Trợ giúp - Tìm kiếm - Thành viên - Lịch ghi nhớ
Phiên bản đầy đủ: Chữa bệnh viêm khớp bằng Thực dưỡng
Thực Dưỡng > Chữa bệnh bằng Thực Dưỡng > Sách bệnh
Trang: 1, 2
Thelast
CHỮA BỆNH VIÊM KHỚP BẰNG THỰC DƯỠNG


LỜI GIỚI THIỆU

Hơn 500 năm trước đây, quan điểm cho rằng những loại vi trùng không trông thấy được là nguyên nhân gây ra các bệnh tật bị coi là hoàn toàn lập dị. Từ năm 1880, các vĩ nhân như Lister Pasteur và Kock đã kết luận qua việc chứng minh các vi khuẩn là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh như lao phổi, sốt rét và bệnh hủi. Đến ngày nay, nhiều người nghi ngờ về sự liên quan của sự ăn uống và sức khoẻ, nhất là các bác sĩ! Trên thực tế, Trung tâm nghiên cứu bệnh viêm khớp đã phổ biến một tập sách trong đó tuyên bố “Sự thật liên quan giữa ăn uống và bệnh viêm khớp” có thể sẽ làm các bạn ngạc nhiên. Đơn giản là: không có một sự kiêng ăn đặc biệt nào cho bệnh nhân thấp khớp. Không có một thức ăn đặc biệt nào gây ra bệnh đó cả. Và không có một pháp pháp kiêng ăn nào để trị nó cả!

Ngay cả Viện viêm khớp cũng không mấy tin tưởng điều vô lý này, tuy nhiên nhiều bác sĩ vẫn tin rằng việc ăn uống chỉ giữ một vai trò thứ yếu. Chúng tôi xin vắn tắt xem tại sao điều trích dẫn trên đây lại vô lý.

Trước hết, viêm khớp có nghĩa là viêm sưng ở các khớp xương. Y khoa hiện nay biết được hàng trăm loại viêm khớp khác nhau: thấp khớp, phong thấp, viêm khớp chấn thương là ba loại ví dụ. Bạn càng nặng cân chừng nào, các khớp xương của bạn càng bị đau. Nếu bạn đau nhức ở đầu gối hay mắt cá chân, chắc chắn các bạn không bao giờ muốn mang cái túi bột năm mươi pound đi vòng quanh đây. Dưỡng sinh là xác định rõ rệt kiêng ăn giảm cân cơ bản và tháo gỡ mọi vấn đề về trọng lượng sẽ tự động làm cho bệnh viêm khớp do quá trọng lượng nhẹ đi.

Có ích nhất là hai cơ cấu khác nhau, từ đó việc ăn uống Thực dưỡng có thể giúp chữa trị viêm khớp. Trước tiên với nhóm chất autocoids hoặc nhóm hormon tại chỗ, được biết hơnhết là prostaglandins. Có rất nhiều loại prostaglandins được tạo ra bởi cơ thể nhằm điều chỉnh sự viêm sưng và các chức năng quan trọng khác: loại prostaglandins sau cùng có nguồn gốc từ thực phẩm chúng ta ăn vì thế bằng cách chúng ta thay đổi thực phẩm thường dùng, chúng ta cũng làm thay đổi prostaglandins và các autocoids trong cơ thể chúng ta. Điều này đã được chứng minh là có kết quả hữu ích cho bệnh viêm khớp như trong các báo cáo trên tờ báo y học có uy tín của Anh, tờ Lancet ngày 24.1.1985. Đặc biệt hơn nữa, dường như mỡ động vật đã chuyển đổi ra loại prostaglandins gây ra viêm sưng.

Sau cùng là hiệu quả của thức ăn gây dị ứng. Thức ăn gây dị ứng đặc biệt là xáo trộn các kết quả của y khoa và nhiều bác sĩ không tin là nó có nó góp phần. Điều này chủ yếu do các triệu chứng gây nên bởi thức ăn dị ứng có thể xuất hiện sau ba tuần lễ kể từ khi tiêu thụ thực phẩm và không phải là người bệnh chỉ ăn mỗi một thứ. Ví dụ cô Marv bị viêm khớp do ăn nhiều chứng, cà chua, chứng và cô dừng ăn trứng, sữa nhưng vẫn ăn cà chua, cô không cảm thấy khá hơn và lầm tưởng rằng mình không dị ứng với sữa và trứng. Hơn thế nữa, nếu cô Mary giữ gìn cẩn thận không ăn cả trứng, sữa hoặc cà chua trong hai tuần và không thấy khá gì hơn, cô sẽ kết luận một cách sai lầm rằng, là cô không bị dị ứng với những thức ăn này.

Vấn đề như dã nói ở trên, triệu chứng dị ứng chỉ xuất hiện sau ba tuần sau khi dùng thức ăn gây dị ứng.

Thật cũng không rõ ràng chứng tỏ nhiều loại viêm khớp liên quan đến các thức ăn gây dị ứng. Một điều lý thú là một báo cáo y học đáng tin cậy đầu tiên trong thời sự y khoa xuất hiện trong dị ứng biên sử năm 1969. Tác giả là Stephan Epstein đã cẩn thận đưa ra các yếu tố với trường hợp bệnh của mình palindrromic rheumatism gây nên do dị ứng chất dầu bạc hà và chất nitril là những chất phụ gia của thức ăn. Thật là kỳ lạ mà bảng báo cáo thấu đáo này lại không thuyết phục được nhiều bác sĩ về tầm quan trọng của các thực phẩm gây dị ứng, đặc biệt là khi tác giả và bệnh nhân lại chính là một bác sĩ.

Ăn uống Thực dưỡng tránh dùng các loại thực phẩm gây dị ứng như sữa, trứng và đường là ba loại chính. Như đã được minh hoạ bởi bác sĩ Epstein, chất phụ gia thực phẩm gây dị ứng trong vài trường hợp, do đó nguyên tắc cơ bản của Thực dưỡng là chỉ sử dụng thực phẩm có chất lượng tốt, các thức ăn hữu cơ cũng quan trọng cho người bị thấp khớp và các bệnh khác gây nên do các thực phẩm gây dị ứng... do vài thực phẩm dưỡng sinh. Ví dụ như cá hoặc trái dâu tây là các bạn dưỡng sinh hay dùng là hai loại thực phẩm gây dị ứng.

Tôi hy vọng lối thảo luận vắn tắt trên đây xua tan các ý kiến cũ xưa của các bác sĩ, các vị thường nói trong các trường y khoa là ăn uống không có ảnh hưởng gì đến viêm khớp. Sự thật Thực dưỡng tác động rất nhiều đến bệnh viêm khớp và có lẽ hầu hết các bệnh nan y khác. Với tư cách là một y sĩ và một nhà Thực dưỡng, tôi thấy rõ sự liên quan giữa dị ứng, autocoids và đại loại như thế.

Đối với một giáo sư về dưỡng sinh, sự liên quan có thể được xem rõ ràng hơn dưới tầm nhìn của Y học cổ truyền phương Đông. Tầm nhìn theo hai mặt âm dương bao quát được toàn cảnh và chỉ với tầm nhìn bao quát này mới hy vọng thành công đối với các bệnh tật như viêm khớp.

David Docson Master Docteur
Boston Massachusetts


Chú ý:

Bạn đọc nên tìm đến sự hướng dẫn của một bác sĩ điều trị và nhà nghiên cứu dinh dưỡng phù hợp trước khi bắt đầu thực hiện việc chăm sóc sức khoẻ theo gợi ý của cuốn sách này.

Điều quan trọng là nếu bạn có lý do nghi ngờ mình bị viêm khớp hay bệnh tật, hãy liên hệ ngay với bác sĩ điều trị.

Cuốn sách này hay bất kỳ cuốn sách nào khác không nên được sử dụng như là một sự thay thế cho việc chăm sóc y tế hay điều trị chuyên khoa.

Admin
Thelast
LỜI MỞ ĐẦU


Bệnh viêm khớp được xem như là một bệnh dịch trên toàn thế giới, một căn bệnh thoái hoá thách thức nhân loại trong cuối thế kỷ 20 này. Ung thư, bệnh tim, bệnh AIDS, bệnh thần kinh và bệnh thoái hoá khác không từ một quốc gia nào. Nó vượt qua mọi nơi của hành tinh chúng ta mà không cần một giấy hộ chiếu hoặc thông hành nào cả.

Dầu số người mắc bệnh viêm khớp ở nước Mỹ chỉ ước chừng ở con số 37 triệu người nhưng trên thực tế con số cao hơn nhiều nếu bao gồm cả những người chưa được chẩn trị, thêm vào đó những trường hợp được coi là đã có triệu chứng tiền viêm khớp.

Sự hoá cứng không bình thường của các khớp thường bắt dầu từ khi thiếu thời. Nhiều người hiện nay, nhất là dân thượng lưu, sự đau đớn của bệnh viêm khớp là một bạn đồng hành kiên trì. Cuối cùng, ý kiến phổ biến nhất là bệnh viêm khớp được coi như là một phần tự nhiên có ở tuổi già.

Dù với khái niệm chung như thế, là trong quá trình lão hoá, viêm khớp chỉ là một trong nhiều bệnh mạn tính khác như ung thư, bệnh tim, bệnh Alzheimer và các bệnh khác là điều không thể tránh khỏi

Với thực dưỡng, chúng ta có cái nhìn rõ ràng là bệnh trên cùng với các bệnh thoái hoá khác không phải là một tiến trình bình thường và tự nhiên, chúng xảy ra do chúng ta đã quên đi cách ăn uống và sống thế nào để hoà hợp với môi trường xung quanh. Cách sống theo dưỡng sinh làm khôi phục lại sự hài hoà với thiên nhiên, do vậy trong mỗi giai đoạn của cuộc sống - từ lúc thơ ấu cho đến tuổi già, ai cũng có thể có được một sức khoẻ tự nhiên, tạo ra hoạt động và được vui sướng mãn nguyện.

Càng ngày, việc ngăn ngừa cá bệnh mạn tính dễ trở thành mối lo hàng đầu của xã hội, như sự khủng hoảng của căn bệnh AIDS và việc mất tính miễn dịch đã được biết.

Trong thế kỷ tới đây, tỷ lệ dân số có độ tuổi lớn ở nước Mỹ và cá nước tân tiến khác ngày càng tăng dần, cũng như thế hệ trẻ vươn tới tuổi trung niên. Do đó sự chọn lựa phải từ bây giờ, theo phương cách ăn uống dưỡng sinh, một lối sống mới, tất cả cho mục đích của chúng ta là sức khoẻ và bệnh tật, có thể sớm chứng minh phẩm chất của cuộc sống cho xã hội và cho tất cả.

Sự lựa chọn mà chúng ta đối mặt đang trở nên rõ ràng: chúng ta có thể tiếp tục trên con đường mòn cố hữu không thay đổi gì trong lối sống, và chúng ta rơi vào vòng bệnh tật: nào là ung thư, tim mạch,viêm khớp hoặc các đe doạ khác cho đời sống hoặc các nỗi bất an; hoặc chúng ta có thể tích cực hơn để cải thiện cho cuộc sống, nhất là cách ăn uống hàng ngày, để ngăn ngừa các bệnh tật và tận hưởng niềm vui với sức khoẻ suốt cuộc đời.

Con đường của chúng ta chọn quyết định phẩm chất của cuộc sống không phải cho cá nhân trong tương lai trước mắt, mà cốt cho thế hệ sắp tới.

Quyển sách này cũng như các sách khác trong loạt sách Dưỡng sinh và giáo dục về sức khoẻ, được viết ra nhằm để chuẩn bị cho ngày suy tàn của nền văn minh hiện đại nhân qua cá bệnh thoái hoá.

Những lờikhuyên về Thực dưỡng hiện nay đã gây nên tiếng vang trong việc hướng dẫn phòng chống bệnh ung thư, tim mạch và các bệnh khác với sự hướng dẫn qua các cơ sở sức khoẻ công cộng khắp thế giới. Hơn thé nữa, hàng trăm ngàn người, từ Tokyo đến Texas, từ Utah đến Yugoslavia đã nắm giữ được nguyên tắc của nó. Nhiều kinh nghiệm đem lại sự bình phục cho sức khoẻ, gồm cả việc cải thiện bệnh viêm khớp và các bệnh tai hại khác như là một thành quả.

Như các bạn đã biết, Thực dưỡng cống hiến một phương pháp ăn uống quân bình theo Thiên nhiên. Nguyên tắc giảng giải trong quyển sách này cống hiến một lối nhìn mới về sức khoẻ và cuộc sống con người,một lối nhìn có hàng ngàn năm nay từ sự hiểu biết cổ truyền đã tìm thấy trong cả Phương Đông và Phương Tây.

Sự ứng dụng của những nguyên tắc vũ trụ có thể mở ra cánh cửa đến một kỷ nguyên mới trong sự hiểu biết về sức khoẻ và bệnh tật, mở đường đến sự phát triển của nền y khoa toàn diện cho toàn thể nhân loại.

Tôi xin cảm ơn tất cả các bạn giúp xây dựng để hoàn thành quyển sách này. Xin cảm ơn người bạn và cũng là cộng sự của tôi, Edvard Esko đã phối hợp, sửa chữa và bổ sung căn bản sau nhiều năm học và thực hành phương pháp Dưỡng sinh trong cuộc sống. Tôi cũng xin cảm ơn người cộng sự của chúng tôi, người đã tìm nhiều tài liệu về các bệnh viêm khớp và ứng dụng các nguyên tắc Dưỡng sinh qua sự hiểu biết thiên nhiên về bệnh này.

Tôi xin cảm ơn David Dodson, tiến sĩ y khoa đã xây dựng phần mở đầu, cùng với các bạn cung cấp các kinh nghiệm bình phục cá nhân của mình. Tôi cũng cảm ơn Christian Gautier trong các minh hoạ cũng như người cộng sự của chúng tôi Philip Jannetta và Nhà xuất bản Nhật ở Tokyo về việc sửa và kiểm chứng nguyên bản. Tôi chân thành biết ơn Aveline Kushi và Wendy Esko trong việc biên soạn phối hợp sách hướng dẫn phương pháp nấu nướng trong quyển Thực phẩm và phương pháp nấu ăn Thực dưỡng và xin cảm ơn ông Iwao Yoshizaki và Ô. Yoshiro Fujiwara, Giám đốc đại diện cho nhà xuất bản Nhật ở New York đã hỗ trợ liên tục cho các kế hoạch xuất bản sách Thực dưỡng.

Michio Kushi
Brookline, Massachusettes 4, 1998
Thelast
CHƯƠNG I
ĐIỀU BÍ ẨN CỦA BỆNH VIÊM KHỚP


Ngày nay, chúng ta đối mặt với một vấn đề sức khỏe xem ra dường như bí ẩn. Đây không phải là vấn đề mới. Từ hàng ngàn năm trước nhân loại đã cố gắng tìm hiểu nó. Bất chấp những cố gắng của những bộ óc tinh tế, những chi phí hàng trăm triệu đô la để tìm kiếm, điều bí ẩn vẫn còn chưa được thấu hiểu. Mỗi chúng ta dường như đều có những kinh nghiệm cá nhân về vấn đề này trong cuộc sống của chúng ta. Do chúng ta không hiểu rõ nó, chúng ta không thể tránh được nó. Đó là điều bí ẩn của bệnh viêm khớp.

Tại Mỹ quốc, có độ khoảng 37 triệu người được chẩn đoán là mắc bệnh viêm khớp. Nếu chúng ta thêm vào con số này những người đau đớn do viêm khớp mà không được y khoa chẩn đoán, con số trên có thể lên đến 70 triệu người. Như thế có nghĩa là gồm 1/3 của dân số Hiệp Chủng Quốc. Và ngay cả con số chưa phát hiện được đầy đủ trong qui mô của bệnh viêm khớp. Mỗi người chúng ta ngày một già đi có nghĩa là ngày càng gần nguy cơ mắc phải bệnh viêm khớp. Trên thực tế, hầu hết mỗi người trên 60 tuổi đều có các khớp chuyển biến thành bệnh. Bệnh viêm khớp là một thành quả của sức khỏe mà chúng ta không thể tránh khỏi.

Mục đích của quyển sách này là để tìm hiểu tại sao bệnh viêm khớp lại trở thành như là một mô hình xấu trong đời sống chúng ta. Để hiểu được trọn vẹn, chúng ta bắt đầu bằng cách truy nguyên nguồn gốc của nó. Đây là chìa khóa mà chúng ta có thể hiểu rõ được nguyên do thực sự của bệnh viêm khớp, và do đó chúng ta có thể sửa chữa nó hoặc tránh được nó. Bắt đầu sự tìm kiếm, chúng ta có thể xác định là những hiểu biết về bệnh viêm khớp hiện nay, các nguyên do, cách trị liệu và hiệu quả đạt được, và thế nào mà bệnh thoái hóa này lại làm biến đổi cả cá nhân và tập thể của chúng ta.

Từ “arthritis” rút ra ở ngôn ngữ Đức. “Arth” nghĩa là “khớp nối” và “itis” có nghĩa là “viêm sưng”. Theo như định nghĩa này, viêm khớp là viêm sưng của một hay nhiều các khớp trong cơ thể .

Vào thời đó, các định nghĩa này được đặt ra để cho vào loại viêm khớp đang chi phối, còn đến ngày nay, với các lối chẩn trị hiện đại, định nghĩa bệnh viêm khớp đặt ra để thống kê cho nhiều loại viêm khớp hơn là chỉ cho vài loại viêm sưng. Nó bao gồm các vấn đề của các loại khớp và các mô liên quan, rộng hơn nửa cho các triệu chứng biểu lộ chung với bệnh viêm khớp.

Chuyên môn hơn, bệnh viêm khớp là một bệnh đến dưới một tên tổng quát của bệnh phong thấp rheumatic Diseases. Rheumatism là một từ ngữ Đức lấy ra từ “Rheumatisomos”, hay chất nhầy mà được tin rằng chảy ra từ óc đến các khớp và các phần của cơ thể, gây ra đau đớn theo nhiều cấp độ. Bệnh phong thấp là một tên gọi trong đó bao gồm cả những đau đớn và hóa cứng trong vài bộ phận của hệ thống cơ bắp, và đặc biệt cho các loại viêm khớp chính.

Viêm khớp là một trong nhiều bệnh nan y đã có từ xưa kia và làm khổ con người. Tổ tiên chúng ta, người vượn từ hai triệu năm trước cũng gánh chịu nhiều các bệnh viêm khớp mạn tính ở cột sống. Trong các xét nghiệm bằng tia X lên các xác ướp người Ai Cập cho thấy có sự biểu lộ của bệnh viêm khớp. Hoàng đế Ram II, cai trị Ai Cập từ 1304 đến 1225 trước Công nguyên cũng đã thống khổ vì bệnh này. Hippocrates, thầy thuốc cổ Hy Lạp cũng là người cha đẻ của nền y khoa hiện nay, thâm hiểu và đã có phương pháp trị bệnh viêm khớp. Trong Vương quốc La Mã trước đây cũng có một phương pháp tắm phức tạp nhằm chữa khỏi các cơn đau của viêm khớp.

Một vài nhân vật danh tiếng trong lịch sử cũng không thoát được bệnh này, trong đó gồm : Christopher, Columbus, Cardinal Richelieu, Mary Gueen of Scots, Tổng thống James Madison, Horace the Poet, Julius Caesar, Augustus Caesar, Pope Pius II, Leonardo de Vinci, Michaelangelo, Benjamin Franklin và Martin Luther.

Viêm khớp thật là một bệnh phổ biến, nó đánh vào cả nhà thơ, nhà chính trị, văn sĩ, nghệ sĩ, ngay cả các vị vua và hoàng hậu cũng không chừa !

Có nhiều cách chữa trị lạ kỳ đã được dùng để làm giảm đau bệnh viêm khớp. Châm cứu được dùng ở Trung Quốc. Các bộ lạc Phi Châu thì dùng cách xâm mình, ở Ấn Độ vào năm 1.200 trước công nguyên thì đã dùng dầu xoa bóp, dùng con đỉa và trích máu. Hippocrates thì khuyên để làm tiêu các viêm xương phải kiêng ăn với khẩu phần trong đó hạn chế rượu vang và thỉnh thoảng cho bệnh nhân thuốc xổ. Người La Mã thì dùng : dược thảo, rượu chát, mỡ ở da, tắm nóng, dùng cây thìa là, hạt cây Lanh, dấm, lá chanh và một vài loại thực phẩm khác. Sách thuốc Galen của các y sĩ La Mã có toa kê dùng pho mát và thịt lợn áp vào các khớp đau, người Tibetans, Mã Lai, Nhật có một lối chữa trị giống nhau. Trên thực tế dường như có rất nhiều cách, nhiều bài thuốc chữa viêm khớp đáng làm cho người ta ngạc nhiên.

