhưng cho phép một sự bừng nở nội tâm, khi bạn trở thành là một với chúng và không trong xung đột với chúng, khi ấy có một sự chuyển động hướng vào trong. Chuyển động đó thì vô tận. Nó trở thành sâu và sâu hơn nữa, hạnh phúc nhiều hơn nó trở thành nhập định nhiều hơn. Như vậy năng lượng có thể có hai khả năng. Trước hết chỉ là một sự giải toả, một sự quăng đi những năng lượng mà đã trở thành sức nặng tới bạn, cái mà bạn không thể cùng với nó, tận dụng nó trở thành khả năng sáng tạo. Trạng thái này là tâm trí anti- kundalini. Trạng thái bình thường của sự sống con người là anti- kundalini. Năng lượng di chuyển từ trung tâm hướng về phía ngoại bởi vì nó là phương hướng bạn đang thực thi và cảm thấy dễ dàng như thế. Kundalini có nghĩa là sự đối nhau, những lực lượng , năng lượng di chuyển từ quanh ngoại biên hướng về trung tâm, sự chuyển động hướng vào trong sự chuyển động hướng tâm là rất hạnh phúc, trong khi sự chuyển động hướng ra ngoài mang vể cả hạnh phúc lẫn nghèo khổ. Sẽ là hạnh phúc chốc lát và cảnh nghèo khổ lâu dài. Hạnh phúc sẽ chỉ đến trong những chỗ trống duy nhất khi bạn hy vọng, chỉ khi bạn có nhiều sự mong chờ, thì cái chỗ trống ở nơi đó kết quả thực tế luôn luôn là cảnh nghèo khổ. Hạnh phúc trong sự chờ đợi, trong việc hy vọng, trong sự thèm muốn, bên trong mơ. Chỉ với cái đó bạn được giải toả khỏi gánh nặng của bạn; cái hạnh phúc đảo ngược tổng thể. Không có hạnh phúc như vậy, trái lại chỉ là sự vắng mặt tức thời của cảnh nghèo khổ. Sự vắng mặt đó được nắm lấy như hạnh phúc. Bạn triền miên đang tạo ra những năng lượng mới, đến nỗi cái điều mà đang có ý nghĩa lớn phù hợp với cuộc sống lại là cái khả năng tiếp tục tạo ra cuộc sống ép buộc. Chốc lát khả năng thu nhận năng lực mất đi, bạn chết đây là nghịch lý: Bạn tiếp tục tạo ra năng lượng và bạn không biết phải làm gì với nó. Khi nó được tạo ra thì bạn ném nó ra khỏi bạn. Và khi nó chưa được tạo ra thì bạn cảm thấy khốn khổ, ốm yếu. Cái cuộc sống bắt buộc chốc lát thì chưa được tạo ra, nên bạn cảm thấy ốm. Nhưng khi nó được tạo ra, bạn cảm thấy ốm lần nữa. Sự ốm yếu đầu tiên là của tính nhu nhược, và sự ốm yếu thứ hai là của chính bản thân cái năng lượng mà đã trở thành một gánh nặng tới bạn, Bạn không thể làm cho nó hài hoà, để sáng tạo cho nó, làm cho nó hạnh phúc. Bạn đã tạo ra nó và không biết phải làm gì với nó, vì vậy bạn lại ném nó ra. Rồi lần nữa bạn tạo ra nhiều năng lượng hơn. Việc này là vô lý nhưng sự vô lý này là cái mà chúng ta cho là bình thường phù hợp với sự tồn tại của con người: Triền miên tạo ra năng lượng để rồi triền miên trở thành nặng nề, đến nỗi triền miên bạn phải giải toả. Đấy là lý do trở thành giới tính quan trọng như vậy, đầy ý nghĩa như thế bởi vì nó là một trong những phương tiện lớn nhất để giải thoát năng lượng của chính bạn. Nếu xã hội trở thành giàu có, thì bạn có nhiều nguồn hơn, xuyên qua đó năng lượng có thể tạo ra, rồi bạn trở thành tình dục hơn, bởi vì bạn có nhiều sự căng thẳng để giải toả.

