![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Member ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 23 Gia nhập vào: 27-July 12 Thành viên thứ.: 94,002 ![]() |
Đây là những kinh nghiệm rất cần thiết bổ sung cho thực dưỡng, rất tổng quát và đầy đủ theo khí công y đạo, mọi người nên tham khảo để có sự hiểu biết thực tế hơn về thực dưỡng.
by master Đỗ Đức Ngọc. 1-Quy luật Âm-Dương không tuyệt đối mà tương đối. Trong thiên nhiên, trời ban cho con người những thức ăn đủ loại. Ở thời tiền sử, không biết khoa học là gì, nên không cần biết chất bột, chất đạm, chất đường là gì, con người chỉ biết đói thì kiếm gì ăn, khát thì kiếm nước uống, mệt thì ngủ nghỉ. Đời sống rất đơn giản, sống an vui tự tại. Tuy nhiên, con người biết quan sát, suy luận, mới để ý khi ăn một chất nào đó như rau, qủa, hay ăn thịt...tự nhiên thấy cơ thể phản ứng đau bụng tiêu chảy, hay đau bụng bị táo bón, nếu cứ lập đi lập lại những thức ăn đó đều cho ra một kết luận đúng là tiêu chảy hay táo bón, bắt đầu con người có kinh nghiệm dần trong vấn đề ăn uống. Từ đó những chất nào làm ra bệnh tiêu chảy, các thầy thuốc gọi chất đó là âm, chất nào táo bón thì gọi chất đó là dương. Ngày xưa không biết tế bào là gì, nhưng tế bào được nuôi bằng máu, bằng nước thuộc chất thủy, thì tế bào sẽ tăng trưởng sinh ra da thịt, người đẫy đà lên cân, như vậy các thầy thuốc nhận định chất nào bổ máu thì gọi là âm có tính chất nở ra, ngược lại những thức ăn nào làm mất da thịt, teo co lại, thu nhỏ lại gọi là dương. Khi ngành học đông y ra đời cũng chỉ biết đơn giản hai vấn đề âm dương có nghĩa là : Âm thuộc huyết, nở ra, có tính lạnh, ướt, mát, tiêu chảy. Dương thuộc khí, nhiệt, co rút khô, táo bón. Từ quan niệm đó, con người bắt đầu đi tìm những loại cây, rau cỏ, cây ăn trái, các loại thịt, loại bột từ ngũ cốc... để nghiên cứu sắp xếp theo âm-dương lại nẩy sinh ra vấn đề như : Những chất có tính âm như trên, nhưng có loại khi nếm có vị mặn, ngọt, chua, cay, đắng, chứa thành phần tỷ lệ các chất nhiều ít khác nhau, các thầy thuốc lại viết ra những kinh nghiệm riêng của mình, qua nhiều thầy thuốc và qua nhiều thời đại khác nhau, đều có chung kết luận như chất âm bổ máu, nhưng chất có vị ngọt làm mạnh chức năng lá mía thuộc tỳ thì sinh ra máu nuôi tế bào da thịt sinh cơ bắp, chất chua thì bổ máu cho tế bào gan và dây thần kinh, chất cay thì bổ máu cho tế bào phổi, da lông,chất mặn thì bổ máu cho tế bào thận, xương cốt, râu tóc, chất đắng thì bổ máu cho tế bào tim, cơ tim. Như vậy riêng chất âm bổ máu có 5 loại bổ máu cho 5 tạng tâm, can, tỳ, phế, thận. Những chất có tính dương như trên cũng có 5 vị mặn ngọt chua cay đắng, vị mặn giúp chức năng tế bào bàng quang, chất ngọt giúp chức năng tế bào bao tử hoạt động, chất chua giúp chức năng tiết mật, chất cay giúp tế bào chức năng đường ruột gìa, chất đắng giúp tế bào chức năng ruột non. Sau nhiều trăm năm, những thức ăn uống đã sắp xếp theo âm-dương, ngũ hành theo vị mặn, ngọt chua cay đắng, nhưng lại phát hiện ra một tính chất khác, như khi nếm ngoài mùi vị, còn có