IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

7 Trang V  « < 5 6 7  
Reply to this topicStart new topic
> LONG HOA MẬT TẠNG, Gồm 4 quyển
vomenh
bài Oct 17 2025, 08:02 AM
Bài viết #61


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 152
Gia nhập vào: 12-August 08
Thành viên thứ.: 795



CHƯƠNG 20
PHẦN 2
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ HIỆN ĐẠI
Từ ngày Công Chúa về Đất Đại Nam Nước Văn Lang, trở thành Vương Mẫu Quốc Hậu. Thấy Đất Văn Lang quả nhiên trù phú, thảo nào ai cũng muốn chiếm cho bằng được. Nhất là Đất Lãnh Nam, sông núi kỳ bí ngọa Hổ tàng Long. Hổ nằm Rồng ẩn, khí Thiên sông núi tỏa lên như bảo bọc cho con dân Âu Việt, Lạc Việt. Quốc Hậu Nương Nương lấy làm mừng và biết rằng Con Rồng Cháu Tiên sẽ làm chủ Địa Long nầy. Tuy là thân Quốc Hậu Chí Tôn Thiên Hạ nhưng lại coi Dân thương Dân như con ruột của mình. Nhân từ độ lượng ít ai hơn.
Quốc Hậu Nương Nương giúp Chồng mở mang bờ cõi, xây dựng Đất Nước. Dạy cho hàng nữ lưu, nâng cao tay nghề chăn Tằm dệt Cửi, sáng tạo ra nhiều mẫu mã gấm vóc lụa là, màu sắc rực rỡ. Quốc Hậu Nương Nương là phụ nữ hiện đại, giúp Chồng từ việc nhà cho đến cả việc Nước, có một không hai ở thời đại phong kiến Thần giáo, thời Chủ Nghĩa Độc Quyền Vua Chúa. Đất Nước Văn Lang là Đất Nước đổi mới văn minh, ở lãnh vực xã hội, những gì Nam giới làm, Thì phụ nữ cũng được phép làm. Đó là Hiến pháp, Luật pháp Văn Lang cho phép. Đó là lĩnh vực xã hội. Còn lĩnh vực gia đình thời lại một chuyện khác. Thuộc về Đạo Luật Thiên Chức mà Đức Cha Trời đã ban. Đạo làm Chồng, làm Vợ. Đạo làm Cha, Đạo làm Con. Đạo làm Anh làm Chị. Đạo làm em.
(Xem Bộ Kinh Nhân Luân Hiếu Nghĩa Sẽ Rõ)
Thời đại mà phụ nữ làm được tất cả thì cuộc sống gia đình, xã hội, Tổ Quốc, mới tiến bước trên con đường văn minh dân giàu nước mạnh. Tất cả mọi sự hoạt động, mọi sự phát triển tiến lên xây dựng quê hương đất nước thì phải có bàn tay của Nữ giới đóng góp công lao. Một Đất Nước giàu mạnh là một Đất Nước có nhiều tầng lớp phụ nữ tài đức, vừa đảm đang được việc nhà, vừa đảm đang việc Nước. Đảm đang nhiều trọng trách. Những phần ngành quan trọng của Đất Nước. Trên mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Có cả những địa vị đỉnh cao của xã hội. Nhưng phải ở lĩnh vực nhân quyền dân chủ, được Công Chúng tín nhiệm bầu xét mới hợp lệ. Theo Hiến pháp, Luật pháp cho phép của Nước Văn Lang. Cạnh tranh Bình Đẳng hợp pháp giữa Nam giới và Nữ giới. Còn tiến thân theo kiểu mưu mô thủ đoạn. Cậy thế ỷ quyền thì là mối họa tai hại cho đất nước mà thôi.
Một Dân Tộc văn minh, không chỉ có Nam giới là tất cả. Mà có cả giới Nữ cộng tác. Nam – Nữ. Nam Giới, Nữ Giới song hành, phát triển Đất Nước, xây dựng Tổ Quốc, bảo vệ Đất Nước, chống giặc ngoại xâm. Đó là tính ưu việt của Hiến pháp, Luật pháp Văn Lang. Mà các nước khác ở vào thời đại ấy không bao giờ có. Không phải sự ngẫu nhiên có được sự Độc Lập kéo dài ở Niên Đại Hùng Vương 2.622 năm ở thời giữ nước. Cộng thêm 79 năm ở thời dựng Nước là 2.701 năm. Trên toàn thế giới không có Niên Đại nào ở vào thời kỳ ấy, giai đoạn ấy, kéo dài Độc Lập Niên Đại lâu đến thế. Sự Độc Lập kéo dài Niên Đại Hùng Vương đều có nền tảng cơ sở của nó. Nếu không vì có sự thất truyền nền Văn Hiến Quốc Đạo Văn Lang thì Dân Tộc Việt Nam đâu phải chịu cảnh nô lệ hơn nghìn năm.
Hiến Pháp Văn Lang là Hiến Pháp bình đẳng. Bình Đẳng Nam giới, Nữ giới. Không có sự trọng Nam khinh Nữ hay trọng Nữ khinh Nam. Một xã hội mà trọng Nam hơn trọng Nữ. Hay trọng Nữ hơn trọng Nam. Thì xã hội đó chưa phải là xã hội văn minh. Xã hội Văn Lang là xã hội Hiến pháp, Luật pháp, Công Lý mới thật sự là Vua. Một Pháp Vương Hiến pháp không thay đổi trước sau như một. Mãi mãi trường tồn theo thời gian, song song với Luật pháp và Công Lý. Con đường hôn nhân giữa Nam và Nữ ở lĩnh vực tự do, tự nguyện. Nam, Nữ có quyền được lựa chọn người mình yêu và sự chung thủy vẫn được tôn vinh ca ngợi hàng đầu, báu vật vô giá của tình yêu và Quốc Hậu là mẫu mực cho sự tình yêu chung thủy, thủy chung ấy.
* * *
Hết phần 2 chương 20 mời xem tiếp phần 3 chương 20 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
* * *