Có một hằng số năng lượng được tạo ra bên trong và năng lượng đang bị ném ra ngoài. Nếu người ta đủ thông minh đủ cảm giác, thì người ta sẽ cảm thấy sự vô lý của nó, toàn bộ sự cực kỳ vô nghĩa của nó. Rồi người ta sẽ cảm thấy sự không có mục đích của cuộc sống. Bạn có giống như một dụng cụ để tạo ra năng lượng và ném nó ra khỏi bạn? ý nghĩa của điều này là gì? Cái gì là nhu cầu tồn tại thiết yếu nhất? Chỉ cần là một dụng cụ trong năng lượng nào được tạo nên hay trong năng lượng được ném ra ngoài ? Vì thế một người có cảm giác dễ bị tổn thương hơn, anh ta cảm thấy sự vô nghĩa của cuộc sống trong khi chúng ta biết nó càng nhiều. Kundalini có nghĩa là thay đổi tình trạng vô lý này vào trong một trạng thái đầy ý nghĩa lớn hơn. Khoa học của Kundalini là một trong những khoa học tinh tế nhất. Khoa học vật lý cũng đã quan tâm tới năng lượng,nhưng với năng lượng vật chất chứ không phải là năng lượng tâm linh. Thuyết yoga đã quan tâm tới năng lượng tâm linh. Nó là một khoa học siêu hình, của những cái huyền ảo, siêu việt. Giống như năng lực vật chất mà khoa học quan tâm tới. Năng lượng tâm linh này có thể tồn tại sáng tạo hoặc phá huỷ. Nếu nó chưa được sử dụng, thì nó trở thành phá hủy ; nếu nó được sử dụng thì nó trở thành sáng tạo. Nhưng nó cũng được sử dụng không sáng tạo. Cách làm cho nó sáng tạo là trước hết bạn biết rằng bạn không thực thi duy nhất bộ phận tiềm năng của bạn. Nều một phần được thực thi và phần còn lại, phần chính tiềm lực nơi bạn thì không được nhận thức rõ, đấy không phải là tình trạng có thể sáng tạo, toàn bộ phải được thực thi, toàn bộ tiềm năng của bạn phải được thực hiện. Có những phương pháp để thực thi tiềm năng, làm nó trở thành thực sự, đánh thức nó dậy, nó đang ngủ giống như một con rắn. Đó là lý do nó được gọi tên là kudalini; Sức mạnh của rắn, một con rắn đang ngủ. Nếu bạn đã từng nhìn thấy một con rắn đang ngủ, thì nó đúng như vậy. Nó cuôn tròn lại không có sự chuyển động chút nào. Nhưng một con rắn có thể đứng thẳng trên đuôi nó, nó đứng yên bởi năng lượng của nó. Đó là lý do tại sao con rắn được sử dụng có tính cách tượng trưng. Năng lượng cuộc sống của bạn cũng cuộn lại và ngủ. Nhưng nó có thể trở thành thẳng, nó có thể trở thành thức, với đầy đủ tiềm năng biến thành hiện thực của nó. Khi ấy bạn sẽ được thay đổi cuộc sống và sự chết chỉ là hai trạng thái của năng lượng. Cuộc sống có ý nghĩa rằng năng lượng đang thực hiện chức năng, và sự chết có ý nghĩa rằng chức năng đó ngừng hoạt động, cuộc sống có ý nghĩa rằng năng lượng thức dậy; sự chết có nghĩa là năng lượng đi vào trong giấc ngủ lần nữa. Như vậy theo thuyết yoga kundalini, ban thông thường chỉ đang sống một phần, cục bộ không hoàn chỉnh. Bộ phận năng lượng của bạn cái mà đã trở thành hiện thực là cuộc sống của bạn, phần còn lại đang ngủ yên nó như thể không biết đến sự tồn tại của nó. Nhưng nó có thể được thức tỉnh, có rất nhiều phương pháp, xuyên qua đó thuyết yoga kundalini cố gắng làm cho tiềm năng thành thực tế. Ví dụ làm chủ hơi thở là một trong những phương pháp để đập mạnh tới năng lượng đang ngủ. Xuyên qua hơi thở sự đập mạnh là có thể bởi vì sự thở là cái cầu ở giữa; Năng lượng cần cho sự sống còn của bạn, nguồn nguyên bản của khả năng tồn tại lâu dài của bạn- và sự sống hiện tại của bạn. Nó là cái cầu giữa tiềm năng và thực tế. Chốc lát bạn thay đổi phương pháp thở của bạn, toàn bộ hệ thống năng lượng của bạn biến đổi , khi bạn ngủ quá trình hô hấp của bạn thay đổi, khi bạn thức quá trình thở của bạn thay đổi, khi bạn giận giữ hơi thở của bạn khác; Khi bạn trong tình yêu hơi thở của bạn khác, khi bạn trong cảm xúc tình dục mạnh mẽ sự thở của bạn khác. Trong mỗi trạng thái của tâm trí một năng lực riêng biệt của cuộc sống trào ra ở đó, vì vậy sự hô hấp của bạn thay đổi. Khi bạn giận giữ bạn cần đến nhiều năng lượng hơn về trên vùng ngoại biên. Nếu bạn trong sự nguy hiểm - nếu bạn phải tấn công hoặc phải bảo vệ chính bạn - nhiều năng lượng hơn được cần về phía vùng ngoại biên. Năng lượng sẽ xô đẩy từ trung tâm, vì một số lượng lớn năng lượng được ném ra khỏi từ thân thể của bạn trong thời gian hành động giới tính, bạn cảm thấy kiệt quệ về sau, và sau sự giận giữ bạn cũng cảm thấy kiệt quệ. Nhưng sau một khoảnh khắc âu yếm, yêu thương bạn sẽ không cảm thấy kiệt quệ, bạn cảm thấy tươi tắn hơn.Sau sự cầu nguyện bạn cũng sẽ cảm thấy tươi tắn hơn. Lý do tại sao có sự trái ngược xảy ra? Khi bạn đang trong một khoảnh khắc yêu thương, năng lượng không được cần về phía vùng ngoại bởi vì không có sự nguy hiểm. Bạn ở tại sự thư giãn thanh thản. Vì vậy nguồn năng lượng chảy vào hướng trong. Khi năng lượng chảy vào phía trong, ban cảm thấy tươi tắn, mát mẻ. Sau hơi thở sâu bạn có thể tươi mới, vì năng lượng đang chảy hướng vào trong. Khi nào những luồng năng lượng