thêm những đặc tính khác như : sau khi ăn sống, có loại thức ăn rau cỏ đó làm nhức đầu hay nhẹ đầu, chóng mặt, tức bụng, nặng chân tay, làm xuất mồ hôi, làm khó thở, dễ thở…nên đã có thêm kết luận, những thức ăn đó còn có khí lực được sắp loại như : khí thăng, là chất đó sau khi ăn vào cảm thấy khí đưa lên đầu, loại khí giáng, đưa khí xuống chân, khí xuất, khi ăn vào thì xuất mồ hôi, đánh dắm, ợ hơi, loại khí liễm như cơ thể đang mệt xuất vã mồ hôi, khi ăn vào tự nhiên mồ hôi được giữ lại, hay đang bị đi cầu đi tiểu nhiều nay được cầm giữ khỏi đi tiểu đi cầu nhiều gọi là thu liễm… Qua nhiều thời đại, những kinh nghiệm của nhiều thầy thuốc đông y dân gian và các thầy thuốc cung đình gọi là quan thái y đều có kết luận giống nhau, mới thống nhất phân loại một chất thuốc cây cỏ hoa trái phải được ghi nhận đầy đủ công năng của nó như sau : Chất đó có tính gì nhu hàn hay nhiệt hay ôn. Chất đó có khí gì như thăng, giáng, thu, liễm, xuất. Chất đó có mùi vị gì như mặn, ngọt chua cay đắng. Chất đó vào đường kinh nào, tạng nào như tâm, can, tỳ, phế, thận hay vào phủ nào như vào ruột non, vào mật, bao tử, ruột già, bàng quang… Những chất ăn uống hay dùng thuốc cây cỏ được xem là một vị thuốc điều chỉnh Tinh để chữa bệnh, thầy thuốc phải biết khám bệnh tìm ra bệnh và tìm ra loại thuốc cây cỏ hay chất ăn uống phù hợp để chữa đúng bệnh. Thí dụ khám một bệnh nhân bí tiểu là bệnh thuộc bàng quang, cần vị thuốc mặn vào bàng quang, bí tiểu do nhiệt, thì tìm chất có tính hàn, có khí xuất, kết qủa là chất đó vào bàng quang làm mát tống xuất nước tiểu ra ngoài, ngược lại đi tiểu nhiều, thầy thuốc cũng chọn chất nào có vị mặn cho thuốc vào bàng quang, nhưng đi tiểu nhiều do hàn lạnh thì tìm chất có tính nhiệt và khí liễm giữ lại, thì bàng quang ấm lại và khí giữ lại không cho đi tiểu nhiều nữa… Khi học tính chất thuốc về cây cỏ thiên nhiên qúa nhiều không thể học hết, nên nhiều học trò khi học thuốc đều hỏi thầy cho biết những thứ cây cỏ nào không phải là vị thuốc để loại bỏ ra khỏi phải học. Thầy trả lời : Các trò thử tìm xem cây cỏ nào không phải là thuốc. Cuối cùng các học trò đều kết luận, tất cả cây cỏ nào cũng đều là thuốc cả vì nó đều có một trong 5 vị, mặn, ngọt, chua, cay, đắng cả. 2-Quy luật chế biến làm thay đổi Âm-Dương : Như vậy, sau khi nghiên cứu về một món ăn, một loại cây cỏ chữa bệnh, nếu chỉ phân biệt Âm là huyết, Dương là khí thì chưa đủ yếu tố để chữa bệnh, vì tính-khí-vị của nó lại làm thay đổi âm dương, vì thức ăn dù âm hay dương cũng có tính giữ lại (liễm) hay thăng (đưa lên), hay có khí xuất hay giáng hạ, làm thay đổi tính chất âm dương. Nên Âm có khí thăng gọi là trong âm có dương. làm tăng máu như củ dền, cà rốt. Dương có khí thăng gọi là trong dương lại thêm dương, có khí giáng xuất hạ gọi là trong dương có âm làm mất khí lực.. Về các vị thuốc hay thức ăn uống, đông y không dùng riêng một chất âm dương nào, vì được âm dương thì mất tính-khí-vị không phù hợp với bệnh. Thí dụ nói khoai lang ăn sống thì bị tiêu chảy, nên khoai lang gọi là âm, khi chế biến luộc chín