IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

3 Trang V  < 1 2 3 >  
Reply to this topicStart new topic
> Phương pháp ăn uống để phòng chống bệnh ung thư, của người Nhật
Thelast
bài Jun 23 2007, 08:51 AM
Bài viết #11


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Một giờ sau, tôi trở lại phòng quang tuyến. Renzi và người phụ tá tiêm vào người tôi một thứ chất thuốc nhuộm. Tôi phải đợi suốt ba tiếng đồng hồ cho chất thuốc ngấm khắp cơ thể. Sau đó họ treo phía sau tôi một cái máy giống như các công tơ Geiger dùng theo dõi sự phản ứng của thuốc nhuộm. Trong trường hợp, một người bị ung thư thì chất thuốc nhuộm này sẽ tụ lại những nơi có tế bào ung thư. Khi máy rà xương chĩa vào những nơi có thuốc nhuộm tụ lại thì kêu lên ròn rã, ồn ào. Nếu không có ung thư thì thuốc lan đều khắp cơ thể và máy chỉ phát ra những tiếng tích tắc nhẹ nhàng, đều đặn.

Tôi nằm dài trên chiếc bàn hẹp bên dưới cái máy, người gần như trần truồng, chỉ mặc độc chiếc áo bệnh viện. Tôi cảm thấy lạnh và sốt ruột. Người run cầm cập như đang nằm trên một khối nước đá. Tôi ngước mắt nhìn cái máy. Đầu cảm ứng của cái máy hình thù như một cái trống nhỏ được nối liền với một máy điện tử (computer) dùng để phân tích dữ kiện, một bộ phận dao động gắn trên máy điện từ sẽ cung cấp hình rọi của bệnh nhân. Ung thư sẽ hiện lên màn ảnh của bộ phận dao động, dưới hình thức những vết đen. Nếu người khoẻ mạnh, máy sẽ chiếu một hình người trong và rõ. Tôi thầm khấn nguyện trời đất. Ngay trước khi Renzi cho máy chạy, để trấn an, tôi thầm nhủ với mình rằng: Đã là bác sĩ thì không bao giờ có bệnh.

Renzi bật cần mở máy. Như một con vật khổng lồ đột nhiên tỉnh giấc, máy bắt đầu phát ra những tiếng tích tắc chậm rãi như đang thu lấy những phân tử phóng xạ trong không khí. Đầu cảm ứng hình cái trống nhỏ được treo ngay đầu tôi. Bỗng nhiên tiếng tích tắc êm dịu và rời rạc biến thành những âm thanh cuồng loạn như tiếng súng liên thanh. Tim tôi đập mạnh, da sởn ốc và căng ra vì adrenaline đột nhiên được phóng thích và thân nhiệt bốc cao. Tôi liếc nhìn màn ảnh và sợ hãi khi thấy cái gì như là một vết đen ở ngay đỉnh đầu. Renzi đưa máy xuống vai phải của tôi. Tiếng kêu im lặng đi chốc lát rồi lại vang lên thật man rợ...nơi xương ức, lưng, sườn phải của tôi cũng đều như thế. Tôi co rúm người lại như thể bị sốc, nhưng những âm thanh đó vẫn tiếp tục xoáy sâu vào người tôi. Dường như chúng phát ra từ chính giữa não tôi và chính đấy là tiếng kêu của các tế bào ung thư báo cho biét sự hiện diện của chúng.

Tôi ngồi dậy, bước xuống bàn và cảm thấy buồn nôn. Nhưng tôi vẫn cố nén lại và cùng Renzi xem lại các kết quả. Theo máy rà thì tôi có những vết ung thư ở sọ, ở xương sườn số 6 bên phải, vai phải, xương ức và lưng.

Sau đó, Renzi đến tìm tôi tại văn phòng và tìm cách an ủi tôi. Dáng điệu của ông ta không được tự nhiên dường như ông ta muốn thở mạnh mà không thở được, ông nói với tôi:

- Tony này, thật tình mà nói thì chúng ta cũng chưa kết luận được gì qua buổi khám xương này. Hy vọng máy rà đã phản ứng theo một hoạt động còn lành của mô xương. Chúng ta chưa thể quyết chắc được trước khi giải phẫu. Xin anh đừng suy luận vẩn vơ trước khi biết rõ sự thật. Đồng ý không Tony?

- Đồng ý! – Tôi lẩm bẩm nói và mơ hồ nghe tiếng mình lẫn lộn trong mớ âm thanh của máy còn vang vọng trong đầu tôi.

Sáng hôm sau, tôi đem tất cả các kết quả thử nghiệm đến cho vị bác sĩ riêng, bác sĩ Sheldon Lisker. Là một bác sĩ nội khoa và ung thư, một chuyên viên chẩn đoán và trị liệu u bướu, bác sĩ Lisker vừa là bác sĩ riêng, vừa là bạn thân của tôi từ cuối năm 1960. Ông khám người tôi và chú trọng đến hòn dái sưng bên phải lúc bấy giờ cũng cứng cách khác thường. Ông nói với tôi là những thử nghiệm máu cho thấy mức phosphatase lên rất cao, chứng tỏ khả năng bị ung thư, gan cũng có những hoạt động không bình thường, cũng có những dấu hiệu mà ông đã thấy trong lần thử gan cho tôi vào dịp hè năm ngoái. Rồi ông cầm những tấm phim của máy rồi đặt vào giấy rọi. Ông nói: Anh Tony này, sau khi xem xét kỹ tất cả, tôi đành phải cho anh biết là tôi ngờ anh bị ung thư ở hòn dái và nhiếp hộ tuyến. Nguy hiểm là ung thư phân tán ở nhiều nơi trong cơ thể như mấy tấm phim cho thấy. Tôi khuyên anh nên cho cắt bỏ hòn dái và mổ nhiếp hộ tuyến ngay.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Jun 23 2007, 09:05 AM
Bài viết #12


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Bác sĩ Lisker và tôi còn bàn bạc thêm về các dữ kiện. Có hai điều trong bệnh tình của tôi xem ra có vẻ mâu thuẫn với mô hình cổ điển của bệnh ung thư dịch hoàn và nhiếp hộ tuyến. Ung thư dịch hoàn thường không lan qua xương, trong khi phim quang tuyến lại cho thấy có vết u ở xương. Còn ung thư nhiếp hộ tuyến thường không có ở những người da trắng cỡ tuổi tôi, mới 46 tuổi. Người da trắng ít khi mắc bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến trước tôi năm 50. Nếu óc những người dưới 50 tuổi thì khác với trường hợp của tôi và nguy hiểm hơn nhiều so với bệnh ở những người cao tuổi, nó thường giết nạn nhân trong vòng 2-3 năm sau khi phát hiện.

Lisker cố an ủi tôi, nhưng cả hai chúng tôi đều biết rằng, dầu chịu đựng giải phẫu đi chăng nữa, tôi cũng không thể ăn mừng thọ ngũ tuần của tôi.

Phòng mạch của Sheldon Lisker ở gần nhà tôi. Từ biệt ông, tôi thả bộ về quảng trưòng Rittenhouse. Hôm đó là ngày đầu tháng 6, trời xuân nắng ấm. Ghế đá công viên đầy những người ngồi ăn trưa dưới bóng cây. Một làn gió nhẹ lào xào lướt qua mấy tán lá. Tôi thầm nghĩ rõ là một ngày lý tưởng để căng buồm lướt gió.