CHƯƠNG 20
PHẦN 3
LỜI DI CHÚC TRƯỚC KHI TỪ BIỆT CÕI TRẦN CỦA QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
Cuộc đời vì Nước, mãi vì Non
Trăm tuổi có dư chưa an nhàn
Kia kìa Dân Chúng ôi còn khổ
Vẫn còn hộ đói khổ lầm than.
Quốc Tổ Vua Hùng lúc nào cũng lo cho Dân cho Nước bận rộn cả đời, không có thời gian an nhàn. Dân vui là Quốc Tổ vui. Dân khổ là Quốc Tổ khổ, sự sống của Dân là sự sống của Quốc Tổ. Nhìn Dân Chúng no cơm ấm áo thời lòng ta vui sướng biết bao. Dân Chúng khổ lẽ nào ta sướng thời còn chi Đức tánh thương Dân. Suốt 79 năm ở ngôi Quốc Vương. Quốc Tổ Vua Hùng không những lo cho dân giàu về vật chất mà còn lo cho Dân giàu về Đạo Đức Chính Nghĩa tinh thần. Vì Quốc Tổ hiểu rõ sự sống của con người là sự sống của Linh Hồn, lẩn sự sống của thể xác, vật chất nuôi thể xác, đạo lý nuôi Linh Hồn. Nhà Nước Văn Lang là Nhà Nước Đạo Đời là một Đạo trong Đời, Đời trong Đạo. Tốt Đời thì đẹp Đạo. Tốt Đạo thì đẹp Đời. Tinh Thần vật chất song đôi tiến tới Văn Minh, xã hội Chân Thiện mỹ, xã hội Tiên Thánh, xã hội Dân giàu Nước mạnh, Nhân Quyền Dân Chủ, Công Bằng, Văn Minh.
Kìa Non Nước thay da đổi thịt
Giàu từng ngày rừng rực ấm no
Đời nở hoa, ôi mùa xuân Tổ Quốc
Xuân tâm hồn, xuân truyền thống Ông Cha.
Cuộc sống xã hội Văn Lang, không những ấm no, mà còn tự do mưu cầu hạnh phúc, tự do đua tài đua sắc, làm giàu đẹp cho xã hội, làm giàu đẹp cho Nước cho Non. Cho bản thân, gia đình rạng danh dòng họ.
Đàn Chim tung cánh tự do
Bay trong hạnh phúc ấm no thái bình
Xuân Non xuân Nước xuân Tình
Xuân Trời xuân Đất xuân mình xuân ta.
Nước Văn Lang ngày càng mở rộng. Dân chúng khắp nơi xin đến định cư, làm ăn sinh sống càng về sau càng đông.
Đất lành Chim đậu có sai chi
Văn Lang cuộc sống thật diệu kỳ
Thiên Đàng Cực Lạc nơi trần thế
Rực rỡ Trời Nam, rực sử thi.
Do tài năng Đức Độ. Tận tâm tận lực lãnh Đạo đất nước. Đưa Đất Nước Văn Lang càng ngày càng ấm no phồn thịnh khí thế bừng lên sức sống mãnh liệt mạnh mẽ, sáng tạo ra nhiều gấm vóc lụa là màu sắc rực rỡ. Nhất là nghề rèn đúc tinh xảo, hoa văn sống động, phải kể đến nền Văn Minh lúa nước, trồng trọt, chăn nuôi có một không hai, không có một đất nước nào sánh kịp.
Quốc Hậu ở với Quốc Tổ 5 năm thời sanh con, sanh ra con đàn cháu đống. Con trai lớn Lân Lang, Hùng Quí Lân, sau nầy lên ngôi Quốc Vương thay cha trị vì Thiên Hạ. Mùa xuân sắp qua, mùa hạ sắp đến gần. Quốc Tổ Hùng Vương triệu tập hết thảy quần Thần Dân Tướng. Vào ngày 10 tháng 3 năm ẤT MÙI. Ngày mà Quốc Tổ từ biệt cõi trần. Trả lại xác trần về Trời. Ngày ấy cảnh vật buồn hiu. Hoa đang khoe sắc đi vào héo rụng. Chim chẳng muốn bay, thú chẳng muốn ăn. Như linh cảm Mặt Trời Trí Huệ, Chánh giác sắp lặng. Đấng đại từ đại bi. Lập Quốc, trị Quốc bằng con đường Chánh giáo. Đạo Pháp Quốc Đạo Chính Nghĩa Dân Tộc. Trên bực cao Quốc Tổ vẫn uy nghi như ngày nào. Chiếc áo Rồng lung linh sống động như muốn nghe từng lời Quốc Tổ. Quân Thần Dân chúng tuy không tiếng khóc nhưng nước mắt cứ rơi rơi mãi ước nhầm cổ áo.
Lời Quốc Tổ trầm hùng vang dội khắp Núi Sông đều nghe thấy từng lời:
Hỡi Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt. Từ khi Quân Dân theo ta dựng nước đến nay 84 lần xuân đến 84 lần xuân đi. Với năm tháng dài như thế, tình Quân Dân như Cá với Nước biết bao nhiêu là tình nghĩa đậm đà thắm thiết, không thể nói vài lời cho hết được. Giờ đến lúc ta phải chia tay với Quân Dân mà về Trời. Vì Đức Cha Trời đã gọi, ta không thể ở lại chốn nhân gian lâu hơn nữa, với lý do là vì ta Chí Tôn Thiên Đế chủ quản các tầng Trời. Ngôi Chí Tôn Thiên Đế, không thể trống mãi được. Trước khi ta về Trời ta có đôi lời tâm huyết truyền dạy căn dặn Quân Dân.
Khi ta về Trời, thì Quân Dân phải hết lòng thờ phụng Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ. Hai Đấng tối cao Linh Thiên vũ trụ. Đấng Cha Trời là Đấng Chủ Quản thế giới, Linh Hồn vũ trụ. Đấng Công Bằng vũ trụ cũng là Đấng giáng họa, ban phước cho mỗi Dân Tộc, cho mỗi Đất Nước. Đấng tối Đại Linh Thiên, không có Đấng nào Linh Thiên hơn nữa. Bách Tộc Văn Lang Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải đặc hết niềm tin vào Đức Cha Trời, sẽ được Đức Cha Trời đùm bọc che chở, khai mở trí huệ, giữ vững chủ quyền, Độc Lập hàng nghìn năm.
Nếu Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt xao lãng niềm tin tôn kính Đức Cha Trời nghe theo tà Ma ngoại Đạo. Thì Đất Nước sẽ đi vào Đại Loạn. Nền Quốc Đạo mất. Thì Dân Tộc Văn Lang trở thành Dân Tộc nô lệ, ngoại xâm sẽ từng bước từng bước nuốt lần nuốt lần nước Văn Lang. Nhất là những phần đất đai phía Bắc Nước Văn Lang. Không những mất lần đất đai mà còn mất lần Dân Tộc Văn Lang, ở những vùng đất mà giặc ngoại xâm đã nuốt lần nuốt lần đất Văn Lang. Mỗi lần con cháu Văn Lang tạo ra cảnh nồi da nấu thịt, là mỗi lần ngoại xâm, xâm lấn biên cương hàng chục dặm đất đai.
Địa Mẫu Âu Cơ, Mẹ Trời là Chúa Tể cai quản thế giới vật chất vũ trụ. Sự giàu của mỗi Bộ Lạc, Bộ Tộc, đều nhờ vào Quyền lực của Mẹ Trời ÂU CƠ. Đức Mẹ Âu Cơ là Đức Mẹ tối Linh Thiên vũ trụ, chỉ cần cảm nghĩ đến Mẹ, là Đức Mẹ chiếu cố phù hộ ngay. Những phát minh sáng kiến trong khoa học, phần lớn là do Đức Cha Trời hộ lực khai thông. Thành tựu khoa học vật chất. Cũng thành tựu trong sự tu luyện ngộ Đạo, Đắc Đạo, Thành Đạo. Đều có bàn tay nâng đỡ của Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ.
Ta sanh xuống chốn nhân gian, là để nói rõ nguồn gốc vũ trụ. Nguồn gốc Linh Hồn, nguồn gốc Nhân Loại, nguồn gốc Cha Trời, Mẹ Trời và Quyền năng tối cao của Đức Cha Trời Mẹ Trời. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng chỉ là con Cháu của Đức Cha Trời Mẹ Trời mà thôi. Ta đem lời dạy của Đức Cha Trời Lạc Long Quân, lời dạy của Địa Mẫu Âu Cơ truyền xuống chốn nhân gian. Để cho Nhân Loại trở về với Cội với Nguồn, đến với Đấng ông Cha. Đấng tạo lập lên vũ trụ sanh ra Nhân Loại con người. Ta làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, lập lên Đất Nước Văn Lang, để sau nầy con Cháu Văn Lang làm chủ Địa Long hình chữ S. Thánh Địa Lãnh Nam Linh Thiên siêu việt nầy, là chỗ khai lập Đại Đạo Đại Đồng sau 5 nghìn năm nữa. Cũng là Thánh Địa Linh Thiên bảo bọc Nhân Loại con người sống sót ở cuối tiểu kiếp thứ 9 sang qua tiểu kiếp thứ 10.
Nay ta giao Địa Long Thánh Địa nầy cho Quân Dân Bách Việt gìn giữ. Trong tương lai dù cho gặp hoàn cảnh khó khăn nào. Dù cho thịt nát xương tan, cũng phải giữ gìn không để mất, sau năm nghìn năm ta sẽ trở lại chuyển pháp luân lần hai Thiên Ấn trở lại Thiên Bút ra đời. Những Linh Hồn thật sự vì Non, vì Nước, Hồn Trung Kiên. Hồn Tiết Liệt Nam Nữ. Ta sẽ cho Chư Thiên tiếp rước Linh Hồn về Trời, sống trên các cõi Châu Báu Thiên Đàng Cực Lạc. Chỉ trừ những kẻ đấu tranh cho bè Đảng, bè Phái. Không phải vì Non Sông Tổ Quốc, không phải vì Đồng Bào Dân Tộc. Mà chỉ vì quyền lực của bè Đảng, vì tư lợi riêng làm hại Đồng Bào Dân Tộc.
Những kẻ tôn thờ ngoại xâm. Tôn thờ ác Đạo, vùi lấp truyền thống Dân Tộc. Bỏ Cội bỏ Nguồn. Dù trung hiếu cho cách mấy. Tiết Liệt cho cách mấy. Cũng chỉ là trung với bè Đảng mà thôi. Và những kẻ ấy là những anh hùng lạc Đạo sa đọa ngập chìm trong con đường ác. Mất Thân người khó mà đầu thai trở lại làm người, sự trung thành ấy chỉ đưa nhau xuống Địa Ngục. Theo Luật nhân quả mà thọ lãnh quả báo.
Sau năm nghìn năm nữa. Từ Chủ Nghĩa Độc Quyền sẽ chuyển sang Chủ Nghĩa Đa Nguyên. Chủ Nghĩa Đa Nguyên chuyển hóa lên Chủ Nghĩa Đại Đồng. Thời Đại của Chủ Nghĩa Đa Nguyên là thời đại Dân Chủ nhân quyền Đa Đảng sống theo Hiến pháp, Luật pháp, khác với Chủ Nghĩa Độc Quyền sống theo Hiến pháp ngụy tạo Vua Chúa. Tuy là thời kỳ Đa Đảng. Nhưng Đảng nào hết lòng vì Dân vì Nước sẽ được Nhân Dân ủng hộ, không đánh mất truyền thống Dân Tộc, phát huy truyền thống Dân Tộc. Thì Đảng đó gọi là Chánh Đảng, sẽ được Cha Trời Mẹ Trời gia hộ. Hồn Thiên Dân Tộc, Khí Thiên sông núi ủng hộ che chở.
