IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

 
Reply to this topicStart new topic
> PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH ĐỐI VỚI TÔI, Một bài viết nổi tiếng về Thực dưỡng
Diệu Minh
bài Sep 20 2007, 08:31 AM
Bài viết #1


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 17,706
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5




Nhà thơ Vương Từ hiện sống ở Mỹ, ông viết bài này khi ông gần 30 tuổi, cách đây đúng 34 năm, nhưng nội dung bài viết không bị xoá đi theo thời gian vì nó đã chứa đựng được sự thật quí giá ngàn đời ...

Chúng ta rất may mắn có được một người Thực dưỡng "sành điệu" như ông, sau đây là nội dung bài viết đó, tuy nhiên mạn phép ông đã trích dẫn 5 loại thức ăn cho thiền nhân... tôi đã có chỉnh sửa cho dễ hiểu hơn:


PHƯƠNG PHÁP DƯỠNG SINH ĐỐI VỚI TÔI


Trong bảy mươi hai vị hiền thời Xuân Thu có một người mà tôi không bao giờ quên được, đó là Nhan Hồi, người chỉ với một giỏ cơm, bầu nước hay ở nơi thôn vắng nhưng lòng rất vui, vui đến nỗi Khổng Tử phải thèm, phải tán thán không tiếc lời. Hình ảnh Nhan Hồi in đậm vào tâm trí tôi bởi tôi đã băn khoăn thắc mắc thật nhiều điều về ông ta, tôi nghi ngờ niềm vui của Nhan Hồi, và tôi cho đó chỉ là một hình ảnh tượng trưng cho một tâm hồn an bần lạc đạo hơn là một cuộc đời có thật. Hình ảnh của Nhan Hồi vừa gần gũi với cuộc sống thường tình, vừa rất xa vời thế tục nên thành một ám ảnh trong tâm trí tôi mà mọi giải thích không làm tôi thoả mãn, cho đến một ngày tình cờ đang khi nhai miếng cơm ăn tôi bỗng cảm nhận rõ ràng cái vui của Nhan Hồi là thật, tôi thích thú đến như một kẻ cuồng, như đang lên đồng, mà cái hồn ma nhập trong tôi ấy chính là Nhan Hồi, hay đúng hơn là cái vui của Nhan Hồi.

Biến cố nhỏ nhặt ấy chẳng ngờ lại là chuyển biến lớn lao cho cuộc sống của riêng tôi. Trước đó không ai có cách chi làm cho tôi tin được cái vui của Nhan Hồi là thật thì chỉ một phút sau không ai có thể làm cho tôi nghi ngờ được cái vui của Nhan Hồi là chuyện viển vông, và duyên nợ giữa tôi và Dưỡng sinh thực sự từ giây phút đó, dù rằng tôi biết phương pháp Dưỡng sinh của OHSAWA đã lâu và đã thực hành phương pháp ấy để trị bệnh cũng như để bớt phần tốn kém trong việc ăn uống. Cái giá trị chữa bệnh của phương pháp Dưỡng sinh cũng như cái lợi đỡ tốn kém tiền bạc trong việc ăn uống thì tôi thấy rõ ràng ngay trong tháng đầu thực hành, nhưng cái thú vị, tuyệt diệu và tối thượng của Dưỡng sinh thì phải nhiều năm sau tôi mới tình cờ bắt gặp, và đến bây giờ thì Dưỡng sinh đối với tôi không còn là một phương pháp hay một cách chữa bệnh, tiết kiệm mà trở thành cái đạo, Đạo sống.
Kinh nghiệm về một miếng ăn không những chỉ giúp tôi hết lòng ngờ về chuyện Nhan Hồi mà đồng lúc còn giúp tôi thấy rõ nhiều vấn đề khác mà từ lâu đối với tôi chỉ là kiến thức, bây giờ trở thành sự thật, đó chính là cơ duyên cho tôi vào “đạo” Dưỡng Sinh, và là ánh sáng cho tôi thấy được sự cao cả của các tôn giáo, để hiểu hơn đời sống của các vị giáo chủ, các bậc thánh mà tôi được biết. Đối với Lão, Trang, Dưỡng Sinh chính là Đạo, được trình bày trong Nam Hoa Kinh qua hai chương Dưỡng Sinh Chủ và Đạt Sinh, còn trong các tôn giáo khác, Dưỡng Sinh vẫn là nền tảng được nói đến qua những lời răn, giới luật và các nghi lễ, bí tích, riêng đối với Gandhi chúng ta thấy ông là người cẩn thận về chuyện ăn uống rất mực và làm chủ vị giác được nêu làm một trong những nguyên tắc chính cho giáo lý của Thánh Gandhi.
Thánh Gandhi quả thật xứng đáng cho cả Thế giới kính phục về sự cao cả vĩ đại của ngài, ngài là bậc Đại Hùng Tâm, là bậc Sư trưởng của nhân loại, nhưng riêng về khía cạnh Dưỡng Sinh thì Gandhi cũng lầm lạc như bất cứ ai, mặc dù vấn đề ăn uống được ngài hết sức chú ý và làm chủ vị giác được nâng lên thành nguyên tắc thứ tư. Gandhi suốt đời không dùng thuốc men dù đau ốm đến thập tử nhất sinh cũng mặc, nếu ai đọc Tự truyện của ngài thì sẽ thấy ngài rất hay đau ốm, nguyên nhân chính là ngài ăn những thức ăn quá âm mà không tự biết. Một tinh thần tinh thâm Đạo học, luôn luôn tự chủ, tự giác, tự trừng như Gandhi mà vẫn chưa thấy rõ ảnh hưởng của thức ăn một cách sâu sắc, làm cho ta cảm thấy sự độc sáng của OHSAWA và sự đóng góp lớn lao của tiên sinh cho nhân loại đau thương này.