Ở góc đường, một nghệ sĩ đang trưng bày các tác phẩm. Tôi dừng lại xem tranh và chú ý đến bức tranh dầu vẽ hai người đang chơi quần vợt, trong lòng muốn mua, toi sắp hỏi hoạ sĩ giá cả thì một ý nghĩ mà tôi cố gắng xua đuổi ra khỏi tâm trí một cách vô vọng chợt đến với tôi: mày sắp chết đến nơi rồi, mua sắm làm gì? Tôi vội quay gót về nhà.

Chiều hôm đó, tôi gọi điện đến bác sĩ John Prehatry, trưởng khoa giải phẫu thuộc bệnh viên của tôi, để nhờ mổ dịch hoàn và nhiếp hộ tuyến, tôi đành phải cắt bỏ hòn dái. John và tôi thoả thuận cho cuộc mổ xẻ vào thứ 3 tới. Sau đó tôi thu xếp để ngày thứ hai vào nằm bệnh viện Methodist như là những bệnh nhân khác.

Vào cuối tuần, tôi lái xe về nhà nghỉ hè của tôi ở Long Beach Island NJ để nghỉ ngơi và để ghé thăm cha mẹ tôi sống gần đó. Thật là trớ trêu, cha tôi đang chết mòn chết dần vì bệnh ung thư từ 6 tháng nay, nên tôi không dám cho cha mẹ tôi biết là tôi cũng đang mang bệnh ung thư. Lẽ ra tôi phải nói rõ với bà là tôi sắp đi nằm bệnh viện thì tôi chỉ nói thác đi là tôi đi công tác trong 2,3 tuần và khi tôi về sẽ gọi điện cho bà hay.

Tuần sau, tôi được chính nhân viên trong bệnh viên của tôi giải phẫu hòn dái bên phải, các u hạch tuyến nằm bên hang cũng đã bị cắt bỏ, nhiếp hộ tuyến cũng được mổ xuyên qua ruột. Khi đem phân tích, nhiếp hộ tuyến cũng bị ung thư. Bước tiếp theo cũng quá rõ ràng, xương sườn số 6 bên phải rồi đây cũng được cắt bỏ nếu ung thư lan sang những nơi được máy rà chỉ định. Chỉ còn một cách duy nhất là mổ xương sườn ra khám nghiệm.

Ngày 13 tháng 6, tức là sau lễ sinh nhật lần thứ 47 của tôi một ngày, xương sườn bị mổ ra xem, trên mặt xương có một cục u to bằng quả mận, xương sườn có cục u được gửi tới phòng xét nghiệm nghiên cứu. Nếu cục u là u lành thì hy vọng máy rà đã phản ứng theo hoạt động còn lành của bộ xương và ung thư nhiếp hộ tuyến được chữa lành bằng phẫu thuật. Kết quả của phòng thí nghiệm sẽ kết luận và quyết định điều đó. Một tuần sau, bác sĩ Prehatry, người đã mổ xẻ cho toi, đến thăm tôi tại phòng bệnh. Ông ngồi cạnh giường và trước khi ông nói, ông nhìn thẳng vào tôi, có lẽ toi kịp nhận ra những điều bất thường trên mặt ông, John nói:

- Anh Tony này, thật đáng buồn khi phải cho anh hay điều này, xương sườn đã bị ung thư.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Jun 23 2007, 09:18 AM
Bài viết #13


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Cuộc giải phẫu đã xác nhận những điều chẩn đoán: Ung thư nhiếp hộ tuyến vào thời kỳ IV (D). Tôi biết rằng tôi chỉ còn sống được từ 18 tháng đến 3 năm nữa thôi.

- Tuyệt vọng quá John ơi! – Tôi vừa nói vừa ứa nước mắt.

Prehatry im lặng một lát rồi nói thêm: “Tôi đã bàn với bác sĩ Lisker, ông ta cũng đồng ý là phải cắt bỏ cả hòn dái bên kia”. Sáng hôm sau, tôi lại phải lên phòng mổ lần thứ 3. Chỉ trong 3 tuần, lần giải phẫu lần này, gọi theo danh từ chuyên môn là giải phẫu dịch hoàn, mất gần 1 tiếng đồng hồ. Tôi được trở về phòng lúc 2 giờ.

Đến gần trưa, ảnh hưởng của thuốc tê mới hết, nằm dài trên giường, tôi nghĩ miên man. Tôi không còn hoàn toàn nữa, nhân phẩm đã bị giảm sút. Tôi sẽ ra sao? Số phận đó tôi thừa biết. Tôi bật lên khóc nức nở, từng mảng lớn của cuộc sống đã trôi đi. Trong cơn xúc động, bực tức, tôi la lên: “Không, trời ơi, không...!”

Tôi nằm điều trị suốt mùa hè hầu như nhờ vào percodan, một loại ma tuý chấn thống. Vào nằm bệnh viện là cốt giảm cơn đau, thế mà giờ đây tôi đau đớn hơn bao giờ hết. Nỗi đau đớn chi phối mọi hành vi của tôi. Cứ 6 tiếng đồng hồ là tôi nốc 2 viên percodan, tác dụng chấn thống an thần của thuốc cũng làm tôi khoẻ khoắn, thoải mái. Kỳ lạ, những ưu tư như được cất vào những ngăn kéo nhỏ trong não. Đời sống trở nên êm dịu. Nhưng sự khoẻ khoắn đó không lâu dài, 2, 3 giờ sau, hiệu quả của percodan giảm đi thì tôi lại rơi vào trạng thái chán chường trống vắng. Người tôi đã suy nhược hẳn, những triệu chứng này quá quen thuộc với tôi vì tôi đã phải chứng kiến nỗi đau đớn mà chết dần mòn.

Ngày cuối tháng 7, cha tôi lên cơn đau não, ông cần được cấp cứu, mẹ con tôi quyết định đưa cha tôi vào bệnh viện Methodist. Chính hôm đó, tôi nói cho mẹ tôi hay rằng tôi cũng mắc bệnh ung thư. Tôi nói chắc với bà:

- Mẹ đừng lo, bệnh tình nằm yên một chỗ và đã cắt đi rồi.

Mẹ tôi bảo: - Thế không phải là mẹ con mình từng nói về bệnh tình cha con đó sao: “Bệnh nằm yên, đừng lo”.

Im lặng một lát rồi bà nói thầm:

- Cha con biết hết rồi!

- Biết cái gì?

- Cha con biết con bị ung thư, ông đã nói cho mẹ hay khi cha con gặp con lần cuối. Ông nói: “Tony cũng mắc bệnh đó” và ông vừa lắc đầu vừa nói: “Tony cũng mắc bệnh đó”.

Tôi nghĩ thầm, thì ra người bệnh và người hấp hối hiểu rõ nhau.

Ngày 7 tháng 8 cha tôi qua đời. Ngày 8 tháng 8, chúng tôi cử hành tang lễ tại nhà thờ St.Prancis ở Long Beach Island. Ngày hôm sau, chúng tôi an táng ông trong nghĩa trang gia đình tại Hopelawn N.J. Buổi chiều nóng và ấm. Người tôi phờ phạc, bệnh ung thư dường như không chịu buông tha, tôi đau nhức vô cùng, đưa đám cha tôi cứ ngỡ như đưa đám mình.