Ý Trời đã thế, thì xã hội Nhân Loại sẽ chuyển theo Huyền Cơ theo Thiên Ý Cha Trời. Đó là ta nói năm nghìn năm nữa mới tới. Còn hiện tại bây giờ. Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt phải tiến lần về Nam, đường Núi, đường Sông, đường Đồng Bằng, đường Biển. Cho đến khi hoàn toàn làm chủ Địa Long mới thôi. Hôm nay hình thể bụng Địa Long đã lộ dần. Do lượng phù sa hàng năm, do Nước mang đi bồi đắp lần ra biển. Trời sanh khí. Đất sanh Linh. Khí – Nước – Đất giao hóa khởi hình, anh hùng Hào Kiệt mọc lên như nấm. Con Cháu mai sau Bách Tộc Văn Lang Âu Việt, Lạc Việt, mấy mươi Dân Tộc anh em trổ hoa trí tuệ. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng như vầng Thái Dương tỏa sáng khắp trời Đất, khắp Năm Châu Bốn Biển.
Hôm nay Nhân Loại toàn thế giới tuổi thọ trung bình là 110 tuổi, thọ là 130 tuổi yểu là 90 tuổi. Đó là nói người thường không tu tiên, tham thiền luyện khí nhập định. Còn những bậc tu thiền luyện khí nhập định. Thời tuổi thọ kéo dài đến vài trăm năm. Sau năm nghìn năm ta trở lại chốn Nhân Gian. Lúc ấy Nhân Loại tuổi thọ trung bình là 60 tuổi, thọ 80 tuổi, yểu 40 tuổi. Và chỉ còn năm nghìn năm nữa là hết tiểu kiếp thứ 9. Chuyển sang qua tiểu kiếp thứ 10. Càng về cuối tiểu kiếp. Động Đất khắp nơi. Nước dân khắp chốn. Mưa to bão lớn kinh hoàng. Nhiệt độ tăng cao thiêu đốt. Nhiệt độ hạ thấp sự sống khó mà tồn vong, số phận của Nhân Loại khó mà tồn tại được nhiều. Những Linh Hồn tiến hóa đến chỗ thông Linh hướng Thiện. Theo con đường Đạo Đức Chính Nghĩa, sẽ được tiếp rước siêu sanh về Trời. Thiện Ác siêu đọa rẽ đôi. Những Linh Hồn còn nhiều ác tính, đều đọa lạc về cõi âm phủ, sống trong thế giới tối tăm đói khổ. Chờ đợi hàng triệu năm, Nhân Loại ở tiểu kiếp thứ 10 sanh con đẻ cháu đông. Thì mới có dịp đầu thai trở lại dương gian để làm người, tiếp tục cuộc hành trình tu luyện tiến hóa Linh Hồn.
Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt. Bách Tộc Văn Lang. Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Đạo vũ trụ. Nền Hiến pháp Văn Lang là thuyền lớn, cầu lớn. Bắc qua sông mê, đến bờ giác, ai cũng có thể đi được. Qua sông mê không mấy khó khăn phải nói là rất dễ dàng. Đời trong Đạo, Đạo trong Đời, theo bước Cha ông trở về vũ trụ.
Hỡi Quân Dân Bách Tộc Văn Lang. Chúng ta là dòng giống Tiên Rồng. Con Cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Bổn phận con Cháu Tiên Rồng là đẩy lùi cái ác duy trì cái thiện, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời, Mẹ Trời. Cha Trời đã dạy chúng ta tiến về Nam làm chủ Địa Long. Cha Trời đã kêu ai thì người ấy dạ. Cha Trời đã cho ai thì người ấy hưởng, vì giang san vũ trụ nầy là do Tổ Tiên, Cha Trời tạo lập. Ba Con Chúa Quỷ chúng đã chiếm giữ Địa Long hàng triệu triệu năm. Chúng gieo tang tóc chết chóc cho con người, hết triệu năm nầy sang triệu năm khác. Tội ác của chúng không thể nào kể xiết. Nhưng không ai diệt nổi chúng, vì chúng đã đạt đến cảnh giới pháp thuật Thần Thông ghê gớm. Mưu mô Quỉ quyệt vô cùng, biến giả thành chân che mắt cả Thần Thánh. Huống chi chỉ là người thường tục, thì chúng lừa gạt còn dễ hơn nữa. Ba Con Chúa Quỷ pháp thuật Thần Thông ghê gớm ấy. Chúng chỉ thua gươm Thiên trí huệ Chánh Đẳng Chánh giác của Linh Hồn con người. Ánh sáng của Chánh Đẳng Chánh giác.
Một là: Pháp Tạng Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Hiến pháp, pháp Tạng vũ trụ.
Hai là: Luật Tạng vũ trụ. Nhân quyền Bình Đẳng. Những quyền Thiêng Liêng mà Cha Trời đã ấn chứng di truyền cho mỗi con người, không có quyền tước đoạt hoặc ngăn cấm những quyền thiêng liêng ấy. Bất khả xâm phạm.
Ba là: Ánh sáng Chính Nghĩa, ánh sáng Đạo Đức Chân Thiện. Phật Thánh Tiên, Thiên Tạng vũ trụ, ánh sáng Chủ Nghĩa Đại Đồng, Công Bằng xã hội.
Ba ánh sáng Chí Tôn Tam Bảo Chính là ba ánh sáng của Chánh Đẳng, Chánh Giác, ánh sáng cứu thế. Ba con Chúa Quỷ chúng rất sợ ba ánh sáng Chánh Đẳng, Chánh Giác nầy. Về thời mạt pháp Tà Ma ác quỷ chúng giả tạo ra ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác che mắt Thần Thánh, lừa gạt Thiên Hạ, dẫn dắt Thiên Hạ vào con đường tội lỗi. Gươm Thiên Đại Huệ Chánh Đẳng Chánh giác xuất hiện. Khi xuất hiện liền tỏa ra ba Đạo hào quang, hiện ra vô số Mặt Trời. Mặt Trời Hiến Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Luật Pháp Chính Nghĩa. Mặt Trời Đạo Đức Công Lý Chính Nghĩa. Thi nhau tỏa sáng thiêu rụi Tà Ma ác quỷ. Làm cho chúng tiêu tan sức lực. Không còn đủ sức thị hiện Thần Thông, buôn Thần bán Thánh. Làm hại Nhân Loại con người.
Tuy chúng ta đã tiêu diệt ba con Chúa Quỷ và bè đảng Yêu Tinh của chúng. Nhưng chúng ta đừng lầm tưởng yêu quái đã chết mà không làm hại con cháu chúng ta. Cái chết của chúng chỉ là thể xác. Còn Linh Hồn của chúng. Một số ẩn núp hang sâu, dưới tán cây Cổ Thụ lớn. Còn số đã bay dạt về Phương Tây. Không bao lâu chúng nó sẽ hoàn Hồn thông linh trở lại. Hồn chúng nó lưu vong qua nhiều thuộc địa. Tiếp tục kết bè kết đảng với nhiều yêu Tinh khác. Và chúng không bao giờ quên mối thù Con Cháu nhà Trời tiêu diệt chúng. Chúng sẽ đầu thai Đất Bắc tạo lập lên quyền thế, chờ cơ hội thuận lợi là tiêu diệt Nước Văn Lang. Tiêu diệt con cháu chúng ta. Chúng chờ con cháu chúng ta quên đi Nguồn Cội là chúng đầu thai vào làm con cháu Của con cháu chúng ta, gây ra cảnh nồi da nấu thịt. Đồng Bào anh em tàn sát lẫn nhau. Hồn ba con Chúa Quỷ chúng thấy Quân Dân Văn Lang. Hết lòng thờ phụng Tôn Thờ Đức Cha Trời Lạc Long Quân. Tôn thờ Địa Mẫu Âu Cơ. Ba Hồn con Quỷ đã bỏ trốn xa Nước Văn Lang. Hồn Mộc Tinh, Ngư Tinh đã trốn chạy về Phương Tây. Hồ Tinh lòng tham vọng dã tâm rất lớn, lúc nào cũng muốn chiếm đoạt Địa Long hình chữ S. Nên không chạy trốn về Phương Tây mà chỉ ẩn mình trốn ở Đất Bắc. Ba con Chúa Quỷ Hồn chúng không đầu thai trở lại Căn Cội của chúng mà chúng sẽ đầu thai làm người, ăn gan uống máu con người. Chúng hành hạ con người, chúng biến con người làm nô lệ cho chúng. Hồn Cáo Hồ Tinh Chín đuôi có cánh, luôn luôn chờ cho Dân Tộc Văn Lang. Quên đi nòi giống Tiên Rồng. Quên đi Nguồn Cội. Đánh mất truyền thống dân tộc, xu thế ngoại bang. Đây là cơ hội cho Hồ Tinh đầu thai khởi động bộ máy chiến tranh. Dẫn con Cháu Văn Lang vào cảnh nô lệ, vào cảnh nồi da nấu thịt. Văn Hóa Cội Nguồn mất. Thiên Ấn tan biến chẳng còn thời con cháu Văn Lang khốn khổ hàng năm.
Hởi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang. Dù ba con Chúa Quỷ chúng tài đến đâu. Thần Thông đến đâu. Cũng không thoát khỏi tai mắt của Trời. Vì Đức Cha Trời, Đức Địa Mẫu là hai Đấng tối cao Chúa Tể vũ trụ. Quyền năng vô hạn sự hiện thân của Đức Tổ Tiên. Nếu chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn. Con Cháu của chúng ta không rời bỏ Cội Nguồn. Thờ phụng Tổ Tiên. Cha Trời Lạc Long Quân. Địa Mẫu Âu Cơ, theo Văn Hóa Cội Nguồn mà hành trì. Thì Tà Ma ác Quỷ cũng khó mà làm gì được.
Hỡi Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang phải tuyệt đối nhớ lời ta dặn. Dù cho có xảy ra chuyện gì, cũng không được bỏ Cội bỏ Nguồn. Đánh mất Văn Hóa Cội Nguồn, Nòi giống Rồng Tiên, đánh mất truyền thống dựng Non dựng Nước. Thì coi như mất tất cả. Cảnh lệ thuộc ngoại ban, cảnh nô lệ ngoại bang, cảnh nồi da nấu thịt, nội chiến triền miên không sao tránh khỏi. Đã đến giờ ta từ biệt cõi Trần, từ biệt Quân Dân Âu Việt, Lạc Việt Bách Tộc Văn Lang yêu mến.
Quốc Tổ phất tay từ biệt. Nhị xác thần Quốc Tổ thoát ra khỏi thể xác phàm trần, hào quang rực rỡ. Nơi chốn nhân gian, Chư Thiên trỗi nhạc nghe văng vẳng. Thuyền Rồng đã đến, Quốc Tổ bay lên không trung hạ chân xuống Chân Mây vẫy tay thay cho lời vĩnh biệt Quân Dân cả Nước.
* * *
Hết phần 3 chương 20 mời xem tiếp phần 1 chương 21 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
* * *
Go to the top of the page
 