Thông qua nhiều phương pháp như kể trên, chúng ta có thể thấy rõ được chiến lược căn bản đã dùng trước đây. Trước nhất là họ cố tống khứ các chất thừa ra khỏi cơ thể bằng cách kiêng ăn và xổ với thuốc nhuận tràng, gây cho ói, hạn chế thức ăn. Sự suy nghĩ chung vẫn là viêm khớp gây nên cho sự quá thặng dư trong cơ thể cần phải thải trừ ra ngoài và cơ thể sẽ trở lại tình trạng bình thường. Sự lập luận của chiến lược trên rất dễ hiểu nếu cho một căn bệnh khớp căng sưng, nóng. Cách chữa trị tổng quát thứ nhì gồm các cách trị liệu đặc biệt ngay tại vùng rối loạn cốt để làm giảm cường độ đau đớn. Kết quả của các lối trị liệu trên không mấy hiệu quả. Nếu một trong các cách trị liệu trên có kết quả thì nó đã được dùng cho đến ngày nay. Rốt lại nó chỉ mang lại cho chúng ta được cái ý kiêng ăn và châm cứu.

Phương pháp điều trị hiện tại thì gồm cả một đống đồ sộ dược phẩm được phân loại kết hợp với vật lý trị liệu và tập luyện. Khi nó không mang lại một kết quả nào thì người ta dùng phẫu thuật. Dù là những phương pháp này đôi khi mang lại một kết quả tạm thời, nó không bao giờ mang lại một thay đổi tận gốc của tiến trình viêm khớp.

Tại Mỹ hiện nay có khoảng 37 triệu ca viêm khớp chia thành 5 loại:

Với 100 loại viêm khớp được phân định ra làm hai loại lớn tùy theo triệu chứng nó gây nên trên khớp và trên cơ thể. Mục một gồm các loại viêm khớp sưng đỏ do triệu chứng gây viêm sưng đỏ trên cơ thể hoặc khớp. Gồm các bệnh: Rheumatoid arthritis, tenosynovitis, Lupus erythematous, polymyositis, dermatomyositis, psoriatic arthritis và vài loại nửa. Mục bệnh hai gồm các loại viêm khớp không gây sưng đỏ gồm : osteoarthritis và isolated osteoarthritis, traumatic arthritis, pseudogout, neuroarthropathy, enthesopathy và tendonitis. Tuy nhiên mục phân chia này không phải là không bị phản đối do có loại đáng lẽ không mà lại bị viêm đỏ, do đó thật là khó có thể chẩn đoán chính xác.
Viêm khớp tấn công vào mọi lứa tuổi, 150.000 người cho độ tuổi dưới 16, và cũng không ít cho lứa tuổi sơ sinh và khi chúng ta càng lớn, nguy cơ mắc bệnh càng nhiều. Đến tuổi già thì viêm khớp trở thành người bạn đồng hành. Thật là một điều đau khổ và âu sầu. Với những cá nhân thích thú ăn các loại trái cây, họ thường được kinh nghiệm về sự đau đớn, khó khăn hoặc bị hạn chế vận động.

Sự lan tràn bệnh viêm khớp thật là một tai họa lớn cho xã hội, hàng triệu triệu người không thể thực hiện được đầy đủ các chức năng trong cuộc sống của họ, và với những ca nghiêm trọng họ không còn có thể làm việc hoặc tự chăm sóc mình. Thiệt hại ra sao ? Để định mức nó được, chúng ta thử xác định trên ảnh hưởng kinh tế.

BẢNG 1 : VÀI THIỆT HẠI KINH TẾ CỦA BỆNH VIÊM KHỚP

+ Đánh giá trực tiếp trên việc chăm sóc y tế hàng năm
• Bệnh viện phí : 1,431,000,000 $
• Y sĩ khám bệnh : 1,238,000,000 $
• Dịch vụ chăm sóc đặc biệt : 322,000,000 $
• Dược phẩm: 798,000,000 $
• Chăm sóc tại nhà: 679,000,000 $
• Các phương thức khác:
• Tổng cộng trực tiếp: 6,226,000,000 $
+ Đánh giá gián tiếp của việc chăm sóc y tế, hàng năm
• Mất lương bổng: 6,046,000,000 $
• Mất việc làm tại nhà: 661,000,000 $
• Mất lương bổng và việc nhà cho các nhà từ thiện 239,000,000 $
• Mất nguồn tài chánh do chết sớm: 97,000,000 $
• Tổng cộng gián tiếp: 7,045,000,000 $
• Tổng cộng giá trị kinh tế
hàng năm USD: 13,269,000,000 $

Số liệu trên được công bố năm 1982 do Trung tâm sức khỏe quốc gia Interview Survey, Nursing Home Survey và bệnh viện Discharge Survey (năm 1975)

Mười ba tỷ đô la được chi phí hàng năm và mọi năm lại có hàng triệu ca mới được chẩn đoán thêm, con số nêu trên thực tế còn cao hơn nhiều.

Khoảng mục giá trị trực tiếp cho biết những việc tiêu phí thực tế cho bệnh viêm khớp như khám bác sĩ, chi phí nhà thương, thuốc men, thử nghiệm y tế và vài loại khác. Trong vài trường hợp, nhiều bệnh nhân viêm khớp không thể làm việc đều đặn do quá đau đớn và kết quả mất đi giá trị của công việc. Nếu tình trạng càng nghiêm trọng, bệnh nhân phải vào sống ở trại từ thiện.

Các mục giá trị gián tiếp trên chưa bao gồm các khoản thuế bị thất thoát, các khoản không có khả năng chi trả và nhiều khoản chi đáng kể tăng lên hàng năm của bệnh viêm khớp. Những con số trên cho ta thấy một nguồn kinh tế lớn đã được chi phí vào bệnh này.

Những con số cũng chưa phải là vấn đề lớn lao gì, nó không thể bộc lộ đủ các khía cạnh của bệnh viêm khớp. Viêm khớp nói lên điều gì cho từng cá nhân ? nó liên hệ và tác động ra sao đến cuộc sống từng cá nhân?

Mỗi sáng thức dậy và lập tức đối mặt với cơn đau thật là một cảnh chẳng thú vị chút nào ... Vậy mà đối với người bị bệnh viêm khớp đó lại là một phần cuộc sống của họ. Việc giản đơn nhất như ra khỏi giường trong mỗi buổi sáng, rồi đến nhà tắm để chải răng, đối với chúng ta chỉ là việc thường, lại là một hành động dũng cảm và nhẫn nại của bệnh nhân viêm khớp. Suốt ngày cơn đau dai dẳng làm tiêu phế đi nào là thể chất, tinh thần, tình cảm, gây khó khăn cho sự tập trung trên phận sự phải thực hiện trong ngày. Viêm khớp như tô đen cuộc sống và tất cả những phần của nó.

Những thân nhân người bệnh cũng trở nên căng thẳng, nếu một người nam hay nữ trong nhà mang bệnh, những người khác cũng phải kiên nhẫn, làm việc và tận tâm với họ. Nếu một đứa trẻ mắc bệnh, thật là một nguồn âu lo cho cha mẹ nó và tăng thêm sự túng thiếu đã vượt mức bình thường, chi phí ở nhà trường và vui đùa để trẻ phát triển tốt.

Rồi thì nào là thiên tài, năng khiếu sẵn có trong một số người cũng bị lu mờ do bệnh viêm khớp. Nguồn lực quan trọng nhất của xã hội là sức khỏe, thể chất, sinh khí của từng con người, nếu những tính năng này được nguyên vẹn thì hầu hết các khó khăn đều có thể vượt qua. Trái lại khi nó bị sa sút, yếu kém do bệnh tật có nghĩa là xã hội cũng suy sụp theo.
Thelast
CHƯƠNG 2
CÁC BỆNH VIÊM KHỚP CHỦ YẾU


Trong tất cả các bệnh viêm khớp, vấn đề cơ bản chung là ở các khớp. Để hiểu rõ, đòi hỏi phải xem xét cấu tạo, chức năng thiên nhiên của nó. Trong biểu đồ sau đây, chúng ta có thể biết được cấu trúc của một khớp bình thường.

Khi một khớp khỏe, nó cho phép hoạt động ở một phạm vi rộng tùy thuộc vào vị trí của nó trên cơ thể.

Khớp là nơi hai xương gặp nhau, có rất nhiều khớp trên cơ thể như đốt sống là do nhiều xương và khớp liên kết thẳng đứng. Hông, đầu gối, mắt cá chân và chân tất cả đều có các khớp, cũng như vai, cùi chỏ và tay. Ở những nơi các xương gặp nhau, thiên nhiên đã cấu tạo các lớp đệm. Các đĩa xương được làm bởi các vật liệu đặc đệm giữa các đốt sống, những khớp khác như là đầu gối và cùi chỏ, có nhiều chất đệm dầu của màng hoạt dịch làm trơn các khớp.

Khi các khớp chuyển động, hai xương di chuyển nhẹ nhàng bởi lớp sụn bao bọc hai đầu xương. Hoạt động của các khớp làm dồn nén các chất dịch và được các chất dịch nuôi dưỡng. Bên ngoài các khớp là các cấu trúc nâng đỡ: các cơ, dây chằng, níu cột vững chắc các khớp đúng chỗ khi di chuyển, những túi hoạt dịch nhỏ cũng làm đệm cho các khớp hoạt động.

Chức năng chủ yếu của khớp là làm cho đủ khả năng để cơ thể hoạt động. Nếu cơ thể chúng ta chỉ là một khối cứng, chúng ta không thể gập cong và gần như không thể nào cử động được. Các khớp cho ta sự tự do để hoạt động trong cuộc sống và nó càng tốt đẹp chúng ta càng được tự do vui thích. Không có một hoạt động nào trong cuộc sống chúng ta mà không tùy thuộc vào các khớp. Với cái nghĩa này, sự hoạt động đã được thiên nhiên tạo mẫu là để giúp gìn giữ các khớp tốt lành chứ không nhằm để làm mòn nó đi.

Để có được các chuyển động thông thường, các khớp chuyển động rất tinh tế và riêng biệt. Vài khớp thành những khối tròn và hốc trong khi các khớp khác nhằm cho cử động xoay tròn hay lại giống như hoạt động của một bản lề. Trong các khối của cơ thể, nhất là ở tay cho chúng ta những khả năng vô cùng tế nhị như để chơi đàn Ghita và Piano, sơn họa và viết lách.

Khả năng tổng quát của các khớp là chịu đỡ và nâng các vật nặng như các khớp lớn ở cuối cột sống, hông, gối được tạo dành chịu đỡ các sức nặng, thêm vào đó là trọng tải của thân thể chúng ta, tất cả các vật chúng ta nâng lên và mang đi đều đè nặng lên các khớp này. Tương phản với các khớp trên là các khớp nhỏ ở phần trên và ở ngoại vi cơ thể, đặc biệt là ở tay và cùi chỏ. Chúng nó được tạo phù hợp cho các hoạt động tinh tế. Dù nó cũng có thể mang và dời các vật nặng nhưng khả năng chỉ có giới hạn so với các khớp lớn bên dưới cơ thể.

Vậy tại sao có sự trục trặc ở các khớp ? Các bạn thử nghĩ xem tất cả các phần của khớp đều có thể có vấn đề : sụn, màng, hoạt dịch, chất nhờn, gân, túi hoạt dịch và dây chằng. Do thiên nhiên xếp đặt quá nhiều thứ vào một nơi, nên tất cả đều có thể gây ra nhiều vấn đề.

Khả năng di chuyển, làm việc, hoàn thiện trong đời sống chúng ta tùy thuộc vào sự khỏe mạnh của các khớp. Nào là tình cảm đối với kẻ khác, nào là sự hiện diện, nào là chữ ký nhờ đó mà người khác nhận biết được chúng ta. Tình trạng của các khớp hình thành phần cơ bản của thiên nhiên và của cá nhân chúng ta. Khi chúng ta có vấn đề ở các khớp, các nhận xét của người khác về chúng ta cũng thay đổi. Hãy nhìn một vài người nào đó, lưng cong đi đứng vặn vẹo, hoặc họ lê bước chân đi thật là một hình, một hình ảnh gợi lên sự hom hem và suy nhược. Trái lại nếu các khớp khỏe mạnh, chúng ta đứng thẳng và cử động nhẹ nhàng, tạo ra một ấn tượng trẻ trung, đầy sinh lực và sức sống.

Khi các khớp có vấn đề, thì theo sau cùng lúc nhiều triệu chứng, tùy theo loại đau khớp, toàn bộ cơ thể bị rắc rối như đau khớp Lupus, các triệu chứng lại rất ít thấy ở đau khớp osteoarthritis. Thật rất là khó chẩn đoán và trị liệu hữu hiệu cho các chứng đau khớp.

Với kinh nghiệm, giờ đây chúng ta hãy xem xét các loại đau khớp chủ yếu và các triệu chứng đặc thù của chúng.
Thelast
* Đau thấp khớp (Rheumatoid Arthritis): Ông Alfred Baring Garrod, Tiến sĩ y khoa ở Anh Quốc là cha đẻ của danh từ bệnh này. Ông ta chọn chữ “rheumatoid” để diễn tả loại đau khớp này do triệu chứng của bệnh, nhất là ở giai đoạn đầu là có sốt kèm.

Đau khớp Rheumatoid thường là viêm sưng các khớp trên cơ thể, đặc biệt là ở vùng hoạt dịch bao phủ các khớp. Cùng với sự giãn nở màng hoạt dịch là thể tích các chất nhờn của khớp tăng lên.

Ảnh 2: Viêm khớp Rheumatoid arthritis

Trong bệnh này, các khớp rối loạn trở nên sưng phồng do màng hoạt dịch sưng viêm: Các mô trong màng hoạt dịch phân chia ra và viêm sưng tại các khớp lan ra các phần, khác của cơ thể. Kết quả là khớp trở nên sưng phồng và cứng. Dòng máu làm cho các khớp nóng lên. Các dưỡng tố thoát ra từ các mô chảy vào trong các khớp gây đau đớn. Triệu chứng thường là đau đớn khi cử động hay đau đột xuất. Nếu tiến trình này tiếp diễn, sụn và xương bị ăn mòn làm méo mó các khớp và cuối cùng là hóa cứng toàn bộ.

Mắt cá và cổ tay thường bị rheumatoid arthitis. Đầu gối kế đến là xương mu bàn chân bị liên quan. Cũng có thể các khớp khác bị đau dính líu.

Bệnh Rheumatoid arthritis không phải là một bệnh tại chỗ. Toàn bộ cơ thể bị ảnh hưởng. Kèm theo là các triệu chứng sốt nhẹ, mệt mỏi và ngủ mất ngon, sụt cân. Vài trường hợp gây ra bệnh thiếu máu, nhất là trong những ca nghiêm trọng. Phổi cũng bị ảnh hưởng. Viêm màng phổi, màng lồng ngực. Tụy tạng nở to do sự sản xuất bất ổn của bạch cầu. Bệnh tim đập nhanh cũng có thể xuất hiện, lạnh, ẩm ướt, có cảm giác như kim châm bàn tay và bàn chân, thường vã mồ hôi, nổi cục dưới da được gọi là bệnh khớp bướu, các bướu nhỏ như hạt đậu nhất là ở vùng cùi chỏ.

Bệnh lâu nặng sẽ trở thành mãn tính. Tuy nhiên có hai trường hợp cần được xem xét. Có người chỉ bị cơn bệnh ngắn và rồi bệnh rút lui không bao giờ trở lại. Đó gọi là bệnh monocyclic. Loại thứ hai cơn đau trở lại sau một thời gian bình thường, được gọi là bệnh polycyclic.

Bệnh Rheumatoid arthritis đánh vào 2 đến 3 phụ nữ so với 1 nam giới, như vậy là 75% bệnh nhân là giới nữ nhiều nhất ở độ tuổi từ 36 đến 45 tuổi.

Để chẩn trị bệnh, có nhiều cách trên 80% các ca, nhân tố latex trong bệnh Rheumatoid arthritis dương tính. Thử nghiệm lắng cặn để tìm tỷ lệ các thành phần nặng của máu, tỷ lệ càng cao chứng tỏ bệnh càng nghiêm trọng. Sau rốt X quang sẽ cho biết các phần tổn hại của xương và sụn.

Sự chữa trị thông thường cho bệnh này là thuốc aspirin được dùng như một loại trẩm thống “giảm đau” và chống viêm sưng, và aspirin dược phẩm dùng hầu hết cho các bệnh Rheumatoid arthritis, một vài thứ thuốc khác cũng được chỉ định. Người thầy thuốc có thể chọn dược phẩm cơ bản cho các bệnh nghiêm trọng và xem xét các phản ứng thuốc của bệnh nhân. Khả năng dung nạp thuốc của bệnh nhân phải được giám sát cẩn thận và tăng liều lượng, kéo dài thời gian điều trị tình trạng bệnh.

Thêm vào đó, vật lý trị liệu là cần thiết để giúp cho các khớp hoạt động. Các loại trị liệu khác như chườm túi nóng, túi lạnh, túi ấm và điện nhiệt cũng được xử dụng.

Một thời khóa biểu cho việc tự tập luyện dành cho các bệnh nhân còn có thể hoạt động được ở các khớp bị thương tổn cũng giúp ích rất nhiều.

Sự ngơi nghỉ cũng quan trọng bởi các bài luyện tập bình thường bị hạn chế do bị đau đớn. Sự đau đớn liên miên hàng ngày làm mệt mỏi và nản lòng cần phải được dưỡng sức đặc biệt.
Thelast
* Bệnh Lupus: Bệnh đau khớp lupus là bệnh gây ra nhiều triệu chứng. Danh từ đầy đủ để gọi tên bệnh là Systemic lupus erythematosus và một lối viết tắt khác là “lupus” hoặc là “sle”. Hệ thống miễn dịch tự động dùng để bảo vệ cơ thể nay lại đi tàn phá các mô. Nguyên do gây ra bệnh còn chưa được biết.

Triệu chứng của bệnh lupus ảnh hưởng cả một phần lớn cơ thể. Sự phát ban hình cánh bướm ở sống mũi và gò má được trông thấy, hiện tượng Raynaud (đổi màu sắc ở bàn tay), bị tróc những mảng lớn ở da đầu. Các khớp da của bệnh nhân bị phản ứng khi tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng, miệng bệnh nhân có thể bị lở loét. Loại Pleuritis có thể gây nguy hại cho màng phổi, loại Percarditis làm viêm ở vùng tim và viêm sưng phúc mạc vùng bụng.

Phân nửa số bệnh nhân lupus còn bị viêm thận, hồng tồn giảm dẫn đến bệnh thiếu máu, bạch cầu cũng giảm thiểu.

Thêm vào các triệu chứng là khớp bị viêm, nhất là ở vùng hoạt động. Giống như viêm khớp rheumatoid, dù triệu chứng có khác nhau tùy theo tình trạng, các khớp thường không sưng ở bệnh viêm khớp Lupus và không nghiêm trọng như viêm rheumatoid, khi cử động thì ít đau đớn hơn... Viêm khớp lupus tác hại vào các khớp cũng giống như viêm khớp rheumatoid. Cổ tay và mắt cá, đặc biệt là ở ngón tay giữa và đầu gối phần dưới cơ thể là thường bị tấn công nhiều nhất. Cột xương sống thường không bị ảnh hưởng.

Đến 90% trường hợp viêm khớp Lupus xuất hiện ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai, đặc biệt trong thời kỳ thai đầu của thai phụ. Sau khi sanh nở, triệu chứng có thể trở nên xấu hơn.

Thử nghiệm chẩn trị gồm thử độ máu giảm, phân tích nước tiểu, chiếu x quang, xem điện tâm đồ hoặc thanh tâm đồ. Các thử nghiệm trên được bổ sung thêm phương pháp thử nghiệm vật lý cơ bản.

Thuốc viên để trị bệnh lupus tùy thuộc vào tình trạng nghiêm trọng của bệnh. Chất cortisone và ngăn miễn nhiễm được dùng trong ca nghiêm trọng. Các chất thường là chất chống viêm sưng như aspirin và hydroxychloroquine.
Thelast
* Bệnh Osteoarthritis: Bệnh này ăn mòn dần và làm suy sụt chất sụn ở các khớp, sau một thời kỳ lớp sụn trở nên lõm và mòn hỏng, và hai đầu xương có thể cọ vào nhau, các xương phát triển dầy lên và làm các khớp dính vào nhau.