Trên đường trở lại Philadelphia, có 2 người đứng bảo vệ xin quá giang, cả hai đều còn trẻ, chạc độ 20, tóc phủ tai, bận quần jean và áo pull. Thường thì tôi lờ đi vì tôi chúa ghét bọn trẻ để tóc dài và có thái độ lấc cấc, nhất là vì họ hay chỉ trích nghề nghiệp của tôi. Nhưng hôm đó, không hiểu sao, tôi lại cho họ quá giang. Tôi không ngờ rằng hai thanh niên này mang sứ mệnh trọng đại bước vào đời tôi.

Trên đường trở lại Philadelphia, Sean Me Lean ngồi với tôi phía trước còn Bill Bochbracher nằm dài ở đằng sau mà ngủ. Me Lean cùng tôi trò chuyện. Thì ra hai anh chàng vừa học xong khoá dạy nấu ăn tự nhiên do quán cơm thực dưỡng Seventhinn tại Boston bảo trợ. Về phần tôi, toi cho Me Lean biết là tôi vừa chôn cất cha tôi xong và tôi cũng sắp chết vì ung thư. Người bạn đồng hành đáp lại tôi vẻ bất cần đời: “Thưa ông bác sĩ, xin ông biết cho là ông không cần phải. Bệnh ung thư có quái gì lâ khó chữa đâu”. Tôi nhìn anh ta như một đứa trẻ con còn khờ dại. Tôi thầm nghĩ, một chú bé nấu bếp mới 20 tuổi đầu mà biết gì về bệnh ung thư. Tôi cho rằng do tính bốc đồng của tuổi trẻ mà anh ta có luận điệu như vậy. Tôi bảo cho anh ta biết:

- Sean này, thật ra bệnh ung thư rất khó chữa, hàng năm chừng 400.000 người chết vì nó. Nó là tên sát nhân thứ số 2 ở Hoa Kỳ. Không thể giải quyết đâu, chú tin tôi đi!


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Jun 23 2007, 09:36 AM
Bài viết #14


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Sean đáp lại:

“Xin ông nghe tôi. Bệnh ung thư chỉ là kết quả hiển nhiên của lề lối ăn uống sai lầm. Khi ông ăn nhiều thịt, hàng lô thức ăn chết từ sữa, trứng, thức ăn tinh chế từ đường và bột trắng, cùng những thứ cho nhiều hoá chất để bảo quản, thì ông phải mang bệnh ung thư, nếu trước đó không chết vì bệnh đau tim”.

Anh ta khẳng định: “Chính thức ăn gây ra ung thư, nhưng ông có thể đảo ngược tình hình bằng cách thay đổi ăn uống và chỉ ăn cốc loại lứt với rau cỏ. Rất nhiều người đã làm như vậy và ông cũng nên làm như họ”.

Khi người khách qua giang xuống xe, tôi quên ngay lời khuyên nhủ của anh ta. Trong 20 năm lăn lộn ở trong ngành y, tôi từng gặp đủ loại lang băm. Như vậy, tôi bỏ ngoài tai những lời Me Lean đã nói.

Vài ngày sau, mang cái lưng đau nhức trở về nhà toi đựơc người gác dan trao cho một tấm giấy báo bưu phẩm và cho tôi biết có một món quà đang đợi tôi ở phòng bưu điện với 67 xu cước. Gói quà của Me Lean. Mở ra tôi thấy một cuốn sách nhan đề: “Những hiệu nghiệm kỳ diệu của phương pháp thực dưỡng đối với bệnh ung thư”. Phương pháp thực dưỡng à? Không biết có phải cái lối ăn uống điên khùng gạo lứt muối mè không? Tôi vào phòng khách, nằm xuống đi văng một cách khó khăn và lật ra xem.

Thì ra Những hiệu nghiệm kỳ diệu của phương pháp thực dưỡng đối với bệnh ung thư là một cuốn sách nhỏ đăng những bức thư chân tình của những người nhờ phưong pháp thực dưỡng OHSAWA mà chữa lành bệnh ung thư, đa số là những bệnh nhân bị giới bác sĩ cho là vô phương cứu chữa. Tôi đọc lướt qua toàn bộ cuốn sách rồi chực ném nó vào sọt rác thì tên của bác sĩ Ruth Schaefer làm tôi chú ý. Bức thư cho biết là bà đã nhờ phương pháp thực dưỡng mà chữa lành bệnh ung thư vú. Bà còn cho biết hiện giờ bà là bác sĩ đang hành nghề ở Philadelphia. Tôi đặt cuốn sách xuống, lật danh mục y tế tìm số điện thoại của bà Ruth Schaefer và quyết định gọi cho bà. Có giọng đàn ông đáp lại. Tôi nói: “A lô, có bác sĩ Ruth Schaefer ở nhà không?.

- Ông quen với vợ tôi à? – thì ra là ông Schaefer.

- Ồ không! Nhưng tôi vừa đọc được bức thư chân tình của bà nhà đăng trong cuốn “Những hiệu nghiệm kỳ diệu của phương pháp thực dưỡng đối với bệnh ung thư”. Xin ông cho được tiếp chuyện với bà nhà về việc này.

Ông ta nói: “Rất tiếc là bà xã nhà tôi không có mặt ở đây. Bà ta đang nằm chờ chết vì bệnh ung thư ở bệnh viện”.

- Ồ! Tôi biết ngay mà. Cảm ơn ông đã giúp tôi giải quyết được thắc mắc của tôi. Phương pháp thực dưỡng không trị được bệnh ung thư – Tôi sắp gác máy thì ông Schaefer gọi giật tôi trở lại:

- Hãy nghe tôi, thật ra nó rất hiệu nghiệm. Trong lúc bà xã nhà tôi áp dụng cách ăn uống này, quả là nó đã giúp ích cho bà ấy. Đúng là bà ấy có dấu hiệu khả quan. Nhung bà ấy không theo nổi, bà ấy ngán mấy cái món đó.

Tôi hỏi: Thế ông cho là nó đáng được lưu tâm? Tôi cũng sắp chết vì bệnh ung thư đây.

Ông Schaefer trả lời: “Vâng, đúng vậy”. Rồi ông cho tôi số điện thoại của Denny Waxman, chủ nhiệm East West Foundation ở Philadelphia, một cơ sở truyền bá phương pháp thực dưỡng OHSAWA.

Tôi quay số gọi Denny Waxman, và thế là tôi bước vào thế giới kỳ lạ của phương pháp thực dưỡng. Suốt 7 tháng tôi ăn cơm chung với gia đình Waxman, chia sẻ thức ăn của họ và nghe giảng lý thuyết của phương pháp thực dưỡng. Vì bệnh tình của tôi quá trầm trọng, nên Denny Waxman và vợ của ông đã cố gắng cho tôi ăn theo phương pháp triệt để. Mọi thứ tôi hay ăn và thích ăn nhất đều bị loại trừ như thịt, thức ăn chế từ sữa, cốc loại đã tinh chế như bánh mỳ trắng và các loại bánh làm bằng bột trắng, đường mỡ, hạt dẻ, trái cây, nước uống có ga, những thức ăn có gia vị hoá chất và chất bảo quản. Rượu là món cấm kỵ. Chế độ ăn uống của tôi chỉ gồm 50-60% cốc loại lứt, nhất là cơm lứt, 25% rau cỏ trồng tự nhiên ở địa phương đã nấu chín, 15% đậu và rong biển, phần còn lại là súp Miso và các loại dùng nêm nếm.