sẽ mất tiêu chảy mà nhuận trường tốt cho đường ruột, nhưng nướng làm khô tăng hỏa nhiệt mất hẳn tính hàn thì ăn nhiều lại khó đi cầu. Ăn gạo còn sống thì bị tiêu chảy đau bụng thì gạo gọi là âm, nhưng gạo nấu cơm thành cháy thì ăn vào sẽ bị táo bón, thì cơm cháy gọi là dương. Trẻ sơ sinh chỉ uống sữa, bú sữa mẹ, nhiều chất thủy (nước) nên dư âm làm tăng cân. Nhưng uống sữa bột Guigoz thì bị táo bón, gọi nó có tính dương, sữa SMA thì bị tiêu chảy, gọi nó có tính âm, ăn sữa này cơ thể mau mập hơn, để tránh trẻ bị tiêu chảy, người ta dùng gạo sống có tính âm, đem rang cháy vàng làm mất âm tính, nấu thành nước pha với sữa SMA cho bé uống thì hết tiêu chảy. Nói như vậy thì gạo lức cũng không ngoại lệ khi chế biến : Thí dụ 1 đơn vị gạo lức với 1 đơn vị nước nấu thành cơm, sẽ khô cứng hơn gạo khác, khi ăn vào cơ thể thiếu nước sẽ rút bớt nước trong cơ thể mới điều hòa chức năng tiêu hóa được nên người mất nước sẽ ốm gầy, như vậy người ta gọi nó là dương. Nếu 1 đơn vị gạo lức với 2 đơn vị nước thì cơm vừa ăn, nên âm dương bằng nhau, Nếu 1 đơn vị gạo lức với 4 đơn vị nước nấu thành cơm, thì dư 2 đơn vị nước là dư âm, nên ăn vào người lên cân. Phương pháp thực dưỡng gọi thịt là âm vì nó bổ máu, nhưng khi đem nướng mất tính chất âm, vì ăn nhiều bị táo bón trở thành dương và tính hàn của nó trở thành nhiệt, khí của nó là liễm không xuất, cơ thể giữ lại chất béo không tiêu. 3-Quy luật quân bình âm dương trong cơ thể. Quy luật quân bình âm dương trong cơ thể khác với quân bình âm dương thực phẩm bằng tỷ lệ lựa chọn theo tiêu chuẩn thực dưỡng gạo lức muối mè, hay tiêu chuẩn Canh Dưỡng Sinh chữa bệnh ung thư, vì đó chỉ là lý thuyết không đúng với thực tế.. Thí dụ một kỹ sư kiến trúc công trình xây cầu Vĩnh Long, theo tỷ lệ xi măng, đá, cát, nước, đạt được tiêu chuẩn sức bền vật liệu theo yêu cầu đúng như đã thử nghiệm kết qủa trong phòng thí nghiệm. Nhưng khi thực hành, kỹ sư công trường phải điều chỉnh độ ẩm của cát, đá và nước do trời mưa mỗi ngày khác nhau, phải thêm cát, thêm đá bù vào số nước thấm vào đá cát, nhưng phải bớt nước bù vào phần nước dư trong cát đá, mới đúng tỷ lệ tiêu chuẩn. Mẻ bê tông này lại phải được đem về cho kỹ sư phòng thí nghiệm thử sức bền vật liệu của bê tông có đạt tiêu chuẩn sức ép như đã quy định hay không, vì không đúng nên cầu mới xập đổ. Như vậy tỉ lệ cho bữa ăn trong gia đình mình là 50-60% ngũ cốc lức, 20-30% rau củ (đậu hoặc rong biển), 10% đạm động vật (thịt, cá, trứng…).cũng sẽ không đúng với thực tế theo nhu cầu cần ở mỗi người mỗi khác, nó sẽ tốt cho người này mà hại cho người kia, thí dụ người có áp huyết cao, mập, ăn theo tỷ lệ này sẽ tốt, giảm áp huyết, xuống cân, thì những thành viên áp huyết thấp, người ốm gầy sẽ bị tụt áp huyết mất cân thêm nữa. Hơn nữa, ở thời đại ngày nay, có nhiều loại cây cỏ mới, lai giống, ngay cả những thức ăn chế biến và quảng cáo tốt, có phân chất theo khoa học thì cũng chỉ là lý thuyết, hoàn toàn đúng, nhưng thực tế phải tính thêm điều kiện cần ở mỗi cơ thể khác nhau thì làm sao phân biệt được âm-dương, hàn