Các loại viêm khớp được phân biệt nhiều loại do nhiều yếu tố khác nhau. Ở bệnh osteoathritis này không hề có một viêm sưng nào, hoặc có rất ít. Nó dẫn tiến chậm chạp và âm thầm thay vì các chu kỳ có cường độ mạnh hơn của các loại viêm khớp khác. Và thường không kèm theo triệu chứng gì.Trong quá khứ bệnh này thường đi kèm với quá trình tuổi tác. Một phần lý do của lý thuyết trên là bệnh ngày càng tăng lên khi tuổi càng cao. Ở tuổi 40, 90% mọi người đều bị thoái hoá ở các khớp chịu lực. Và ở tuổi 60 không có ai ngoại lệ. Dù có sự thay đổi này, nhiều người cũng không có triệu chứng rõ ràng lắm để ghi nhận là có bệnh chính thức.

Mục tiêu tấn công hàng đầu của osteoarthritis dường như là ở các khớp chịu lực. Hông, gối, chân, cột sống. Gai xương có thể xuất hiện ở cổ hoặc phần cuối đốt sống. Các đốt cột sống hẹp lại và các đĩa đệm trên ở giữa bị mòn? Đối với các phần trên cơ thể phần cuối các ngón tay thường có ảnh hưởng. Gai xương lan ra ở đầu các ngón tay, như là bị bướu cứng, có thể có cả gai xương ở các khớp thứ nhì của ngón tay bướu. Kết quả là các ngón tay cong queo, đầy gai xương và cứng.

Chẩn trị bệnh thường bằng x quang cho thấy khoảng giữa các khớp ở khớp hẹp lại và cuối cùng dính vào nhau. Các ngón tay rất đau. Nói chung, các thí nghiệm về máu của bệnh nhân được ghi nhận là vẫn bình thường.

Ảnh 3: Viêm khớp Osteoarthrite

Chương trình tập luyện cho bệnh nhân là cốt làm tăng trưởng phạm vi hoạt động của khớp và làm cho dẻo khớp một liều vừa phải aspirin được kê đơn, và các loại thuốc viêm chống viên sưng được khuyên dùng. Để làm giảm đau, đắp nóng và lạnh lên chỗ khớp đau.
Thelast
* ANKYLOSING SPONDYLITIS: Loại viêm khớp Ankylosing spondylitis gọi tắt là AS được gọi khi mô viêm sưng tỏa ra rộng khắp đầu gân, dây chằng bám vào xương, gai xương mục giữa khớp và làm cho khớp dính lại. Quá trình này tiến dọc theo cột sống.

Trong bệnh Ankylosing spondylitis, đĩa đệm co lại và các đốt sống hợp dính lại. Trước tiên bệnh tấùn công vào phần dưới của đốt sống và từ từ tiến lên phía trên. Không phải nó làm cho cột sống cứng và đứng thẳng mà xương sống ngày càng cong xuống, mắt chỉ nhìn xuống đất, ngực xẹp lại và không giữ được dáng đi bình thường do các đốt sống bên dưới dính lại. Tư thế này chúng ta thường thấy ở người trọng tuổi, chân bước lê và phải dùng gậy chống.

Bệnh Ankylosing spondylitis tiến triển chậm và cường độ không mạnh. Lớp tuổi tiêu biểu bắt đầu từ 16 đến 35 tuổi và tiến triển tiếp tục trong thời gian dài cho đến khi được phát hiện ra. Thường bệnh tấn công vào người đàn ông. Triệu chứng thường là mất cân và mệt nhọc…, trường hợp nghiêm trọng đôi mắt bị đau đỏ. Trong vài trường hợp vành động mạch chủ của tim bị tấn công.

Ảnh 4: Đốt sống bình thường.

Ảnh 5: Bệnh ANKYLOSING SPODYLITIS

Bệnh có nhân tố di truyền, gen JLA 26 được tìm thấy ở 80% ca bệnh, x quang được dùng để kiểm tra sự hợp nhất của các đốt sống.

Trị liệu thông thường cho bệnh AS là vật lý trị liệu và luyện tập cá nhân để giữ sự cho các khớp mềm dẻo. Aspirin không được ghi dùng cho bệnh này.
Thelast
* Thống phong (Gout): Xuyên qua lịch sử, có rất nhiều nhân vật lừng danh đã chịu đau đớn vì bệnh này. Trong số đó có Benjamin, Fran Klin, Michaelangelo, Leonardo de Vinci, Milton, sir Issac Newton, Charles Darwin.... đã nhiễm phải một trong các loại viêm khớp gây đau đớn nhiều nhất. Tiến trình của bệnh thường đi theo cùng một kiểu mẫu. Trước tiên axit uric tăng cao trong máu. Axit uric là một sản phẩm bình thường sinh ra từ sự biến dưỡng của cơ thể, có giao động chút ít ở tuổi dậy thì, thời kỳ mãn kinh ở phái nữ thường lượng axit tăng cao. Nếu tiếp tục một lượng thái quá trong máu, axit uric sẽ biến thành dạng tinh thể và đóng ở các khớp và mô. Các tinh thể này gồm có muối urate được gọi là Tophus, đóng trú trong các khớp và gây viêm sưng khớp kèm nóng đỏ. Không phải chỉ những các khớp bị nhiễm mà ở thân cũng vậy và tiến đến hình thành sỏi thận.

Thông thường cơn đau đớn đầu tiên khởi vào buổi tối và sẽ tấn công theo từng chu kỳ. Trước hết là tấn công với cường độ cao trong vài ngày và đến một thời kỳ hơn hai tuần lễ không thấy triệu chứng gì trước khi có một đợt tấn công kế tiếp. Thời gian có thể thay đổi từng cá nhân nhưng kiểu mẫu bệnh tổng quát là xen kẽ giữa hai kỳ đau và không đau liên tục. Sau đó nếu bệnh trở nên xấu đi, cơn đau sẽ liên tục không bao ngừng.

Ảnh 6: Thống phong

Thống phong là một bệnh tương đối ít khắc nghiệt, 90% bệnh nhân thống phong có kinh nghiệm bị tấn công vào ngón chân cái nhiều lần trong thời gian họ bị bệnh này, loại đặc biệt này có tên gọi là podgra.

Thống phong thường xuất hiện ở ngón chân cái. Sưng viêm, nóng và đau đớn nhiều, chỗ khớp nổi đầy những gai nhọn tinh thể.

Ở các vùng thấp khác, như mu bàn chân, mắt cá, gót chân, đầu gối cũng có thể bị dính líu. Các phần phía trên cơ thể như cổ tay, ngón tay, cùi chỏ cũng vậy. Vài trường hợp có triệu chứng bong gân mắt cá, nứt gót chân, đau nhói ở ngón chân cái.

Trong bảng tóm tắt thống kê các bạn có thể thấy hầu hết 80 đến 90% bệnh nhân loại này đều là đàn ông.

Để chẩn trị người ta thử nghiệm mẫu nước tiểu, độ cao của axit trong máu, hoặc mẫu nước nhờn ở khớp (xác định tinh thể).

Trị liệu thống phong (gout) bao gồm phương pháp kiêng ăn và dược phẩm. Do yếu tố kiêng ăn trong bệnh thống phong được nhận định là có liên quan. Một khẩu phần nhiều thịt đặc biệt là nhiều purine được tin tưởng là sẽ gây ra bệnh thống phong, do biến dưỡng của cơ thể không thể phá vỡ nổi sự quá tải này. Thêm vào đó nếu lại uống nhiều rượu thì khó lòng tránh khỏi bệnh này.

Trong sự liên quan giữa thức ăn và bệnh gout có một dữ kiện rất lý thú trong khoa học dịch tễ học ở thế kỷ 20 này. Đó là hiện tượng bệnh phong thấp giảm thiểu rõ rệt trong và sau thòi kỳ đệ nhất và đệ nhị thế chiến, lý do là trong hai thời kỳ này thực phẩm hiếm hoi, nhất là loại thực phẩm giàu chất lượng. Bệnh thống phong cũng ít thấy ở những người thổ dân sống trong vùng của họ, dường như đời sống nơi đó gần thiên nhiên hơn, lối sống và dùng thực phẩm truyền thống nên bệnh thống phong rất là hiếm thấy.

Dược phẩm trị liệu hàng đầu cho bệnh này là colchicine phenybutasone, idométhacin và một vài loại chống viêm sưng khác thường được dùng. Đôi khi người ta tiêm thẳng corticosteroids vào khớp viêm. Thêm vào đó là các dược phẩm làm giảm axit uric dùng giữa hai thời kỳ bệnh tấn công.

Để tránh nhầm lẫn, nên biết có một dạng khác của arthritis, gọi là pseudogout cũng có thể có, dù nó tương tự như bệnh thống phong (gout), nhưng đặc biệt khác ở chỗ các tinh thể phát triển ở khớp. Đó là những tinh thể pyrophosphate, và gồm có nhiều calcium. Các tinh thể này được tạo thành ở các phần bên dưới cơ thể, và gây nhiều vấn đề cho người cao tuổi. Tuổi 70 là mức bình quân của lần bệnh đầu tiên. Đầu gối thường hay bị nhất, kế đó là cườm tay và mắt cá. Cơn bệnh không rõ rệt và kéo dài hơn là trong bệnh gout.
Thelast
* Chữa viêm khớp theo phương pháp hiện đại: Cách chữa viêm khớp ngày nay gồm có dược phẩm vật lý trị liệu và luyện tập, nếu bệnh không khỏi, giải phẫu là biện pháp sau cùng.

Thuốc viên là cách trị liệu hàng đầu, dùng làm giảm đau và viêm nóng. Do phải dùng thuốc thường xuyên để giảm triệu chứng, thuốc viêm có khuynh hướng trở thành nghiện.

Aspirin là thuốc hàng đầu trị viêm khớp. Trên 22 tỉ viên được sử dụng cho một năm tại Mỹ, quá nửa là dùng cho bệnh viêm khớp. Loại viêm sưng nóng của Rheumatoid và lupus thì sử dụng aspirin.

Aspirin ngày nay gốc được làm từ than đá hoặc dầu hỏa salicyclic acid.Nhóm acétyl của nguyên tử được thêm vào để “chế ngự” hoặc làm giảm độc tính của phản ứng phụ của salicyclic acid. Sau khi trộn và chế hóa, hỗn hợp thuốc được lọc và sấy khô. Bột bắp hoặc hoạt thạch được thêm vào kế đó. Sau hết tùy theo nhãn hiệu mà tỉ lệ Aspirin được làm đầy 90/10 hoặc 80/20.

Lý thuyết hiện nay để hiểu tác dụng của aspirin là nó khử được hoạt động của prostaglandin (sản phẩm của cơ thể chứa hơn 20 hóc môn). Một phần chức năng của prostaglandin là phản ứng đau và viêm làm cơ thể đau đớn. Aspirin chặn phản ứng tự nhiên này của prostaglandin và kết quả là cơn đau và viêm giảm.

Hỗ trợ cho aspirin, có nhiều loại dược phẩm mạnh được kê đơn tùy theo mức độ nghiêm trọng của khớp viêm. Một chương trình vật lý trị liệu được dùng để chữa viêm khớp. Chườm túi nóng và lạnh, điện nhiệt, tắm thuốc, xoa bóp, cử động tại các khớp có vấn đề và các kỹ thuật khác nhằm làm giảm đau và giữ cho khớp mềm dẻo tăng phạm vi hoạt động.

Nếu không kết quả, giải phẫu được dùng. Khoảng 40.000 bộ hông được thay thế hàng năm ỡ Mỹ quốc, và con số ngày càng tăng hàng năm. Người ta sản xuất những khớp hông bằng thép, vitalium, plastic và polyethylene. Ngoài ra còn có ngón chân, ngón tay, đầu gối, mắt cá, vai, cùi chỏ nhân tạo nửa!

Do số lượng các loại chưa nhiều như khớp hông nên chưa được phổ biến và giải phẫu không có nghĩa là không còn bị viêm khớp nửa, mà chỉ cho thấy sự bất lực của các phương pháp trị liệu, phần bị bệnh được cắt bỏ khỏi cơ thể và ngay khi giải phẫu thay thế rồi thì bệnh viêm khớp lại có thể tấn công các phần khác của cơ thể.
Thelast
LÝ THUYẾT HIỆN ĐẠI VỀ BỆNH VIÊM KHỚP

Xuyên qua lịch sử, nhiều khối óc nối tiếp đã tìm cách mà cũng không giải quyết được, như Hippocrates, cha đẻ của y học hiện nay, Galen một nhà vua thời La Mã, Benjamin Franklin và nhiều người khác đã đưa ra nhiều lý thuyết chữa bệnh. Nhưng vẫn chưa có kết quả gì trong việc ngừa hay làm lùi bệnh viêm khớp. Ngày nay chúng ta có nhiều kỹ thật để giải quyết vấn đề này gồm cả máy siêu âm vi tính để đo và phân tích kết quả và những máy hiển vi điện tử để quan sát trong cơ thể. Những máy móc kỳ diệu này cũng chưa đem lại một câu trả lời xác định nào để trị liệu hiệu quả bệnh viêm khớp. Kết cục là có rất nhiều lý thuyết giải thích lý do của bệnh này.

Một trong lý thuyết đó về duyên do của bệnh viêm khớp là lý thuyết Hereditary hoặc nói rõ ra là lý thuyết về sự tin tưởng rằng có người khi được sinh ra đã có khuynh hướng mắc bệnh viêm khớp do cấu trúc khuyết điểm của di truyền. Điều này còn hoài nghi ở bệnh viêm khớp osteoarthritis. Như vậy là do cấu trúc lúc sanh ra thiếu sót sẽ chắc chắn dẫn đến bệnh tật này. Kết quả sự tìm tòi trong lĩnh vực này, nhiều loại viêm khớp đã tìm thấy có dấu di truyền. Người ta đã tìm ra yếu tố HLA-DR4 có thể liên quan tới bệnh viêm khớp arthritis. Trong bệnh ankylosing spondylitis , yếu tố di truyền HLH-B27 được tìm thấy như thế không có nghĩa là mọi người có yếu tố này đều mang bệnh viêm khớp mà phần lớn người có yếu tố này cũng mắc bệnh viêm khớp arthritis, cần phải thẩm tra lại sự liên quan này.

Một câu hỏi khác, như là siêu vi phải chăng là tác nhân gây bệnh? Những tác nhân này tiềm ẩn trong cơ thể chúng ta và bị một ảnh hưởng nào đó làm cho nó biến đổi và gây nên bệnh viêm khớp arthritis.

Một trường phái khác lại cho rằng các yếu tố biến dưỡng có thể gây ra bệnh viêm arthritis. Sự biến dưỡng là tiến trình hoá học và vật lý để biến đổi thực phẩm thành nguyên sinh chất và từ nguyên sinh chất được dùng và vỡ ra các chất phế phẩm , đồng thời phóng thích ra năng lượng cho tất cả tiến trình của sự sống. Các tiến trình này tạo ra các yếu tố biến dưỡng có thể đo lường được. Ví dụ như mức độ cao của calcium, hay thiếu betaendomorphin (một peptide trong não) được phát hiện trong vài bệnh nhân viêm khớp arthritis. Vi sinh vật cũng có liên can để có thể gây nên bệnh. Tổng quát là các yếu tố biến dưỡng bị thừa hoặc thiếu cũng thế do vậy vai trò gây nên bệnh viêm khớp arthritis chưa được hiểu thấu đáo nhưng vẫn cứ phải học tập. Hệ miễn dịch là hệ chủ yếu cho sức khoẻ và sức sống tổng quát của chúng ta, nó giúp cơ thể trung hòa các tác nhân ngoại. Đôi khi hệ thống này lại có thể tàn phá các mô khoẻ mạnh, như trong viêm khớp Lupus. Lý do nào khiến hệ thống miễn nhiễm mất đi chức năng của nó như vậy thì vẫn chưa được biết. Có một lĩnh vực thứ hai cho những câu hỏi về bệnh viêm khớp mới mẻ và được nhiều chú ý. Có lẽ nó xuất hiện từ những câu hỏi cơ bản do bệnh nhân viêm khớp thường hỏi: Có phải những thứ mà tôi ăn đã gây nên vấn đề? Trong quá khứ quan điểm về cách ăn uống và bệnh viêm khớp có liên quan với nhau thường được xem nhẹ. Ngoại trừ bệnh thống phong (gout), không có một thức ăn nào được thiết lập cho con bệnh. Việc gạt bỏ vấn đề này thật là quá vội vã do nghiên cứu và thử nghiệm không được thấu đáo rõ ràng. Tuy nhiên cho đến nay tình hình này đã thay đổi.

Trong công báo Arthritis and Rheumastism, với đầu đề “Trị liệu bằng thức ăn cho bệnh, viêm khớp” của Richard S. Panush đã tuyên bố một vài thông báo quan sát cho thấy , trị liệu bằng kiêng ăn có giá trị chữa bệnh viêm khớp. Với kết quả thử nghiệm cho 26 bệnh nhân, 11 bệnh nhân được dùng cách kiêng ăn có lợi cho bệnh viêm khớp và 15 người khác áp dụng các món kiêng ăn cốt để trấn an. Kết quả không mấy thuyết phục là 5 bệnh nhân được dùng các thực đơn có lợi cho bệnh được cải thiện và các bệnh nhân không dùng phương pháp kiêng ăn bệnh ngày càng trầm trọng hơn.

Căn cứ trên kết quả của phương pháp thực nghiệm, đề tài trên kết luận “Dường như là hữu lý khi đánh giá cái quan niệm cải thiện vì môi trường và chất dinh dưỡng có thể làm nhẹ bệnh viêm khớp, giả thuyết này đòi hỏi phải được thử nghiệm thêm”.

Trong một đề tài khác, cũng về vấn đề này, bác sĩ Morris Ziff bình luận như sau”. Tất cả vấn đề đã được xem xét cho thấy cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng việc trị liệu bằng cách kiêng ăn cho bệnh viêm khớp”.

Việc thử nghiệm phương pháp kiêng ăn ban đầu đã cho thấy một bước lý thú và hào hứng trong việc tìm kiếm mắt xích giữa bệnh viêm khớp và thức ăn hàng ngày.

Từ sự bắt đầu này, rõ ràng là cần phải có sự nghiên cứu sâu xa hơn và được chỉ đạo đúng đắn.

Một trường phái khác lại tin tưởng hoàn toàn về việc liên hệ của thực phẩm và bệnh viêm khớp. Sự tin tưởng này đầu tiên do bệnh dị ứng (Allergistis). Bệnh dị ứng là phản ứng của cơ thể với thức ăn và các vật chất trong môi trường xung quanh. Bệnh dị ứng tổng quát phản ứng xuất hiện khi chúng ta ăn thứ gì đó và thình lình bị nổi mề đai, ngứa hoặc bị hắt hơi. Đây thường là một phản ứng tức thời, tuy nhiên nhiều ca dị ứng có tính cách chậm hơn, điều này được tiến sĩ y khoa James Breneman ghi nhận trích dẫn sau đây:

“Tôi không còn nghi ngờ gì trong nhiều trường hợp triệu chứng của bệnh viêm khớp đã dính líu đến các thức ăn dị ứng có phản ứng chậm, rất nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ như thế, trong khi chúng ta chưa có một cái nhìn chính xác vấn đề này, tôi nghĩ thật là hữu lý khi đánh giá khoảng chừng 60 đến 70% bệnh viêm khớp có lợi do áp dụng phương pháp kiêng ăn”

Những thức ăn dị ứng như thịt heo, cá, sữa, trứng và rượu là thức ăn có hại trong các thức ăn gây phản ứng dị ứng chậm.

Thêm vào các phát hiện trên, một số lớn cá nhân thực hành đã phát hiện ra sự liên quan giữa thức ăn và viêm khớp. Một bác sĩ Trung Quốc, ông Collin Dong tiến sĩ y khoa, đã khám phá được rằng tránh ăn thịt sắc đỏ, thực phẩm chế biến từ sữa, cây cà dược có tác động gây đau đớn cho bệnh viêm khớp. Trong quyển “New hope for the arthritic”, ông đã kể ra những phản ứng dị ứng do thức ăn nhiễm hóa chất như là lý do của bệnh viêm khớp. Ông đề nghiï thay đổi thực phẩm hàng ngày là việc đầu tiên để chữa bệnh viêm khớp và khuyên nên thay đổi thực phẩm suốt thời kỳ phục sức, mặt khác bệnh khớp có thể tái phát nếu dùng lại các thực phẩm gây bệnh.