Còn Lão Tử tuy được các Đạo gia xem như là người nắm được bí quyết của thuật luyện đơn, trường sinh bất tử nhưng trong Đạo đức kinh lại không đề cập đầy đủ về Dưỡng Sinh bằng ở Nam Hoa kinh. Trang Tử có thể xem như là người am tường vấn đề Dưỡng Sinh và cũng là người đạt sinh hơn cả. Với Trang Tử, sinh tử vốn cùng một mối, lo tròn được việc sống cũng đồng thời giải quyết xong việc chết, nên Dưỡng Sinh chẳng phải chỉ việc lo cho thân xác được khang kiện vô bệnh là đủ mà còn lo gìn giữ chân tính bên trong cho được vẹn toàn nữa. Chuyện Đơn Báo ở trong núi uống nước suối quên danh lợi, đã bảy mươi tuổi mà nhan sắc còn như đứa con nít rủi bị cọp đói bắt ăn, cũng như chuyện Trương Nghị luồn lỏi cầu cạnh công danh đến nỗi bốn mươi tuổi bị nội nhiệt mà chết đều là những kẻ thái quá hay bất cập, chưa hiểu cái Đạo Dưỡng Sinh nên bị tàn hại cái sống thương tổn cái tánh một cách đáng thương cả.

ở nơi chốn gươm giáo cha con bạn bè dễ thấy để khuyên nhau tránh sự chết chóc, nhưng trong chốn phòng the, nơi bàn ăn uống thì người ta tự đắm đuối đam mê, tự hoại tự diệt mà nào mấy ai thấy được để khuyên nhau cùng tránh, mới hay con người chết vì gươm giáo thì ít, mà chết vì vật dục lợi danh thì không biết đến đâu mà kể, và càng chết con người lại càng hăm hở dấn thân vào. Bá Di chết vì danh, Đạo Chích chết vì lợi, nhìn chỗ sai thù thì có quân tử tiểu nhân, nhưng cả hai đều là kẻ tự mình tàn hại cái sống thương tổn cái tánh, đều chưa am tường cái Đạo Dưỡng Sinh, đều chưa đạt sinh hết thảy. Ôi ! Đạo sống khó thay! Nói gì đứa tiểu nhân mà ngay cả người quân tử chắc gì đã nắm được nó.

Nhưng cho dẫu có người đã tự mình thoát được cái thúc buộc của lợi danh, vượt khỏi sự đè nén của vật dục, bắt đầu trở về cội nguồn để tồn sinh dưỡng tánh thì cũng chưa hẳn tự mình làm chủ được tính tâm thân mệnh, và thấy được đâu là mối đầu để hạ thủ công phu, cho nên đa số tu sĩ ngày nay đều không ai tránh khỏi bệnh tật đau ốm, kể cả những bậc thánh như Vivekananda, Ramakrishna hay Gandhi, điều đó làm tôi tin tưởng những bậc ấy chưa được hoàn toàn giải thoát, vì ánh sáng giác ngộ chưa toả chiếu được đến những nếp gấp, những hốc kín tận tâm thức cũng như chưa tẩm nhuần an lạc cho mỗi tế bào, mỗi cơ năng của thân xác.