nhiệt, tính-khí-vị mà trong sách vở không đề cập đến, các thầy thuốc cũng bó tay, do đó việc chữa bệnh bằng cây cỏ không còn ai tin vào độ chính xác thì phải làm sao ? Nhưng may mắn, chúng ta có một loại máy móc thay thế cho một thầy thuốc giỏi nhất thế giới biết phân biệt âm dương hư thự, hàn nhiệt một cách chính xác không sợ sai lầm, đó là máy đo áp huyết, máy đo đường, máy nhiệt kế, thay chúng ta phân chất một vị thuốc hay một món thức ăn đúng hay sai cho từng cơ thể khác nhau. Chúng ta hãy xem món ăn thực dưỡng gạo lức muối mè ngày nay mọi người đều khen và áp dụng, tuy nhiên kết qủa trên cơ thể mỗi người mỗi khác, có người khỏi bệnh, có người bệnh trở nặng thêm đi đến tử vong mà không biết nguyên nhân đúng sai ở đâu : Bây giờ chúng ta trở lại lý thuyết căn bản âm dương theo đông y chúng ta sẽ biết chúng ta áp dụng đúng hay sai trong vần đề điều trị bệnh. Âm là những chất tạo ra máu, là nở ra, mập, hàn, tiêu chảy, chứ không riêng gì là chất thịt hay chất rau mà chúng ta gọi chất thịt là âm chất rau là dương, vì chất thịt cũng có âm dương, chất rau cũng có âm dương. Dương là những chất tạo khí lực, làm ra nhiệt, táo bón, làm co rút lại, cũng đều có trong rau và thịt. Nghiên cứu hai thí dụ sau đây, để tự điều chỉnh các ăn uống gạo lức muối mè cho đúng : Trường hợp 1 : Chúng ta áp dụng sai khi dùng gạo lức muối mè cho một người cơ thể nhiều dương thiếu âm ( là ốm gầy, thiếu máu), kết qủa gạo lức muối mè thuần dương thêm mà không có âm làm nở da thịt tăng âm là bổ máu, nên càng ăn càng mất âm là mất máu, hạ áp huyết, xuống cân gầy ốm thêm. Trường hợp này phải tăng âm bổ máu bằng cách luộc 200g củ dền và 200g cà rốt với 1 lít nước, rồi bỏ cái lẫn nước vào máy xay sinh tố làm nước uống tăng máu, hồng cầu, hay dùng nước này nấu vớ 1 nắm gạo lức thành cháo để ăn mỗi ngày, nếu cháo đặc thì cho thêm nước biến thành âm nhiều hơn dương thì sẽ mập lên cân. Nấu gạo lức thay vì nấu ít nước để tăng dương, nhưng muốn tăng âm phải tăng thủy đủ nước là chất âm cho cơ thể. Tôi nấu gạo lức như nấu cháo, không cần ngâm gạo trước, cuối cùng gạo lức nở ra không thành cháo mà vẫn thành cơm hơi nhão, hột gạo nở lớn, khi cắn vào miệng là tan chảy ra một chất như sữa, không cần nhai. Nếu nấu khô, nhai một miếng cơm 50 lần mỏi răng, ăn 1 chén cơm lâu mất 1 giờ, còn khi nấu nhiều nước cho nở lớn ra, thì 30 phút ăn được 7 chén. So sánh số lượng chất bổ vào cơ thể thì khi ăn khô được 1 chén gạo trong đó ¾ chén là nưóc, ¼ chén là gạo, không đủ nuôi dưỡng tế bào, chính là phương pháp làm ốm, tế bào thiếu chất bổ nuôi dưỡng, cơ thể tự lấy chất máu trong da thịt ra để nuôi tế bào cầm hơi, một thời gian da thịt mất dần, da khô héo, thì tế bào cũng chết dần. Còn 30 phút ăn 7 chén, trong đó 3 chén là gạo, 4 chén là nước, cơ thể sẽ đủ nước nuôi tế bào nở ra, người sẽ mập lên, da thịt tươi nhuận. Tôi áp dụng 1 năm cơ thể mập lên 10 kg, thì phải ngưng, còn nếu mập qúa phải áp dụng trường hợp 2 ở dưới. Trường hợp 2 : Ngược lại một người nhiều âm, thiếu dương nên người mập, dư máu, mỡ, cao áp huyết, khi