chảy về phía trong bạn như cảm thấy được tiếp thêm sinh khí, mãn nguyện, bạn cảm thấy một niềm hạnh phúc, một điều năng lực khác. Nó sẽ trở nên cởi mở, có nhịp điệu hài hoà, sẽ có những khoảnh khắc khi ấy. Khi ấy bạn sẽ không cảm thấy nó chút nào, lúc đó bạn cảm thấy như thể nó đã dừng. Nó trở thành tinh tế đến thê! bởi vì năng lượng chưa cần đến sự dừng thở. Trong samadhi trạng thái xuất thần, người ta cảm thấy sự dừng thở hoàn toàn. Không có nguồn năng lượng bên ngoài nào được cần, vì vậy sự thở không cần thiết. Xuyên qua năng lượng tiềm tàng này bên trong bạn được thức tỉnh một cách có hệ thống. Nó cũng có thể được định hướng xuyên qua asanas, tư thế yogic, bởi vì thân thể của bạn liên thông tại mỗi điểm nối tới nguồn năng lượng. Vì thế mỗi tư thế có một hiệu thế tương ứng tới nguồn năng lượng. Tư thế mà phật thích ca đã sử dụng được gọi là padmasan, tư thế hoa sen. Nó là một trong những tư thế trong đó năng lượng tiêu hao giảm thiểu xuống số lượng bé nhất. Nếu bạn ngồi thẳng theo tư thế ấy thì việc ngồi cân bằng đến nỗi bạn trở thành là một với mặt đất. Không có lực hấp dẫn. Và nếu những tay chân của bạn trong tư thế ấy được đặt vào vị trí tạo thành một mạch đóng, điện sinh vật sẽ chảy trong mỗi mạch. Tư thế của phật thích ca là một tư thế tròn. Năng lượng trở thành chuyển động vòng tròn ; nó không được ném ra ngoài , năng lượng luôn luôn di chuyển ra ngoài xuyên qua những ngón tay, những bàn tay hoặc chân. Nhưng xuyên qua nối tiếp một hình dạng tròn, năng lượng không thể chảy ra ngoài. Đó là lý do tại sao phụ nữ có sức chống cự với bệnh tật mạnh hơn nam giới, và phụ nữ sống lâu hơn, thân thể tròn hơn, năng lượng bị thoát ra ngoài ít hơn. Phụ nữ không đến nỗi bị kiệt sức sau hành động giới tính bởi vì hình dạng của cơ quan tình dục của họ tròn và hấp thu. Đàn ông sẽ trở nên bị kiệt sức hơn vì hình dạng cơ quan tình dục của họ nhiều năng lượng hơn được ném ra. Nó không đơn thuần chỉ là năng lượng sinh vật, nó cũng chính là năng lượng tâm linh. Tất cả các chỗ thoát ra năng lượng đều được nối liền với nhau trong tư thế padmasan, vì vậy không có năng lượng nào có thể di chuyển ra ngoài. Hai chân được xếp chéo lại, những bàn tay chạm chân và chạm trung tâm giới tính. Và với tư thế thẳng đứng lặng yên như vậy, nơi đó không có sư lôi kéo hấp dẫn. Trong tư thế này người ta có thể quên thân thể hoàn toàn bởi vì năng lượng cuộc sống không được chảy ra ngoài. Đôi mắt cũng sẽ được khép kín hoàn toàn hoặc một nửa và chỉ còn thấy nhãn cầu (con người), bởi vì đôi mắt cũng là một lối thông lớn cho năng lượng đi ra. Thậm trí trong những giấc mơ bạn ném ra nhiều năng lượng trong những sự chuyển động mắt. Thật ra có một cách để biết liệu một người đang mơ hay không là đặt những ngón tay của bạn trên đôi mắt của họ. Nếu chúng đang chuyển động thì, thì anh ta đang mơ, đánh thức anh ấy thì bạn sẽ nhận thấy là anh ta đang mơ. Nếu những con người không chuyển động, thì anh ta trong giấc ngủ sâu, ngủ không mơ màng. Tất cả năng lượng đang hướng vào trong và không gì đang đi ra ngoài – có nhiều phương pháp như vậy qua đó những năng lượng có thể định hướng chảy về phía trong. Khi chúng chảy về phía trong chúng là một, bởi vì ở tại trung tâm không thể là hơn một. Như vậy nhiều năng lượng hơn vào bên trong, nhiều hoà điệu hơn ở đó. Những xung đột giảm xuống. Trong trung tâm không có xung đột, có sự thống nhất hữu cơ của tổng thể. Đó là lý do tại sao hạnh phúc trọn vẹn được cảm thấy. Điều quan trọng khác; asanas và pranayama đều giúp ích đích thân- tổng thể. Chúng đều quan trọng nhưng chúng chỉ là những sự giúp đỡ về vật lý. Nếu tâm lý bạn trong xung đột thì hiệu quả của chúng cũng sẽ không nhiều, không phải là thân thể và tâm trí; Bạn là thân thể- tâm trí bạn là tâm thần- thân thể hoặc thuộc về thân thể - thuộc về tâm linh. Chúng ta nói về thân thể và tâm trí như một thứ gì đó khác nhau, nhưng thân thể và tâm trí là hai lực của một năng lượng . Thân thể thì thô tục và tâm trí thì tinh tế , nhưng năng lượng thì cùng một không khác.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Aug 15 2007, 03:56 PM
Bài viết #2


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Người ta phải làm việc cả hai cực tính. Cho thân thể có môn hatha yoga; asanas, pranayama, vv..và cho tâm trí có môn raja yoga và các môn yoga khác mà về cơ bản chúng quan tâm tới những trạng tháí tinh thần của bạn. Thân thể và tâm trí là năng lượng duy nhất. Ví dụ nếu bạn có thể điều khiển hơi thở của bạn khi giận dữ, thì sự giận dữ sẽ mất đi. Nếu bạn có thể tiếp tục thở nhịp nhàng, thì sự giận dữ không thể chế ngự bạn và cũng cách đó, nếu bạn tiếp tục thở nhịp nhàng, thì cảm xúc mạnh mẽ tình dục không thể chế ngự bạn. Nó vẫn còn ở đó nhưng nó sẽ không trở thành ứng hiện. Không ai sẽ biết rằng nó là còn ở đó.