Tôi nghĩ đã phó mình vào tay một nhóm lang băm. Nỗi khốn cùng đã dễ dàng biến tôi thành một con mồi. Nhưng lâm vào ngõ bí, tôi không thể nào làm khác được. Hoặc là tôi chết hoặc là tôi phải thử một cái gì đó khác với những cái mà tôi đã thử. Duy có điều chắc chắn, đây là cái khác đó. Đến ăn tại nhà Waxman, tôi có gặp gỡ nhiều bạn ăn lứt nhiệt tình, tôi nghe họ nói về triết lý thực dưỡng mà lòng vẫn hồ nghi. Chứng bệnh này theo tôi biết qua sách vở thì vô cùng phức tạp, ở đây chỉ được xem như một trường hợp điển hình trong muôn vàn bệnh trạng được giải thích bằng quan niệm quân bình âm dương.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Jun 23 2007, 09:44 AM
Bài viết #15


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Sự thiếu lòng tin ở khả năng chữa trị của phương pháp thực dưỡng đã dần dần biến đổi đi mỗi khi nghe Denny Waxman đào sâu lý thuyết thực dưỡng, ông khởi sự nói về lịch sử dinh dưỡng ở Hoa Kỳ để chứng minh rằng từ đầu thế kỷ đến nay, cách ăn uống của chúng ta đã suy thoái trầm trọng. Vào năm 1990, người Mỹ chỉ ăn cốc loại lứt, rau quả tươi, còn các món ăn như thịt đỏ, các loại chế biến từ sữa, hoá chất nhuộm màu và thuốc bảo quản, chỉ chiếm mọt tỷ lệ rất nhỏ nhoi. Thức ăn nếu nhu vậy, chỉ còn gồm có carbonhyrat phức tạp lấy từ gạo mì lứt, khoai, gạo mạch và gạo tẻ.

Do công cuộc kỹ nghệ hoá của thế kỷ 20, sự dinh dưỡng càng nghiêng về những sản phẩm tổng hợp. Hiện nay, phần lớn những thức ăn của ta đều bị nhiễm hoá chất hoặc phân bón hoá học, hoặc thuốc trừ sâu. Rau cỏ bị tụt xuống làm thức ăn phụ trong khi thịt được xem là thức ăn chính. Chúng ta trở nên quen ăn thịt và những thức ăn gốc động vật, đến nỗi, 40% calo mà chúng ta tiêu thụ được lấy từ mỡ động vật, phần còn lại là lấy từ cốc loại xay sát trắng, rau quả đóng hộp, đường và hoá chất nhân tạo.

Đồng thời bệnh tật cũng bộc phát dữ dội, nhất là bệnh tim mạch và ung thư. Waxman xác nhận rằng sự tăng vọt của bệnh tật hầu hết là do sự suy thoái từ trong cách dinh dưỡng hiện nay của người Mỹ.

Ở nơi nào cách ăn uống gần với phương pháp thực dưỡng OHSAWA thì nơi đó ít bệnh ung thư, và các đồng nghiệp của vị bác sĩ tán dương ông ta đã tự chữa lành bệnh một cách kỳ diệu.

Ở những xứ người ta ăn uống nhưu phương pháp thực dưỡng, bệnh tim mạch và ung thư rất hiếm. Phương pháp thực dưỡng quan niệm rằng muốn chặn đứng cơn suy thoái này chỉ cần ăn uống đúng cách và có cuộc sống lành mạnh. Waxman cho rằng bệnh ung thư chỉ là một tình trạng mất quân bình trong cơ thể do ăn uống sai lầm. Sự quân bình sẽ được phục hồi khi ta chỉ ăn những thức ăn giúp cơ thể bỏ được các chất độc do thức ăn tinh chế tổng hợp, mỡ, hoá chất đem vào...

Chấp nhận luận cứ của Waxman đối với tôi là cả một vấn đề. Bảo rằng thức ăn là nguyên nhân sâu xa của bệnh ung thư thì quá đơn giản và khó tin so với sự nghiên cứu của y học về nguồn gốc của bệnh này. Waxman lại không đề cập đến những nguyên nâhn khác như di truyền, vi rút và những yếu tố gây ung thư hiện diện trong môi trường sống. Sau cùng, phương pháp thực dưỡng đòi hỏi niềm tin mà tôi lại không mấy tin tưởng. Tôi không thể tin mấy người này (hầu hết không được đào tạo tối thiểu về khoa học) lại có thể giải quyết được một vấn đề đã làm các bậc trí thức sáng suốt nhất nước ta phải bó tay.

Tuy vậy, tôi chấp nhận tiếp tục ăn cơm tại nhà Waxman. Tôi không còn quyền lựa chọn khi cái chết đã gần kề. Trong cơn tuyệt vọng, người ta không thể giữ mãi óc thành kiến, sự tự cao vì chúng đã trở nên vô dụng. Tôi chưa bỏ được lối chữa trị theo tây y (mỗi ngày chích kích thích tố nữ oestrogen) nhưng tôi phải cố gắng bỏ thuốc. Phương pháp thực dưỡng là lối thoát duy nhất mà tôi phải đi theo. Thế là kể từ tháng 9, chiều nào tôi cũng đến ăn cơm tại nhà Waxman, còn phần trưa hôm sau thì Judy sắp đặt cho tôi mang về. Buổi sáng tôi tự lo lấy, chỉ có bột gạo lứt và súp Miso. Vậy là tôi có thể yên tâm làm việc đủ giờ tại bệnh viện. Ngày nào toi cũng mang đến sở cái hộp gỗ nhỏ kiểu Nhật đựng bữa cơm lứt và rau. Ở bệnh viện, người ta nhìn tôi với vẻ tò mò lẫn thương hại, mắt họ đượm vẻ ngán ngẩm lạ lùng như thể tôi đã bỏ rơi họ. Hẳn họ nghĩ rằng: “Cha đó tin bọn lăng băm”.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Jun 23 2007, 09:52 AM
Bài viết #16


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Tôi vẫn bị đau nhức hành hạ, kích thích tố nữ làm tôi phát phì. Chỉ có mấy tuần lễ mà trọng lượng cơ thể tăng từ 70 đến 85 kg. Nước bị giữ lại trong người làm cơ thể trương lên và da bị ngứa ngáy khó chịu. Để giải khuây, tôi lao vào nghiên cứu đề án khuyếch trương bệnh viện, và phương pháp thực dưỡng. Tôi đâm ra mê say triết thuyết này và mỗi lần ngồi vào bàn ăn ở nhà Waxman tôi lại trở thành một cậu sinh viên ngoan ngoãn.

Trong vài tuần lễ đầu, tôi nghe bệnh tình có đôi chiều thay đổi. Rồi đột nhiên tấn tuồng sân khấu mở ra. Ngày 26-9-1978, vào ngày thứ 3, như thường lệ, tôi thức giấc vào lúc 6 giờ sáng. Mắt nhắm, mắt mở, tôi vớ tay lấy chai percodan để trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường. Đó chỉ là phản xạ có điều kiện, thình lình tôi sững người ra vì có một cảm giác lạ, chứng đau nơi lưng không còn nữa. Sau hai năm quằn quại vì chứng đau lưng, chỉ có hàng lô thuốc chấn thống an thần mới làm dịu đau đôi chút, thì nay, bỗng nhiên tôi lại hết đau, chẳng khác nào người ta mới cởi hộ tôi cái áo quá chật.