+Quote Post
vomenh
bài Oct 18 2025, 08:01 AM
Bài viết #62


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 152
Gia nhập vào: 12-August 08
Thành viên thứ.: 795



CHƯƠNG 21
PHẦN CUỐI
PHẦN 1
THỊNH – SUY
Từ ngày Quốc Tổ về Trời. Thái Thượng Quốc Mẫu, còn ở lại chốn nhân gian, tiếp tục lãnh đạo Đất Nước. Khi ấy Hùng Quí Lân con cả Quốc Tổ lên ngôi vương được ba năm. Hùng Vương đời thứ 2. Trị Quốc không bao lâu, thời Đàn voi có sự đột biến. Nguyên đàn voi trăm con, có một con không nghe lịnh Hùng Vương. Có ý phản lại Bách Tộc Văn Lang. Vua Hùng Vương đời thứ hai tức giận ra lệnh đem chém trước Bách Tộc Văn Lang trị cái tội bất trung, máu loang đỏ thắm như nhắc nhở cho những kẻ ăn ở hai lòng.
Niên Đại Hùng Vương tiếp nối nhau trị vì Thiên Hạ được 41 đời. 23 đời Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Kéo dài được 2.701 năm. Thời Dựng Nước 79 năm Thời Quốc Tổ. Thời Giữ Nước 2.622 năm thời con cháu.
Ở thời kỳ Thượng Hùng Vương. Đời Hùng Vương thứ 13 sang đời Hùng Vương thứ 14. Có giặc Thượng Tây Hạ. Giặc Hồ Xương kéo đến xâm lược Tây Bắc Văn Lang. Nhưng bị Quân Văn Lang Con Rồng Cháu Tiên đánh bại, vùi lấp quét sạch nơi trận địa, ngoại xâm khiếp vía kinh hồn.
Nước Văn Lang là một Đất Nước hưng thịnh, vô cùng béo bở làm cho các thế lực ngoại bang thèm muốn không từ một thủ đoạn âm mưu nào, miễn sao chiếm Đất lấn Đất nuốt lần Nước Văn Lang. Cả miền Bắc nước Văn Lang Tây Bắc và Đông Bắc, các thế lực ngoại xâm, xâm lược càng về sau càng quy mô lớn. Chúng nuôi mộng xâm lược luôn luôn chờ cơ hội. Nước Văn Lang là một Đất Nước có nhiều nền Văn Minh lớn.
1: Nền Văn Minh Hội Họa, Giao Tiếp.
2: Nền Văn Minh Khai Thác, Tài Nguyên.
3: Nền Văn Minh Rèn Đúc Dụng Cụ.
4: Nền Văn Minh Lúa Nước.
5: Nền Văn Minh Quốc Đạo Chính Nghĩa.
Với lòng tham vọng của các thế lực ngoại bang. Ngoài Non Sông Đất Đai trù phú, khí hậu ôn hòa, thiên nhiên ưu đãi, còn năm nền văn minh trên, cộng thêm nền văn minh gốm, sứ. Vì chiến tranh thường xảy ra. Các thế lực ngoại xâm, xâm lược, càng về sau càng quy mô lớn. Làm cho nền Văn Minh Văn Lang chậm Nguồn phát triển. Nước Văn Lang càng lúc càng thu hẹp càng lúc càng lâm nguy. Khi ấy Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay giặc phương Bắc, coi như Nước Văn Lang đã mất đi một phần ba, mà còn mất thêm nữa.
Khi ấy Tây Văn Lang. Thục phán là cháu 20 đời của Thục Lao. Bà Cố của Thục phán, là Công Chúa Hùng Vương đời thứ 15 Hùng Triều Vương, Cảnh Chiêu Lang. Thục Phán thấy Hùng Duệ Vương không có con trai, lại bỏ bê chính sự, nịnh Thần lộng hành, không sớm thì chầy cũng bị ngoại xâm nuốt chửng. Nghe Vua Hùng chuẩn bị nhường ngôi cho con rễ. Tức là Tản Viên Sơn Thánh (Nguyễn Tuấn). Thục Phán tức giận, huy động Chín Chúa khắp Tây Văn Lang. Chín Chúa Tây Văn Lang là cháu trên 20 đời của Tây Thục Vương, huy động 30 vạn quân kéo về thành Văn Lang ép Vua Hùng nhường ngôi.
Hùng Duệ Vương có trao binh quyền cho Tản Viên Sơn Thánh chống trả lại Thục Phán. Tản Viên Sơn Thánh nghe tin Thục Phán vô tình gặp Rùa Thần. Rùa Thần dẫn Thục Phán đến hang động bí mật. Nơi Quốc Tổ Vua Hùng luyện Bảo Kiếm. May thay nơi đây còn sót lại bí quyết luyện thép của Quốc Tổ Vua Hùng và Thục Phán đã luyện được thép thành công. Thục Phán cho người rèn đúc ra kiếm, ra tên vô cùng lợi hại. Tản Viên Sơn Thánh, Nguyễn Tuấn biết chống trả cũng không lại, lại gây ra cảnh tương tàn nồi da nấu thịt, sò hến đánh nhau ngư ông đắc lợi. Ngoại xâm chính là ngư ông. Chờ thời cơ là hốt sạch, xóa sổ nước Văn Lang, Nguyễn Tuấn thấy rõ nguy cơ mất nước xảy ra. Khi anh em tương tàn nồi da nấu thịt. Chi bằng khuyên Vua Hùng nhường ngôi Quốc Vương cho Thục Phán.
* * *
Hết phần 1 chương 21 mời xem tiếp phần 2 chương 21 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
* * *