Giáo sư bác sĩ Nornan Childers, của trường đại học Rutgers, có một công bố về sự liên quan giữa bệnh khớp và các thức ăn họ cà như: khoai tây, cà chua, tiêu, và cà tím, ông cho biết các loại này có chứa chất độc gây nên bệnh viêm khớp nhất là ở khoai tây và cà chua có chứa chất độc chất alkaloid tên là solamine, ông khám phá được là giảm các thức ăn này thì triệu chứng viêm khớp cũng giảm theo.

Về các thực phẩm chế biến từ sữa, trong tài liệu “Don’t drink your milk”, Bác sĩ Frank Oski bàn về việc tiêu thụ quá trớn loại thực phẩm này, ông đã kể ra nhiều vấn đề về sức khỏe được tái lập từ việc ngưng uống sữa và các thực phẩm từ sữa, trong đó gồm cả bệnh đau khớp.
Thelast
KẾT LUẬN

Vậy chúng ta có thể kết luận được về bệnh viêm khớp và nguyên nhân của nó?

Đầu tiên, có vô số hiện tượng sinh học của cơ thể có liên quan đến bệnh viêm khớp, từ đây sinh ra nhiều lý thuyết giải thích nguyên do của bệnh. Tuy nhiên chưa ai cung cấp được câu trả lời đầy đủ để đạt được một phương pháp cụ thể ngăn ngừa hoặc chữa được bệnh.

Thứ nhì, thiếu sự nghiên cứu có căn cứ trong sự liên quan giữa việc kiêng ăn và bệnh viêm khớp.

Thứ ba, một cơ thể phát triển theo giả thuyết có sự tương quan giữa thức ăn đặc biệt và bệnh viêm khớp.

Thứ tư, trong vài ba cá nhân việc thay đổi thức ăn có thể giúp chữa bệnh viêm khớp.

Càng ngày chúng ta càng tìm thấy được là các thực phẩm có ảûnh hưởng rất lớn đến bệnh viêm khớp hơn là những gì đã được tin tưởng trước đây, và vai trò của sự kiêng ăn trong bệnh viêm khớp... được đặt ra.

Theo quan điểm dưỡng dinh thì sức khỏe và đời sống hơn tùy thuộc vào thức ăn, và điểm quan trọng để hiểu rõ bệnh viêm khớp là xem thức ăn tác động thế nào lên chúng ta. Để có cái nhìn về sự việc này, chúng ta bắt đầu nghiên cứu các năng lượng của Dưỡng sinh trong đời sống và cách sắp những nguyên tắc các nguyên lý của Dưỡng sinh và cách áp dụng những nguyên tắc đó trên cơ thể con người cũng như tại sao Dưỡng sinh lại luôn dùng việc kiêng ăn làm cơ bản trong mọi nhận thức.
Thelast
CHƯƠNG 3
VIÊM KHỚP VÀ SỰ KIÊNG ĂN


Nếu chúng ta xem xét cẩn thận sẽ thấy các triệu chứng bệnh viêm khớp có thể được phân làm hai nhóm :

Nhóm 1:
 Ít có các triệu chứng và ít có sốt đi kèm
 Ít nóng đỏ
 Ít viêm sưng
 Đau nhẹ, sâu.
 Liên quan đến các phần trung tâm và phần dưới thấp của cơ thể.

Nhóm 2 :
 Nhiều phần của cơ thể bị dính líu và kèm theo nhiều triệu chứng.
 Nhiều nóng đỏ
 Sưng viêm nặng
 Đau nhức dữ dội và theo chu kỳ
 Liên quan phần.... ngoại biên và phần trên cơ thể.

Hiểu biết tất cả các loại viêm khớp là bước đầu để hiểu được nguyên do của bệnh. Câu hỏi kế tiếp là điều gì đã tạo ra sự khác biệt này trong sự khác biệt của bệnh viêm khớp.

Trong nếp nghĩ dưỡng sinh, điều kiện thể chất mà chúng ta tái tạo mỗi ngày bởi những gì mà chúng ta thu nhận từ môi trường xung quanh. Trong đó, thức ăn và uống hằng ngày đóng vai trò then chốt. Hằng ngày chúng ta tiếp thu môi trường xung quanh dưới hình thức thực phẩm. Chúng ta xử dụng năng lượng và nguồn dinh dưỡng trong thức ăn để tái tạo cơ thể và cung cấp năng lượng cho hoạt động của đời sống chúng ta. Do vậy chất lượng thức ăn và thức uống quyết định chất lượng đời sống chúng ta, bao gồm tình trạng trong máu, chất lỏng, mô, tế bào, xương và các khớp.

Ở các triệu chứng của bệnh viêm khớp, các thức ăn hằng ngày được xem như đã tạo ra hai tác động. Những loại thực phẩm nào đó có tác dụng làm giãn nở cơ thể, trong khi đó những loại khác làm co lại. Trong thiên nhiên hai lực này được Dưỡng sinh qui vào hai lực âm và dương.

Phần lớn các thực phẩm có nguồn gốc động vật gồm trứng, thịt, pho mát gia cầm và hải sản thuộc dương co rút, khi dùng quá nhiều sẽ gây tình trạng quá co thắt trong cơ thể, tình trạng này bị tác động, làm vặn vẹo, méo mó các khớp. Vậy các thức ăn này tác động như thế nào lên cơ thể, các khớp nào bị tác động, với mức độ nào, sinh ra các triệu chứng nào tùy thuộc vào .... sự chọn lựa sử dụng các thực phẩm của từng người. Ví dụ như, vài người ăn thịt bò mỗi ngày, trong khi người khác thì thích dùng thịt gà và trứng. Số lượng thức ăn và tỷ lệ đối với các thực phẩm khác cũng xác định các vị trí riêng biệt của triệu chứng theo từng kinh nghiệm cá nhân.

Các thực phẩm làm từ sữa cũng tác động lên xương và các khớp, trong đó gồm sữa, bơ, kem, kem cây và yaour có tác động làm trương giãn cơ thể và tạo nên các triệu chứng viêm và nóng đỏ. Các loại có nguồn gốc từ sữa khác như pho mát cứng, mặn tạo nên tác động co cứng làm cứng nhắc các khớp.

Sự dùng quá nhiều các thức ăn nêu trên, chứa quá nhiều mỡ và cholestérol còn tác động đến các phần khác của cơ thể, như các mạch máu trở nên hẹp và cằn cỗi, máu chảy qua khó khăn. Trong vài trường hợp, dòng máu đến nuôi dưỡng cơ quan hoặc các phần khác của cơ thể bị nghẽn nghẹt do ống mạch máu đóng quá nhiu mỡ và cholestérol. .

Khi nó xảy ra ở các mạch máu nuôi dưỡng tim, được gọi là nhồi máu tim, nếu xảy ra ở các mạch máu nuôi dưỡng não được gọi là bệnh đột quỵ.

Cả hai tình trạng trên, ngày nay rất phổ biến do người ta dùng quá nhiều thực phẩm động vật. Như chúng ta đã thấy, dùng quá nhiều các thực phẩm thái quá nêu trên đã làm cho cơ thể mất thăng bằng và dẫn đưa đến bệnh tật.

Tránh dùng các thực phẩm thái quá, các mạch máu sẽ thông thoáng dần, và thay thế vào đó các thực phẩm ít mỡ như ngũ cốc, đậu, rau củ tươi, là xây dựng một lối sống tự nhiên, ngăn ngừa các bệnh tim mạch. Tuy nhiên vì thay đổi thức ăn, nhiều người lại xoay qua một cực đoan hơn, đó là phương pháp dùng hóa chất, dùng aspirin hằng ngày, hy vọng sẽ ngăn ngừa được bệnh. Aspirin cực âm, tác động trương giản và cho ra rất nhiều phản ứng phụ, nó cản trở khả năng đóng cục của máu và có thể làm vết thương lâu lành. Nó cũng có thể gây cho mạch máu trương giãn và vỡ ra, làm xuất huyết. Aspirin thường gây xuất huyết ở dạ dày, ruột và các cơ quan tiêu hóa.

Như chúng ta đã thấy, nhiều bệnh tim mạch phát sinh do từ sự tiêu thụ quá nhiều thức ăn của động vật chứa mỡ đã bào hóa và cholestérol.

Aspirin một chất gây giãn nỡ cực độ đôi khi cũng có tác dụng làm chậm đi tốc độ trầm tích, tuy nhiên nó không làm thay đổi nguyên nhân, và mang lại nhiều rủi ro cho các tác dụng phụ của nó. Hơn thế nửa nhiều tình trạng bệnh tim mạch lại do một nguyên do trái nghịch. Đó là do tiêu thụ quá nhiều đường, sữa, ca phê, nước ngọt, kem cây, trái cây vùng nhiệt đới, và vài loại thức ăn quá âm khác gây tác động trương giãn. Cú đột quỵ do vỡ mạch máu ở não là một ví dụ của loại hình mất trật tự này, và aspirin, một sản phẩm có tính trương giãn, không giúp gì cho trường hợp này mà trái lại còn làm cho xấu đi.

Nói tổng quát, thức ăn có nguồn gốc thực vật âm hơn và tác dụng trương giãn hơn là thức ăn từ động vật, tuy nhiên có nhiều cấp trương giãn khác nhau. Một vài thức ăn động vật mọc ở vùng nhiệt đới thì có tác dụng làm trương giãn hơn là các loại mọc ở ôn đới. Rau củ như cà chua, khoai tây, khoai ngọt, khoai từ, cà tím, tiêu, và các loại khác đến từ vùng nhiệt đới hay bán nhiệt đới có tác dụng rất âm. Các loại trái cây nhiệt và bán nhiệt đới như chuối, dứa, chanh cũng rất âm , cũng như các sản phẩm càphê, đường, chocola, gia vị. Trong khi các loại ăn được như gạo lứt, đậu, rau củ tươi trồng tại chỗ, rong biển và các loại có nguồn gốc từ các vùng ôn đới thì quân bình hơn về hai lực trương giãn và thu hút (hoặc năng lực âm và dương). Một sơ đồ sắp xếp theo mục lục các thức ăn theo âm và dương sẽ được trình bày dưới đây.

Những loại thực phẩm quá âm có liên quan đến sự phát triển của bệnh viêm khớp. Ví dụ như vai trò của các loại rau củ như khoai tây, cà chua, cà tím và tiêu đối với bệnh viêm khớp ngày càng được nhận rõ. Trong quyển Bệnh viêm khớp và họ cây cà, Bác sĩ Norman Childers cho biết mỗi khi ông loại bỏ các hình thức này trong bữa ăn của ông, bệnh viêm khớp lập tức được giảm rõ rệt.

Khoai tây và cà chua có nguồn gốc tại Nam Mỹ, do những người Tây Ban Nha khám phá ra vào khoảng năm 1600 và mang vào Âu châu. Lúc đầu nó bị dân chúng hoài nghi, tuy nhiên qua một thời gian được cả Âu châu chấp nhận dùng làm thức ăn. Lần đầu khi khoai tây được mang lại trồng tại Châu Âu, người ta bội thu, và từ kết quả này khoai tây được nhân rộng ra khắp lục địa như là một nguồn dinh dưỡng có giá trị.

Nhưng do nó được mang trồng những vùng khác xa nơi nguồn gốc nên nó bị thiệt hại do nhiều loại sâu bọ, côn trùng. Và khoai tây từ đó thay thế cho loại thức ăn hạt đã được trồng ở đất Châu Âu từ hàng ngàn năm, người ta ngày càng xem nó là thức ăn thông thường. Vào năm 1840, hàng triệu người bị đói khát do khoai tây trồng bị nhiễm bệnh, bị côn trùng phá hoại làm mất mùa thu hoạch.

Khoai tây và cà chua chứa một độc chất gọi là Solamine loại alkaloid cùng họ với nicotine và caffeine, có dưới da của củ khoai, trong những mầm xanh, chồi non. Solamine gây bất lợi cho hệ thống tiêu hóa và hệ thần kinh và là tác nhân làm bệnh viêm khớp phát triển.

Tiêu thụ liên tục những loại rau củ này, thuộc họ nhà cà, sẽ làm cạn kiệt nguồn calcium ở xương và gây nên sự trầm tích ở các khớp, mạch máu và các phần khác của cơ thể, ăn quá nhiều loại này còn làm suy yếu ruột. Các độc chất tích lũy ở trong và xung quanh các khớp xương, cũng như là ở các cơ quan khác, gây hiện tượng vôi hóa, viêm và sưng đỏ ở các khớp.

Có lần một người phụ nữ đến để xin hướng dẫn về phương pháp dưỡng sinh. Cô ta đến từ Péru, là nơi nguồn gốc trồng cây cà chua. Suốt thời niên thiếu, cô ta dùng cà chua theo cách nấu nướng cổ truyền phơi khô rồi tán thành viên bột và ăn như là một thức ăn gia vị. Tuy thế, khi đến Mỹ, cô ta khởi sự dùng cà chua như là một thức ăn chính. Và ăn rất nhiều so với lúc ở Péru. Hơn thế nửa, cô lại bắt đầu dùng cà chua theo kiểu Mỹ: gồm cách đút lò và chiên. Với cách ăn này sau nhiều năm tình trạng sức khỏe của cô ta dần dần xấu đi. Cho đến khi cô đến một trung tâm hướng dẫn Dưỡng sinh của chúng tôi, hầu hết các khớp xương trên thân thể của cô đều đau nhức kịch liệt, táo bón hàng tuần và chỉ đi ngoài được nhờ vào dụng cụ thụt.

Ảnh 7: Ví dụ về thức ăn được sắp xếp theo âm và dương

Đường tinh chế, một sản phẩm cục âm, cũng có tác động lên xương và khớp xương. Đường đơn, như mật ong, đường tinh chế, sirô cây thích maple syrup, được tiêu thụ và đi vào máu rất nhanh, làm cho máu bị axít hóa. Để trung hòa, cơ thể huy động những muối khoáng dự trữ bên trong tạo ra chất đệm trung hòa và loại bỏ các axít dư này. Nếu cứ mãi ăn đường, nguồn muối khoáng trong máu sẽ cạn kiệt và đến lúc này nguồn calcium trong xương và răng phải được dùng đến để tạo cân bằng cho sự tiêu dùng thái quá các loại kẹo, nước ngọt, các món tráng miệng có đường. Trong ca nghiêm trọng hơn, xương có thể làm bị dòn và mòn đi do kho dự trữ khoáng chất cạn kiệt.
Thelast
 Các loại viêm khớp: Tổng quát, triệu chứng viêm khớp được phân làm hai loại :

1. Viêm khớp âm (trương giãn): do dùng quá nhiều thức ăn.... và uống cực âm như trái cây, nước trái cây (đặc biệt các loại đuợc trồng ở vùng nhiệt đới), gia vị các thức uống có hương vị, nước ngọt, đường, màu mùi nhân tạo, mật ong, chocolate, cũng như dùng thái hóa các loại cà chua, khoai tây, cà tím, và các loại thức ăn rau củ có nguồn gốc nhiệt đới.

2. Viêm khớp dương (thu rút): Do dùng quá nhiều thức ăn quá dương, như, thịt, trứng, trai sò và các loại động vật khác. Quá nhiều muối và khoáng chất khác, như dùng quá nhiều calcium cộng thêm với việc tiêu thụ các thức ăn làm từ sữa, cũng tạo nên trạng thái co rút thái quá ở các khớp.

Tuy vậy, dù là loại viêm khớp nào, mức độ càng trầm trọng hơn nếu tiêu thụ thêm nhiều mỡ và dầu từ nguồn động vật hay thực vật. Thêm vào đó, cảø hai loại viêm khớp đều càng trầm trọng hơn nếu dùng quá nhiều nước, nước ướp lạnh như soda, bia, rượu và các thức uống ướp lạnh khác. Kem cây đương nhiên cũng là một trong những yếu tố chính góp thêm phần vào đó.

Có hàng trăm loại viêm khớp khác nhau được xác định, tuy nhiên chúng đều có thể được xếp vào loại âm hơn hoặc dương hơn (có vài loại viêm khớp gồm cả hai tính) tùy theo nguyên nhân và tính cách triệu chứng của nó tạo nên.

Chi tiết hơn, chúng ta có thể phân chia hai loại trên thành các phụ lục tùy theo mức độ âm hơn (trương giãn) hoặc dương hơn (thu rút) tùy theo các triệu chứng nó gây ra. Cách sắp xếp này phù hợp với sự am hiểu về sự diễn biến năng lượng nguồn gốc từ phương pháp thực hành châm cứu và các hình thức khác thuộc y học cổ truyền Đông phương kết hợp với phương pháp Dưỡng sinh ngày nay.

Theo cái nhìn dưỡng sinh, âm và dương nảy sinh trong hoạt động liên tục của năng lượng trong thiên nhiên. (Từ năng lượng ở đây được dùng để diễn tả các hiện tượng chứ không ám chỉ các tia sóng bức xạ). Mọi vật ngay cả kim loại, đá quý, kim cương chỉ là những rung động ở cấp độ nguyên tử. Hơn nửa mọi vật đều tự biến đổi trạng thái của chúng; không có một vật gì định tĩnh hoặc không thay đổi.

Trên trái đất, chu kỳ âm, dương bộc lộ ra ngày và đêm, và sự thay đổi các mùa. Ví dụ trong những tháng đông gió lạnh, năng lượng trở nên cô đọng, cây cỏ và loại vật ngưng nghỉ, giảm hoạt động lại, trong khi đó hoạt động của con người cũng trở nên tập trung và thầm kín. Trong các tháng mùa hạ, năng lượng trương giãn thắng thế. Cây cối phát triển xum xuê, phong phú và con người hoạt động hơn, hướng ra bên ngoài hơn.

Thông thường vào ban đêm, năng lượng của bầu khí quyển trở nên tĩnh, hướng hạ, trong khi buổi sáng và suốt ngày đầy ánh sáng, hoạt động hơn và có tính hướng thượng.

Trong chu kỳ này, năng lượng hoạt động đi đi lại lại giữa hai lực co rút và trương giãn, nóng và lạnh, ánh sáng và bóng đêm với giai đoạn thay đổi của hai chiều hướng. Ví dụ như mùa xuân, đại diện cho sự bắt đầu trương giãn, thực vật đâm chồi, nẩy tược và xanh tươi (màu âm), bắt đầu chiếm lĩnh ưu thế. Mùa hạ là thời kỳ tột đỉnh trương giãn, của nhiệt lượng tràn đầy, kích thích cây cỏ thêm tươi tốt trong thế giới thực vật. Và rồi năng lượng biến đổi qua thu phân. Tại Đông phương được gọi lúc này là mùa “hạ chậm” (tại Mỹ gọi là mùa hè Ấn Độ), ta bắt đầu chuyển qua thời kỳ hướng hạ hơn hoặc là thời năng lượng tập trung.

Năng lượng thu hút lên đến đỉnh trong suốt mùa thu, cây cối rụng lá và dần chìm vào trạng thái ngủ yên. Sau đông chí, năng lượng mặt trời dần dần tái hoạt hóa lại năng lượng trong bầu khí quyển và trong vương quốc thực vật. Tiến trình này dần dần được bù lại bởi thời tiết lạnh giá của mùa đông, năng lượng trong bầu khí quyển có khuynh hướng nổi lên giữa hai lực trương giãn và thu hút. Những mô hình tương tự trong chu kỳ ngày và đêm và khắp nơi trong thiên nhiên.

Xuyên qua lịch sử, nhiều tên gọi đã được dùng để diễn tả các giai đoạn của chu kỳ này. Các tên gọi này trong Dưỡng sinh được dùng để diễn tả khuynh hướng ưu thế của năng lượng hoạt động tại mỗi giai đoạn của chu kỳ. Trong Dưỡng sinh xem các giai đoạn của năng lượng chuyển biến như sau:

1. Hướng thượng năng lượng (mùa xuân)
2. Hoạt hóa hoặc trương giãn năng lượng (mùa hạ)
3. Hướng hạ năng lượng (cuối hạ).
4. Thu liễm năng lượng (mùa thu)
5. Phiêu bồng năng lượng (mùa đông)

Các y sĩ Đông phương kết hợp các giai đoạn này với các hiện tượng và đặt tên chúng thành:

1. Mộc
2. Hoả
3. Thổ
4. Kim
5. Thuỷ

Bảng ngũ hành của năng lượng

Bảng sắp xếp này có thể bao trùm tất cả mọi vật trong thế giới tự nhiên. Như trong bảng 2, chúng ta có thể thấy ngay trong thực vật cũng có rất nhiều sự khác nhau, như rễ cây chứa nhiều năng lực tập trung và hướng hạ, còn mầm chồi và lá xanh lớn lá mọc hướng lên trên và nhiều lực trương giãn. Và rồi đặc biệt các rau củ tròn như bắp cải, hành củ thì tùy mức độ chứa năng lực mức giữa. Tương tự như thế, có thể phân biệt các loại ngũ cốc, trái cây và các thực phẩm khác.