Vừa tới văn phòng, tôi gọi điện thoại báo tin cho Waxman ngay. Tôi hỏi ông ta có phải nhờ ăn uống không?

Waxman trả lời: “Đúng đó anh Tony. Đấy là dấu hiệu quan trọng. Giờ thì mọi sự đang trở nên tốt lành”.

Tuy nhiên, mấy tuần sau đó, niềm hân hoan lại nhường chỗ cho nỗi âu sầu. Cuối tháng 10, tinh thần tôi rơi rụng theo lá úa. Tôi phải chịu đựng hai thử thách, bệnh ung thư và phương pháp thực dưỡng. Nội bệnh ung thư cũng đã đủ làm cho người xung quanh khó chịu. Những người này hoặc tỏ ra quá chú ý đến tôi hoặc xa lánh tôi như là bệnh ung thư rất hay lây.

Phương pháp thực dưỡng chỉ làm cho tình hình rắc rối thêm. Tôi tìm cách thoái thác không đi ăn nhậu với bạn bè và đồng nghiệp nữa. Vì lý do ngề nghiệp, tôi buộc lòng phải tham gia bữa tiệc thì tôi mang phần ăn theo. Trong lúc mọi người đang xẻ thịt thì tôi mở hộp gỗ lôi mấy nắm cơm lứt và rau ra ăn. Phần đông các bạn đồng nghiệp tò mò nhìn tôi ra vẻ khoan dung: “Ờ! ờ cũng ngon đấy, Tony!”. Nhưng những người khác lại tỏ ra nghiêm khắc, họ khong còn nói chuyện với tôi. Lẽ tự nhiên, tôi hiểu rõ tình cảm tâm tư của họ. Giới bác sĩ xem lối trị liệu khác với tây y là điều thuộc phường lang băm và mang tính chất phỉnh gạt công chúng. Khi thấy tôi áp dụng lối trị liệu khác lạ, họ cho là tôi đang gây uy tín cho một phương pháp có thể gây nguy hại cho những bệnh nhân khác.

Mặc dù có những vấn đề xã giao đắng cay này, tôi đã bắt đầu tin rằng, lối ăn uống có vẻ điên khùng này đem lại cho tôi một thể chất tốt đẹp mà nhiều năm tôi chưa hề biết. Thí dụ 20 năm nay, tôi bị đau ruột kinh niên, tốn biết bao nhiêu là thuốc mà không khỏi. Vậy mà chỉ ăn uống theo lối thực dưỡng đôi tuần lễ, bệnh về đường tiêu hoá đã biến mất, nhất là sinh lực trở lại dồi dào và tinh thần sáng suốt hơn trước kia bội phần. Thoạt tiên, tôi cho là nhờ giải phẫu mà tôi có được thể chất và tinh thần đó. Nhưng càng ngày, sức khoẻ càng tăng tiến khiến tôi phải công nhận rằng thức ăn đã có liên quan phần nào.

Ngày 22 tháng giêng năm 1979, tôi cho thử máu và gan tại bệnh viên Methodist. Hôm sau kết quả được chuyển đến bác sĩ Sheldon Lisker để ông này giao cho tôi. Cách đây 7 tháng vào ngày 31 tháng 5 năm 1978, những kết quả thực nghiệm đã xác định bệnh ung thư hiện diện. Mức alkalin phosphatase trong máu là 69, trong khi mức bình thường là từ 9 đến 35. Kết quả về SGOT và SGPT thử nghiệm về gan và xác định mức ung thư là 100 và 273, trong lúc con số bình thường xê dịch trong khoảng 13 và 40.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Jun 23 2007, 10:04 AM
Bài viết #17


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Nhưng ngày 23-1, những kết quả lại cho thấy sự thay đổi khả quan. Mức alkan phosphatase tụt xuống 36, SGOT còn 21 và SGPT còn 27. Tình trạng sức khoẻ của tôi đã cải thiện thấy rõ. Bác sĩ Lisker cho là nhờ cắt bỏ dịch hoàn và chữa bằng oestrogen. Ông cho rằng đấy là những dấu hiệu tốt và đây là trường hợp ngoại lệ. Nhưng ông ta vẫn dè dặt khi giải thích những kết quả thử nghiệm, ông nói “điều này khong có nghĩa là ung thư đã bị loại trừ và thuyên giảm. Có thể bệnh chỉ tạm thời ngừng phát triển”.

Dầu sao tôi cũng rất phấn khởi. Tôi đọc lại hồ sơ bệnh lý của những người mắc bệnh cùng loại ung thư như tôi, thì thấy rằng trường hợp của tôi là độc nhất vô nhị. Khi xem xong kết quả thử nghiệm, tôi dè dặt hỏi Sheldon xem ông ta có nghĩ rằng cách ăn uống của tôi có liên quan gì đến sự cải thiện sức khoẻ này không.

- Không, Tony ạ. Tôi không thấy một bằng chứng khoa học nào có thể khiến tôi nghĩ rằng cách ăn uống của anh đóng vai trò nào trong việc điều trị bệnh ung thư, dẫu là vai trò khiêm nhường mà anh mới nêu ra.

- Thôi được, Sheldon, có lẽ không có bằng chứng nào thật, nhưng tôi bắt đầu tin rằng phương pháp ăn uống này đang giúp tôi. Tôi không rõ nguyên nhân vì sao, nhưng rõ ràng tôi thấy khoẻ ra nhiều, hơn cả những điều anh phỏng định về tình trạng cải thiện sức khoẻ nhờ giải phẫu.

Tháng 6-1979, tôi lái chiếc xe đến Phoenxville để nhờ ông Michio Kushi khám lần thứ hai. Michio Kushi là người sáng lập East West Foundation và hãng buôn bán thực phẩm thiên nhiên Erewhon. Ông đã viết nhiều sách về y học cổ truyền Đông phương và là người đứng đầu phong trào thực dưỡng ở Hoa Kỳ.

Như những thầy thuốc cổ truyền đã làm từ nhiều thế kỷ nay, Michio Kushi dùng khoa chẩn bệnh Đông phương để xem xét tình trạng sức khoẻ của người bệnh. Chỉ cần xem qua diện mạo mắt, chẩn đoán một vài nơi trên cơ thể, ông biết rõ bệnh trạng không hề sai chạy. Sau khi dùng ngón tay cái ấn nhiều nơi trên người tôi, Michio ngồi thẳng lên và nhìn tôi chăm chú như để ghi nhớ khuôn mặt tôi.

- Ông Tony, ông đã khỏi bệnh ung thư, ông đã chiến thắng được bệnh.

Một bức tường đầy căng thẳng, chán chường, tuỵêt vọng và đau đớn đột nhiên sụp đổ. Nỗi vui mừng tràn ngập lòng tôi nư một làn nước mát. Tôi hỏi Kushi khi nào có thể khám xương bằng quang tuyến. Tôi muốn có thực chứng khoa học xác nhận tôi đã chiến thắng bệnh ung thư.