Ngay cả bạn cũng khó có thể biết nó. Như vậy giới tính có thể được đàn áp; sự giận dữ có thể được đàn áp. Xuyên qua hơi thở có nhịp điệu bạn có thể đàn áp chúng nhiều như vậy, nhưng tới mức đó chính bạn cũng khó có thế nhận thức được nó và sự giận dữ hoặc giới tính sẽ vẫn còn ở đó, thân thể có đàn áp nó nhưng nó vẫn còn ở bên trong, không đụng đến được. Người ta phải làm việc với cả hai; thân thể và tâm trí. Thân thể phải được huấn luyên qua phương pháp yoga và tâm trí xuyên qua ý thức. Bạn sẽ cần đến nhiều sự ý thức hơn nếu bạn thực hành yoga vì mọi thứ sẽ trở thành tinh tế hơn. Nếu bạn giận dữ thì thông thường bạn có thể trở nên ý thức được về nó bởi vì nó thô tục như vậy. Nhưng nếu bạn thực hành pranayama, bạn sẽ cần nhiều sự ý thức hơn, tính nhạy cảm sắc nhọn hơn để ý thức được sự giận dữ, bởi vì bây giờ sự giận dữ sẽ trở thành tinh tế hơn. Thân thể thì không hợp tác với nó bởi vì nơi đó sẽ không sảy ra sự biểu lộ vật lý nào của nó dù nhỏ nhất. Nếu người ta rèn luyện kỹ sảo nhận biết có ý thức và thực hành phương pháp yoga trong cùng một lúc, họ sẽ biết những địa hạt sâu hơn của ý thức. Theo cách khác họ sẽ chỉ nhận thức được về cái thô. Nếu bạn thay đổi cái thô nhưng không thay đổi cái tinh tế, bạn sẽ trong một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Bây giờ sự xung đột sẽ khẳng định bản thân nó trong một cách mới. Yoga thì có ích nhưng nó chỉ là một phần. phần khác là cái mà phật thích ca gọi là sự chú tâm. Nhờ có thực hành yoga mà thần thể trở thành có nhịp điệu và hợp tác với những sự chuyển động bên trong của bạn, và thực hành cùng một lúc với sự chú tâm. Trở nên chú tâm vào hơi thở , trong yoga bạn phải thay đổi qua trình sự hô hấp, trong sự (chú tâm) bạn phải ý thức được sự thở của nó như là chỉ cần ý thức được nó. Nếu bạn có thể ý thức được sự hô hấp của bạn, thì bạn có thể trở thành ý thức về quá trình tư duy của bạn; không còn cách nào khác. Những ai mà cố gắng trở thành nhận thức thấy trực tiếp lập tức quá trình tư duy của họ sẽ không thể làm được việc đó. Nó sẽ rất khó khăn, buồn tẻ. Sự hô hấp là cái cửa tới tâm trí. Nếu bạn dừng thì dừng, nếu suy nghĩ của bạn hỗn loạn thì sự thở của bạn sẽ hỗn loạn, việc thở sẽ đồng thời phản chiếu quá trình tư duy của bạn. Phật thích ca nói về anapanasati; Thuyết yoga là trạng thái nhận biết hơi thở đi vào và hơi thở đi ra. Phật nói, “Bắt đầu từ đây và cái đó là đúng bắt đầu” Người ta bắt đầu từ hơi thở và không bao giờ từ cái quá trình suy nghĩ xử lý bản thân điều đó. Khi bạn có thể cảm thấy những chuyển động tinh tế hơi thở, chỉ khi ấy bạn mới có thể cảm thấy sự chuyển động tinh tế của tư duy. Sự ý thức được quá trình tư duy sẽ thay đổi chất lượng của tâm trí; asanas và pranayama sẽ thay đổi chất lượng của thân thể chốc lát, đến khi thân thể và tâm trí của bạn là một, không có bất kỳ xung đột nào. Khi chúng được đồng bộ hoá, bạn là không thân thể, mà cũng không tâm trí. Lần đầu tiên bạn biết chính bạn như cái “Tôi”. Bạn chỉ có thể vượt quá khi không có xung đột. Trong hài hoà này chốc lát khi thân thể và tâm trí là một, không cùng với sự hiện diện xung đột nào, bạn vượt quá cả hai. Bạn không là cái nào, bây giờ bạn không có gì trong một cảm giác; không thứ- không tôi- không anh. Bạn đơn giản là sự ý thức, không có ý thức của một điều gì đó, nhưng chỉ sự ý thức được bản thân điều đó. Cảm giác nhận biết này không có nhận thức thấy sự tồn tại của bất cứ thứ gì, sự hiểu biết cảm giác này không có ý thức rõ sự tồn tại của bất cứ cái gì là khoảnh khắc của sự bùng nổ. Tiềm năng của bạn trở thành thực tế. Bạn nổ tung vào trong một địa hạt mới; cái không phân tích được- tối thượng.