Các phần khác nhau của cơ thể, như các cơ quan bên trong, cũng có thể sắp xếp theo phẩm chất năng lượng của nó. Với quan điểm này, mọi vật đều là sự biến thể của năng lượng, cũng không phải là điều gì mới mẻ. Nó đã được ghi chép trong dịch kinh, hoặc trong nội kinh của hoàng đế, quyển sách đầu tiên trình bày nền tảng, lý thuyết của y học Đông phương hàng ngàn năm trước đây. Để biết thêm chi tiết nói về các giai đoạn chuyển biến của năng lượng và các chu kỳ khác của năng lượng, xin xem quyển Dưỡng sinh và y học phương đông, tác giả Micho Kuchi với Phillip Jannetta, nhà xuất bản Nhật (1998) .

Viêm khớp là sự mất cân bằng trong dòng nuôi dưỡng và năng lượng của cơ thể. Như vậy sự hiểu biết về âm dương và các giai đoạn chuyển hóa của năng lượng có thể giúp làm sáng tỏ bí mật của bệnh viêm khớp. Ví dụ như, các khớp trở nên cứng, khô,..... kết dính lại là do sự co cụm quá trớn (năng lượng hướng hạ). Phạm vi trong đó nếu các triệu chứng xuất hiện càng lớn, có nghĩa là mức độ co rút của năng lượng càng nhiều. Và mặt khác, nếu các khớp trở nên sưng phồng, giãn ra, hoặc viêm sưng, thì đó là đặc trưng của năng lượng hướng thượng, trương giãn quá độ. Cấp độ trương giãn qua các triệu chứng xuất hiện càng lớn, mức độ năng lượng trương giãn của viêm khớp càng cao.

Ảnh 8: triệu chứng viêm khớp và các giai đoạn của năng lượng

Trong ảnh 8, biểu tượng đầu tiên đề cập đến sự tương quan trương giãn và co rút của năng lượng chuyển hóa. Chúng ta hãy thử xem các loại viêm khớp chủ yếu liên quan với các giai đoạn của năng lượng chuyển hóa như thế nào.
Thelast
Bệnh viêm khớp Rheumatoid Arthritis: Triệu chứng thông thường của bệnh viêm khớp này là viêm và sưng đỏ ở các khớp và cường độ đau theo chu kỳ có thể trở thành mạn tính. Thông thường nó tác động các khớp như khớp đốt ngón ở tay, cổ tay, đầu gối ,mắt cá chân.

Loại viêm khớp này thường kèm theo nhiều triệu chứng như sốt nhẹ, mệt nhọc, kém ăn và sụt cân thiếu máu cũng có thể dẫn đến viêm màng phổi, trương giãn lá lách, tim đập nhanh và có sự phát triển bướu viêm (Cục hình thành dưới làn da), đặc biệt ở gần khuỷu tay.

Gồm nhiều ở phần ngoại vi khớp, ổ tay, cẳng chân, bàn chân, có viêm đỏ và rất nhiều triệu chứng, chứng tỏ bệnh Rheumatoid arthritis do từ sự quá dư thừa năng lượng “hướng thượng” trong cơ thể. Đó là do tiêu thụ quá nhiều thực phẩm có năng lượng trương giãn mạnh, như trái cây, nước trái cây (đặc biệt trái cây ở vùng nhiệt đới), gia vị, chất ngọt cô đặc, rượu, và rau củ như cà chua, khoai tây, họ cà, là nguyên do tình trạng này. Sự tiêu thụ mỡ, gồm cả trong sữa, kem cây, bơ, pho mát, gà giò và trứng cũng có thể tạo ra sự tập trung năng lượng hướng thượng dẫn đến bệnh này.
Thelast
Bệnh viêm khớp Lupus: Triệu chứng thông thường của bệnh này là các khớp đau nhức và dễ thương tổn khi cử động, nhưng không có viêm và nóng đỏ. Thường bị ở các khớp cổ tay, khớp ngón tay (nhất là khớp ngón giữa) và đầu gối.

Tình trạng này là một phần của nhiều triệu chứng khác trong cơ thể: nổi ban ở da, đặc biệt là hai gò má và sống mũi, rụng tóc,.... da phản ứng mạnh với ánh nắng, lở miệng, mất quá nhiều Protein trong nước tiểu, viêm sưng ở vùng tim, màng phổi, và ở màng khoang bụng, giảm máu rối loạn tâm thần và đôi khi co giật. Các phần khớp bị bệnh tổng quát của bệnh này cũng giống như các phần khớp của bệnh Rheumatoid, ngay cả các khớp cũng không bị viêm sưng, triệu chứng đi kèm còn nhiều hơn trong bệnh Rheumatiod chứng tỏ là bệnh Lupus nằm trong tình trạng trương giãn cực kỳ hơn nửa.

Bệnh Lupus gây nên do tiêu thụ quá nhiều thức ăn quá âm như đường, các chất ngọt nhân tạo, trái cây nhiệt đới, kem cây, chocolat, nước ngọt, hóa chất, thuốc viên, các loại dược phẩm và rau củ có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới. Mỡ và Protein động vật, gồm cả trong sữa và sản phẩm từ sữa, cũng góp phần do tạo ra các cục u và mỡ đóng ở phổi, thận, ruột non làm giảm đi khả năng thải độc của cơ thể.
Thelast
Viêm khớp ostéoarthritis: Triệu chứng thông thường của bệnh này là lớp sụn ở các khớp xương bị ăn mòn dần, các khớp hẹp lại, và gai xương phát triển làm các xương dính liền lại. Vùng hông, xương sống, đầu gối, và khớp chân thường bị tấn công, những mấu xương được tạo thành ở khớp cuối các ngón. Thường không có nhiều triệu chứng đi kèm.

Như chúng ta thấy, các khớp ở trung tâm và phần dưới cơ thể, đặc biệt ở hông và xương sống thường bị tấn công trong bệnh này đôi khi kéo theo một vài phần ngoại vi như các khớp ở đầu gối, chân và các ngón tay. Vị trí của các khớp nói trên chứng tỏ tình trạng năng lượng hướng hạ hoặc cô đọng đã trở nên quá thừa thãi.

Thực phẩm có năng lượng cô đọng gồm mỡ động vật, ù trong thịt, trứng, gia cầm, pho mát, cũng như nhiều muối và các chất khoáng. Loại mỡ đã bão hòa trong thức ăn động vật tụ đọng ở các khớp nằm sâu hoặc nằm phần dưới cơ thể. Sự phát triển các mấu xương ở phần cuối của ngón tay cũng là dấu hiệu tiêu thụ quá nhiều mỡ, đặc biệt có trong gà giò, trứng, gia cầm. Trái cây, đường, kẹo ngọt, trái cây nhiệt đới và rau củ và các thức ăn quá âm cũng tạo nên sự xói mòn dần các khớp được thấy trong bệnh viêm khớp ostéoarthritis này.
Thelast
Viêm khớp ANKYLOSING SPONDYLITIS: Bệnh này tạo viêm nóng ở gân hoặc dây chằng giữ xương, nó thường bắt đầu ở phần cuối xương sống và dần dần tiến lên phía trên và kèm theo chút ít mệt nhọc, mất cân và viêm sưng ở động mạch chủ của tim.

Trong bệnh này các khớp ở phần cuối xương sống bị tấn công trước. Nói cách khác, nó bắt đầu từ dưới thấp và từ phía trung tâm của cơ thể. Các phần ngoại vi không bị tấn công.

Bệnh viêm khớp này gây nên do thừa thãi quá nhiều năng lượng cô đọng, kết quả từ sự tiêu thụ quá nhiều thịt, trứng, gà giò, pho mát cứng và các loại mỡ chế từ sữa, các chất khoáng và sản phẩm bột nướng.

Tiêu thụ quá nhiều thực phẩm cô đọng có thể gây ra vặn vẹo và lệch cấu trúc xương và có thể làm dính kết các khớp xương sống. Hơn thế nửa, một thực đơn giàu mỡ động vật rất bất lợi cho tim, cũng như cho bệnh viêm khớp này. Trong trường hợp đặc biệt hơn, xương sống cứng lại, bị cong lại phía trước với cái đầu nghiêng tạo hẳn một góc độ với thân hình, trạng thái này do kết quả của việc dùng quá nhiều gà, trứng. Sự cứng ngắc của bộ phận cuối xương sống có liên quan tạo ra nhiều vấn đề cho phần đối nghịch lại ở các phần phía trước của cơ thể gồm bàng quang, cơ quan sinh dục và ruột non.

Tiêu thụ quá nhiều đường, nước ngọt, trái cây nhiệt đới và rau củ, gia vị và các thức ăn có quá nhiều năng lượng trương giãn tạo ra viêm và sưng đỏ các vùng gân và dây chằng bám vào xương cũng như ở các van động mạch chủ.

Ảnh 9 : Năm loại viêm khớp
Thelast
Bệnh Thống phong (Gout): Bệnh viêm khớp (gout) tạo sự đau đớn do viêm sưng và viêm nóng đỏ ở ngón chân cái, mu bàn chân, mắt cá, đầu gối, cổ tay và ngón tay, thường kèm theo nhiễm sỏi thận.

Đặc trưng của bệnh gout thường bị nhiễm vùng khớp phần thấp của cơ thể, chủ yếu ở ngón chân cái. Rất đau đớn, kèm sưng và viêm đỏ, nặng vào ban đêm và bệnh theo chu kỳ. Thống phong là một điển hình của sự tiêu thụ quá trớn của hai loại thực phẩm của trương giãn và cô đọng, và được sắp xếp vào loại tương ứng với năng lượng (nổi lên) phiêu bồng.

Bệnh gây nên do kết quả của việc dùng quá nhiều hai loại cực âm và dương như thịt và rượu, pho mát và rượu chát, thịt với nước xốt kèm theo các món tráng miệng có đường, thịt nướng và nước giải khát lạnh.
Thelast
Tiến trình phát triển của bệnh viêm khớp: Viêm khớp là một phần của tiến trình thoái hóa thường liên tục phát triển. Nhưng chúng ta thấy, nó bắt nguồn từ bữa ăn hàng ngày và lối sống của chúng ta. Sự phát triển càng nguy hiểm khi chúng ta càng trọng tuổi.

Những người trẻ khỏe mạnh có đầy đủ điều kiện đối kháng với bệnh viêm khớp, cơ thể của họ mềm dẻo, hoạt động và đầy năng lực. Viêm khớp hiện diện một cách không bình thường khi tuổi già, cơ thể trở nên cứng nhắc. Tuy nhiên nếu thức ăn và cách sống của chúng ta được cân bằng thường xuyên, viêm khớp không xuất hiện, dù lúc tuổi đã già.

Khi bữa ăn của chúng ta được chọn dựa trên nền tảng dùng những thức ăn cân bằng, như ngũ cốc lứt, đậu, rau củ tươi trồng tại địa phương, các hải sản ít mỡ, trái cây trong vùng và vài thứ khác, cơ thể chúng ta có khả năng thải trừ các chất vô ích, tạo nên sự tiêu hóa và biến dưỡng theo tiến trình bình thường, như các nhu động ở ruột và cơ quan bài tiết nước tiểu, mồ hôi, hoạt động cơ thể hàng ngày và ở phụ nữ qua đường kinh nguyệt. Trái lại nếu tiêu thụ thức ăn thái quá, các năng lực thải trừ bình thường không còn khả năng tống khứ các yếu tố thặng dư đó nửa. Khi xảy ra tình huống này, các hiện tượng thải độc xuất hiện: gồm các hiện tượng như ho, tiêu chảy, hắt hơi và dị ứng. Trong chu kỳ cảm cúm cũng là một nỗ lực của cơ thể nhằm đào thải độc tố sau thời gian ăn uống mất quân bình.

Nếu các bữa ăn của chúng ta tiếp tục sai lệch thì ngay cả chu kỳ đào thải chất độc cũng không đủ thanh lọc cơ thể hết chất độc quá tải. Và thời điểm các chất độc bắt đầu tích tụ lại thông thường là dưới dạng mỡ các khối u ở các phần giao tiếp với bên ngoài, như viêm mũi, viêm phổi, vú, thận, ruột non, và cơ quan sinh sản như buồng trứng, tử cung, tuyến tiền liệt. Một lớp mỡ đặc cũng có thể tụ lại dưới da. Nếu cứ thế, tình trạng sẽ nghiêm trọng hơn như viêm xoang mũi, u vú, ho mãn tính và lồng ngực tắc nghẽn, sạn thận, bướu nhỏ ở ruột non, bướu tử cung, u xơ tử cung và phình tuyến tiền liệt. Da khô cứng dần dần do mỡ đã hình thành dưới bề mặt của cơ thể.

Khi sự tiêu thụ các thực phẩm mất cân bằng tiếp tục theo chiều hướng này, các chất thặng dư sẽ bắt đầu tiếp tục ở các phần sâu của cơ thể, gồm các mạch máu, ở các cơ quan như tim, gan, lá lách và tụy tạng.

Cũng như giai đoạn này, chất thặng dư cũng thường đóng ở chung quanh các khớp, gây nên sự thoái hóa khớp thường được thấy trong các bệnh viêm khớp.

Khối lượng và chất lượng của các chất thặng dư xác định được vị trí các khớp bị tổn hại. Viêm khớp không phải là tình trạng đơn lẻ, mà chỉ là một phần tiến trình của toàn bộ cơ thể. Bởi thời gian các khớp bị thoái hóa thường song song với sự tích tụ phát triển ở các cơ quan, làm hạn chế toàn bộ các chức năng của chúng.

Ví dụ như, nhiều bệnh nhân viêm khớp cùøng lúc chịu tình trạng thoái hóa khớp cùng với các căn bệnh như áp huyết cao, trẻo phị, cứng động mạch, tiểu đường, và các bệnh tim mạch và ung thư.

Viêm khớp chỉ là một trong số nhiều triệu chứng của sự hư hỏng khắp cơ thể những kết quả từ những thực phẩm mất quân bình và lối sống sai lệch của chúng ta.

Ngày nay tiến trình bệnh tật này thường bắt đầu từ ngay khi còn ít tuổi. Người ta đã tìm thấy những vết mỡ trong động mạch của các trẻ thơ. Hơn thế nửa, một tỷ lệ cao trẻ em Mỹ quá cân cho thấy việc hình thành các chất mỡ và các chất thặïng dư khác đã xuất hiện quá sớm mà không cần chờ đợi tuổi tác. Cũng thời gian này, nhiều trẻ em và thanh thiếu niên nhiễm bệnh cứng khớp. Lớp trẻ trong các nước tân tiến thường thiếu sự mềm dẻo ở các khớp so với người lớn đã trưởng thành sống trong các vùng mà các thực phẩm chế biến hiện đại chưa được phổ biến. Theo ý nghĩa này, nhiều người trong thế giới tân tiến đã trở nên già đi một cách không bình thường trước tuổi của mình.
Thelast
CHƯƠNG 4
DƯỠNG SINH CHỮA BỆNH VIÊM KHỚP


Nhưng chúng ta đã thấy, các thực đơn kiêng ăn quân bình đóng vai trò thiết yếu trong việc làm giảm tác hại của bệnh viêm khớp. Chúng ta hãy xem qua phác thảo về cơ bản của thực phẩm Dưỡng sinh thông thường. Phương pháp thực dưỡng này thích hợp và thay đổi tuỳ từng cá nhân, có thể làm cơ bản cải tạo sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật. Bằng thực đơn tiết thực cơ bản hàng ngày xoay quanh các thực phẩm quân bình như ngũ cốc lứt, đậu, rau củ tươi tại địa phương, rong biển và vài loại khác, các độc chất tích lũy trong cơ thể, gồm trong các khớp bị giảm thiểu hoặc loại trừ hẳn.

Dưỡng sinh cung cấp một phương pháp thực dưỡng hợp trật tự thiên nhiên, đúng đắn là một cách sống tôn trọng nhân bản và trật tự vũ trụ, với tinh thần thúc đẩy con người và xã hội hoàn thiện cũng như tạo sức khỏe và mong muốn hòa bình cho thế giới.

Đối chiếu với các thói quen thực dưỡng loại tân tiến, cách ăn Dưỡng sinh căn cứ nhiều trên suy xét dinh dưỡng sau:

1. Nhiều loại carbohydrates toàn phần quân bình và ít đường đơn.
2. Nhiều protein gốc từ thực vật và giảm thiểu protein có nguồn gốc động vật.
3. Giảm hẳn sự tiêu thụ mỡ bão hòa và dùng ít các loại mỡ chưa bão hòa.
4. Quan tâm đặc biệt về sự cân bằng lý tưởng giữa các vitamin, khoáng chất và các nhân tố dinh dưỡng.
5. Dùng các cách tăng trưởng hữu cơ cho cây trồng thực phẩm chất lượng thiên nhiên, và giảm thiểu các loại phân bón hóa chất.
6. Dùng các thực phẩm chế biến theo phương pháp cổ truyền và giảm thiểu các loại thức ăn tinh chế hoặc đoản phần.
7. Dùng nhiều thức ăn giàu sợi xơ hơn các thứ đã mất sinh khí.

Cách thực dưỡng căn bản này đã được thực hành hàng ngày trong hơn hai mươi năm nay cho hàng trăm ngàn người trên thế giới, gồm nhiều gia đình. Hơn thế nửa nó đã được thực hành từ xưa qua hàng nghìn năm bởi nhiều nền văn hóa khác nhau.

Nguyên tắc hướng dẫn thực dưỡng chương này dành cho người sống ở khí hậu ôn hòa. Sự sửa đổi sẽ cần thiết cho người ống ở vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới, hoặc ở vùng địa cực hay là khi di chuyển đến các vùng này. Cũng cần thiết áp dụng uyển chuyển cho phù hợp với đòi hỏi và tình trạng của từng cá nhân.
Thelast
* Phương pháp thực Dưỡng sinh thông thường : Hướng dẫn sau đây có tính tổng quát và uyển chuyển phương pháp dùng dưỡng sinh, cho biết sự đa dạng của thực phẩm và phương pháp nấu ăn để chọn lựa. Bạn có thể áp dụng chúng khi chọn lựa các thực phẩm thiên nhiên có chất lượng tốt cho bạn và cho gia đình bạn.

* Ngũ cốc lứt : Trong phương pháp thực dưỡng Dưỡng sinh tiêu chuẩn và đặc biệt trong vùng khí hậu ôn đới, ngũ cốc lứt là một phần chủ yếu trong thực đơn hằng ngày, chiếm tỷ lệ từ 40 đến 60-70 (trung bình 50%) trong thực phẩm hàng ngày.

Các loại ngũ cốc lứt và sản phẩm chế biến từ ngũ cốc:

1. Gạo tẻ lứt :
• Gạo lứt – hạt ngắn, hạt trung bình và hạt dài
• Kem gạo lứt chính thống
• Gạo lứt rang phồng
• Bột gạo lứt
• Bánh gạo lứt.

2. Gạo nếp lứt :
• Gạo nếp lứt
• Bánh cuốn lứt
• Bột cuốn lứt.
Ảnh 10 : Tỷ lệ tiêu chuẩn của bữa ăn dưỡng sinh

3. Gạo hoang :
• Hạt gạo hoang dã.

4. Lúa mì lứt :
• Hạt lúa mì lứt
• Bánh mì lứt
• Bún mì lứt.
• Bún, mì ống, lúa mì lứt.
• Bánh lúa mì lứt.

Sản phẩm từ bột lúa mì lứt, như bánh quy, bánh xốp và các thứ khác.
• Couscous
• Bánh phồng (Bulgur)
• Fu (bánh nướng phồng làm bằng tinh bột lúa mì).
• Scitan (tinh bột lúa mì)

5. Lúa mạch (Barley) :
• Hạt lúa mạch
• Ý dĩ (Pearl Barly)
• Lúa mạch phồng (Puffed Barly)
Sản phẩm từ bột lúa mạch.

6. Lúa mạch đen (rye) :
• Hạt lúa mạch đen
• Bánh mì lúa mạch đen
• Bánh lúa mạch đen
• Bột lúa mạch đen.

7. Hạt kê (millet) :
• Kê hạt
• Bột kê
• Kê phồng (Puffet millet)

8. Yến mạch (oats) :
• Yếu mạch lứt
• Steel cut oats
• Yếu mạch cuộn (rolled oats)
• Yếu mạch miếng

9. Bắp ngô:
• Bắp ngô
• Bắp lứt
• Bột ngô
• Arepas

Sản phẩm từ bột bắp như bánh mì bắp, muffins…
• Bắp phồng.