CHƯƠNG 21
PHẦN CUỐI
PHẦN 2
THỜI MẠT PHÁP – MẠT VẬN
Thục Phán lên ngôi Quốc Vương. Niên Đại Hùng Vương kết thúc. Chuyển sang niên hiệu An Dương Vương. Thời Đại Văn Lang kết thúc. Chuyển sang thời đại Âu Lạc. Cũng chính là lúc con cháu Tiên Rồng rơi vào thời mạt pháp mạt vận. Mặt Trời Chính Nghĩa không còn, màn đêm bao phủ Con Cháu Tiên Rồng.
AN DƯƠNG VƯƠNG trị vì Thiên Hạ 79 năm. Thì bị TRIỆU ĐÀ từ lâu chiếm lĩnh Địa phận Nước Xích Quỷ. Tiến quân tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG. Thành Cổ Loa rơi vào tay giặc.
Khi Thục Phán lên ngôi Quốc Vương, lúc ấy Bắc Văn Lang Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay giặc từ lâu. Trở thành mảnh đất chiến tranh, tranh giành của nhiều thế lực. Như Thục – Tần – Ngô – Sở – Triệu – Hán – Ngụy – Tấn. Đất Bắc nhà Chu đi vào giai đoạn kết thúc. Chiến tranh, tranh giành thuộc địa càng lúc càng dữ dội.
Khi Thục Phán lên ngôi Quốc Vương lập nước ÂU LẠC. Bắc Văn Lang, Nước Xích Quỷ đã rơi vào tay quân giặc Tấn. Quân giặc Sở cắt đôi Giao Chỉ thành thế Đông Tây, Cửu Chân, Nam Hải, Đông Hải, Hợp Phố. Cộng thêm nữa phần đất Giao Chỉ phía Đông, do quân giặc Sở đô hộ chiếm đóng. Uất Lâm – Thương Ngô – Nhật Tây – Nhật Nam. Cộng thêm nữa phần đất Giao Chỉ phía Tây. Do quân giặc Tấn đô hộ chiếm giữ. Dưới ách thống trị của giặc ngoại xâm. Bách Tộc Văn Lang Âu Việt – Lạc Việt – Mân Việt – Dương Việt – Điền Việt – Hải Việt – Sơn Việt – Trung Việt – Hoa Việt – Đông Việt – Tây Việt, v.v... gọi chung là Bách Việt Văn Lang, ở vào giai đoạn Hạ Hùng Vương từ đời Hùng Vương thứ 11 đến thứ 18.
Dưới ách thống trị Quân Tấn, Quân Sở, Bách Việt Văn Lang vô cùng khốn khổ. Chúng ra sức vơ vét của cải phục vụ cho chiến tranh. Đất nước Xích Quỷ Bắc phần Văn Lang, vô cùng trù phú là miếng mồi béo bở tranh giành của nhiều thế lực. Vì thế giặc Tấn, bị quân Triệu, quân Hàn, quân Ngụy, kéo đến tấn công. Quân Tấn bị tiêu diệt. Giặc Hàn, giặc Triệu, giặc Ngụy chia nhau chiếm giữ. Bách Việt Văn Lang lại rơi vào cảnh khốn khổ khác. Hổ chết thì Sói vào, Ma tiêu thì Quỉ đến. Chúng không những vơ vét về của cải vật chất mà còn vơ vét con người phục vụ cho chiến tranh, còn nỗi khổ nào hơn nữa.
Tần Thủy Hoàng gồm thâu Thiên Hạ giành lấy giang san của kẻ khác. Nhất là miếng mồi béo bở như nước Xích Quỷ, liền đem quân tấn công, Quân Ngụy, Quân Triệu, Quân Hàn.
Đất Bắc Nhà Chu đi vào giai đoạn kết thúc. Nhà Tần lên thay thế vào năm 257 trước công nguyên. Nhà Tần gồm thâu Thiên Hạ, tranh giành đất đai. Quân Hàn – Quân Ngụy đầu hàng. Quân Triệu vì ỷ có 40 vạn quân nên không chịu đầu hàng. Thế là cuộc chiến xảy ra trên đất Tây Giao Chỉ vô cùng khốc liệt. Gia Triệu tử nạn 20 vạn quân chôn vùi tại trận. Con của Gia Triệu là Gia Lại. Dẫn 20 vạn quân còn lại, chạy trốn sâu vào Đất Văn Lang, xưng là Đại Vương. Quân Tần tiếp tục truy sát. Gia Lại Đại Vương dẫn 20 vạn quân vượt qua sông Tây Giang. Quân Tần không truy đuổi nữa về sau Gia Lại xưng hiệu là Triệu Việt Vương.
Quân Triệu giặc Triệu vượt qua sông Tây giang chiếm lĩnh nhiều Châu nhiều Quận nhiều Huyện của trung phần đất Văn Lang như: Hồng Châu, Hồng Thượng Châu, Đông Châu, Thái Châu, Bộc Châu, Cưu Châu, Tiên Châu, Lô Châu, Du Châu, Thạch Châu, Môn Châu, Điền Châu. Tình hình Bách Việt Văn Lang lúc bây giờ rối loạn, rối ren liên tiếp xảy ra sự lộn rộn, không có trật tự nào cả. Bắc Văn Lang thì đã rơi vào tay giặc. Còn Trung Văn Lang tình hình như đã nói trên trộm cướp khắp nơi. Tình hình vô cùng thuận lợi cho giặc Triệu chiếm lĩnh đất đai hàng phục dân chúng một cách dễ dàng. Không bao lâu thế lực của giặc Triệu lên tới 40 vạn. Tiếp tục chiếm lĩnh các Châu, Quận, Huyện về hướng đông trung Văn Lang như: Lũng Trung Châu, Diên Giao Châu, Hồng Định Châu, Hà Hạ Châu, Thượng Lô Châu, Lô Lô Châu.
Tần Thủy Hoàng gồm thâu Thiên Hạ chia Thiên Hạ ra làm 36 Quận. Quận lớn hơn Huyện. Quận ở Tần Bằng Châu Văn Lang. Đời Tần thịnh về thuyết Ngũ Hành. Nên chia Thiên Hạ cũng theo năm phương vị Ngũ Hành. Đại Nam – Đại Bắc – Đại Đông – Đại Tây. Nhưng chỉ có Đại Nam là quan trọng hơn cả. Chiếm được Đại Nam là coi như chiếm được Thiên Hạ. Nên Tần Thủy Hoàng quét sạch Quân Hàn – Quân Triệu – Quân Ngụy – Quân Sở. Chiếm lĩnh Đại Nam trước, Đại Nam chính là Nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang. Trước sự cai trị độc ác hà khắc ác nghiệt của Chế Độ Chính sách nhà Tần. Dân chúng Bách Việt Văn Lang Xích Quỷ, bỏ trốn di cư vào Nam, vượt qua sông Tây Giang, làm cho thế lực Triệu Đại Vương càng ngày càng mạnh.
Lúc nầy nền Quốc Đạo truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn, phai mờ từ lâu. Bách Việt rơi vào cảnh tối tăm. Đất Bắc sáng sủa hơn vì có thuyết Lão giáo. Khổng giáo. Ngoại xâm, xâm lược Nước Văn Lang không những chỉ có Quân Sự, Chính trị mà còn có cả Văn Hóa. Xâm lược Văn Hóa còn độc hại hơn xâm lược Quân Sự, Chính trị. Bách Việt Trung phần, Bắc phần Văn Lang đã bị Văn Hóa ngoại xâm thống trị ngự trị ăn sâu vào tâm hồn. Đồng hóa Dân Tộc Văn Lang thành Dân Tộc Đất Bắc.
Cho đến năm 184 trước công nguyên. Triệu Đại Vương đem quân đánh An Dương Vương. Nhưng đánh không lại tiêu 20 vạn quân và mấy lần liên tiếp thất bại. Triệu Đại Vương tức là Triệu Đà khiếp vía. Biết không thể nào thắng nổi An Dương Vương. Triệu Đà bằng nghĩ ra một kế sách âm mưu lớn. Đà quỉ quyệt xin giảng hòa với An Dương Vương. Rồi sai con trai là Trọng Thủy vờ sang cầu hôn với Nàng Mỵ Châu. Chủ ý là dò xét cách dàn quân bày trận. Liên hoàn cung và vũ khí luyện thép bí mật của ÂU LẠC. Mũi tên thép, bắn thủng áo giáp, độ trúng chính xác rất cao, làm khiếp sợ quân xâm lược. Với mưu chước quỉ quyệt cầu hôn giảng hòa giả tạo nầy. Triệu Đà đã đạt được mục đích. Trọng Thủy học được bí quyết luyện thép. Nhờ sự giúp đở của Mỵ Châu. Triệu Đà liền chế tạo ra tên thép. Kiếm thép. Áo giáp thép, liền tiến quân đánh thành Cổ Loa. AN DƯƠNG VƯƠNG ỷ y bất ngờ bị Triệu Đà tiêu diệt.
Thế là Nước Âu Lạc không còn vào năm 179 trước công nguyên. Tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG xong Triệu Đại Vương, xưng là Triệu Việt Vương. Con Cháu Tiên Rồng rơi vào cảnh Đô hộ ngoại bang. Dưới sự cai trị của Quân Triệu Con Cháu Tiên Rồng không tùng phục. Mà còn nổi lên chống trả khắp nơi. Triệu Việt Vương tên xâm lược, ra sức dẹp loạn. Nhưng dẹp chỗ nầy là chỗ khác lại mọc lên. Y lấy làm lạ đâu cũng là Nước Văn Lang. Nhưng Dân Nam Văn Lang vô cùng khác lạ. Không giống Trung Văn Lang và Bắc Văn Lang, y ra sức dụ dỗ cách nào Dân cũng không nghe, y thuyết giảng Khổng, Lão. Dân cũng không màng và y đã nghi ngờ Đất Đai Nam Văn Lang có vấn đề.