Cái tối thượng này là sự liên quan của tất cả các tôn giáo. Có nhiều cách như vậy để đạt đến cái tối thượng này.

Người ta có thể nói về kundalini hoặc không; nó là cái tối thượng vô hình. Kundalini chỉ là một từ. Bạn có thể sử dụng từ khác, nhưng cái gì được biểu hiện bởi từ kundalini là giới hạn cho sự tồn tại đó trong một vài cách nào đó hoặc cách khác với tư cách một dòng chảy hướng vào trong của năng lượng. Dòng hướng vào trong này là cách mạng duy nhất, tự do nhất. Tình trạng khác bạn sẽ tạo ra nhiều địa ngục hơn, bởi vì bạn đi ra ngoài càng nhiều thì bạn càng tách rời khỏi chính bản thân bạn nhiều hơn nữa. Và bạn càng tách rời chính bản thân bạn nhiều hơn nữa thì bạn ốm yếu bệnh tật nhiều hơn. Kundalini là một nguồn nguyên bản của tất cả sự soongs, nhưng bạn bị cắt đứt khỏi nó trong nhiều cách tư thế, rồi bạn trở thành là một người ngoài đối với chính bạn và bạn không thể làm cách nào để quay trở về nhà. Sự trở lại này là khoa học của thuyết yoga. Như sự biến đổi con người được liên quan, thuyết yoga, kundalini là khoa học tinh tế nhất. Bạn hỏi tại sao những phương pháp truyền thống thì có hệ thống còn phương pháp của tôi thì hỗn loạn? Những phương pháp truyền thống đều có hệ thống bởi vì người sống ở trong thế hệ trước dành cho những người mà họ phát triển thì khác nhau. Con người hiện tại là một hiện tượng rất mới. Không có phương pháp truyền thống nào có thể sử dụng chính xác như phương pháp ấy tồn tại, bởi vì con người hiện tại không bao giờ giống như cụ kỵ họ ngày xưa. Vì vậy dù trên cùng một đường lối, thì bây giờ tất cả các phương pháp truyền thống đã trở thành không thích hợp. Ví dụ thân thể đã thay đổi nhiều như vậy. Cái thiên hướng bẩm sinh của nó bây giờ thì không ở cùng một chừng mực như nó có trong thời điểm pataniali phát triển hệ thống thuyết yoga của anh ấy. Nó là khác nhau tuyệt đối, nó đã nghiện ngập như thế mà không có truyền thống nào có thể giúp ích. Trước đây dược phẩm chưa cho phép bởi những người dạy hatha yoga, tuyệt đối không được cho phép, bởi vì hoá học thay đổi sẽ không chỉ làm cho những phương pháp là khó khăn, mà còn có hại. Nhưng bây giờ toàn bộ khí quyển là nhân tạo; không khí, nước, xã hội, những điều kiện sống. Không cái gì là tự nhiên. Bạn được sinh ra trong tính chất nhân tạo; bạn phát triển trong nó, những phương pháp truyền thống như vậy sẽ tỏ ra có hại cho hôm nay. Chúng ta phải được thay đổi theo tình trạng hiên đại. Điều khác nữa chất lượng của tâm trí về cơ bản đã được thay đổi trong thời của patanili, trung tâm của cá nhân con người thì không phải là não; nó là trái tim. Và trước đó nó không chỉ là trái tim, nó vẫn còn thấp hơn gần cái rốn. Thuyết yoga hatha phát triển những phương pháp hữu ích, đầy ý nghĩa, hướng tới con người mà trung tâm của nhân cách là cái rốn.Rồi trung tâm trở thành là trái tim. Chỉ khi đó thuyết bhakiti yoga mới có thể được sử dụng, thuyết yoga bhakti phát triển trong những người trung tuổi, và trong độ tuổi ấy trung tâm của nhân cách họ thay đổi từ rốn lên trái tim. Một phương pháp phải thay đổi tuỳ theo người ứng dụng nó để phù hợp với người đó. Bây giờ không chỉ thuyết yoga bhakti là thích đáng. Trung tâm đã thậm trí xa hơn nữa từ cái rốn, bây giờ trung tâm là não. Sự thay đổi đó là lý do tại sao những lời giáo huấn giống như Krishnamurti đã nói có sức khuyến rũ đến như vậy. Không có phương pháp nào được cần, không có kỹ thuật nào được cần- chỉ hiểu. Nhưng nếu nó chỉ một sự hiểu thuộc ngôn ngữ, vận dụng trí óc, tuyệt nhiên không thay đồi, không cái gì, hình thái, trạng thái, chức năng được thay đổi. Nó lần nữa trở thành sự tích chữ kiến thức. Tôi sử dụng những phương pháp hỗn loạn hơn là cái có hệ thống bởi vì một phương pháp hỗn loạn thì rất có ích trong việc đẩy trung tâm xuống từ não. Trung tâm không thể được đẩy xuống xuyên qua bất kỳ phương pháp có hệ thống nào, bởi vì sự hệ thống hoá, tổ chức hoá là làm việc trí não. Xuyên qua một phương pháp có hệ thống, trí não