Thật khó để có thể nói nền tảng của Dưỡng Sinh được mấu cứ từ đâu, nhưng chắc chắn là từ chỗ nhiệm mầu của sự sống. Thực hành Dưỡng Sinh không phải bắt đầu từ cái ăn hay hơi thở, nhưng từ cái không thể lấy tay mà chỉ, lấy lời mà tả, hay lấy ý mà luận được, phải chăng từ một cảm thức sâu xa chấn động suốt chân tâm, hay từ một giác ngộ sự sống, hay từ ánh sáng nội tâm bùng toả? Bởi được khởi đầu từ đó thì miếng ăn, hơi thở, hay nhất động nhất niệm mới có cái ý vị của Dưỡng Sinh, mới thật là linh lương cho đời sống. Chính tôi đã ăn gạo lứt muối mè theo phương pháp OHSAWA và tưởng rằng mình sống theo Dưỡng Sinh, phải mất nhiều năm sau tôi mới tự biết đó là một ý nghĩ hết sức lố lăng và khôi hài. Sự sai biệt tơ tóc ấy ví như sự sai biệt giữa con Vẹt và con Người cùng nói một tiếng mà thôi.

Nếu ai nghĩ rằng tôi đã quan trọng hoá, đề cao Dưỡng Sinh một cách thiên lệch quá đáng thì đó chính là sự vụng về trong trình bày kinh nghiệm Dưỡng Sinh của tôi mà thôi. Mà nếu vấn đề Dưỡng Sinh thực sự có một giá trị lớn lao, và thực hành được là một điều khó khăn thì không có gì để bận tâm hay thối chí. Bởi tất cả mọi sự lớn lao gốc của nó là ở nơi chỗ nhỏ nhiệm, những sự khó khăn gốc của nó ở nơi chỗ dễ dàng, cho nên muốn làm những việc lớn lao trong đời thì nên bắt đầu nơi những việc nhỏ, cũng như muốn làm những việc khó khăn trong đời thì bắt đầu từ nơi chỗ dễ dàng (đồ nan ư kỳ dị, vi đại ư kỳ tế, thiên hạ nan sự, tất tác ư dị, thiên hạ đại sự, tất tác ư tế – Lão Tử) và chỗ nhỏ nhiệm dễ dàng của Dưỡng Sinh, theo tôi , chính chỉ nơi một miếng cơm ăn.

Mặc dù người ta ai cũng ăn uống hàng ngày để sống, nhưng thật rất ít người biết được mùi vị của miếng ăn. Phần đông người ta ăn vì đến giờ phải ăn hay tưởng mình đói, hoặc thèm khát mà ăn hoặc chán nản cố mà nuốt để nuôi thân hay ăn một cách máy móc theo thói quen. Thật ít người hiểu được giá trị của bữa ăn cũng như biết ăn thế nào cho đúng phép. Theo phương pháp Dưỡng Sinh OHSAWA, chúng ta chỉ cần ăn mười ngày theo phương pháp số 7 thì sẽ thấy được nhiều sự thay đổi kỳ diệu, nhưng theo kinh nghiệm của riêng tôi thì chẳng cần phải nhiều đến thế, chúng ta chỉ cần ăn một miếng cơm nhai kỹ và lắng lòng để thẩm thấu cái hương vị của nó thì sẽ hiểu sâu xa giá trị của phương pháp Dưỡng Sinh, bằng chẳng như vậy thì có khi ăn cả tháng vẫn chẳng ích gì, vì đã có lắm người thực hành phương pháp Dưỡng Sinh một thời gian rồi bỏ dở bởi vì không thấy được sự đổi khác nào về sức khoẻ, hạnh phúc. Nguyên nhân chính là những người ấy thực hành Dưỡng Sinh với tất cả tâm thức máy móc của chính con người cũ của họ. Điều ấy cũng đủ là một ám chướng che mờ không cho thấy chỗ diệu dụng của Dưỡng Sinh.