Michio nói:

- Nguy hiểm lắm ông Tony ạ! ông nên biết rằng dùng quang tuyến là đi ngược với đường lối dưỡng sinh - rồi Kushi khuyên tôi nên đợi đến tháng chạp.

Tôi giải thích: “Tôi cần giải thích, và chỉ có cách đó thôi”.

Bị thúc đẩy bởi vì nỗi nghi ngờ còn vương vấn, tôi quyết định trắc nghiệm cách ăn uống của tôi, vào giữa tháng 6-1079, tôi bỏ hẳn không dùng oestrogen nữa, và kể từ đó đến nay, tôi không bao giờ phải dùng kích thích tố nữa. Đồng thời tôi hẹn khám xương vào ngày 27 tháng 9.

Sáng sớm mùa thu hôm đó, trên đường lái xe đến nơi làm việc, tôi thì thầm cầu nguyện như thể đang đi đến đoạn đầu đài. Đến bệnh viện, tôi xuống ngay phòng quang tuyến. Bác sĩ Renzi lại tiêm chất phóng xạ vào người tôi. Trong khi chờ đợi 3 tiếng đồng hồ cho thuốc thấm khắp cơ thể tôi, Renzi đến gặp tôi tại văn phòng để thổ lộ với tôi những gì ông đang mong đợi trong cuộc khám xương này. Đề cập đến những bản thử nghiệm máu và gan, ông nói: “Tony, anh đã chặn được bệnh. Nếu các tấm phim cho thấy bệnh không còn phát triển nữa thì cũng là dấu hiệu tốt rồi”. Tuy nhiên, Renzi cũng khuyên tôi không nên thất vọng nếu thấy những xương vẫn bị bệnh giống tình trạng đã thấy ngày 31-5-1978.

“Phải mất nhiều thì giờ để xương lành lặn. Bệnh anh quá nặng nên không thể trông mong có sự thay đổi nào trong vòng 13 tháng”. Renzi rời ghế đứng lên, bắt tay tôi và nói: “Hai giờ nữa mình gặp lại nhau”.

Khi đã nằm yên trên phòng quang tuyến, tự dưng tôi thấy bồn chồn lo lắng, tôi nhìn vào máy rà xương và đâm ra sợ hãi một cách phi lý. Không thể mong đợi lòng từ tâm nơi cái máy lạnh lùng này. Tôi biết rằng nó sẽ lục soát khắp người tôi như một con quỷ khát máu cố tìm cho được những u ung thư.

Tuy nhiên, khi nhắc lại những lời chẩn đoán của Michio Kushi tôi lại cảm thấy hy vọng.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Jun 23 2007, 10:05 AM
Bài viết #18


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



Renzi cho máy chạy, nó bắt đầu kêu rù rù. Khi ông chĩa cái trống nhỏ vào đầu tôi, tiếng tích tắc phát ra, máy đã bắt được chất phóng xạ tản mát trong người tôi. Những âm thanh vẫn đều đặn bình thường. Tôi nhìn vào bộ phận dao động và thấy hình rọi của đầu tôi. Không thấy vết đen nhu đã thấy trước đây 15 tháng. Sọ tôi không còn u nữa. Renzi dịch đầu cảm ứng xuống vai tôi. Tiếng kêu vẫn không thay đổi, trên màn ảnh vẫn không có vết đen, vai tôi đã lành. Renzi rà từ đầu đến chân, Renzi rà cẩn thận ở những nơi trước đây có ung thư như háng, lồng ngực, xương sống và cơ quan sinh dục. Trong khi máy rà lục lạo khắp cơ thể thì tim tôi, toàn cơ thể phập phồng theo nhịp điệu của máy kêu. Mỗi lần cái trống dừng lại nơi nào, tôi lại nhìn vào bộ phận dao động, tất cả đều bình thường, xương đã lành, ung thư đã biến mất, còn Renzi thì sững sờ. Tôi bước xuống bàn để người ta chụp X quang. Cơ thể chẳng còn dấu vết sưng u. Renzi vô cùng kinh ngạc thú nhận với tôi rằng: Chưa bao giờ ông thấy cảnh như thế. Còn tôi thì quá đỗi vui mừng. Tôi ôm chầm lấy Renzi xiết mạnh. Ông nói: “Anh Tony này, tôi chẳng biết gì về việc anh làm cả. Nhưng cứ tiếp tục đi! Lạy trời, cứ tiếp tục đi”.

Chiều lại, tôi mang kết quả quang tuyến đến hco Sheldon Lisker, cũng như Renzi, ông chỉ mong thấy được vài thay đổi nhỏ trong bệnh tình của tôi. Lisker nói: “Anh Tony này, tôi thật sung sướng khi thấy anh được như vậy. Nhưng dù sao tôi cũng cần cho anh hay là chúng mình vẫn phải tiếp tục theo dõi những diễn biến của bệnh”. Rồi ông tuyên bố “Ngày hôm nay tất cả những kết quả của các cuộc xét nghiệm đã cho thấy anh hoàn toàn bình phục. Tôi xin chúc mừng anh”. Ông cười và xiết tay tôi.

Tôi hỏi: “Sheldon này, anh nghĩ cái gì đã gây ra tình trạng cải thiện này?”.

- Thành thật mà nói, tôi không biết gì hết, tôi chỉ có thể cho rằng sự điều trị lâu nay: cắt bỏ dịch hoàn và dùng oestrogen đã giúp cơ thể anh đủ sức chống lại bệnh ung thư.

Tôi hỏi: “Thế có bao giờ anh thấy được trường hợp như tôi không?”

- Không, trường hợp của anh rất hiếm, tôi cũng biết một vài trường hợp như thế được ghi trong sách vở Anh quốc. Theo tôi nghĩ có lẽ chúng ta cần nghiên cứu những trường hợp như thế này để xem có điểm nào tương tự.

Tôi hỏi thêm: Có bao nhiêu người sống được 5 năm?

Sheldon nói: “Anh Tony này, có lẽ chúng ta nên ném hết sách vở qua cửa sổ. Khi xương lành lặn thì bệnh đi về đâu? Về điểm này, chúng tôi không biết cái gì đến với anh, vì vậy, chúng tôi yêu cầu anh xem chừng thể trạng của mình.

Lúc đó, Lisker mới nói với tôi rằng: không biết có nên khuyên anh bỏ cách ăn uống theo phương pháp thực dưỡng để dùng lại oestrogen hay không nhưng phương pháp ăn uống này hình như đã giúp anh thành công. Chúc anh ưng ý.

Những tháng tiếp theo, tôi bắt đầu cuộc sống mới, lòng đầy hân hoan và tin tưởng, thể xác tâm hồn như được tái sinh.

Tuy nhiên, cuối năm 1980, tôi lại lo âu. Tháng 9, lưng đau trở lại, thágn 10 phát hiện một vết sưng nhỏ nơi sườn số 8 bên phải. Bệnh ung thư trở lại chăng? U ung thư nổi lên từng đám chăng? Có phải 15 tháng qua tôi không dùng oestrogen nên bệnh ung thư đủ sức tái phát.

Các bạn ăn gạo lứt quả quyết rằng: Vết đen đó chỉ là dấu hiệu cơ thể tiếp tục đào thải độc tố, nay mai sẽ hết. Hai ngày sau lễ Nôen, tôi cho rà xương. Vết đen hầu như biến mất. Renzi cho tôi biết cục u giờ chỉ là một vết mờ. Tôi lại tin tưởng.