10. Kiều mạch :
• Hạt kiều mạch
• Nui và pasta kiều mạch

Sản phẩm từ bột kiều mạch như bánh kếp..

Các ngũ cốc lứt được nấu lên thì dùng tốt hơn là sản phẩm từ bột hoặc hạt đã xay vỡ ra, do nó dễ tiêu hóa. Nói tổng quát đối với sản phẩm chế từ bột, từ hạt đã vỡ hoặc cuộn lại chiếm ít hơn từ 15 – 20%) lượng ngũ cốc lứt.
Thelast
* Súp : Súp có thể dùng với tỷ lệ 5% cho mỗi người, mỗi ngày, đối với nhiều người, bình quân mỗi ngày I đến 2 tách hoặc một chén súp nhỏ là vừa, tùy theo nhu cầu và sở thích. Súp có thể dùng rau củ, hạt, đậu, rong biển, nui bún và, chế phẩm từ ngũ cốc khác. Sản phẩm từ đậu như đậu hũ, tương ủ, thỉnh thoảng thêm đôi chút cá và hải sản. Súp cần được nêm vừa với tamari, soy sauce, miso, muối biển, mơ muối umeboshi hoặc chút gừng.

Súp cần nấu đặc và đủ chất, hoặc luộc đơn giản. Rau ngũ cốc hoặc đậu hầm lên rất ngon, và bánh lúa mì nướng làm tăng vẻ thẩm mỹ cũng như thêm hương vị cho súp.

* Rau củ : Chọn lựa các loại rau củ và nấu nướng bao gồm 30% tổng số thức ăn hàng ngày.

Các loại rau củ:

Rau củ có thể được dùng theo kiểu súp hoặc với ngũ cốc, rong biển cũng có thể dùng kiểu gạo nhồi (Sushi dưỡng sinh) dùng với bún nui hoặc pasta, nấu với cá hoặc dùng riêng. Các phương pháp nấu được giới thiệu trong sách này gồm nấu, hấp, ép (với dầu và ít nước) và dưa dầm muối. Nêm muối với miso, tamari, soy sauce, muối biển, gạo lứt hoặc dấm umeboshi.

* Đậu : Đậu và chế phẩm từ đậu chiếm 5-10% bữa ăn hàng ngày.

Các loại đậu :
• Xích tiểu đậu (azuki beans)
• Đậu mắt đen (black-eyed)
• Đậu rùa (Black turtle)
• Đậu nành đen (Black soybeans)
• Đậu chim(chick peas)
• Đậu great northern
• Đậu thận (Kidney beans)
• Đậu hòa lan (Lima)
• Đậu lima
• Đậu mun
• Đậu Navy
• Đậu Pinto
• Đậu nành
• Đậu Split
• Đậu Whole dricd
• Đậu mầm (beans sprouts)

Các loại đậu được dùng

Các chế phẩm từ đậu :
• Tàu hũ ky (dried tofu)
• Đậu hũ tươi
• Okara (ốc đậu còn lại sau khi làm đậu hũ)
• Tương sổi (natto)
• Tương Tempeh (tương đậu nành làm theo phương pháp cổ truyền).

Đậu và chế phẩm từ đậu rất dễ tiêu hóa khi nấu với ít gia vị nêm như muối biển, miso hoặc phổ tai (kombu), rong biển. Nó có thể chọn nấu với rau củ, hạt dẻ, táo tây khô, nho hoặc với mạch nha, lúa mì và mật gạo (rice honey). Đậu và chế phẩm có thể dùng với súp và làm món ăn phụ hoặc nấu với ngũ cốc hoặc rong biển.
Thelast
* Rong biển : Rong biển có thể dùng nấu ăn hằng ngày. Các bữa ăn phụ có thể làm bằng rong arame hoặc Hiziki và nhiều lần trong tuần. Wakame và Kombu (phổ tai) có thể dùng hàng ngày với súp miso và các súp khác, hoặc nấu với rau củ, đậu hoặc dùng như món gia vị. Rong mứt (nori) rang được khuyên hàng ngày hoặc dùng đều đặn, trong khi rau câu (agar agar) chỉ được dùng thỉnh thoảng trong bữa ăn tráng miệng với tên gọi là “thạch” (nó còn có tính nhuận tràng). Sau đây là bảng liệt kê các loại rong biển dùng nấu ăn trong phương pháp thực dưỡng dưỡng sinh.

Các loại rong biển :
• Rong Arame
• Xu xoa (agar – agar)
• Rong Dulse
• Tóc tiên (Hiziki)
• Tảo Irish
• Phổ tai (Kombu)
• Rong Mekabu
• Mứt (nori)
• Rong Wakame.

* Cá và hải sản : Phương pháp thực dưỡng Dưỡng sinh khuyên chỉ nên dùng cá và hải sản thỉnh thoảng và làm thức ăn phụ kèm với thực phẩm kể trên, ngũ cốc, súp, rau củ, đậu và thức uống.

Số lượng cá và hải sản có thể thay đổi tùy theo nhu cầu từng người ở mức độ một vài lần trong mỗi tuần và chỉ chiếm độ 20% trong số lượng bữa ăn hàng ngày, Các loại cá và hải sản được dùng theo trên là loại phải có ít mỡ cho dễ tiêu hóa.

Các loại cá và hải sản :
• Cá chép (carp)
• Cá tuyết (cod)
• Cá cơm khô (irido)
• Cá lờn bơn (flounder, Halibut)
• Cá chỉ vàng (Snapper)
• Cá nhỏ ớt me (Smelt)
• Cá Hồi (Trout).
• Cá thịt trắng (white-meat-fish)
• Cá Scrod.

Hải sản được dùng thỉnh thoảng :
• Trai (Clams)
• Sò cổ nhỏ (Littleneck clams)
• Cua (crabe)
• Mực (octopus)
• Hàu (oysters)
• Tôm hùm (Lobster)
• Tôm nhỏ (Shrimp).

Các loại cá ít khi dùng :
• Cá xanh (Bluefish)
• Cá mòi (Sardine)
• Cá kiếm (Sworfish)
• Cá ngừ (Tuna)
• Cá Salmon
• Các loại cá có da xanh và thịt đỏ.

Món trang trí rất quan trọng đặc biệt dùng để cân bằng khi dùng trong cá và hải sản, gồm: hành tây lát hoặc ngò, củ cải trắng daikon nạo, gừng, củ cải radish hoặc củ cải horseradish, xà lách sống và củ cải daikon xắt lát. bột mù tạt xanh.
Thelast
* Trái cây : Trái cây đủ được dùng thỉnh thoảng, tuỳ theo khí hậu, mùa, sự đòi hỏi cá nhân và tùy từng hoàn cảnh. Chí được dùng các loại trái cây trồng nơi vùng ôn đới, Việc dùng thường xuyên các trái cây nhiệt đới không được khuyến khích.

Các loại trái cây :
• Trái Pomme
• Dâu (black berries)
• Dưa đỏ (cantaloupe)
• Nho
• Dưa mật (Honydew melon)
• Chanh
• Dâu tằm
• Cam
• Quít
• Hồng (Persimmon)
• Đào (Peaches)
• Mơ (plum)
• Nho khô
• Trái mơ xôi (Rasp berries)
• Dưa hấu
• Dâu hoang ( Wild berries).
• Hạt quả hạch (Small spanish nuts)
• Hạt đậu phọng (Peanuts).
• Óc chó (walnuts).

Các loại ít dùng hơn :
• Brazil nuts
• Cashews
• Macadamia nuts.

* Các loại hạt :
• Hạt
• Hạt hướng dương
• Hạt mè đen
• Hạt mơ umeboshi
• Hạt Poppy
• Hạt mè trắng
• Hạt bí ngô.
• Hạt bí bầu (Sgnash).
Thelast
* Bữa ăn phụ : Thỉnh thoảng có thể ăn phụ, gồm các thức ăn làm từ ngũ cốc lức, như bánh bích quy, bánh mì, bánh phồng, bánh nếp mochi, bánh gạo lức, gạo nhồi và bánh sushi dưỡng sinh. Quả hạch và hạt cũng có thể dùng làm bữa ăn qua loa, như dùng rang với muối biển, tamari soy sauce, hoặc dùng ngọt với các loại mật ngọt làm từ ngũ cốc.

* Gia vị : Có nhiều loại gia vị được dùng thường ngày hoặc dùng thỉnh thoảng. Với số lượng nhỏ rắc trên thức ăn cho có thêm hương vị và giá trị dinh dưỡng hoặc để kích thích sự ngon miệng. Gia vị được cho vào ngũ cốc, súp, rau củ, đậu và thỉnh thoảng dùng cho các bữa tráng miệng.

Các loại dùng nhiều nhất gồm có :
• Muối mè (muối vừng).
• Rong biển tán bột (chung với mè rang hoặc không).
• Tekka (món gia vị đặc biệt làm bằng mi so đậu nành, dầu mè, ngưu bàng, củ sen, cà rốt và gừng).
• Mơ muối umeboshi.

Các loại thỉnh thoảng dùng :
• Vừng rang
• Tía tô rang và xắt lát
• Shio kombu (phổ tai nấu với tamari soy sauce và nước)
• Rong nori xanh xắt miếng
• Rang nori nấu
• Hành củ và hành tây với miso
• Mơ muối umeboshi hoặc dấm gạo lức.
Thelast
* Gia vị : Nhiều loại gia vị được dùng khi nấu nướng theo phương pháp dưỡng sinh. Tốt nhất là nên tránh các loại gia vị hăng quá mạnh như càri chẳng hạn, tiêu nóng và các loại khác, và dùng gia vị chế từ các rau củ hoặc muối biển thiên nhiên. Các loại gia vị dùng được giới thiệu sau đây:

Các loại gia vị nêm :
• Muối biển không tinh chế
• Nước chanh ép
• Nước tương cổ truyền
• Nước quít ép
• Tương đặc (miso)
• Nước cam ép
• Giấm gạo lức
• Bột mù tạt xanh
• Giấm mơ muối
• Bột mù tạt vàng
• Mạch nha làm từ lúa mạch
• Dầu mè
• Mạch nha làm từ gạo
• Dầu bắp
• Gừng nạo
• Dầu hướng dương
• Củ cải (daikon) nạo
• Dầu hạt mù tạt
• Củ cải (Radish) nạo
• Dầu olive
• Bột mơ muối
• Mơ muối (umeboshi Plum)
• Rượu nếp (mirin)
• Rượu gạo (amazaké)

Và những loại gia vị khác đã được dùng từ xưa tại địa phương.

Các loại gia vị dùng trang trí món ăn :

Có nhiều loại gia vị được dùng vừa để tạo sự cân bằng cho món ăn vừa giúp tiêu hóa tốt như:
• Củ cải trắng (Daikon) nạo cho món ăn có cá, nui, và các món khác
• Củ cải Thụy Điển (Radish) dùng như củ cải trắng.
• Củ cải ngựa (horserashish): Phần lớn dùng với các món ăn có cá và hải sản
• Hành xắt lát (Scallions): dùng với các món ăn nui, cá và hải sản)
• Cần tây (Parsley)
• Chanh, quít, cam xắt lát: dùng với các món có cá và hải sản.
Thelast
* Các món tráng miệng : Các thức tráng miệng thỉnh thoảng được dùng sau thức ăn chính như: xích tiểu đậu nấu ngọt với mạch nha, hạt dẻ, bí hoặc nho khô, ngoài ra còn có: Thạch (agar-agar), bánh xốp dùng với trái cây.

* Các thức uống : Tùy theo sự đòi hỏi của từng người và theo từng mùa khí hậu, các thức uống được dùng như:

• Trà cọng, thân cây trà
• Gạo hoặc lúa mạch rang
• Cà phê ngũ cốc
• Nước suối
• Rượu gạo ngọt (amazaké).
• Trà bồ công anh
• Sữa đậu nành (nấu với phổ tai)
• Trà phổ tai
• Trà củ sen
• Trà mu (vỏ trà).

Các loại từ thiên nhiên làm từ thảo mộc không có chất kích thích và mùi màu nhân tạo.
• Rượu ngọt Saké (không có men hóa chất và đường)
• Nước táo tây, nho ép
• Nước cà rốt, dâu ép.
Thelast
* Thức ăn phụ : Trong vài trường hợp, có thể kết hợp các món ăn theo phương pháp dưỡng sinh với vài món ăn khác, tùy theo sự đòi hỏi của cá nhân, tuy nhiên, trong khi thực hành, các thức ăn phụ thường không cần thiết gì để giữ gìn sức khỏe cả.

* Các lời đề nghị cho một lối sống khỏe mạnh : Cùng với việc chọn lựa thức ăn tốt, cần phải sống theo thiên nhiên để có được sức khỏe. Việc luyện tập thể chất và chọn dùng những dụng cụ nấu ăn, vải mặc, và dụng cụ trong nhà cũng rất cần thiết. Trước kia, con người sống gần với thiên nhiên hơn và ăn uống quân bình hơn, các món ăn tự nhiên không chế hóa. Và rồi theo từng thời kỳ, chúng ta ngày càng rời xa cội nguồn thiên nhiên của chúng ta để sau cùng chuốc lấy các bệnh hiểm nghèo: ung thư và các bệnh nan y khác.

Các lời đề nghị sau đây bổ sung các thực đơn lành mạnh và quân bình, muốn mọi người có một cuộc sống vui và hài hòa với thiên nhiên.

* Sống hạnh phúc, sống vui mỗi ngày, không đau yếu và cố gắng giữ gìn hoạt động về tinh thần và thể chất.

* Nhìn mọi vật và những người mà bạn được gặp với lòng thân ái, biết ơn những người làm ra thực phẩm cho ta.

* Hãy nhai thật nhỏ thức ăn của bạn, ít nhất là năm mươi lần mỗi búng cơm hoặc nhai cho đến khi thức ăn biến thành nước mới nuối.

* Nên đi nghỉ trước lúc nửa đêm và thức giấc lúc sáng sớm.

* Tránh mặc áo quần làm bằng vải tổng hợp hoặc vải len. Nếu có thể dùng vải cô ton, nhất là quần áo lót. Đừng đeo quá nhiều đồ trang sức làm bằng kim khí trên người, chỉ trang sức đơn giản và dễ thương.

* Nếu được, thường đi dạo với áo quần đơn giản. Đi bộ trên cỏ, bờ biển, hoặc đi chân trần độ nửa giờ mỗi ngày. Hãy sắp xếp nhà cửa gọn gàng, từ nhà ăn, phòng tắm, phòng ngủ, phòng khách và mọi nơi.

* Quan hệ tốt với cha mẹ, con cái, anh chị em, thầy cô giáo và bạn bè.

* Tránh không tắm quá lâu, nhất là dưới vòi sen ngoại trừ những khi bạn đã dùng quá nhiều muối hoặc thực phẩm động vật.

* Kỳ cọ cơ thể với khăn nóng cho đến khi da trở nên đỏ vào mỗi buổi sáng và tối trước khi đi nghỉ, hoặc ít nhất cũng nên xoa bóp bàn ta, bàn chân, các ngón tay và ngón chân.

* Tránh dùng hóa mỹ phẩm. Để chăm sóc răng, chỉ cần chải răng với các chế phẩm làm từ thiên nhiên hoặc với muối biển.

* Nếu có điều kiện, tập luyện và hoạt động thường xuyên như là một phần của cuộc sống thường ngày, gồm cả các công việc lau chùi sàn, cửa sổ nhà và giặt giũ áo quần. Các bạn cũng có thể tham gia vào các hoạt động khác như yoga, võ thuật, khiêu vũ hoặc các môn thể thao khác.

* Tránh dùng dụng cụ nấu ăn bằng điện hoặc lò viba, nếu có thể chuyển qua dùng gaz hoặc củi đốt.

* Tốt nhất là hạn chế xem truyền hình màu và ít sử dụng máy vi tính.

* Mang trồng nhiều loại cây có lá xanh lớn trong nhà bạn để làm tươi mát và tạo thêm nguồn oxy.

Cách chọn thực phẩm cũng quan trọng như cách ăn, dùng

dùng đúng bữa là tốt nhất, và chủ yếu bữa ăn phải gồm ngũ cốc lứt. Số lượng thực phẩm dùng ít nhiều tùy theo nhu cầu từng người. Các bữa ăn phụ và ăn thêm quà bánh chỉ dùng hạn chế, do nó không thể thay thế được bữa ăn chính, còn trà và các thức uống khác có thể uống cả ngày nếu thích. Việc nhai nhỏ các thức ăn rất cần thiết, cố gắng nhai mỗi miếng cơm trong miệng thành nước trước khi nuốt. Bạn cũng có thể ăn khi nào cảm thấy đói, nhưng tránh ăn trước khi đi ngủ (trước ba giờ), ngoại trừ trong hoàn cảnh đặc biệt. Sau rốt, hãy tỏ lòng biết ơn thức ăn đã mang lại sức khỏe cho chúng ta, hãy cảm kích những tạo vật thiên nhiên, vũ trụ xinh đẹp nầy cà tất cả mọi người đã cùng bạn tham gia vào cuộc sống tốt đẹp trên quả đất này.
Thelast
CHƯƠNG 5
CHỮA TRỊ BỆNH VIÊM KHỚP


Trong Chương 4 chúng ta đã biết tổng quát các món ăn tiêu chuẩn theo phương pháp dưỡng sinh: những món ăn này đủ để ngăn ngừa sự phát triển nhiều dạng bệnh viêm khớp và cũng là nền tảng để tạo sức khỏe. Tuy nhiên, khi đã bị bệnh rồi, vẫn phối hợp theo như sau đây trong nhiều tháng hoặc cho đến khi tình trạng bệnh được cải thiện, khi đó dùng các thức ăn tiêu chuẩn trở lại.

Cả hai loại viêm khớp âm và dương đều phản ảnh sự thái quá hoặc sự mất quân bình trong toàn cơ thể, do vậy điều quan trọng là tránh ăn các thực phẩm lệch làm cân bằng. Cố gắng phối hợp cân bằng và dùng cả hai loại năng lượng trong mỗi bữa ăn, sắp xếp cân bằng và hài hòa, thẩm mỹ từ màu sắc, kết cấu cho đến hương vị.

Thelast
* Lời khuyên tổng quát đối với bệnh viêm khớp:

1. Tránh dùng các thực phẩm quá âm hoặc quá dương, tốt nhất là chỉ ăn thực phẩm nấu chín, dù có thể dùng chút ít rau trụng nấu sơ. Thức ăn động vật và trái cây tốt nhất là hạn chế tối thiểu và dùng chút ít muối biển, tương đặc (mi so), tương cổ truyền (tamari soy sauce) để nêm thức ăn.

2. Khi chọn rau củ, cần tránh dùng khoai tây, cà chua, cà tím, rau dền, củ cải đường, quả bơ, zucchini và nấm (ngoại trừ nấm sồi Shiitake). Thức ăn chính phải gồm ngũ cốc lứt, phụ thêm là các món rau, đậu, rong biển và một phần rất nhỏ thức ăn động vật như cá và hải sản nếu đòi hỏi, và thỉnh thoảng một ít trái cây nấu chín hoặc trái cây khô.

3. Món ăn đặc biệt để chữa bệnh, nấu khô củ cải trắng (daikon) với phổ tai và nêm tương cổ truyền (tamari) cho có vị. Thỉnh thoảng dùng tương đặc nấu với hành tây (scallions) nấu với vài giọt dầu mè làm thức nêm.

4. Dùng các rau cỏ hoang như bồ công anh, cải soon cũng rất tốt, xốt với chút dầu mè, thêm nước và ninh nhỏ lửa.

5. Bệnh viêm khớp thường đi kèm thêm rối loạn đường ruột mạn tính. Do vậy việc nhai nhỏ thức ăn là rất cần thiết, nhai từ 80 đến 100 lần mỗi miếng cơm, cho đến khi thức ăn hoàn toàn thành nước.

6. Nếu bệnh nhân viêm khớp bị bón, cần ăn thêm xu xoa, xà lách nấu, các loại rau xanh hấp hơi, hoặc rau củ xốt với một chút dầu mè. Nếu táo bón dai dẳng có thể bơm thụt ruột bằng nước muối nhạt hoặc nước trà già pha muối.