Tục ngữ có câu: “Trời đánh tránh khi ăn” đã nói lên được sự thiêng liêng của bữa ăn, cũng như các tôn giáo lớn đều dạy chúng ta không những phải kính trọng bữa ăn mà còn phải biết ơn, tạ ơn mỗi khi ăn nữa. Một trong bảy bí tích quan trọng nhất của Thiên Chúa giáo là lễ rước mình Chúa, máu Chúa được tượng trưng bằng miếng bánh và giọt rượu, bởi Chúa là sự sống, mà miếng ăn ngụm uống là nguồn sống nuôi dưỡng chúng ta hằng ngày. Thật là đáng kính ngưỡng biết bao Đấng Hằng Sống mới có đủ sự sáng để soi tỏ đến chỗ nhiệm mầu ấy và truyền trao cho con người, nhưng cũng đáng tiếc biết bao con người đã dần dần quên mất sự linh hiển của bữa ăn, rồi biến thành việc máy móc mỗi ngày, và lại còn lợi dụng sự ăn uống để thoả mãn tấm lòng tham dục thấp kém nên phải chịu lấy khổ quả của bệnh tật và ngu si.
Trước đây tôi vốn là kẻ thèm ăn, ham ăn, từ món hàng dong ngoài chợ cho đến những thức cao lương mỹ vị trong những hiệu sang trọng, bất cứ món gì mà tôi chưa được ăn thì tôi khổ sở xem như mình là kẻ quê mùa, cuộc đời như chưa đủ ý vị và thiếu lịch lãm. Nhưng khi thực hành Dưỡng Sinh thì thú thật từ đó tôi như mới biết được miếng ngon thứ nhất trên đời đó là miếng cơm gạo lứt muối mè nhai kỹ, tôi chẳng mong ai tin điều ấy làm gì, nhưng tôi ước ao có người thử thí nghiệm để xem điều ấy có đúng hay không. Chỉ cần ăn một miếng cơm thôi, và nhai thật kỹ thì sẽ thấy cái hương vị đậm đà, cái ngọt bùi khó nói của miếng cơm gạo lứt mà tôi tin chắc không còn miếng ngon nào có thể thay thế được và tự nhiên sẽ thấy không ham thích các món ăn khác, nếu người ta thử nhai kỹ một miếng cá thịt thì không ai có thể chối cãi cái sự vô vị và sẽ bắt gặp sự tanh hôi đáng sợ khi các gia vị vừa tan mất trong miệng.

Chính sự kiện lắng lòng để thưởng thức hương vị của thức ăn cũng là lúc làm cho lòng ta tự tịnh tự định mà không hay, các vọng tưởng điên đảo tự diệt mà không biết, ta sẽ dừng lại cái đà sống máy móc, sự căng thẳng hay hối hả, thảng thốt khiến cho tâm thức trì độn chai lỳ đã biến sự sống thành cảnh tuý sinh mộng tử, đã biến con người thành cái quay búng sẵn, quay theo những hoàn cảnh bên ngoài và những dục vọng đen tối bên trong, quay theo tập quán thói quen, bản năng hay truyền thống. Chính lúc ấy ta mới hay, chỉ một miếng ăn mà gom suốt địa ngục, thiên đàng.

Như trong Kinh Vu Lan Bồn, kể lại người mẹ tội nghiệp của Mục Kiền Liên khi nhận được bát cơm thì lấy tay trái mà che, tay phải mà vốc cơm chưa vào miệng đã hoá thành than lửa. Nếu ai thực hành Dưỡng Sinh tinh tấn, sẽ thấy cảnh ấy không phải chỉ có ở trong cõi ngạ quỷ, mà ngay trên cõi đời này biết bao người còn chịu đau đớn thê thảm nhiều hơn thế vô cùng, miếng ăn không những chỉ hoá ra than lửa mà còn biến thành độc dược huỷ hoại sự sống.

Và cũng một miếng ăn nhưng lại đầy hương vị giải thoát, đó là bữa cơm của Bồ Tát Duy Ma Cật thọ thỉnh ở non nước Chúng- Hương từ cõi Phật Hương Tích để dâng cúng cho các vị đại đệ tử của Phật Thích Ca, mùi cơm thơm xông khắp thành Tỳ Da Ly. Các vị Bồ- Tát, Thanh- Văn từ ngày ăn cơm đó rồi thân thể nhẹ nhàng vui vẻ, khắp người thoảng ra mùi hương bát ngát như mùi hương cây cỏ non nước Chúng- Hương, nhưng nếu ai đem tâm hạn lượng mà ăn cơm đó thì sẽ không tiêu.

Bữa cơm chưa từng có của Duy Ma Cật hay bát cơm bỏng lửa của Mẹ Đức Mục Kiền Liên tương đối gần gũi và có thể cảm nhận được phần nào hương vị của nó, nhưng đến phép tâm trai của Trang Tử là giữ cho lòng hư không để tiếp vật xử thế, an thời xử thuận cũng vẫn còn có thể cảm hiểu được phần nào, chứ đến năm món của Bồ Đề Đạt Ma có lẽ chúng ta ít người nếm được thực vị của nó:

1 – Pháp hỷ thực: Ăn thức vui của Pháp, tất là trì giới với sự hiểu biết sâu xa thích thú, lắng nghe băng thuyết pháp hay nghe giảng giải về giáo Pháp chân chánh... sinh ra "văn tuệ".