Ngày 6-8-1981, tôi lại cho rà xương lần thứ 6 trong 3 năm. Vết xám mờ ở bên sườn phải đã hoàn toàn tan biến. Khắp người không còn dấu vết ung thư. tôi được các bác sĩ chẩn đoán là hoàn toàn bình phục.

Hiện nay, sức khoẻ của tôi tốt hơn bao giờ hết, kể từ 30 năm nay, chức vụ Giám đốc bệnh viện Methodist và những buổi diễn thuyết thường xuyên của tôi về phương pháp thực dưỡng và bệnh ung thư làm tôi bận rộn vô cùng. Lúc nào tôi cũng thận trọng trong cách ăn uống, có điều tôi đã ăn nới rộng, thêm rau củ và trái cây.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Jun 23 2007, 10:06 AM
Bài viết #19


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



MÌ CHÍNH - KẺ THÙ NGỌT NGÀO

I.LỊCH SỬ BỘT NGỌT – MÓN GIA VỊ CHẾT NGƯỜI

Cách đây hàng ngàn năm khi người Nhật bắt đầu dùng rong biển làm thực phẩm, họ phát hiện ra loại rong lá (có tên khoa học Laminaria japonica) còn là một loại gia vị hảo hạng. Vào thời ấy, hoạt chất của loại rong lá làm cho thức ăn có hương vị đậm đà (do acid glutamic) chưa được nhận diện.

Vào năm 1980, nhà bác học Rittenhausen ở Humburg (Đức) đang tìm kiếm để xác định cơ cấu của các protêin động vật, đặc biệt là acid amin kể cả acid glutamic. Họ là các nhà khoa học thuần tuý, cố gắng nhận ra các đặc tính hoá học của các protein khác nhau. Tuy nhiên, công trình của họ trở nên thiết yếu cho Kikunae Ikeda nhận diện được hoạt chất của rong biển làm cho thức ăn thêm có vị và việc sản xuất hoạt chất đó.

Ikeda là một thanh niên Đông Kinh, theo học Viện đại học Đông Kinh và tốt nghiệp khoa hoá vào năm 1889. Sau một thời gian ngắn dạy trung học, ikeda qua Đức tu nghiệp và có quan hệ với WOff trong nghiên cứu hoá học về protein acid glutamic được tổng hợp trong suốt nhiều năm tập sự.

Trở về quê hương, Ikeda làm việc cho khoa hoá của Viện Đại học Hoàng gia Đông Kinh. Vào năm 1908, khi trở nên thành viên thực thụ của giáo sư đoàn, ông bắt đầu nghiên cứu loại rong biển mà vợ ông vẫn dùng để làm cho món xúp thêm ngon,, và chẳng bao lâu ông nhận diện được hai thứ hoạt chất làm cho thức ăn có vị đậm đà đó.

Ông khám phá ra thứ hoạt chất trích từ loại rong biển ngon ngọt kia có những đặc tính của acid glutamic, và hoạt chất đó là monosodium glutamate, một muối của acid glutamic. Phát hiện của ông mang nhãn hiệu trình toà của Anh với Paten số 9440 – nhan đề “sản xuất chất liệu gây vị” ngày 21 tháng 4 năm 1909.

Kikunae Ikeda biết mình đang nắm trong tay bí quyết có nhiều áp dụng thực tiễn. Trong lúc giảng dạy tại Viện đại học Hoàng gia, ông vẫn nộp hồ sơ để có được những patent bảo đảm quyền sáng chế của mình trên các quy trình công nghiệp mang tính thương mại, trước là dùng protein của lúa mì phân rã về sau dùng protein đậu nành.

Vào năm 1909, ông kết hợp với một nhà kinh doanh có khiếu làm ăn tên là Saburosuke Suzuki – nguyên là một dược sĩ - thuyết phục ông này rằng họ sắp phất lớn nhờ cung cấp cho thế giới một chất mới tạo vị. Họ chọn từ “Aji – no – moto” làm tên cho sản phẩm trình toà của mình và về sau nó trở thành tên của công ty có trách nhiệm triển khai sản xuất và phân phối bột ngọt trên toàn thế giới. “Aji” có nghĩa là nguồn gốc, sự khởi phát, hay cơ bản; còn “moto” có nghĩa là vị hay hương vị. Vì vậy Aji – no – moto theo từng từ có nghĩa là “Ngay tại nguồn gốc của hương vị”.

Đến năm 1933 sản xuất bột ngọt tại Nhật Bản đạt đến 4 triệu rưỡi kilogram hàng năm, và bột ngọt trở thành món gia vị quan trọng hàng đầu ở Đông phương. Ngày nay Aji – no – moto cung cấp hơn phân nửa nhu cầu bột ngọt trên toàn thế giới.

Vào thời kỳ trứng nước của ngành sản xuất bột ngọt thế độc quyền Aji–no–moto chỉ bị thách thức có một lần. Trung Hoa bắt đầu sản xuất bột ngọt những năm 1920, đến năm 1930 sản lượng hàng năm là 200.000 kilôgam. Vào giữa những năm 1930, Trung Hoa là mối đe doạ nghiêm trọng trong việc cạnh tranh thị trường bột ngọt với hai loại bột ngọt mang nhãn hiệu Ve-tsin. Thế nhưng khi chiếm đóng các tỉnh ven duyên hải, Nhật đã dẹp các nhà máy không cho làm bột ngọt nữa.

Mặc dù cố gắng rất nhiều từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Aji – no – moto vẫn khó thâm nhập vào Hoa Kỳ. Câu chuyện Aji – no – moto đến Mỹ không gây mấy ảnh hưởng và nhân vật kích cho nó được triển khai bị đi vào lãng quên.

Vào năm 1925, James E. Larrowe và Công ty Larrowe Milling tiếp xúc với Công ty gia vị Suzuki yêu cầu giúp đỡ xử lý “nước thải” trong quy trình làm đường củ cải sao cho có lợi vì nước thải có chứa acid glutamic với hàm lượng đáng kể. Người ta gọi loại này là “nước thải của ông Stephen” theo tên của nhà khoa học đã triển khai quy trình xử lý. Vào năm 1925, Hoa Kỳ hay chính xác hơn Công ty Larrowe Milling thặng dư chất này sau Đệ nhất Thế Chiến.

Lúc ấy Hoa Kỳ bị cạn nguồn potash (của Đức) để làm phân bón và việc rút các muối kali (potassium) từ nước thải trở nên nguồn lợi hấp dẫn. Nhiều nhà máy chế biến củ cải đường chuyển qua nhà máy potash vì giá potash quá hấp dẫn: 400 Mỹ kim một tấn. Nhưng vào năm 1918, khi cuộc chiến chấm dứt, giá potash hạ xuống đến chóng mặt cho nên Công ty Larrowe bị ứ đọng hàng ngàn tấn “nước thải của ông Stephen” chứa trong các bồn lớn ở thành phố Mason City (bang Lowa). Larrowe đã mở rộng việc sản xuất potash hy vọng đáp ứng nhu cầu về potash và giờ đây bị kẹt vốn nặng nề. Ông phải tìm cho ra cách sử dụng loại nước thải này.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Jun 23 2007, 10:09 AM
Bài viết #20


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



• Bột ngọt làm bằng nước thải – phát hiện Hoa Kỳ

Bột ngọt hay mì chính, là thứ gia vị phổ biến đến nỗi làm món ăn gì người ta cũng nêm nó cả. Tệ hại hơn nữa, gian thương còn trộn thêm chất độn - kể cả những chất độc hại – hòng trục lợi mặc dù bản thân bột ngọt cũng đủ có hại cho sức khoẻ của chúng ta rồi.