7. Kỳ cọ khắp người bằng khăn nhúng nước nóng hai lần mỗi ngày. Bắt đầu nơi tay, ngón tay, kế đến cánh tay, vai, cổ, đầu, lưng, bụng, mông và cuối cùng chà xát bàn chân, ngón chân. Nếu khăn nguội đi, nhúng vào nước nóng lại và chà xát cho đến khi da hồng lên cho máu lưu thông khắp cơ thể. Một phần nguyên nhân chính của bệnh nhân viêm khớp là do việc tích tụ quá nhiều các chất mỡ -phần lớn từ nguồn thức ăn động vật và các loại đường đơn - và các chất khoáng xung quanh các khớp. Sự tích tụ này càng tăng lên khi lớp mỡ mỏng hình thành dưới da do tiêu thụ quá trớn mỡ động vật. Các chất thặng dư này thông thường được thải ra qua làn da và như thế làm tắc nghẹt cơ thể. Chà xát cơ thể mỗi ngày sẽ giúp máu lưu thông tốt và làm vỡ các tích tụ nói trên.

8. Trong những ca nghiêm trọng, bệnh nhân cảm thấy bị hóa cứng, bạn nên chà xát cơ thể bằng khăn tẩm nước gừng nóng thay vì chỉ dùng nước nóng. Phải xoa xát hằng ngày từng thời kỳ cho các ca nghiêm trọng hoặc mỗi tuần hai lần với các ca ít nghiêm trọng hơn.

9. Việc đắp gạc gừng lên các khớp hoặc các phần cơ thể bị hóa cứng mỗi ngày sẽ làm giảm đau và tan các chất ứ đọng, ngoại trừ trường hợp bị viêm sưng nóng đỏ thái quá.

Đắp gạc gừng có thể dùng trong các trường hợp nghiêm trọng hơn. Nó cũng hữu ích trong các ca tay và ngón tay bị sưng phồng (dùng ngâm cả tay, chân vào nước gừng nóng khoảng mười phút).

10. Để hỗ trợ thêm cho việc trị liệu bên ngoài đối với các bệnh nhân viêm khớp, đắp gạc gừng theo định kỳ lên vùng bụng. Có thể đắp nhiều lần mỗi tuần hoặc nhiều hơn nữa trong các ca nghiêm trọng. Lẽ dĩ nhiên, cả về việc ăn uống cũng như trị liệu bên ngoài, nên được sự trông nom của một hướng dẫn viên dưỡng sinh có năng lực hoặc của trung tâm dưỡng sinh.

Một lời khuyên nữa là dùng khăn tắm nhúng vào nước gừng nóng, vắt ráo rồi chà xát dọc theo xương sống cho đến khi da đỏ hồng lên (đặc biệt hữu ích cho bệnh viêm khớp ankylosing spondylitis).

Sau đây là những lời khuyên tổng quát cho năm loại viêm khớp chủ yếu, căn cứ trên lý thuyết âm dương đối với các loại viêm khớp thuộc dương hơn như viêm khớp osteoarthritis, ankylosing spondlylitis và phong thấp (gout) thì trong các thực phẩm điều hòa hằng ngày chọn các thức ăn có chứa năng lượng âm nhẹ. Còn đối với các loại viêm khớp âm hơn, như viêm khớp rheumatoid arthritis và viêm lupus thì hãy chú trọng dùng các loại thực phẩm có năng lượng dương hơn.

Xin nói lại là trong mọi tình trạng đều cần cả hai loại năng lượng và điều quan trọng là không được chọn và và nấu nướng thức ăn lệch hẳn về một bên.
Thelast
* Hướng dẫn kiêng ăn cho các bệnh nhân viêm khớp chủ yếu:

Trong bảng hướng dẫn sau đây, từng loại bệnh nhân khớp được liệt kê cùng với phương pháp kiêng ăn thích hợp, dựa vào các nấu nướng khéo léo và nhai thức ăn mềm nhỏ. Nếu có thể hãy liên hệ với một trung tâm dưỡng sinh để được chỉ dẫn thêm.

Những hướng dẫn sau đây, đã được theo dõi quan sát trong nhiều tháng. Và như vậy chúng cũng không thể được xem như là một bảng kê đơn thuốc. Những bệnh nhân quá trầm trọng được khuyên nên liên hệ với các bác sỹ y khoa thích hợp hoặc các chuyên gia về dinh dưỡng để phối hợp cùng với việc thực hành phương pháp dưỡng sinh.
Thelast
* Những quy định ăn kiêng cho bệnh viêm khớp Rheumatoid Arthritis :

+ Ngũ cốc lứt :

• Gạo lứt hạt ngắn dùng nấu ăn hàng ngày, đây là thức ăn hàng đầu. Có thể nấu gạo với một nhúm muối nhỏ hoặc với 1cm,50 phổ tai cho một tách gạo. Có thể ăn gạo lứt chung với các loại ngũ cốc và đậu nhỏ hạt khác .

• Loại ngũ cốc thứ gồm: Kê, mì lứt, lúa mạch...

• Nui làm bằng lúa mì lứt: (udon), có thể dùng nhiều lần trong tuần với hình thức súp.

• Tránh ăn một thời gian chế phẩm nướng làm từ bột như bánh bích quy, khoai tây rán và đại loại như thế. Có thể dùng bánh mì có chất lượng cao, không ủ bằng men chua mỗi tuần vài lần.

• Bữa ăn điểm tâm có thể dùng cháo đặc bằng cách thêm nước vào cơm gạo lứt thừa hôm trước vàø nấu lại một lúc. Có thể ăn thường xuyên, Tránh ăn bánh cuốn và mì làm từ yến mạch trong thời gian đầu giai đoạn chữa bệnh. Yến mạch lứt nấu chín dùng tốt hơn.

+ Súp :

• Dùng hàng ngày một chén súp nêm tương đặc (miso), các loại tương đặc làm từ lúa mạch (mugi) hoặc làm từ đậu nành đều dùng tốt cả. Súp có thể gồm cả rong biển như rong wakarme hoặc phổ tai cùng nhiều loại rau củ đặc biệt: củ cải trắng daikon, các loại rau có lá xanh và rau củ có vị ngọt... Súp nêm nhạt thích hợp dùng hàng ngày.

• Dùng thêm một chén súp gồm nhiều loại như các ngũ cốc lứt hoặc đậu trong ngày để dồi dào thêm nguồn thực phẩm. Nhớ dùng thêm rong biển khi nấu súp.

+ Rau củ :

• Tất cả các dạng rau củ lá, củ tròn và rễ đều được dùng mỗi ngày, thay đổi các dạng nấu nướng. Tuy nhiên, rễ và lá củ cải trắng daikon đặc biệt hữu ích cho bệnh viêm khớp loại này nên dùng thường xuyên.

• Trong tháng đầu tiên trị bệnh, tốt nhất là không nên dùng dầu. Qua tháng thứ hai, mỗi tuần được dùng dầu một lần và hai lần mỗi tuần vào tháng thứ ba.

• Tốt nhất là không nên dùng rau xà lách sống nếu triệu chứng bệnh viêm khớp chưa thuyên giảm, tuy nhiên rau xà lách luộc và hấp có thể dùng ăn mỗi ngày hoặc cách ngày.

• Món làm từ ngưu bàng và cà rốt (Kimpira) và rau củ hầm hữu ích cho tình trạng này, dùng ăn vài lần mỗi tuần.

• Các loại rau củ như củ cải trắng (daikon), củ cải vàng (turnip), củ cà rốt đều rất hữu ích.

+ Đậu và các chế phẩm từ đậu :

• Đậu hạt nhỏ (xích tiểu đậu, đậu chim, đậu hòa lan và đậu nành đen) có thể dùng hàng ngày chừng nửa chén.

• Những loại đậu hạt lớn tốt nhất là không nên dùng trong tháng điều trị đầu tiên, qua tháng thứ hai có thể dùng hai ba lần/tháng.

• Tương đậu nành (tempeh) và tàu hũ ky có thể dùng ăn cách ngày trong nhiều món ăn khác nhau.

• Đậu hũ tươi dùng một hoặc hai lần mỗi tuần.

+ Rong biển :

• Rong wakame và phoơ tai (kombu) được dùng thường xuyeđn moêi ngày dưới dáng súp, nâu với rau cụ và đaơu.

• Rong arame và tóc tieđn (hiziki) hai ba laăn moơt tuaăn và moơt lá rong nori rang dùng moêi ngày.

• Nói chung rong bieơn được dùng moêi ngày với moơt lượng nhỏ.

+ Gia vị :

• Muôi mè, boơt rong bieơn được dùng với sô lượng nhỏ hàng ngày. Muôi mè được làm theo tỷ leơ mười sáu mè moơt muôi.

• Mơ muôi dưỡng sinh (umebosi) hai hoaịc ba laăn hàng tuaăn.

• Lá tía tođ và rong nori rang hữu ích dùng làm gia vị phú, moêi tuaăn hai ba laăn. Món xào khođ đaịc bieơt tekka cũng vaơy.

• Trong thời kỳ các khớp đau đớn, tôt nhât là tránh dùng giâm mơ muôi và giaẩm gáo.
Thelast
+ Dưa cại daăm muôi :

• Dùng moêi ngày moơt sô lượng nhỏ dưa daăm leđn men hoaịc dưa daăm theo kieơu người Đức (Sauerkraut).

• Các lối dưa chua quá, caăn hán chê cho đên khi beơnh tình thuyeđn giạm.

• Nêu dưa daăm quá maịn, rửa sách muôi baỉng nước lã trước khi aín.

• Cụ cại traĩng (daikon) dùng aín nhieău laăn trong tuaăn rât tôt, chư caăn vài miêng là đụ.

+ Cá và hại sạn :

• Chư aín cá thịt traĩng, moơt hoaịc hai laăn moêi tuaăn nêu đòi hỏi. Cá hâp, nướng, nâu súp.

• Các và hại sạn nêu dĩn aín với cụ cại traĩng hoaịc cà rôt náo rât tôt.

+ Trái cađy :

• Trong trường hợp vieđm sưng đỏ, neđn hán chê tôi đa trái cađy và nước trái cađy tươi.

• Nêu còn thèm, có theơ dùng tráng mieơng moơt ít trái cađy phương Baĩc nâu chín, nhieău laăn trong tuaăn.

• Trái cađy khođ như nho và táo tađy khođ dùng thưnh thoạng với sô lượng nhỏ.

• Trong các trái cađy phương Baĩc, trái đào khođ hoaịc đào (peache) nâu chín đaịc bieơt hữu ích cho beơnh và có theơ dùng thường. Đào tươi chư neđn dùng ít vào lúc hè với moơt chút muôi.

v Quạ hách :

• Các lối quạ hách (nuts) và quạ hách bơ tređn tránh aín cho đên khi beơnh tình được cại thieơn.

• Hát dẹ khođ được dùng đođi khi nâu với cơm gáo, nêp hoaịc xích tieơu đaơu cho có vị ngĩt.

+ Hát :

• Hát mè, bí ngođ, bí đao rang sơ được dùng với sô lượng nhỏ.

• Hát hướng dương, tôt nhât là tránh aín hoaịc chư dùng moơt ít trong mùa há.

+ Các thức aín phu ï:

• Dùng được moơt ít thức aín phú như baĩp rang, bánh gáo, và ngũ côc rang phoăng.

• Bánh Sushi, bánh gáo nhoăi, nui và bánh mì làm baỉng men chua dùng thưnh thoạng như thức aín phú với sô lượng ít.

+ Rau cụ ngĩt : Nhieău lối rau cụ ngĩt như cà rôt, bí, cụ hành tađy và baĩp cại được dùng nâu aín hàng ngày.

+ Các thức ngĩt :

• Mách nha gáo lứt thích hợp dùng làm chât ngĩt cho beơnh này. Moêi tuaăn dùng vài muoêng cà pheđ mách nha này vào lúc aín sáng với ngũ côc, trà hoaịc dùng khi aín tráng mieơng.

+ Nước uông :

• Lúc khát có theơ uông trà già, nước suôi và trà ngũ côc. Các lối khác chư dùng thưnh thoạng.

• Moêi tuaăn moơt hai laăn uông nước ép cà rôt, khođng dùng với đá lánh. Tuy nhieđn, khi các khớp đang đau đớn neđn ngưng dùng moơt thời gian.

+ Gia vị neđm :

• Tương đaịc (mi so), tương coơ truyeăn (tamari soy sauce), muôi bieơn và các thức dùng neđm thức aín tôt nhât là dùng ít trong lúc nâu nướng.

• Các lối gia vị khác có tính kích thích, như là gừng và cụ cại ngựa (horse radish) caăn giạm tôi thieơu trong thời gian này.

+ Các thức uống đặc biệt :

• Nước ép rau củ ngọt dùng ngày một tách.

• Mơ muối-sắn dây-tương (ume- Sho-kuzu); mỗi tuần 2 lần, trong nhiều tuần.

• Củ cải trắng (daikon) mài (1/3 tách) thêm cà rốt mài (1/2 tách) thêm nước cho vừa một tách, mỗi tuần dùng nhiều lần và chỉ dùng trong một tháng, các thành phần này đem đun nhỏ lửa trong hai hay ba phút, nêm vài giọt tương cho có vị

• Trà gạo lứt rang có thể dùng xen kẽ với trà già ba năm (bancha) làm thức uống căn bản cho bệnh này.

+ Săn sóc tại nhà:

• Nếu các khớp bị viêm sưng, nóng, dùng lá rau xanh hoặc dùng đậu hũ và lá rau xanh (lượng bằng nhau) nghiền nhỏ đắp thẳng vào khớp đau.

+ Các đề nghị thêm :

• Dùng khăn nhúng nước nóng, vắt ráo chà xát khắp người mỗi ngày, sáng và tối trước khi đi ngủ.

• Nhai thật nhỏ, cho đến khi thức ăn hóa thành nước mới nuốt.

• Đừng tắm quá lâu nhất là tắm bằng vòi sen.

• Các vật trang sức như nhẫn, đồng hồ và các loại làm bằng kim khí tốt nhất là đừng đeo, đặc biệt nhất là ở các vùng khớp đau.
Thelast
* Các đề xuất kiêng ăn cho bệnh viêm khớp LUPUS :
+ Ngũ cốc lứt :

• Gạo lứt hạt ngắn nấu với nồi áp hơi được dùng mỗi ngày, dùng riêng hay nấu chung với ngũ cốc khác hoặc với các loại đậu hạt nhỏ.

• Loại ngũ cốc kế tiếp nên dùng là lúa mạch, kê, bắp trái (đúng mùa).

• Bột mì lứt và chế phẩm như nui, udon, được dùng nhiều lần mỗi tuần, dùng với nước súp.

• Nui làm từ kiều mạch (soba) và kiều mạch lứt (kasha), ăn mỗi tuần một lần giúp bệnh mau mạnh. Tuy nhiên nếu đồng thời lại đang mang bệnh ngoài da thì không được dùng.

+ Súp :

• Dùng mỗi ngày một chút súp, nêm với tương đặc (mugi hoặc Hatcho miso), rong wakame và phổ tai cùng nhiều loại rau củ đều được cả.

+ Rau củ :

• Các loại rau củ được dùng mỗi ngày. Rễ ngưu bàng đặc biệt tốt cho bệnh viêm khớp Lupus, có thể dùng nhiều lần mỗi tuần.

• Tránh ăn xà lách sống trong một thời gian, nếu hấp hoặc nấu lên thì được dùng ăn mỗi ngày.

• Trong tháng đầu tránh không được dùng dầu. Qua tháng thứ hai và thứ ba được dùng dầu mỗi tuần một lần.
Thelast
+ Các món ăn đặc biệt, rất hữu ích cho bệnh gồm:

• Xích tiểu đậu nấu với bí và phổ tai, ngưu bàng và cà rốt kimpira, củ cải trắng daikon, củ cải turnip nấu luôn cả phần chóp xanh của củ. Củ cải khô daikon nấu với phổ tai và các món hầm.

+ Đậu và các chế phẩm từ đậu :

• Dùng đậu nhỏ, có chứa lượng mỡ thấp (xích tiểu đậu, đậu chim, đậu hòa lan, đậu nành đen) được dùng mỗi ngày nửa chén.

• Tránh ăn các loại đậu hạt lớn trong tháng đầu điều trị bệnh, qua các tháng sau được dùng một lần mỗi mười ngày.

• Các chế phẩm từ đậu như đậu lên men, đậu hũ và tàu hũ ky được dùng mỗi tuần ba bốn lần.
Thelast
+ Rong biển :

• Phổ tai và rong wakame được dùng mỗi ngày dưới dạng súp, nấu với rau củ, với đậu...

• Rong tóc tiên (hiziki) hoặc rong arame mỗi tuần dùng hai ba lần.

• Mỗi ngày dùng thêm một lá rong nori rang, dùng với cơm nhồi hoặc là thức ăn phụ.
+ Gia vị :

• Muối mè và bột rong biển được dùng mỗi ngày. Muối mè được làm theo tỷ lệ mười sáu phần mè với một phần muối biển. Nếu dược dùng mè đen càng tốt.

• Mơ muối (umeboshi) được dùng ba bốn lần mỗi tuần, dùng với ngũ cốc lứt hoặc trà.

+ Hai loại gia vị đặc biệt nên dùng nhiều lần mỗi tuần:

• Phổ tai + tương và rong nori (mỗi lần một hoặc hai miếng tương + phổ tai hoặc một muỗng trà rong nori).

• Trong ca viêm nóng đỏ, tránh dùng dấm gạo và dấm mơ muối cho đến khi bệnh tình được cải thiện.

• Món xào Tekka, làm từ cà rốt, ngưu bàng, củ sen và tương đặc miso rất tốt dùng ăn với gạo lứt hoặc ngũ cốc khác hai, ba lần mỗi tuần, dùng với số lượng ít.
Thelast
+ Dưa cải dầm muối :

• Mỗi ngày dùng một lượng nhỏ dưa cải dầm muối vào mỗi bữa ăn, nếu dưa mặn quá rửa sạch dưới vòi nước trước khi dùng.

• Tránh ăn các loại dưa dầm mặn quá hoặc chua quá.

+ Cá và hải sản :

• Mỗi tuần một hay hai lần dùng một lượng nhỏ cá thịt trắng nếu cần.

• Nếu bệnh nhân quá yếu và thiếu sức sống, nấu súp cá chép (koiKoku) ăn trong nhiều ngày (một chén mỗi ngày), và lặp lại trong một hai tuần sau.
Thelast
+ Trái cây :

• Nếu còn thèm, mỗi tuần ăn vài lần trái cây nấu chín (trái cây phương Bắc).

• Tránh ăn trái cây tươi cho đến khi bệnh tình được cải thiện.

• Hạt dẻ khô nấu với gạo lứt, gạo nếp lứt hoặc xích tiểu đậu là thích hợp nhất. Có thể dùng ăn nhiều lần mỗi tuần nếu thích.

+ Quả hạch (nuts) :

• Tốt nhất là không ăn quả hạch hoặc quả hạch bơ cho đến khi bệnh tình được cải thiện. Sau đó thỉnh thoảng dùng với số lượng nhỏ.

+ Các loại hạt :

• Dùng một lượng nhỏ như mè, hạt bí ngô, bí đao như là một món ăn phụ.

• Hạt hướng dương tránh ăn ngoại trừ vào mùa hè được dùng với số lượng nhỏ.
Thelast
+ Các món ăn phụ :

• Cẩn thận đừng ăn quá nhiều các món bánh nướng khô như bánh gạo, bắp rang, ngũ cốc rang phồng. Các loại này có thể gây cơn khát nước hoặc thèm các món ngọt.

• Các món ăn phụ khác nên dùng rất ít.

+ Rau củ ngọt :

• Các rau củ có vị ngọt như củ hành, bí, cà rốt và bắp cải được dùng nấu ăn mỗi ngày.

+ Các thức ngọt :

• Giới hạn dùng các thức ăn ngọt như mật gạo, mạch nha lúa mạch, nếu thèm quá dùng vài lần mỗi tuần với số lượng nhỏ.

• Các loại chất ngọt thiên nhiên, các bon hy drát hoặc đường có trong cà rốt đặc biệt hữu ích với bệnh này. Cà rốt ninh nhỏ lửa làm bơ cà rốt hoặc bột cà rốt đặc. Dùng ăn mỗi tuần nhiều lần với bánh mì, bánh gạo hoặc dùng làm gia vị ngọt, có thể pha làm thức uống.