Nói về Triệu Đại Vương. Triệu Đà có đủ sức mạnh đánh chiếm Nước Âu Lạc. Có bốn nguyên do thuận lợi tạo lên thắng lợi đó.
1 - Là do sự cai trị Độc ác của chế độ nhà Tần. Dân chúng Bách Việt Văn Lang Nước Xích Quỷ Bắc Văn Lang. Bỏ trốn di cư vào Nam, vượt qua sông Tây Giang làm cho thế lực Triệu Đại Vương càng ngày càng thêm Mạnh. Nhờ vào chính sách, lừa bịp giỏi.
2 - Là năm 209 trước công nguyên. Công Tử Hồ Hợi. Lên kế vị Tần Thủy Hoàng. Nhị thế Hoàng Đế. Thì Triệu Cao lên chức như diều gặp gió. Từ lang trung lệnh không bao lâu lên nắm quyền Thừa Tướng. Quyền lực thế lực rất mạnh, khôi phục lại thế lực Nước Triệu ở bên kia Hoàng Hà. Thế là Triệu Đại Vương Triệu Đà. Thoát khỏi áp lực truy sát Quân Tần. Lại được Nước Triệu, bên kia sông Hoàng Hà hậu thuẫn ủng hộ giúp sức. Triệu Đại Vương trên đà hùng mạnh, tiến quân đánh An Dương Vương nhưng Triệu Đà vẫn đánh không lại, vì AN DƯƠNG VƯƠNG có liên hoàn cung. Mũi tên thép, bắn thủng áo giáp, nón mũ giáp, độ trúng chính xác rất cao. Mấy lần thất bại làm cho Triệu Đà khiếp sợ.
3 - Triệu Đà lập ra một âm mưu lớn. Triệu Đà quỷ quyệt xin giảng hòa với AN DƯƠNG VƯƠNG. Rồi sai con Trai là Trọng Thủy vờ sang cầu hôn với Nàng Mỵ Châu. Chủ ý là dò xét cách dàn quân bày trận Liên Hoàn Cung và cách luyện thép bí mật. Chế tạo lên thép, Kiếm thép, Đao thép, mũi lao thép của ÂU LẠC. Với mưu chước quỉ quyệt nầy. Triệu Đà đã đạt được 2 mục đích.
– Chia rẽ nội bộ làm cho mâu thuẫn với nhau, mất đoàn kết, mất sức mạnh thống nhất.
– Khám phá ra bí mật cách dàn quân bày trận Liên Hoàn Cung, cách luyện thép, cách chế tạo ra tên thép, Kiếm thép, Đao thép, Lao thép, chúng còn chế tạo ra cả áo giáp thép.
4 - Chúng thấy thời cơ đã chín mùi, liền tiến quân đánh chiếm thành Cổ Loa, tiêu diệt AN DƯƠNG VƯƠNG vào năm 179 trước công nguyên.
Diệt xong An Dương Vương, y tưởng rằng hàng phục Dân Âu Lạc một cách dễ dàng, nào hay đâu y không hàng phục được. Mà Dân Âu Lạc càng ngày càng nổi lên chống trả y càng dữ dội, y liền cho người về Nước Triệu, thỉnh cầu cao kiến. Lúc ấy Nước Triệu Trương Nhĩ đã lên làm thừa tướng. Trương Nhĩ có quen với một người Nước Tần là Tấn Hầu Gia chán ngán cuộc thế ở ẩn. Rất giỏi về Thiên Văn Địa Lý, dịch số, toán số. Nhưng vì nể Trương Nhĩ là bậc Nhân hiền. Nên vào Nam giúp cho Triệu Việt Vương tức là Triệu Đà, xem qua địa cuộc Nam Văn lang.
Tấn Hầu Gia vừa đến đất ÂU LẠC Nam Văn Lang, thời cảm thấy bất an ớn lạnh, Triệu Việt Vương dẫn Tấn Công Hầu xem qua địa cuộc Nam Văn Lang, Công Hầu thấy Đất Đai Núi sông kỳ bí khí thiên sông núi tỏa lên kỳ lạ. Địa cuộc Hổ phục, Rồng Chầu, Hổ ngồi Rồng ẩn thời thốt lên quả là Địa Linh Đất Thánh. Không phải Dân Nam thì xưng vương ở đất nầy nhất định sanh đại họa. Công Hầu nói Đất Nam kỳ bí nầy chỉ có người Nam cai trị người Nam. Việt Vương không nên đóng đô ở đây. Đóng đô trên đất Giao Chỉ để xưng Vương. Còn nơi đây đặc sứ tài giỏi để cai trị, bóc lột vơ vét không cho dân chúng có đủ sức lực để chống trả. Triệu Việt Vương làm theo, phong cho Triệu Lữ Gia làm thừa tướng. Biến Nước ÂU LẠC thành Nam Quận. Triệu Lữ Gia là con cáo già thâm độc. Dùng kế sách Người Nam Việt cai trị Người Nam Việt. Làm cho cảnh nồi da nấu thịt vô cùng thê thảm.
Cho đến năm 111 trước công nguyên. Nhà Hán tiêu diệt Nhà Triệu. Cướp Nước Nam Việt lần nữa. Thừa Tướng Triệu Lữ gia bỏ Âu Lạc chạy sang phiên Ngung cấu kết với các Bộ Tộc thổ hào Văn Lang chống lại nhà Hán và cuộc giao tranh giữa nhà Hán với Thổ Hào Văn Lang tại Long động Hùng Sơn. Triệu Lữ Gia tử nạn. ÂU LẠC Nam Văn Lang lại rơi vào tình cảnh bi đát hết sức đau khổ. Con Cháu Tiên Rồng thật đáng thương. Nhìn cảnh vơ vét bóc lột dã man của Quân Hàn. Nhìn cảnh Trâu cày Ngựa cưỡi tù đày tra tấn, đói rét, bệnh tật, sống chết nằm trong tay giặc. Thi sách nhìn quân thù hai con mắt đổ lửa.
Từ thuở dựng Non thuở Ông Cha
Văn Lang rực rỡ, cảnh Sơn Hà
Con Cháu Tiên Rồng uy linh khắp
Ngoại xâm khiếp vía chẳng dám qua.
Nhìn cảnh Con Cháu Tiên Rồng bị quân Hán cai trị vô cùng tàn bạo. Nhìn Con Cháu Tiên Rồng thân Trâu cày Ngựa cưỡi. Thi Sách xót lòng xót dạ.
Nhìn cảnh kéo cày rơi nước mắt
Đòn roi vun vút tét thịt da
Tô Định hỡi thằng hung bạo ác
Sách đây sùng sục máu Ông Cha.
Thi Sách là Cháu Quan hầu tướng về quê ở ẩn. Không theo phò An Dương Vương. Sách nhìn cảnh tàn ác của quân xâm lược nung nấu ý chí. Ngày đêm góp nhặt viết sử Ông Cha, kêu gọi Con Cháu Tiên Rồng khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược.
Nước Non, Non Nước cảnh đông về
Bão giặc lan tràn khắp xóm quê
Gái trai già trẻ đời nô lệ
Giặc vơ giặc vét thảm não nề.
Giặc Hán không những vơ vét sức người của cải, tài nguyên đất nước mà còn ra sức ếm yểm hầu tiêu diệt Linh Địa khắp nơi.
Gươm của chúng đã đâm vào huyệt mẹ
Thời còn chi người Mẹ Nước Nước Non
Hỡi Dân Nam, người Dân Đại Việt
Hãy vùng lên quét sạch ngoại bang.
Thi Sách ngày đêm góp nhặt những gì còn sót lại. Truyền thống quí báu của Ông Cha. Để cho Con Cháu Tiên Rồng có hướng đi theo bước Cha Ông. Tô Định được mật báo liền bày kế giết chết Thi Sách. Đốt sạch những gì Thi Sách để lại.
Mùa xuân năm 40 sau công nguyên. Chị em Trưng Trắc – Trưng Nhị dựng cờ khởi nghĩa, trả thù chồng, thù Nước. Thái Thú Tô Định bị hai bà Trưng đánh tơi bời.
Nghe tiếng sấm đất Trời rung chuyển
Tiếng Voi rền dậy núi dậy non
Tô Định hoảng vía hồn kinh
Trống – Chiêng Đao Kiếm rung rinh Đất Trời
Nhìn quân Hán ngã nhào tan xác
Tiếng hò reo cùng khắp bao vây
Tô Định cạo tóc cạo râu
Tìm đường trốn chạy xiết bao hãi hùng
Cờ Đại Nghĩa phực phừng phất phới
Giống Rồng Tiên cưỡi gió tung bay
Tô Định rời rã chân tay
Kể gì vinh nhục miễn sao thoát cùng
Đất Trời Nam bừng bừng tỏa sáng
Phá xích xiềng đời sống tự do
Con đường no ấm, ấm no
Chủ Quyền Độc Lập giữ cho vững bền
Gương bà Trưng anh hùng liệt Nữ
Trang sử vàng, sáng mãi muôn năm
Hỡi muôn Dân hỡi Cháu Con
Chủ Quyền Độc Lập vàng son nước nhà.
* * *
Hết phần 2 chương 21 mời xem tiếp phần 3 chương 21 Long Hoa Mật Tạng Kinh.
* * *
Go to the top of the page
 