ăn gạo lức muối mè chỉ thuần dương, không có âm làm cơ thể tăng dương mất dần âm, nên người càng ốm gầy xuống cân, hạ áp huyết, hạ đường, mỡ máu…nhưng phải theo dõi trọng lượng cơ thể và đo áp huyết theo dõi khi hạ đến đúng tiêu chuẩn thì phải ngưng không được dùng tiếp sẽ mất âm là mất máu, mất da thịt, áp huyết xuống thật thấp, cơ thể gầy ốm suy nhược, không đủ máu nuôi dưỡng tế bào, chúng sẽ trở thành tế bào ung thư. Cho nên khi ốm gầy qúa, cơ thể suy nhược, không đủ máu lưu thông gây đau nhức, phải áp dụng cách ăn của trường hợp 1 ở trên. 4-Làm sao biết chúng ta áp dụng cách thực dưỡng đúng ? Nhiều người thắc mắc hoang mang khi áp dụng phương pháp thực dưỡng để chữa bệnh, phòng bệnh, mang lại sức khỏe tốt không bệnh tật, cần phải theo dõi sự chỉ dẫn của một vị bác sĩ gỉỏi nhất trên thế giới lúc nào cũng có mặt trong mỗi gia đình chúng ta : Đó chinh là máy đo áp huyết, máy đo đường và nhiệt kế, để theo dõi khí-huyết trong cơ thể thay đổi lúc nào cũng phải lọt vào tiêu chuẩn của khí công y đạo như dưới đây : Đây là bảng tiêu chuẩn áp huyết theo loại tuổi theo kinh nghiệm của khí công y đạo : 95-100/60-65mmHg, mạch tim đập 60 là áp huyết ở tuổi thiếu nhi.( 5 tuổi-12 tuổi) 100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65 là áp huyết ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi) 110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70 là áp huyết ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi) 120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75 là áp huyết ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi) 130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80 là áp huyết ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên) Tiêu chuẩn đường trong máu : Khi bụng đói chưa ăn, đường trong máu đo ở ngón tay, từ 5.8-8.10mmol/l là bình thường không có bệnh tiểu đường. Sau khi ăn, đường trong máu phải tăng lên từ 8.1-12.0mmol/l là bình thường. Nhưng nó phải được chuyển hóa dần trong 4-6 giờ sau lượng đường trong máu phải xuống trở lại như lúc bụng đói từ 5.8-8.1mmol/l mới là người bình thường. Hiện nay trên thế giới áp dụng tiêu chuẩn đường có nhiều mâu thuẫn giữa ngành y và dược. Trên hộp giấy thử đường ghi theo tiêu chuẩn trên là bình thường, mà ngành y thì người nào có lượng đường từ 6.0-7.0mmol/l đều phải uống thuốc hạ đường. Thay vì nếu tiêu chuẩn này thống nhất thì ngành dược phải in sửa lại tiêu chuẩn cho phù hợp với tiêu chuẩn mà ngành y đang áp dụng, nhưng ngành dược vẫn không thống nhất để sửa, vì nếu tiêu chuẩn hạ thấp và uống thuốc để hạ thấp đường cơ thể sẽ mất năng lượng để làm việc nặng, sau khi làm việc nặng xuất mồ hôi đường tụt thấp dưới 4.0mmol/l cơ thể bị ngất xỉu té ngã đi vào hôn mê đến tử vong, không phù hợp với người đang làm việc lao động bằng chân tay. Còn người không lao động, khí huyết không lưu thông, nên lượng đường thấp máu tuần hoàn chậm không lên nuôi mắt, thử đường ở huyệt mắt Toản Trúc nơi đầu chân mày nếu dưới 5.0mmol/l thì mắt sẽ mù từ từ, khi đường ở mắt dưới 4.0mmol/l bác sĩ nhãn khoa