sẽ được làm việc mạnh thêm, nhiều năng lượng hơn sẽ được thêm tới nó. Xuyên qua những phương pháp hỗn loạn “não” ( Thói quen trí óc của nó) bị huỷ bỏ. Nó không có cái gì để làm, phương pháp thì hỗn loạn đến nỗi trung tâm thì tự đẩy từ não đến trái tim. Nếu bạn thực hiện được phương pháp của tôi của sự trầm ngâm động mãnh liệt, không có hệ thống, phương pháp hỗn loạn trung tâm của bạn di chuyển tới trái tim. Rồi có một sự tẩy nhẹ. Một sự tẩy nhẹ được cần bởi vì trái tim của bạn đã kìm nén như vậy, do bởi não (trí óc) của bạn. Trí não của bạn nắm quyền nhiều như vậy trong hiện thân của bạn đến nỗi nó thống trị bạn, như vậy việc ước ao, khao khát của trái tim được đàn áp. Bạn đã không bao giờ cười thân mật, không bao giờ sống thân mật, làm bất cứ thứ gì thân mật. Sự huy động trí não luôn luôn được tham gia vào hệ thống hoá, toàn học hoá mọi thứ, và trái tim được đàn áp.

Vì thế trước hết, một phương pháp hỗn loạn được cần để đẩy trung tâm của sự ý thức từ não trở về trái tim. Rồi sự tẩy nhẹ được cần để làm nhẹ bớt trái tim, để ném ra hết những sự đàn áp, để làm trái tim cởi mở.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Aug 15 2007, 03:57 PM
Bài viết #3


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Nếu trái tim trở nên sáng và được chút bớt gánh nặng, khi ấy trung tâm của ý thức đẩy sự yên tĩnh xuống thấp hơn. Nó đi đến cái rốn, cái rốn là nguồn của khả năng tồn tại lâu dài, nguồn hạt giống từ mọi thứ khác đến; thân thể tâm trí và mọi thứ. Tôi sử dụng phương pháp hỗn loạn này rất chu đáo, phương pháp luận có hệ thống sẽ không giúp ích gì bây giờ, bởi vì não sẽ sử dụng nó như dụng cụ của chính mình. Mà lời kinh của bhajans cũng không có thể giúp gì được bây giờ, vì trái tim bị đè nặng lên như vậy đến nỗi nó không thể ra hoa vào trong thực tế cầu kinh. Cầu kinh có thể chỉ là một sự né tránh nó; . Trái tim không thể ra hoa vào trong cầu nguyện bởi vì nó bắt làm quá sức với những sự đàn áp đến như thế. Tôi đã không nhìn thấy một người đơn độc mà có thể đi sâu vào sự cầu nguyện đích thực. Cầu nguyện thì không thể đạt được bởi vì chính tình yêu đã trở thành không thể xảy ra được, sự ý thức phải được đẩy tới nguồn tới tận gốc . Chỉ khi đó mới có khả năng xảy ra sự biến đổi. Do vậy tôi sử dụng những phương pháp hỗn loạn này để đẩy sự ý thức trở xuống từ não. Bất cứ khi nào bạn trong sự hỗn loạn não thì dừng làm việc. Ví dụ nếu bạn đang điều khiển một ôtô và thình lình một người nào đó chạy phía trước bạn thì bạn phản ứng lại thình lình đến nỗi nó không thể là công việc của não. Não mất thời gian, nó nghĩ quanh phải làm gì và không làm cái gì. Vì thế hễ khi nào có một khả năng của một sự cố và bạn phanh lại, bạn cảm thấy một điều bất ngờ gần cái rốn của bạn. Nếu nó như là dạ dày của bạn thì cái đó đang phản ứng lại. Sự ý thức của bạn được đẩy xuống cái rốn bởi vì sự cố. Nếu sự cố đó được tính toán trước, thì não đã có thể giao du với nó ; nhưng khi bạn trong một sự cố, cái gì đó không biết xảy ra rồi bạn chú ý rằng sự ý thức của bạn đã di chuyển đến cái rốn. Nếu bạn hỏi một thầy tu thiền “ từ nơi đâu bạn nghĩ”? Anh ta đặt bàn tay lên dạ dầy của anh ấy. Khi những người phương tây đến trong cuộc gặp gỡ với những thầy tăng Nhật bản lần đầu, họ không thể hiểu lời nói vô nghĩa biết bao! Bạn có thể suy nghĩ từ dạ dày bạn như thế nào? Nhưng câu trả lời của phái thiền đầy ý nghĩa. Sự ý thức có thể sử dụng bất kỳ trung tâm nào của thân thể, và trung tâm mà gần nhất với nguồn nguyên bản là cái rốn. Từ nguồn nguyên bản não rời xa nhất, vì vậy nếu năng lượng cuộc sống là đang di động ra ngoài, thì trung tâm của sự ý thức sẽ là não. Và nếu năng lượng cuộc sống là chuyển động về phía trong, cuối cùng cái rốn sẽ trở thành là trung tâm. Những phương pháp hỗn loạn được cần để đẩy sự ý thức tới những gốc của nó, bởi vì chỉ từ những gốc mới có thể thực hiện được sự biến đổi. Theo cách khác bạn tiếp tục nói dài dòng và tại nơi đó sẽ là không có sự biến đổi nào.