+Quote Post
vomenh
bài Oct 20 2025, 08:14 AM
Bài viết #63


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 152
Gia nhập vào: 12-August 08
Thành viên thứ.: 795



CHƯƠNG 21
PHẦN CUỐI
PHẦN 3
NIÊN ĐẠI HÙNG VƯƠNG
THỜI THƯỢNG HÙNG VƯƠNG
1. ĐỜI THỨ NHẤT. HÙNG VƯƠNG QUỐC TỔ
Sinh ngày 20 tháng 02 năm Giáp Thìn tức vào năm 2989 trước công nguyên. Theo niên lịch Kinh Nam.
Khi còn là Thái Tử.
16 tuổi Quốc Tổ đi tìm chân lý cứu nhân độ thế.
22 tuổi Quốc Tổ chuyển đại pháp luân khai hội Long Vân tại vườn Cấm Nước Xích Quỷ vào ngày 2 tháng 3 năm Ất Sửu.
25 tuổi Quốc Tổ dẫn quân Âu Lạc tiến về đất Lãnh Nam vào năm Mậu Thìn. Khai dựng lên nước Văn Lang, cũng như Bách Việt Văn Lang.
30 tuổi Quốc Tổ lên ngôi Quốc Vương vào ngày 2 tháng 9 năm Quí Dậu. Cũng như công bố nền Quốc Đạo văn Hóa Tiên Rồng ra đời.
Năm 41 tuổi Quốc Mẫu Phụng Cơ sanh Hùng Quí Lân.
109 tuổi Quốc Tổ truyền ngôi cho con cả là Hùng Quí Lân 2880 năm Nhâm Thìn trước công nguyên.
79 năm Quốc Tổ ở ngôi dựng nước.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Giáo Tổ Quốc Đạo.
112 tuổi Quốc Tổ về trời vào ngày mùng 10 tháng 3 năm Ất Mùi
Năm 2959 trước công nguyên. Nhà Nước Văn Lang chính thức ra đời.
2. ĐỜI THỨ NHÌ. LÂN LANG
HÙNG QUÍ LÂN: Lên ngôi Quốc Vương trị vì Thiên Hạ, thay Cha là. Hùng Lang Quốc Tổ đời thứ 2.
Từ năm 2.880 đến 2.796 trước công nguyên.
68 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
84 năm ở ngôi Quốc Vương. Thọ 162 tuổi.
10 năm ở ngôi Thái Thượng Quốc Đạo. 152 tuổi nhường ngôi lập cháu có Đức có Tài lên thay thế đời thứ 3.
3. ĐỜI THỨ BA. THÁI LANG
HÙNG THÁI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội là Hùng Quí Lân. HÙNG VƯƠNG đời thứ 3.
Từ năm 2796 đến 2726 trước công nguyên.
63 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
20 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 153 tuổi.
4. ĐỜI THỨ TƯ. THUẬN LANG
HÙNG THUẬN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông nội, Hùng Thái Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 4.
Từ năm 2.726 đến 2.644 trước công nguyên
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
82 năm ở ngôi Quốc Vương.
12 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 154 tuổi.
5. ĐỜI THỨ NĂM. MẬT LANG
HÙNG MẬT LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội Hùng Thuận Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 5.
Từ năm 2644 đến 2572 trước công nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
12 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 146 tuổi.
6. ĐỜI THỨ SÁU. CAO LANG
HÙNG CAO LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Mật Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 6.
Từ năm 2572 đến 2498 trước công nguyên.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
10 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 144 tuổi.
7. ĐỜI THỨ BẢY. QUYỀN LANG
HÙNG QUYỀN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Cao Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 7.
Từ năm 2498 đến 2417 trước công nguyên.
61 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
81 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 151 tuổi.
8. ĐỜI THỨ TÁM. LỘC LANG
HÙNG LỘC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quyền Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 8.
Từ năm 2417 đến 2339 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
78 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 143 tuổi.
9. ĐỜI THỨ CHÍN. THỊNH LANG
HÙNG THỊNH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Lộc Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 9.
Từ năm 2339 đến 2265 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo.Thọ 141 tuổi.
10. ĐỜI THỨ MƯỜI. THANH LANG
HÙNG THANH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thịnh Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 10.
Từ năm 2265 đến 2188 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
77 năm ở ngôi Quốc Vương.
9 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 144 tuổi.
11. ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT. TÂM LANG
HÙNG TÂM LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thanh Lang.
Từ năm 2188 đến 2113 trước công nguyên.
63 tuổi ở ngôi Quốc Vương.
75 tuổi ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 145 tuổi.
12. ĐỜI THỨ MƯỜI HAI. QUẾ LANG
HÙNG QUẾ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Tâm Lang.
Từ năm 2113 đến 2043 trước công nguyên.
61 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 137 tuổi.
13. ĐỜI THỨ MƯỜI BA. ÁC LANG
HÙNG ÁC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quế Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 13.
Từ năm 2043 đến 2001 trước công nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
42 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 106 tuổi.
14. ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN. LINH LANG (Con Út)
HÙNG LINH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay Cha là Hùng Ác Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 14.
Từ năm 2001 đến 1927 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
74 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 138 tuổi.
15. ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM. CHÂU LANG
HÙNG CHÂU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Linh Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 15.
Từ năm 1927 đến 1857 trước công nguyên.
63 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 140 tuổi.
16. ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU. XÍCH LANG
HÙNG XÍCH LANG: lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Châu Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 16.
Từ năm 1857 đến 1778 trước công nguyên.
56 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
79 năm ở ngôi Quốc Vương.
6 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 141 tuổi.
17. ĐỜI THỨ MƯỜI BẢY. QUÂN LANG
HÙNG QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Xích Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 17.
Từ năm 1778 đến 1705 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
73 năm ở ngôi Quốc Vương.
8 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 140 tuổi.
18. ĐỜI THỨ MƯỜI TÁM. THỤC LANG
HÙNG THỤC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Quân Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 18.
Từ năm 1705 đến 1634 trước công nguyên.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
71 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 136 tuổi.
19. ĐỜI THỨ MƯỜI CHÍN. YÊN LANG
HÙNG YÊN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Thục Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 19.
Từ năm 1634 đến 1562 trước công nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.
20. ĐỜI THỨ HAI MƯƠI. VĨ LANG
HÙNG VĨ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Yên Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 20.
Từ năm 1562 đến 1486 trước công nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
76 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.
21. ĐỜI THỨ HAI MỐT. TÂN LANG
HÙNG TÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Vĩ Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 21.
Từ năm 1486 đến 1417 trước công nguyên.
29 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
69 năm ở ngôi Quốc Vương.
8 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 136 tuổi.
22. ĐỜI THỨ HAI HAI. CHIẾN LANG
HÙNG CHIẾN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Tân Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 22.
Từ năm 1417 đến 1342 trước công nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
75 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.
23. ĐỜI THỨ HAI BA. DỊCH LANG
HÙNG DỊCH LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Nội. Hùng Chiến Lang. HÙNG VƯƠNG đời thứ 23.
Từ năm 1342 đến 1276 trước công nguyên.
60 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
66 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 128 tuổi.
Niên Đại Thượng Hùng Vương đến đây là kết thúc. Chuyển sang Niên Đại Hạ Hùng Vương. Hùng Dịch Lang không có con trai, nên không có cháu trai. Để lập Quốc Vương kế vị. Hùng Cừ Lang là em của Hùng Dịch Lang. Cháu thứ 3 của Hùng Cừ là Vân Lang. Cha của Vân Lang là Chấp Lang. Hùng Dịch Lang, Hùng Vương đời thứ 23 lập Vân Lang. Cháu của em mình là Hùng Cừ lên kế vị ngôi Quốc Vương. Đời thứ 24, cũng là đời thứ nhất Hạ Hùng Vương.
THỜI HẠ HÙNG VƯƠNG
1. ĐỜI THỨ NHẤT. VÂN LANG
HÙNG VÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thay cho Ông Bác Nội. Hùng Dịch Lang. HÙNG QUỐC VƯƠNG thứ 1.
Từ năm 1276 đến 1211 trước công nguyên.
58 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
65 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 126 tuổi.
2. ĐỜI THỨ HAI. HUÂN LANG
HUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Vân Lang, pháp hiệu HÙNG YÊN VƯƠNG đời thứ 2.
Từ năm 1211 đến 1141 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
70 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 131 tuổi.
3. ĐỜI THỨ BA. ĐIỂN LANG
ĐIỂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Yên Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Tiên Vương. HÙNG TIÊN VƯƠNG đời thứ 3.
Từ năm 1141 đến 1077 trước công nguyên.
56 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
64 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 125 tuổi.
4. ĐỜI THỨ BỐN. BẢO LANG
BẢO LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Tiên Vương. Lấy pháp hiệu HÙNG DIỆP VƯƠNG đời thứ 4.
Từ năm 1077 đến 1020 trước công nguyên.
62 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
57 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 123 tuổi.
5. ĐỜI THỨ NĂM. VIÊN LANG
VIÊN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Diệp Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Hy Vương. HÙNG HY VƯƠNG đời thứ 5.
Từ năm 1020 đến 961 trước công nguyên.
54 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
59 năm ở ngôi Quốc Vương.
7 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 120 tuổi.
6. ĐỜI THỨ SÁU. PHÁP HẢI LANG
PHÁP HẢI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Hy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Huy Vương. HÙNG HUY VƯƠNG đời thứ 6.
Từ năm 961 đến 893 trước công nguyên.
50 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
68 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 123 tuổi.
7. ĐỜI THỨ BẢY. LANG LIÊU LANG
LANG LIÊU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế cho Quốc Vương Nội. Hùng Huy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Chiêu Vương. HÙNG CHIÊU VƯƠNG đời thứ 7.
Từ năm 893 đến 832 trước công nguyên.
48 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
61 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 114 tuổi.
8. ĐỜI THỨ TÁM. THỪA VÂN LANG
THỪA VÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là, Hùng Chiêu Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Vi Vương. HÙNG VI VƯƠNG đời thứ 8.
Từ năm 832 đến 771 trước công nguyên.
51 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
61 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 116 tuổi.
9. ĐỜI THỨ CHÍN. QUÂN LANG
QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Vi Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Đinh Vương. HÙNG ĐINH VƯƠNG đời thứ 9.
Từ năm 771 đến 726 trước công nguyên.
59 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
1 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 105 tuổi.
Nền Quốc Đạo duy trì đến đây là chấm dứt. Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại chút ít cũng biến mất từ đây. Đời sống xã hội Văn Lang từ đây chạy theo trào lưu, phong kiến Chủ Nghĩa Độc Quyền. Không khác gì Triều Đại Đất Bắc. Kéo dài 425 năm từ đời Hùng Vương 11 đến đời Hùng Vương 18.
10. ĐỜI THỨ MƯỜI. HÙNG HẢI LANG
HÙNG HẢI LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Định Vương. Lấy pháp hiệu, Hùng Úy Vương. HÙNG ÚY VƯƠNG đời thứ 10.
Từ năm 726 đến 683 trước công nguyên.
67 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
43 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 113 tuổi.
11. ĐỜI THỨ MƯỜI MỘT. HƯNG ĐỨC LANG
HƯNG ĐỨC LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Úy Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Chinh Vương. HÙNG CHINH VƯƠNG đời thứ 11.
Từ năm 683 đến 641 trước công nguyên.
65 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
42 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 109 tuổi.
12. ĐỜI THỨ MƯỜI HAI. ĐỨC HIỀN LANG
ĐỨC HIỀN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Chinh Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Vũ Vương. HÙNG VŨ VƯƠNG đời thứ 12.
Từ năm 641 đến 569 trước công nguyên.
45 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
72 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 119 tuổi.
13. ĐỜI THỨ MƯỜI BA. TUÂN LANG
TUÂN LANG: Là con thứ 7 lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Vũ Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Việt Vương. HÙNG VIỆT VƯƠNG đời thứ 13.
Từ năm 569 đến 506 trước công nguyên.
50 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
63 năm ở ngôi Quốc Vương.
5 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 118 tuổi.
14. ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN. CHÂN NHÂN LANG
CHÂN NHÂN LANG: Là con thứ 6 lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Việt Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Ánh Vương. HÙNG ÁNH VƯƠNG đời thứ 14.
Từ năm 506 đến 456 trước công nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
50 năm ở ngôi Quốc Vương.
4 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 109 tuổi.
15. ĐỜI THỨ MƯỜI LĂM. CẢNH CHIÊU LANG
CẢNH CHIÊU LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Ánh Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Triều Vương. HÙNG TRIỀU VƯƠNG đời thứ 15.
Từ năm 456 đến 396 trước công nguyên.
52 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
60 năm ở ngôi Quốc Vương.
3 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 115 tuổi.
16. ĐỜI THỨ MƯỜI SÁU. ĐỨC QUÂN LANG
ĐỨC QUÂN LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Triều Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Tạo Vương. HÙNG TẠO VƯƠNG đời thứ 16.
Từ năm 396 đến 351 trước công nguyên.
57 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 104 tuổi.
17. ĐỜI THỨ MƯỜI BẢY. BẢO QUANG LANG
BẢO QUANG LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Tạo Vương. Lấy pháp hiệu Hùng Nghị Vương. HÙNG NGHỊ VƯƠNG đời thứ 17.
Từ năm 351 đến 306 trước công nguyên.
55 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
45 năm ở ngôi Quốc Vương.
2 năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo. Thọ 102 tuổi.
18. ĐỜI THỨ MƯỜI TÁM. HUỆ LANG
HUỆ LANG: Lên ngôi Quốc Vương thế Cha là Hùng Nghị Vương. Lấy pháp hiệu là Hùng Duệ Vương. HÙNG DUỆ VƯƠNG đời thứ 18.
Từ năm 306 đến 258 trước công nguyên.
54 tuổi lên ngôi Quốc Vương.
48 năm ở ngôi Quốc Vương. Thọ 102 tuổi.
Sau cơn hỏa hoạn lớn thiêu rụi thành Văn Lang. Thiêu rụi những gì còn sót lại kể cả gia phả Hùng Vương. Ý Trời. Các Vương Quan, tướng lĩnh đời cuối Niên Đại Hùng Vương, đau xót cho Niên Đại Hùng Vương, kéo dài hàng nghìn năm ai được nghe kể gì thì thờ nấy. Nên hết sức lộn xộn. Thôi thà thờ lộn xộn, câu chuyện lịch sử lộn xộn, còn hơn là đánh mất hẳn truyền thống dựng nước, giữ nước của Ông Cha.
KINH LONG HOA MẬT TẠNG ĐẾN ĐÂY LÀ HẾT
Nguyện đem Công Đức nầy hồi hướng về cho tất cả Nhân Loại Anh Em pháp giới Rồng Tiên, thoát khỏi Đao binh, đói nghèo, lạc hậu. Sớm lên bờ giải thoát. Chánh Đẳng, Chánh Giác. Hòa nhập vào cảnh giới Đại Đồng vũ trụ. AN LẠC YÊN VUI.
Có công dù chỉ mảy lông
Cha Trời phù hộ công danh rạng ngời
Huống chi truyền bá cho đời
Siêu thăng thượng giới Vua Trời khó chi.
* * *