kết luật là mù do bệnh tiểu đường không chữa được. Nhiều bệnh nhân có bệnh cao áp huyết, tiểu đường, vừa uống thuốc hạ áp huyết, hạ đưòng, vừa ăn gạo lức muối mè, cả 3 phương pháp đều tăng dương mất âm, làm hạ áp huyết 3 lần, hạ 1 lần do thuốc hạ áp huyết, lần thứ 2 do hạ đường cũng làm hạ áp huyết và lần thứ 3 ăn gạo lức muối mè cũng làm hạ áp huyết và làm hạ mất đường trong máu, sẽ làm áp huyết xuống thấp 80mmHg, nếu tây y chữa bất cứ phương pháp nào mà để áp huyết xuống 70mmHg là cơ thể không đủ khí đẩy huyết, và cơ thể không có đủ máu tuần hoàn nuôi tế bào, các tế bào chết dần ngưng hoạt động, các tế bào đành từ giã mình ra đi âm thầm để thân xác lại cho người thân lo liệu, kiếp sau tái phạm lại ăn gạo lức muối mè tiếp để lặn hụp mãi trong sinh tử luân hồi.. Theo tiêu chuẩn áp huyết tỷ lệ thuận với tuổi do kinh nghiệm đối chứng lâm sàng của môn học KCYĐ, áp huyết ở tuỏi thiếu nhi là khí huyết vừa đúng đủ nuôi một cơ thể với 20-30kgs tế bào, giống như cây còn nhỏ chỉ cần nước tưới cây mỗi ngày 3-5 lít nước là đủ. Khi lớn tuổi, giống như cây càng lớn thì nước tưới cây càng nhiều, 50-60 kgs tế bào cần phải có đủ khí và máu như ở tuổi trung niên, nếu cơ thể có áp huyết vẫn thấp như trẻ em, chỉ đủ nuôi 20-30 kgs tế bào thì với cơ thể 50-60 kgs những tế bào bị thiếu khí huyết nuôi dưỡng sẽ thoái hóa dần, đến suy nhược mất năng lượng điều hòa sự sống cho những chức năng hấp thụ và chuyển hóa của cơ thể, chúng sẽ trở thành tế bào ung thư, như vậy tế bào ung thư đã thành hình từ tuổi thiếu niên kéo dài một thời gian lâu 20-30 năm sau tây y mới phát hiện ra bệnh ung thư thì không thể nào chữa kịp được nữa, giống như một cây lớn không đủ nước tưới cây thì chỉ còn cái xác thân bên ngoài, trong ruột cây đã khô mục. Những cha mẹ có áp huyết thấp không đúng tuổi như vậy, khi sinh con để hậu qủa cho con có khuyết tật, tế bào đã suy nhược thiếu máu, giống như hạt giống lép khó phát triển, sức khỏe èo oặt luôn bệnh hoạn, nếu biết điều chỉnh ăn uống bổ máu tăng khí huyết cho đúng tiêu chuẩn tuổi thì mới thoát khỏi bệnh tật. Ngược lại, trẻ em thiếu niên chỉ cần áp huyết đúng tuổi, nhưng do ăn uống nhiều chất bổ từ cha mẹ, nghĩa là cha mẹ có bệnh cao áp huyết, mỡ máu, và đường, đang ở tuổi thanh niên mà đã có số đo áp huyết cao hơn lão niên, khi sanh con, chúng còn nhỏ mà đã có áp huyết cao vượt tiêu chuẩn tuổi trẻ em như dưới đây, sẽ có hậu qủa bị những bệnh nan y từ nhẹ đến nặng như trẻ em hay chảy máu cam vì áp huyết cao, tây y không chữa được, chỉ nói khi lớn tuổi nó sẽ hết, lý do khi lớn tuổi thì áp huyết bằng tuổi thanh niên, bệnh nặng hơn là trẻ em hiếu động, nặng hơn nữa là những trẻ em bị động kinh co giật chân tay, nặng nhất là bệnh điên. Tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi ở trẻ em : Tuổi từ 0-1 áp huyết 70-90/51 mmHg mạch 110-160, hơi thở 30-40 hơi/1 phút Tuổi từ 1-2 áp huyết 80-95/58 mmHgmạch 100-150, hơi thở 25-35 hơi/1 phút Tuổi từ 2-5 áp huyết 80-100/58 mmHg mạch 95-140, hơi thở 25-30 hơi/1 phút Tuổi từ 5-9 áp huyết 90-105/62 mmHg mạch 80-120, hơi