Nó chỉ là đủ dùng để phân biệt được cái gì là đúng. Bạn phải thay đổi những cái gốc, theo cách khác bạn sẽ không thay đổi. Khi một người nhận biết được cái đúng mà không thể thực thi bất cứ việc gì xung quanh nó, anh ta trở thành căng thẳng gấp đôi. Anh ta hiểu nhận thức được ý nghĩa, nhưng anh ta không thể làm bất cứ việc gì. Việc hiểu chỉ đẩy ý nghĩa khi nó xuất phát đến từ cái rốn, từ cái cội nguồn. Nếu bạn hiểu xuất phát từ não, thì nó không phải là đang biến đổi. Cái tối thượng không thể được biết xuyên qua não, bởi vì khi bạn thực hiện một chức năng xuyên qua não bạn trong sự xung đột với cái cội nguồn, xuất phát từ nơi đó bạn đã đến. Toàn bộ vấn đế của bạn là như thế này; Bạn đã di chuyển rời xa xuất phát từ cái rốn và bạn sẽ chết xuyên qua nó. Người ta phải trở lại về tận cái cội nguồn., nhưng việc trở lại là khó khăn, miệt mài hết sức mình. Thuyết yoga, kundalini được quan tâm cùng với sự hiện diện năng lượng cuộc sống và luồng lưu thông hướng vào trong của nó. Nó được quan tâm bằng kỹ thuật để mang thân thể và tâm trí khác nhau. Sự sống thì khác nhau, nó chỉ là cuộc sống, một xe bò kéo thì hữu ích, nhưng nó thì không còn được cần. Bây giờ bạn đang điều khiển ôtô, vì vậy bạn không thể sử dụng được kỹ thuật mà được sử dụng với xe bò. Nó là hữu ích với xe bò, nhưng không thích hợp với ôtô. Những phương pháp truyền thống có một sức lôi cuốn bởi vì chúng là cổ xưa như vậy và nhiều người như vậy đạt được xuyên qua chúng trước đây. Chúng có thể đã trở thành không thích hợp với chúng ta, nhưng không phải là không thích hợp với phật thích ca. Mahavira, patanijali, krishna chúng là đầy ý nghĩa, có ích. Những phương pháp cũ bây giờ có thể trở nên vô nghĩa, nhưng vì phật thích ca đạt được xuyên qua nên chúng có một sức quyến rũ. Người ủng hộ chủ nghĩa truyền thống cảm thấy; Nếu phật thích ca đạt xuyên qua những phương pháp này, tại sao tôi không thể? Nhưng bây giờ chúng ta đều ở trong một vị trí, địa thế, tình hình, hoàn cảnh, trạng thái hoàn toàn khác biệt so với thời của họ.

Toàn bộ khí quyển, toàn bộ khả năng suy nghĩ- lĩnh vực hoạt động đã thay đổi. Mỗi phương pháp thì có hệ thống tới một tình trạng đặc thù, tới một tâm trí riêng biệt, tới một con người cá biệt. Cực trị đối lập là đặc tính của krishnamurti. Anh ta từ chối tất cả các phương pháp, nhưng làm điều đó anh ta phải từ chối phật thích ca. Nó là mặt khác của cùng cái đồng tiến đó. Nếu bạn từ chối những phương pháp thì bạn phải từ chối phật thích ca, và nếu bạn không từ chối phật thích ca thì bạn không thể từ chối những phương pháp của ông ấy. Những điều đó là những cực đoan(cực trị). Những cực đoan thì luôn luôn sai, trái ngược. Bạn không thể phản đối một thuyết sai lầm xuyên qua việc cầm lấy một vị trí ở cuối đầu kia đối với nó, bởi vì ở tột cùng sự đối lập sẽ vẫn còn diễn ra một sự giả dối. Sự thật, chân lý luôn luôn nói dối chính xác ở giữa. Vì vậy đối với tôi, sự việc mà những phương pháp cũ không làm việc không có nghĩa rằng không có phương pháp nào là hữu ích. Nó chỉ có nghĩa rằng những phương pháp đó chính chúng phải thay đổi, thậm trí không phương pháp cũng là một phương pháp. Không phương pháp sẽ trở thành một phương pháp khi nó có thể được một người nào đó duy nhất biến nó thành phù hợp với anh ta. Một phương pháp thì luôn luôn đúng đắn trong mối quan hệ tới một người riêng biệt; nó thì không bao giờ chung chung, khi những sự thật, chân lý được tổng quát hoá, chúng trở thành sai, nhầm. Vì thế bất cứ lúc nào, bất cứ cái gì sẽ được sử dụng hoặc bất cứ cái gì sẽ được nói, nó luôn luôn được đề địa chỉ hướng tới một con người đặc biệt hiện tại: Tới sự chú ý của anh ấy, tới tâm trí của anh ấy, chỉ anh ấy và không ai khác. Cũng là điều này bây giờ đã trở thành khó khăn. Vào thời xưa đã luôn luôn có một mối quan hệ một đối giữa một thầy và môn đệ. Nó