PHẦN THƯA HỎI
Hỏi: Muốn xây dựng một đất nước Việt Nam. Đoàn kết, Dân giàu nước mạnh, Dân chủ công bằng văn minh thì làm thế nào?
Đáp: Còn làm thế nào nữa. Tất cả con cháu Việt Nam. Dù ở bất cứ nơi đâu, trong nước ngoài nước, phải trở về với Cội với Nguồn. Tôn Thờ Cội Nguồn, gìn giữ Cội Nguồn, ca ngợi Cội Nguồn, phát huy truyền thống, dựng Nước, giữ Nước của Cha Ông.
Cây còn gốc nở cành xanh ngọn
Người có nguồn người rạng danh thơm
Giữ gìn truyền thống Cha ông
Xuân non, xuân nước, xuân bông, xuân hòa
Cây mất Gốc lụn tàn héo úa
Người bỏ Nguồn lạc lối bơ vơ
Rơi vào khốn khổ lệ nô
Ngoại xâm cướp Nước vét vơ đói nghèo.
Hỏi: Bước đầu xây dựng Đất Nước thì ta phải làm sao?
Đáp: Còn làm sao nữa. Xây dựng Đất Nước, công bằng, văn minh giàu mạnh, đoàn kết, không chiến tranh, Độc Lập lâu dài. Cũng không khác gì khởi sự xây dựng tòa lâu đài nguy nga, đồ sộ lộng lẫy. Bước đầu tiên là:
1 – Là: Chọn mặt bằng
2 – Là: san bằng mặt bằng
3 – Là: Xây dựng nền móng kiên cố
4 – Là: Chất liệu vật liệu xây dựng
5 – Là: Cấu trúc cấu kết nền móng
Đó là phần cơ bản bước đầu, sau đó mới xây phần kế tiếp. Trụ Cột tòa lâu đài, rồi xây lên thượng tầng Kiến Trúc. Chúng ta là thế hệ giữ Nước.
1. Mặt bằng có sẵn. Chính là Nước Việt Nam. Nếu nói mặt bằng rộng hơn là Nước Văn Lang.
2. Vũ khí mà Ông Cha ta sang bằng giai cấp. Chính là Hiến pháp, Luật pháp, Đạo Đức, Công Lý bình đẳng, công bằng Văn Lang.
3. Nền móng Kiên cố, Dân Tộc. Chính là truyền thống dựng Nước, giữ Nước, truyền thống Chính nghĩa, truyền thống bảo vệ chủ quyền Độc Lập.
4. Chính là Văn Hóa Cội Nguồn, văn học tối cao, Đạo pháp tối cao, chất Vàng chất Ngọc khai sáng trí tuệ. Cấu trúc ung đúc tinh thần vĩ Đại. Kết dính các Dân Tộc lại với nhau.
5. Phát huy sức mạnh toàn Dân Tộc. Một sức mạnh Thần Thánh. Chính là Nền Quốc Đạo. Một sức mạnh cả tinh thần lẫn vật chất, sức mạnh của Bách chiến, Bách thắng.
Năm phần xây dựng nền móng. Đoàn Kết, Dân giàu, Nước mạnh, Công Bằng Dân Chủ, văn minh. Ông Cha ta đã xây dựng hàng nghìn nghìn năm rồi. Chúng ta là thế hệ Con Cháu gìn giữ tu tạo phát huy mà thôi. Điều quan trọng là chúng ta cũng như toàn Dân Tộc lựa chọn ra người có Tài có Đức. Những trụ Cột của tòa lâu Đài xã hội, tòa lâu Đài Đất Nước. Những trụ Cột đó phải là những hạt giống tốt, vì Dân, vì Nước, vì Cội Nguồn. Vì truyền thống anh linh Ông Cha. Và đi vào thời cơ thuận lợi. Để cho Con Cháu Tiên Rồng làm lên tòa lâu Đài xã hội. Nhà Nước Việt Nam hào hùng nguy nga tráng lệ rạng rỡ khắp năm châu.
Gươm Thiên trấn Quốc đã trao tay
Vận mệnh Nước Non đã an bày
Mật Đạo hào quang Nền truyền thống
Việt Nam con cháu Phụng Rồng bay
Văn Hóa Cội Nguồn Nền Văn Hiến
Vàng son thống nhất rực trời Mây
Dân giàu Nước mạnh đời hạnh phúc
Đói tan nghèo biến, giặc tiêu bay.
Hỏi: Làm thế nào chống lại mọi âm mưu của các thế lực thù địch, ngấm ngầm chống đối, phản động, phá hoại truyền thống Dân Tộc ta. Nhất là các thế lực ngoại xâm?
Đáp: Hãy thắp sáng. Ngọn lửa Thiên yêu Nước. Ngọn lửa Văn Hóa Cội Nguồn. Ngọn lửa Chính Nghĩa. Ngọn lửa truyền thống chống ngoại xâm. Ngọn lửa hào hùng Dân Tộc. Toàn Dân Tộc Việt Nam, mỗi Con Cháu Tiên Rồng, hãy tự mình thắp sáng ngọn Đèn trí huệ giác ngộ, hãy nhóm lên ngọn lửa yêu Nước đầy lòng Trung Hiếu vì nước vì non vì dân tộc Việt Nam. Khi chúng ta Con Cháu Tiên Rồng đã thắp sáng lên ngọn lửa Thiên. Ngọn lửa yêu Nước, yêu Văn Hóa Cội Nguồn, yêu truyền thống Ông Cha. Thì Hồn Thiên Dân Tộc sẽ nổi lên ủng hộ theo phò. Hồn Thiên Cha Ông theo giúp sức. Phật, Thánh, Tiên che chở. Đức Cha Trời, Đức Mẹ Trời dìu dắt phù hộ, tiêu diệt kẻ chống phá Cội Nguồn.
Đã có Cha Ông giúp ngại gì
Hồn Thiên Dân Tộc giúp lo chi
Cha Trời phù hộ huyền cơ chuyển
Chúng Dân trung hiếu, dậy hùng uy
Trời Nam rung chuyển rền sấm bão
Nước dâng cuồn cuộn giặc còn chi
Chính Nghĩa bừng lên đời tỏa sáng
Rồng Tiên phất phới ác tiêu đi.
Hỏi: Làm thế nào dẫn Đồng Bào Đại Việt trở về với Cội với Nguồn. Yêu truyền thống, yêu quê hương Tổ Quốc?
Đáp: Còn làm gì nữa ngoài xây dựng lại truyền thống, dựng Nước, giữ Nước của Ông Cha, phát huy ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn, ánh sáng Nhân Quyền Dân Chủ công bằng Văn Minh xã hội.
Có đường là có người đi
Có sáng là có màu xanh cuộc đời
Đường truyền thống rạng ngời cùng khắp
Đường mùa xuân đầy ắp tự do
Con đường Độc Lập ấm no
Con đường hạnh phúc an vui Thái Bình.
Văn Hóa Cội Nguồn là ánh sáng tự do, ánh sáng Công Bằng, Bình Đẳng, ánh sáng Nhân Quyền Dân Chủ văn minh, ánh sáng Công Bằng xã hội, đem lại màu xanh cho cuộc sống. Văn Hóa Cội Nguồn. Truyền thống dựng Nước, giữ Nước, mở màng lịch sử Ông Cha, đã thất truyền hơn hai nghìn năm. Nay đã trở về với Dân Tộc Con Cháu Việt Nam. Gần hai nghìn năm trước cảnh đau thương, tan nhà nát cửa, chết chóc tù đày, đói nghèo lạc hậu, bởi ngoại xâm đô hộ. Bóng đêm bao phủ non sông Đại Việt. Mất đi mùa xuân màu xanh của sự sống. Đã có ánh sáng là có màu xanh tinh thần vươn lên của người Dân Đại Việt. Có đường là có người đi. Nhất là con đường Đại Lộ. Con đường truyền thống Chính Nghĩa. Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng. Như thời dựng Nước, giữ Nước của Ông Cha ta.
Tiếng gà vang dội khắp non sông
Ló dạng bình minh rực ánh rực hồng
Nước non trở lại mùa xuân mới
Đường rộng thênh thang Cội Đại Đồng
Văn Lang Quốc giáo Nền Văn Hiến
Thấm đượm hồn Dân trí linh thông
Truyền thống Cha Ông đầy Quyền biến
Quỷ yêu khiếp vía Cội Tiên Rồng.
Hỏi: Việt Nam đã trải qua gần hai nghìn năm đô hộ của ngoại bang. Chúng đã truyền bá nhiều thứ Văn Hóa độc hại, có hại cho Dân Tộc, cho Đất Nước. Làm thế nào đẩy lùi được chúng?
Đáp: Mặt Trời đã mọc, thì Trăng – Sao mờ dần, rồi biến mất. Tự nó biến mất, vì ánh sáng của nó đã bị ánh sáng Mặt Trời che khuất, bao phủ. Bất Chiến Tự Nhiên Thành.
Đom Đóm khó mong sáng trước đèn
Mặt Trời xuất hiện, thấy sao chăng
Ánh sáng lai căn liền biến mất
Trời Nam rực rỡ ánh xuân, hằng
Bất Chiến Nhiên Thành cao chót vót
Việt Nam rực rỡ cánh Mai Sen
Văn Hóa Cội Nguồn Nền truyền thống
Ác tiêu Thiện đến cảnh xuân thăng.
Hỏi: Gần hai nghìn năm đô hộ giặc Tàu. Trăm năm đô hộ giặc Tây. Chúng đã làm lu mờ truyền thống Văn Hóa Dân Tộc ta. Làm cho Con Cháu Việt Nam rơi vào cảnh loạn lạc, mất phương hướng chia năm xẻ bảy không đoàn kết được, thì ta phải làm sao?
Đáp: Còn làm sao nữa, Dân Ta phải học sử ta, Con Cháu Tiên Rồng phải học Văn Hóa Tiên Rồng. Lịch sử Văn Hóa Tiên Rồng là lịch sử Cội Nguồn, liên quan đến lịch sử Nhân Loại con người, toàn thế giới nói riêng toàn Vũ trụ nói chung. Không phải lịch sử của sự đấu tranh, tranh giành quyền lực. Mà là lịch sử Chính Nghĩa vì hòa bình, chống bạo ác. Loại bỏ Độc Tài Độc Trị vì không còn phù hợp với trào lưu văn minh tiến bộ xã hội. Nhất là đi ngược lại Truyền Thống Dựng Nước Giữ Nước Truyền Thống Anh Linh Ông Cha. Dẫn đến hơn hai nghìn đô hộ Phương Bắc Giặc Tàu. Sự đấu tranh Chính Nghĩa là sự đấu bằng trí tuệ và Văn Hóa Chính Nghĩa đấu tranh ôn hòa, vũ khí của Chính Nghĩa. Là Hiến Pháp Nhân Quyền Dân Chủ. Là Công Lý Công Bằng Tự Do, Làm theo Thiên Ý Cha Trời, bảo vệ phát huy những Quyền mà Tạo Hóa Cha Trời đã ban cho. Những Quyền bất khả xâm phạm. Phát huy đề cao hai chữ Đồng Bào thiêng liêng.
Từ thuở Cha Ông đến nhân gian
Long Hoa dãy núi nở Hoa vàng
ÂU CƠ một bọc trăm con trẻ
Ra đời chung sống ở thế gian
Đại Đồng một Cội từ muôn thuở
Lưu truyền nòi giống, nở cháu con
Rồng Tiên Cội Gốc niềm linh hiển
Đồng Bào đồng thể Cội Vàng Son.
Dù cho con Cháu Việt Nam có lưu lạc đến nơi đâu, cũng mãi mang hai chữ Đồng Bào trong dòng máu Tiên Rồng Đại Việt.
Nước đã ra đi, Nước về Nguồn
Một Bào một Bọc Cội tình thương
Sử ta, ta học, ta ca hát
Một Cội trăm nhành nở Hoa Hương
Truyền thống Cha Ông nền Chính Nghĩa
Chóa rạng Trời Nam sử Hùng Vương
Lịch sử vàng son còn vang mãi
Ngấm vào Con Cháu giống Rồng Tiên.
Lịch sử Ông Cha hào hùng. Thấm đượm Đạo Đức Nhân Văn Cao Cả. Nhưng vì Phần lớn là do thất truyền, một phần do ngoại xâm đô hộ, phá sạch, đốt sạch, quét sạch, tiêu diệt sạch. Để ngoại xâm dễ cai trị. Dễ bề khống chế Tinh Thần Con Cháu Rồng Tiên.
Lịch Sử Cha Ông lịch sử vàng
Hào hùng diệt quỉ dựng Nước Non
Lãnh Nam trận chiến rền Trời Đất
Quét sạch Yêu Tinh Chí ngút ngàn
Ngày đêm khai phá miền đất mới
Bừng bực mọc lên nước Văn Lang
Sử ta, ta học còn không hết
Còn đâu đèo gánh sử ngoại bang.
Lịch sử Cha Ông nhắc lại vẫn còn nghe hơi ấm, nghe vó ngựa chân voi vang rền tiến về Đất Lãnh Nam dựng cơ nghiệp.
Long vân Đại Hội Đạo ngút Trời
Âu – Lạc Hùng Thiên dậy biển khơi
Vó Ngựa chân voi rền dậy đất
Lãnh Nam dựng nghiệp rạng Vua tôi
Văn Lang hùng mạnh rền phương Bắc
Năm nghìn năm trước chẳng xa xôi
Nhắc lại vẫn còn nghe hơi ấm
Ấm Nguồn ấm Cội, ấm lòng ôi.
Hỏi: Con Cháu Việt Nam, dựa vào đâu để có một sức mạnh, chống trả quân thù, nhất là quân xâm lược?
Đáp: Phải nói Con Cháu Việt Nam đang làm chủ một kho tàng sức mạnh. Nhưng Con Cháu Việt Nam chưa bao giờ phát huy hết được, vì chưa khai thông được Cội Nguồn. Nếu khai thông được Cội Nguồn thời Con Cháu Việt Nam, sẽ phát huy cả một kho tàng sức mạnh. Đó là:
Sức mạnh hai chữ Đồng Bào
Sức mạnh khí thiên sông núi
Sức mạnh Hồn Thiên Dân Tộc
Sức mạnh Hồn Thiên Cha Ông
Sức mạnh Phật – Thánh – Tiên – Thần – Chúa
Sức mạnh Tổ Tiên
Sức mạnh Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ
Sức mạnh bè bạn Năm Châu, năm màu da anh em
Một khi Con Cháu Tiên Rồng, phát động Văn Hóa Cội Nguồn, phát động truyền thống Cha Ông, truyền thống dựng Nước, giữ Nước, phát động Chủ Nghĩa Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Thiên Đạo Vũ Trụ, Thiên Ý Cha Trời thời sức mạnh Đại Chính Nghĩa toàn nhân loại ứng theo không có sức mạnh nào mạnh hơn nữa.
Sức mạnh nào hơn mạnh Đại Đồng
Đất Trời vào cuộc chuyển bão dông
Phật Tiên giúp sức Thần Thánh Chúa
Chuyển xây tình thế chuyển Non sông
Hồn Thiên trỗi dậy rung Trời Đất
Vó Ngựa vang rền bước Cha Ông
Đồng Bào cuồn cuộn vào cuộc thế
Yêu Tinh, Quỉ dữ mạng tiêu vong.
Con Cháu Rồng Tiên, những người có Tài có Đức, vì Dân vì Nước, vì Cội vì Nguồn, vì Nhân Loại Đồng Bào anh em, mỗi lần phát động phong trào, thì có Tam quang tỏa sáng.
Pháp Tạng bừng lên khắp hư không
Luật Tạng bừng lên chuyển Đại Đồng
Công Lý sáng ngời vang tiếng sấm
Tam Quang sấm nổ dậy Trời Đông
Gươm Thiên vũ trụ đà xuống thế
Diệt trừ ác Quỉ diệt bất công
Trả lại tự do đời tươi sáng
Bình Đẳng an vui Cội Đại Đồng.
Long Hoa Mật Tạng. Quốc Bảo Chân Kinh. Là bộ Kinh không những tối Đại Linh Thiên. Quý hiếm vô cùng, không những là con đường về Trời mà còn là chiếc chìa khóa vạn năng mở tung vũ trụ, khai thông trí huệ, đạt đến cảnh giới Chánh Đẳng Chánh Giác. Bất tử trường sanh, chuyển họa thành phúc, chuyển phàm lên Thánh, lên Phật, lên Tiên. Cứu Dân cứu Nước. Phải nói là hết sức vi diệu thậm thâm khó mà luận bàn cho hết được.
Quốc Bảo Chân Kinh quí vô cùng
Một lời khen ngợi mãi giàu sang
Huống chi truyền bá gieo Công Đức
Họa tiêu phước đến Chúa đăng đàn
Mật Tạng Chân Kinh Trời trao xuống
Cứu Dân cứu Nước khổ lầm than
Chuyên tâm đọc tụng, luôn trì niệm
Huệ khai trí sáng trổ ông Hoàng.
Việc làm vì Chính Nghĩa dù nhỏ như sợi lông, cũng vô cùng giá trị, không có một thứ giá trị nào sánh kịp. Long Hoa Mật Tạng Kinh. Là Kinh giáo Mật Tạng vũ trụ, hiện thân Chính Nghĩa. Con Cháu Việt Nam phải hết sức gìn giữ. Và sự gìn giữ đó, chính là phổ biến khắp cùng thế giới, không phải cất giấu bí mật. Chỉ cần gìn giữ bảo mật bản gốc mà thôi.

BỘ KINH
LONG HOA MẬT TẠNG
CỘI NGUỒN VIỆT TỘC
ĐẾN ĐÂY ĐÃ KẾT THÚC
CHỦ BÚT: CAO ĐỨC THẮNG
Go to the top of the page
 
+Quote Post

7 Trang V  « < 5 6 7
Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 31st October 2025 - 05:21 AM