thở 20-25 hơi/1 phút Tuổi từ 10-14 áp huyết 100-107/69-74 mmHg mạch 60-100 hơi thở 15-20 hơi/1 phút Căn cứ vào bảng tiêu chuẩn áp huyết theo tuổi, nên máy đo áp huyết chính là máy đo khí lực và máu tuần hoàn của cơ thể, thay cho phương pháp bắt mạch của đông y, kết qủa cho ra con số chính xác cụ thể không mơ hồ như đông y mà hiện nay bệnh của mình khi đo khám chỉ có thầy thuốc đông y hay tây y biết, mà mình không được biết nguyên nhân. Ngày nay chúng ta đo áp huyết sẽ biết được tất cả nguyên nhân âm-dương, hư-thực, hàn-nhiệt qua máy đo áp huyết, máy đo đường, nhiệt kế. Số đầu tâm thu chỉ khí lực (dương), cao hơn tiêu chuẩn là dư khí ( dương), thấp hơn tiêu chuẩn là thiếu khí ( thiếu dương) , số thứ hai tâm thu, chỉ biên độ co bóp của van tim, số thứ ba là nhịp tim mạch, nếu mạch chậm hơn tiêu chuẩn là người hàn lạnh dưới 70, cao hơn tiêu chuẩn thì cơ thể nhiệt, cao hơn 80. Trở lại đời sống đơn giản sống với thiên nhiên, không cần phải lo nghĩ phải ăn uống làm sao cho đúng. Muốn cho đúng phải theo quy luật tự nhiên : đói ăn, khát uống, mệt ngủ nghỉ đó là tiêu chuẩn Tinh-Khí-Thần hòa hợp. Theo đạo học, tránh thân bệnh, khi đói bất cứ ăn uống thứ gì, sau khi ăn kiểm soát áp huyết đúng tiêu chuẩn tuổi, khi đường xuống thì ăn uống thêm các chất ngọt, táo bón thì ăn chất nhuận trường, tiêu chảy thì ăn những thứ làm cơ thể tăng nhiệt. Tránh nghiệp bệnh thì không ăn thức ăn động vật làm tâm tính nóng nẩy, sân hận, lại hiếu sát dùng mạng thú vật để nuôi mình, những linh hồn tế bào súc vật kết oán thù kẻ giết hại nó, đã tiết ra những chủng tử chứa độc tố khi lọt vào cơ thể mình sẽ trở thành bệnh. Sở dĩ chúng ta bệnh do ăn nhiều, dư thừa những chất có khí thăng và liễm làm tăng thể trọng, tăng âm là tăng máu nở da thịt, nhiều mỡ..., nhưng lười vận động thiếu khí. Công việc của những người này lại ít vận động, thay vì ăn gạo lức muối mè mất 3-6 tháng mới xuống cân, thì nếu đổi lại những người làm lao động nặng như đạp xích lô, phu khuân vác, mất sức mất khí lực, khí xuất, khí hạ, mất hết năng lượng, tiêu mất mỡ thoát chất béo, chất ngọt theo đường mổ hôi, mất nước là mất âm sẽ ốm gầy, thì cần gì phải ăn gạo lức muối mè. Tuy nhiên đã gọi là nghề thì mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nên có thêm chữ nghiệp đi kèm. Do đó môn Khí Công Y Đạo chú trọng đến sự hòa hợp của 3 yếu tố Tinh-Khí-Thần, nếu Tinh dư thì tập khí công tăng khí, có bài làm hạ áp huyết tiêu mỡ hạ đường, thiếu đường ăn thêm chất ngọt và bỏ không dùng thuốc hạ đường khi mức đường xuống thấp, thiếu máu ăn uống nước củ dền cà rốt, bỏ thuốc chữa cao áp huyết khi áp huyết xuống dưới 110mmHg, mỗi ngày nhờ bác sĩ của mình là máy đo áp huyết, máy đo đường thử cho mình sẽ biết mình ăn uống và tập luyện khí công đúng sai để điều chỉnh. Cách áp dụng này thật đơn giản, dễ làm, nhưng vì vô minh do sở tri kiến chấp những kiến thức của tây y, không ai dám làm theo, nên thánh nhân đã từng nói chúng sinh không muốn hết bệnh là vậy. |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 18th June 2025 - 07:08 AM |