là mối quan hệ cá nhân và một sự truyền thông cá nhân, ngày nay nó không liên quan đến riêng một ai. Người ta phải nói chuyện với một đám đông vì vậy người ta phái khái quát hoá. Nhưng những sự thật được tổng quát hoá trở thành sai, giả dối, một điều gì đó chỉ đầy ý nghĩa với một con người riêng biệt, đặc biệt. Tôi giáp mặt khó khăn này hàng ngày. Nếu bạn đi đến tôi và hỏi tôi cái gì đó, thì tôi trả lời bạn và không ai khác. Lần khác một người khác hỏi tôi cái gì đó, và tôi trả lời anh ấy và không ai khác. Hai câu trả lời này có thể trở thành mẫu thuẫn, bởi vì câu hỏi mà hai người đã hỏi chúng có thể là trái ngược. Như vậy nếu tôi sẽ giúp đỡ bạn thì tôi phải nói một cách đặc biệt với bạn, và nếu tôi nói một cách đặc biệt tới mỗi cá nhân. Tôi sẽ phải nói nhiều thứ tương phản, bất kỳ người nào đã nói có thể là chắc chắn, nhưng khi ấy sự thật trở thành sai, bởi vì mỗi sự phát biểu mà là đúng là một danh giới sẽ được hướng toàn tâm toàn ý vào tới một người đặc biệt. Tất nhiên sự thật vĩnh cửu, nó không bao giờ mới không bao giờ cũ - trừ khi sự thật là sự thực hành, kết thúc những phương tiện luôn luôn thích đáng hoặc không thích hợp tới một người đặc biệt, tới một tâm trí đặc biệt, tới một thái độ đặc biệt. Như tôi nhìn thấy cái hiện trạng, con người hiện đại đã thay đổi nhiều đến nỗi anh ta cần những phương pháp mới, kỹ thuật mới. Những phương pháp hỗn loạn sẽ giúp đỡ tâm trí hiện đại và chính nó, sự hỗn loạn này trong con người hiện đại là trong sự việc, một cuộc nổi loạn của các thứ khác, của thân thể chống lại tâm trí và chống lại những sự đàn áp của nó.

Nếu chúng ta nói về nó trong ngôn ngữ yoga chúng ta có thể nói rằng nó là cuộc nổi loạn của trung tâm trái tim và trung tâm cái rốn chống lại trung tâm não. Những trung tâm này chống lại não bởi vì não đã giữ độc quyền toàn bộ lãnh thổ của linh hồn con người, điều này không thể được tha thứ cho thêm bất kỳ một lần nào nữa. Mà tại sao những trường đại học đã trở thành là những trung tâm của cuộc nổi loạn. Nó không phải là ngẫu nhiên, nếu toàn bộ xã hội được nghĩ về như một thân thể hữu cơ, thì trường đại học là cái đầu não bởi vì sự phản loạn của tâm trí hiện đại nó là ranh giới hướng về phía nhân hậu, về phía những phương pháp hỗn loạn và lỏng. Sự trầm ngâm động sẽ giúp đỡ để di chuyển trung tâm của sự ý thức ngay lập tức rời xa khu vực não. Rồi người sử dụng nó sẽ không bao giờ trở thành chống đối, bởi vì nguyên nhân của cuộc nổi loạn đã được thoả mãn. Anh ta sẽ ở tại sự thanh thản, dễ dàng. Như vậy đối với tôi sự trầm ngâm không chỉ là một sự cứu giúp cho cá nhân, một sự biến đổi cho cá nhân; nó cũng có thể tạo nền móng cho sự biến đổi của toàn bộ xã hội, của tình trạng nơi con người hiện đại. Người đàn ông sẽ: hoặc anh ta phó mặc bản thân như một sự tự sát, hoặc anh ta sẽ phải thay đổi năng lượng của anh ấy.

Mãi cho tới gần đây, ở Liên Xô trong vấn đề giải phóng phụ nữ, người ta nhấn mạnh tỷ lệ phụ nữ ở đây tham gia lao động sản xuất cao nhất thế giới; và dường như không nhận thấy những mặt bất lợi nảy sinh: Số lượng gia đình giảm đi với quy mô hàng loạt, trẻ nhỏ bị bứt khỏi tổ ấm gia đình, quan hệ cha mẹ- con cái, quan hệ vợ chồng sút giảm, có nhiều bà mẹ không chồng và trẻ “khó dạy”. Do đó nảy ra câu hỏi nên cắt nghĩa và đánh giá thế nào?

Đây là một vấn đề quan trọng tế nhị phức tạp, còn nhiều điều phải nghiên cứu và bàn luận. Chúng tôi giới thiều với bạn đọc bài của nhà văn A-fa-na-xi-ép. Vào một dịp khác chúng tôi sẽ tiếp tục giới thiều bài của Nximacova, phó tiến sỹ khoa học công tác tại viện nghiên cứu xã hội học của viện hàn lâm khoa học Liên xô. Chỉ có một số điểm tranh luận với A-fa-na-xi- ep, và có một số ý kiến đáng chú ý

Rất mong bạn đọc hưởng ứng góp nhiều ý kiến bàn bạc.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 23rd May 2024 - 07:12 PM