2 – Thiền duyệt thực: Ăn thức ăn ngon của Thiền, tức là trong ngoài lọc sạch, thân và tâm vui đẹp. Có những công phu sâu... nhập định sâu có thể sau đó 3 ngày không ăn không ngủ mà vẫn tươi roi rói!

3 – Niệm thực: Ăn thức ăn ngon của Niệm, tức là thường niệm chư Phật, tâm và miệng hợp nhau, thường nhớ tới ân Tam Bảo và nhớ 9 ân Đức Phật. Tâm tư như hoa hướng dương luôn hương tới Tam Bảo bên trong và bên ngoài.

4 – Nguyện thực: Ăn thức ăn ngon của Nguyện, tức là trong lúc đi đứng nằm ngồi luôn luôn phát nguyện lành.

5 – Giải thoát thực: Ăn thức ăn ngon của Giải thoát, tức là tâm thường thanh tịnh, chẳng nhuốm bụi tục. Tâm luôn trong sạch và tĩnh lặng: tĩnh lặng là kết quả của thiền quán, trong sạch là kết quả của thiền định.

Tuy nhiên không có một thực đơn nào có thể thích hợp cho tất cả mọi người, chính giá trị của Dưỡng Sinh là ở đó, cho nên mỗi người hãy tự nghiệm, tự tìm một phép ẩm thực thích hợp với khẩu vị, khí chất riêng của mình. Mâm cơm ngoài tính chất thiêng liêng còn có ý vị của một tác phẩm nghệ thuật, là một bức tranh hay là một bài thơ đẹp thể hiện trí thông minh và óc sáng tạo của người làm ra nó. Nhưng miếng cơm ăn chỉ là phần thô của Dưỡng Sinh, là bước khởi đầu, nếu Dưỡng Sinh chỉ quanh quẩn trong miếng ăn ngụm uống thì chẳng hiểu gì cái đạo Dưỡng sinh cả.
Qua nhiều năm thực hành Dưỡng Sinh, chúng tôi cũng tự tìm cho mình một thực đơn giản yếu thích hợp với tỳ vị phẩm chất của riêng tôi gồm 5 thức ăn sau: Thực phẩm – Nước - Không khí - ánh sáng - Giác ngộ. Sự cần thiết của mỗi thứ giảm lần theo thứ tự.
Như chỉ dùng 4 thức ăn trước mà có được sức khoẻ hạnh phúc thì giá trị của sự sống chỉ mới ngang bằng với bất cứ sinh vật nào có trên trái đất, mà thường thì không được hạnh phúc bằng, bởi biết bao kẻ thèm khát sự tự do của con chim, sự thảnh thơi của con cá… nếu con người quả đúng là linh thiêng hơn vạn vật thì không thể thiếu sự giác ngộ trong đời sống.

Chỉ có giác ngộ sự sống chúng ta mới biết được ý vị của nhân sinh, mới bắt đầu tự chế, tự chủ, tự giác, tự tri từ đó mới có thể sống trong cõi tự do tự tại.
Thế nên Tu Dưỡng, Tu Chứng có cùng một gốc, sự Sống sự Sáng nằm trong cùng một nguồn, hiểu được cái đạo Dưỡng Sinh thì chẳng ngại gì mà không ăn bánh của Vân Môn, uống trà của Triệu Châu. Bởi miếng ăn không những là diệu dược nuôi thân mà còn là diệu pháp để phá trừ phiền não, đói ăn khát uống chính là phép lạ hằng ngày.

Nhiều người cho rằng phương pháp Thực Dưỡng là một ngành Y khoa hoặc một lý thuyết về ăn uống. Họ không biết phương pháp Thực Dưỡng là khởi đầu của Tình Yêu, Hoà Bình và Công Chính.

Có người áp dụng phương pháp Thực Dưỡng để giải thoát những triệu chứng yếu đau, nhưng ít ai thấy được trong phương pháp này sự phát triển trí tuệ để thực hiện hoà bình và công chính trên trái đất.

Có mấy ai nhận rõ thấu chân giá trị của phương pháp Ohsawa chăng. Tôi xin lấy lời sau này của Gandhi để kết thúc bài này; "Sự sai lầm không thể thành chân lý, vì lẽ được nhiều người tin; chân lý không thể thành sự sai lầm,vì lẽ không ai nhìn thấy".


VƯƠNG TỪ
In năm 1973, trên tạp chí "Sống vui", trước giải phóng.


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Reply to this topicStart new topic
2 người đang đọc chủ đề này (2 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 25th June 2024 - 03:58 PM