Sử dụng nước thải bằng mọi cách - kể cả dùng nó làm chất chống băng giá cho xe hơi đã gặp thảm bại. Trong khi tuyệt vọng, Larrowe đến Viện nghiên cứu Công nghệ Mellon ở thành phố Píttburg, bang Pennsylvania, và trình bày nỗi khổ của mình. Ấy là vào năm 1923, nước thải đã chờ đợi suốt năm ròng. Vốn lên đến hàng triệu Mỹ kim bị giam, còn nước thải thì dường như là loại nguyên liệu chỉ đợi vứt đi.

Sau khi suýt làm hư chiếc xe mới toanh hiệu Packard của mình, Larrowe muốn Viện nghiên cứu Công nghệ xác định tại sao không thể dùng nước thải làm chất chống đóng băng giá. Tiến sĩ Đonald Tressler, một nhà khoa học trẻ được cấp một học bổng nhằm phân tích và tìm ra cách sử dụng nước thải có hàm lượng lượng acid glutamic cao này. Sau khi hỏi ý kiến của thầy mình là Giáo sư Elmer Mc Collum, một nhà khoa học nổi tiếng về sinh tố tại Viện Đại học John Hopkins, ông khuyên Larrowe nên bỏ việc dùng nước thải để làm chất chống đóng băng giá mà nên tiến hành việc dùng nó để làm bột ngọt.

Larrowe tiếp xúc với Suzuki và Ikeda đề nghị họ nên mua loại nước thải giàu acid glutamic của mình. Năm 1926, Tiến sĩ Ikeda, Suzuki và con trai rời Nhật Bản, vất vả tìm đường qua thành phố Mason (bang Lowa)

Đoàn của Công ty cho rằng họ có thể sản xuất bột ngọt và bán nó ở Phương Đông và Hoa Kỳ qua Công ty Larrowe – Suzuki. Về mặt kinh tài mà nói, vụ hợp tác này là một thảm họa đối với Larrowe, nhưng ông vẫn quyết tâm làm cho được bột ngọt từ loại nước thải của mình.

Tiến sĩ Ikeda qua đời vào năm 1931, năm năm sau Suzuki cũng quy tiên, việc làm ăn giữa Larrowe và Suzuki chấm dứt. Lúc ấy Larrowe đã vào tuổi thất tuần, sức khoẻ kém mà vẫn chưa sử dụng được nước thải của mình cho có lợi dù đã rót vốn rất nhiều vào rồi. Tiến sĩ Albert Marshall là cố tri của Larrowe, vô cùng khâm phục quyết tâm của bạn. Quả vậy, theo Marshall chỉ có dùng lời của Shakespeare mới diễn tả nổi con người của Larrowe: “Những gì ta mưu cầu, ta sẽ đạt được và đó là một cứu cánh”.

Dù có sanh lợi hay không, cuối cùng rồi Larrowe cũng tìm ra cách sử dụng loại nước thải của mình: sản xuất bột ngọt. Công ty của ông, Amino Products, chung cuộc lại về tay Công ty International Mineral and Chemicals (Công ty khoáng và hoá chất quốc tế).

Dù được sản xuất ở Hoa Kỳ, bột ngọt vẫn không được chấp nhận làm gia vị cho thức ăn của người Mỹ. Trớ trêu thay, vào Đệ nhị Thế chiến, binh lính Mỹ quan tâm đến việc Nhật Bản dùng bột ngọt trong khẩu phần ăn của lính Nhật. Sau cuộc chiến, có một hội nghị bàn về việc sử dụng bột ngọt, đặc biệt là để làm những thực phẩm dùng trong cuộc hành quân cũng như cho ngành công nghệ thực phẩm đông lạnh ở vào thời kỳ trứng nước.

Vào năm 1948, cuộc hội thảo đầu tiên về bí ẩn của bột ngọt được tổ chức tại khách sạn Stevens ở Chicago và được Chỉ huy trưởng Cục hậu cần chủ trì. Muốn hiểu ra niềm phấn khởi phát sinh từ cuộc họp này, chúng ta hãy quay vè dĩ vãng. Năm 1948...

Hãy tưởng tượng bạn là một thành viên có tầm cỡ trong nền công nghiệp thực phẩm được mời đến Chicago vào năm 1948 để nghe về điều kỳ diệu của một loại gia vị: một bí quyết làm cho thức ăn của quân đội Nhật bản ngon hơn. Vừa bước vào phòng họp, bạn được Franklin Dove - Trưởng ban thực phẩm và đóng gói thuộc Cục hậu cần, một nhà thông thái – đón tiếp. Rồi lại được Giám đốc Viện hậu cần vồn vã cho biết ông cũng mong đợi sự kiện này mà lòng tràn trề hy vọng. Ông nói: “Tôi rất tò mò về cái chất kỳ lạ này”. Nhìn quanh, bạn nhận ra toàn những khuôn mặt lớn, có vai vế lãnh đạo ngành công nghiệp thực phẩm, chế biến thực phẩm và phân phối trên toàn nước Mỹ.

Cuộc họp này đánh dấu một cuộc cách mạng Hoa Kỳ trong thực phẩm, một sự kiện kéo dài trong tám tiếng đồng hồ có hậu quả liên hệ đến triệu triệu con người qua một thời gian rất dài.

Nhìn khắp đại sảnh, bạn thấy ai nấy đều chăm chú hăng say ghi ghi chép chép trong khi từng diễn giả đưa ra các bài tham luận không tiếc lời ca tụng loại bột ngọt thần diệu này, không khí phấn khởi bao trùm lên phòng họp. Bột ngọt đã được đăng quanh. Nền công nghiệp thực phẩm bột ngọt của Hoa Kỳ cất cánh đi vào hoạt động. Và nếu những phát hiện tuyệt vời nêu trên chưa đủ thì những lời phát biểu của diễn giả cuối cùng chả khác gì một lớp kem ngon lành phủ lên trên chiếc bánh tuyệt hảo.

Tiến sĩ Carl Pfeiffer thuộc trường Y của Viện Đại học Illinois là một bậc thầy nổi tiếng trong ngành Y dã dành thì giờ đến dự buổi họp này và thông báo rằng nay các nhà khoa học đang bắt đầu thử nghiệm để xem bột ngọt có tác dụng trong việc nâng cao chỉ số trí tuệ thông minh của các người có trí tuệ chậm lụt. Thật ra thì những ai tham dự hội nghị chẳng cần được động viên hơn nữa, thế nhưng thông tin mới này chả khác nào thứ động cơ có sức đẩy mãnh liệt.

Còn nền công nghiệp thực phẩm chẳng mảy may nghĩ đến mặt đen tối, xấu xa của loại bột nêm thần diệu này mà hậu quả là gây ra hội chứng bột ngọt.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post

3 Trang V  < 1 2 3 >
Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 28th May 2024 - 02:24 PM