+ Các loại nước khoáng :

• Trà cọng bancha, trà ngũ cốc, cà phê ngũ cốc được uống nếu cần.

• Nước ép cà rốt (chừng nửa tách), mỗi tuần dùng vài lần và khi triệu chứng bệnh đã biến chuyển, có thể dùng thêm:

+ Các thức nêm :

• Tương cổ truyền dùng với lượng ít.

• Gừng và củ cải ngựa, tránh dùng cho đến khi bệnh tình đã thuyên giảm.

+ Thức uống đặc biệt :

• Nước ép rau củ ngọt, mỗi ngày khoảng một tách.

• Sắn dây+mơ muối+tương mỗi tuần hai lần trong ba tuần.

+ Chăm sóc tại nhà :

• Áp gạc gừng (hoặc khăn nước nóng (từ 10 đến 15 phút) lên vùng thận (giữa lưng) và vùng ruột (phần bụng dưới) để làm mạnh các cơ quan này và tăng chức năng loại trừ các chất thặng dư. Những cách áp gạc này được dùng hai ba lần mỗi tuần trong vòng sáu tuần.

+ Các đề nghị khác :

• Nhai thật kỹ cho đến khi thức ăn biến thành nước trong miệng hẵng nuốt.
• Mỗi sáng và trước khi đi ngủ, dùng khăn nhúng nước nóng vắt ráo chà xát khắp người.
• Đi bộ mỗi ngày nửa giờ được xem như là một hình thức tập luyện.
• Đừng tắm quá lâu nhất là dưới vòi tắm sen.
• Nếu có thể dùng càng nhiều càng tốt các loại ngũ cốc, đậu và rau củ.
Thelast
* Kiêng ăn cho bệnh viêm khớp Osteoarthritis :

+ Ngũ cốc lứt : Mỗi ngày dùng gạo lứt hạt ngắn, nấu nồi áp suất thêm chút muối. Có thể nấu chung gạo lứt với các loại ngũ cốc khác hoặc đậu hạt nhỏ.

• Lúa mạch, đặc biệt là ý dĩ (pearl barley) rất hữu ích cho bệnh này, mỗi tuần dùng hai ba lần với gạo hoặc dưới dạng súp.
• Có thể dùng thêm kê, bắp trái (đúng mùa)
• Hạn chế dùng bánh bột nướng. Nếu thèm ăn bánh mì nên chọn những loại có chất lượng thiên nhiên (không làm bằng men), mỗi tuần nhiều lần và tốt nhất hấp lên cho mềm.
• Tốt nhất nên tránh dùng yến mạch, cũng như các loại bánh nướng giòn, bánh tráng gạo cho đến khi có biến chuyển tốt. Nếu thích ăn yến mạch (oats), nấu yến mạch suốt qua đêm với ngọn lửa rất nhỏ mà dùng.
• Nui, thích hợp là nui lúa mì lứt (udon) được dùng nhiều lần trong tuần với nước súp.

+ Súp : Dùng súp tốt nếu chỉ nêm nhạt, tránh vị mặn quá.

• Mỗi ngày một chén súp tương đặc miso dùng với rong biển wakame, phổ tai và các loại rau củ (nhất là củ cải daikon, nấm sồi shiitake và các loại rau có lá xanh).
• Có thể thêm gia vị lên trên súp miso với hành tây, ngò, lá thơm.
• Các loại súp khác dùng mỗi ngày phụ thêm chừng một chén.

+ Rau củ :

• Các loại rau củ đa dạng được dùng hàng ngày, cần phối hợp hài hòa và lưu ý cách nấu nướng.
• Bồ công anh nấm đặc biệt hữu ích và mỗi tuần dùng hai ba lần là thích hợp.
• Tốt nhất là tránh ăn xà lách tươi sống cho đến khi bệnh thuyên giảm, tuy nhiên xà lách nấu và hấp hơi dùng tốt cho bệnh viêm khớp có thể dùng hàng ngày. Thỉnh thoảng có thể dùng chút ít xà lách tươi lúc bệnh đã đỡ.
• Tháng đầu trị bệnh tốt nhất là tránh dùng dầu khi nấu ăn. Qua tháng thứ nhì, mỗi tuần có thể dùng vài lần dầu mè với số lượng ít.

+ Đậu và các chế phẩm từ đậu :

• Đậu hạt nhỏ (xích tiểu đậu, đậu chim (chickpea), đậu hòa lan và đậu nành đen), được dùng mỗi ngày.
• Các chế phẩm từ đậu được dùng mỗi ngày hay cách ngày.
• Nếu bệnh nhân mập, tránh ăn các loại đậu hạt lớn trong tháng đầu trị bệnh, sau đó mỗi tuần hoặc mười ngày được dùng một lần.

+ Rong biển :

• Phổ tai và rong biển wakame được dùng với súp mỗi ngày, với rau củ và đậu..
• Rong biển tóc tiên (hiziki) hoặc rong arame. Mỗi tuần dùng hai hoặc ba lần như là một món phụ..
• Mỗi ngày ăn một lá rong nori rang.

+ Gia vị nêm :

• Muối mè và bột rong biển được dùng mỗi ngày. Muối mè làm theo tỉ lệ mười sáu mè một muối (muối biển).
• Mơ muối (umeboshi) mỗi tuần dùng hai ba lần, ngoài ra có thể nêm chút ít giấm gạo hoặc giấm mơ muối.

+ Dưa cải dầm chua :

• Mỗi ngày ăn chút ít. Nếu dưa mặn quá cần rửa sạch muốùi trước khi ăn.
• Các loại dưa cải dầm nhanh, lạt, được dùng nhiều hơn.

+ Cá và hải sản :

• Mỗi tuần có thề dùng một ít loại cá thịt trắng (một đến hai lần).
• Trai sò và các loại cá có mỡ nhiều (như cá ngừ, cá hồi) tốt nhất tránh ăn cho đến khi bệnh tình thuyên giảm.
• Cá có thể dùng dưới hình thức nấu, chưng hoặc với súp miso.

+ Trái cây :

• Trái cây phương Bắc nấu chín được dùng ăn tráng miệng ba lần mỗi tuần.
• Mơ muối rất hữu ích có thể dùng nấu trong các món tráng miệng (dùng thỉnh thoảng).
• Tránh ăn trái cây tươi trong giai đoạn đầu trị bệnh.

+ Quả hạch :

• Nếu bệnh tình chưa thuyên giảm nên tránh ăn quả hạch và quả hạch bơ, sau đó chỉ dùng làm thức ăn phụ thôi.

+ Hạt :

• Hạt mè, hạt bí rang sơ được ăn một ít. Đừng làm cháy các hạt khi rang.
• Hạt hướng dương nên tránh ăn, trừ lúc mùa hè được dùng một lượng nhỏ.

+ Các thức ăn phụ ï:

• Cẩn thận đừng ăn quá nhiều thức ăn khô, nướng như bánh gạo, bắp rang và ngũ cốc rang phồng.
• Các loại thức ăn phụ khác nếu thích dùng một ít..

+ Rau củ ngọt :

• Các loại rau củ ngọt đều được dùng nấu ăn mỗi ngày.

+ Các chất ngọt khác :

• Mỗi tuần dùng được mạch nha lúa mạch nhiều lần, mỗi lần một ít (một muỗng trà), các buổi ăn sáng với cháo đặc, trong buổi ăn tráng miệng hoặc với trà.
• Hạt dẻ khô có thể nấu với gạo lứt và xích tiểu đậu, thỉnh thoảng dùng thế chất ngọt.

+ Các thức uống :

• Trà cọng bancha, nước suối, trà ngũ cốc dùng hàng ngày, nhiều ít tùy theo từng người.
• Trà lúa mạch rang (mugicha) hoặc trà ý dĩ (hato mugicha) đặc biệt tốt cho bệnh này có thể dùng xen kẻ với trà già bancha như là một thức uống chính.

+ Gia vị :

• Dùng ít gia vị khi nấu nướng.
• Các loại gia vị có tính kiùch thích mạnh như gừng và củ cải ngựa (horseradish) nên tránh cho đến khi bệnh trạng thuyên giảm.

+ Các thức uống đặc biệt :

• Mỗi ngày dùng được một tách nước súp rau củ ngọt trong một tháng hay lâu hơn nếu cần.
• Trong tháng đầu trị bệnh, chế thức uống với củ cải daikon mài (1/3 tách), cà rốt mài (1/3 tách) thêm 1/3 tách nước nấu nhỏ lửa trong hai hay ba phút, nêm vài giọt tương tamari cho có vị. Mỗi tuần uống từ hai đến ba lần.
• Đặc biệt hữu ích là trà bồ công anh (dandelion), có thể tìm mua trong các cửa hàng bách hóa thực phẩm. Mỗi tuần uống ba hay bốn lần phụ thêm với các thức uống khác.

+ Chăm sóc tại nhà :

• Đắp gạc nước nóng hoặc gạc gừng lên các khớp bị đau sẽ kích thích tuần hoàn máu và làm giảm đau nhức.

+ Các đề nghị khác :

• Quan trọng nhất vẫn là nhai thức ăn cho thật nhỏ để thức ăn biến thành nước trong miệng hãy nuốt.
• Sáng sớm và tối trước khi đi ngủ, chà xát khắp người với một khăn nóng.
• Tập luyện, đi bộ mỗi ngày nửa giờ đồng hồ.
• Mỗi ngày có thể tắm nhanh dưới vòi sen.
Thelast
* Kiêng ăn trị bệnh viêm khớp Ankylosing Spoudylitis:

+ Ngũ cốc lứt :

• Gạo lứt hạt ngắn được dùng mỗi ngày, loại gạo hạt vừa dùng phụ thỉnh thoảng. Gạo lứt dùng riêng hoặc phối hợp với các ngũ cốc khác và đậu.
• Tốt nhất là đừng nấu cho đến khi khô quá, nên nấu nhão một chút.
• Loại ngũ cốc thứ nhì được dùng gồm: lúa mì và lúa mạch.
• Bắp trái (ngô)
• Tránh ăn các chế phẩm từ bột như bánh nướng, bánh xốp, bánh mì không có men chua dùng được nhiều lần trong tuần.
• Nếu thích ăn yến mạch (oats), hầm nhỏ lửa yến mạch lứt qua đêm và dùng ăn điểm tâm.
• Mì nui udon lứt có thể dùng nhiều lần trong tuần với sốt tamari nhạt.
• Tránh ăn nui kiều mạch (Buckwheat) và cả kiều mạch lứt cho đến khi tình trạng bệnh thuyên giảm.

+ Súp :

• Mỗi ngày dùng một chén súp nêm tương đặc miso, nấu với rong biển wakame hoặc phổ tai và các loại rau củ khác nhau. Củ cải daikon và nấm sồi có thể nấu chung với súp miso.
• Có thể dùng thêm một chén súp chỉ có các loại gia vị và gia vị nêm. Mỗi tuần được dùng nhiều lần súp bắp và các loại rau củ.
• Nhớ đừng quên cho thêm một mẩu nhỏ rong biển vào súp khi nấu.

+ Rau củ :

• Mỗi ngày nấu phối hợp và theo nhiều cách các loại rau củ gồm cả lá, rễ và các loại củ tròn, đều dùng được.
• Dưa chuột (cucumber) rất tốt để làm êm dịu các tình trạng co cứng, được dùng nhiều lần trong tuần, dùng trong món xà lách hoặc dùng theo hình thức muối dưa.
• Hạn chế tối đa việc dùng dầu để nấu ăn trong nhiều tuần lễ đầu trị bệnh.
• Xà lách nấu và hấp hơi còn xanh hữu ích cho bệnh được dùng hàng ngày.

+ Đậu và chế phẩm từ đậu : Đậu hạt nhỏ (xích tiểu đậu, đậu chim, đậu hòa lan, đậu nành đen) và chế phẩm từ đậu được dùng cách ngày. Mỗi ngày độ nửa chén.

• Các loại đậu hạt lớn chỉ được dùng hai, ba lần mỗi tháng.

+ Rong biển :

• Phổ tai và rong wakame có thể dùng ăn mỗi ngày dưới dạng súp, nấu với rau củ và đậu.
• Rong tóc tiên Hiziki hoặc rong arame có thể dùng làm thức ăn phụ mỗi tuần hai ba lần.
• Mỗi ngày dùng một lá nori rang dùng ăn với cơm nhồi (Riceballs), bánh sushi hoặc dùng như một loại trang trí.

+ Gia vị nêm :

• Muối mè và bột rong biển được dùng mỗi ngày. Tỷ lệ muối mè là 16 mè 1 muối.
• Mơ muối dùng ăn mỗi tuần hai ba lần.
• Nên tránh ăn giấm gạo và giấm mơ trong lúc đau nhức.
• Các thức dùng nêm khác có thể dùng nhiều lần trong tuần.

+ Dưa cải muối :

• Các loại dưa cải dầm lạt, nhanh, tự nhiên không gia vị thích hợp dùng với số lượng nhỏ mỗi ngày. Nếu dưa mặn quá, rửa thật sạch muối trước khi dùng.

+ Cá và hải sản :

• Mỗi tuần dùng một đến hai lần, mỗi lần một ít cá có thịt màu trắng.
• Các loại cá và trai sò khác nên tránh ăn cho đến khi bệnh tình thuyên giảm.

+ Trái cây :

• Trong các loại trái cây, quả mơ (apricots) hữu ích cho bệnh viêm này, có thể dùng nó nấu với các loại trái cây phương Bắc khác, ba lần mỗi tuần bình quân. Thỉnh thoảng dùng thêm một ít trái mơ khô hoặc trái mơ tươi đúng mùa.

+ Quả hạch (nuts) :

• Tốt nhất là tránh ăn các quả hạch (nuts) và bơ hạch (nuts buhers) cho đến khi bệnh đã bớt.

+ Hạt :

• Dùng ăn phụ được một ít hạt mè rang sơ, hạt bí ngô. Quan trọng là nhớ không được ăn nhiều quá các loại hạt khô, hạt rang.
• Hạt hướng dương tránh ăn ngoại trừ vào lúc mùa hè và chỉ dùng số lượng nhỏ.

+ Các thức ăn phu ï:

• Hạn chế các loại bánh khô, bánh nướng (bánh tráng gạo, bắp rang, bánh ngũ cốc rang phồng). Tuy nhiên lúa mì lứt rang phồng lại hữu ích cho trường hợp này có thể dùng làm thức ăn phụ, có thể dùng riêng hoặc dùng với rong amazaké.
• Các loại bánh khác dùng hạn chế.

+ Rau củ ngọt :

• Rau củ ngọt được dùng nấu làm thức ăn thường ngày.

+ Các thức ngọt khác:

• Nếu còn thích ăn ngọt, mỗi tuần dùng vài lần sirô gạo, mạch nha hoặc amasaké (chất ngọt làm từ gạo, nếp lứt lên men).
• Amasaké làm từ lúa mì tốt cho trường hợp này.
• Nấu chung ngũ cốc, đậu với hạt dẻ để có chất ngọt.

+ Các thức uống :

• Trà già ba năm (bancha), nước suối, trà ngũ cốc được dùng mỗi ngày, số lượng dùng tùy cơn khát của từng cá nhân.
• Nước ép cà rốt, quả mơ (apricots) mỗi tuần dùng một, hai lần nếu thích.
• Tất cả thức uống nên dùng khi còn nóng ấm.

+ Các thức nêm :

• Nên dùng rất ít các gia vị nêm.
• Tránh các gia vị hăng cay, kích thích như gừng, củ cải ngựa.

+ Các thức uống đặc biệt :

• Nước ép rau củ ngọt, hai ba lần một tuần.
• Củ cải daikon nạo (1/3 chén) thêm cà rốt nạo (1/3 chén) mỗi tuần dùng tươi hoặc ninh sôi nhỏ lửa uống nhiều lần, nêm vài giọt tương tamari cho có vị.

+ Chăm sóc tại nhà :

• Chườm khăn nóng, khăn gừng nóng lên chỗ đau vùng xương sống, đặc biệt nhất là khi có triệu chứng bệnh xuất hiện.
• Chà xát thật mạnh khắp xương sống với khăn gạc nóng.

+ Các đề nghị khác :

• Nhai thức ăn thật nhỏ là điều quan trọng, thức ăn phải hóa thành nước trước khi nuốt.
• Mỗi sáng và tối trước khi ngủ, dùng khăn bông nóng chà xát khắp cơ thể.
• Tắm nhanh bằng vòi sen hoặc tắm rửa mỗi ngày.
• Nếu có thể, đi bộ ngoài trời nửa giờ mỗi ngày để luyện tập cơ thể.
• Đừng để cơ thể nhiễm lạnh có thể gây sự co cứng của các cơ khớp.

+ Đề nghị quan trọng :

• Đừng nêm thức ăn mặn quá, dùng ít các gia vị nêm như muối, tương đặc mi so và các gia vị nêm khác.
Thelast
* Kiêng ăn cho bệnh thống phong (Goul)

+ Ngũ cốc lứt :

• Thức ăn chính hàng ngày là gạo lứt. Nấu riêng
hoặc chung với các ngũ cốc lứt khác hoặc với xích tiểu đậu và các loại đậu khác.
• Ngũ cốc phụ gồm có kê, lúa mạch lứt, lúa mì lứt.
• Tránh ăn các chế phẩm từ bột như bánh nướng, bánh xốp, bánh bích quy dù là loại có chất lượng tốt cho đến khi bệnh tình đã được cải thiện.
• Bánh mì chất lượng tốt có thể dùng nhiều lần trong tuần.
• Nếu thích ăn yến mạch (oats) có thể nấu dùng ăn bửa điểm tâm.
• Mì, nui lứt (udon) ăn dưới dạng súp được dùng nhiều lần mỗi tuần. Trong khi bệnh cần tránh ăn kiều mạch (buckwheat) cho đến khi tình trạng thuyên giảm.

+ Súp :

• Mỗi ngày dùng một chén súp nêm tương miso nấu với rong biển wakame hoặc phổ tai và các loại rau củ, tốt nhất là củ cải daikon, nấm sồi Shitake và các loại rau lá xanh.
• Có thể dùng thêm súp kê, bí và súp xích tiểu đậu.

+ Rau cu û:

• Rau lá xanh, củ tròn và rễ đều dùng được thay đổi cách phối hợp và cách nấu.
• Bắp cải đặc biệt tốt cho bệnh thống phong được dùng thường xuyên, cũng như các loại rau củ ngọt khác như bí và củ hành tây (onions).
• Tránh ăn xà lách sống trong thời gian đầu.
• Dùng thật ít dầu. Nếu viêm sưng đau phải tránh không ăn dầu một thời gian.
• Bí nấu với xích tiểu đậu và phổ tai hữu ích trong việc cung cấp chất ngọt, mỗi tuần dùng ba bốn lần.

+ Đậu và các chế phẩm từ đậu :

• Mỗi ngày được dùng khoảng nửa chén các loại đậu nhỏ hạt như xích tiểu đậu, đậu chim (chick peas), đậu hòa lan.
• Tương đậu nành lên men, đậu hũ, tàu hũ ky và tương sổi (natto) được dùng ba bốn lần mỗi tuần.
• Nếu người mập, tránh ăn các loại đậu lớn hạt, đậu trẻo trong tháng đầu chữa bệnh, sau đó được dùng hàng tuần.

+ Rong biển :

• Rong biển phổ tai và wakame được dùng mỗi ngày dưới dạng súp, nấu với rau củ hoặc với các món đậu.
• Rong tóc tiên (hiziki) hoặc arame dùng làm thức ăn phụ hai hay ba lần mỗi tuần.
• Mỗi ngày ăn một lá rong mứt (nori) rang.

+ Gia vị nêm :

• Muối mè và bột rong biển được dùng hàng ngày (mười sáu mè một muối).
• Mơ muối umeboshi, hai hay ba lần mỗi tuầûn.
• Khi các khớp đang đau, tránh dùng giấm gạo và giấm mơ muối.

+ Dưa cải muối :

• Mỗi ngày dùng được một ít. Nếu dưa có vị mặn quá rửa sạch cho bớt mặn trước khi dùng.

+ Cá và hải sản :

• Sự lạm dụng quá trớn chất đạm động vật gây nên bệnh này. Tuy nhiên, nếu thích dùng một lượng nhỏ thịt cá sắc trắng một hay hai lần mỗi tuần cũng tốt. Nên ăn cá với vài muỗng canh củ cải sống daikon nạo dùng như là gia vị.
• Tất cả các loại hải sản khác tránh dùng cho đến khi bệnh tình đã thuyên giảm.

+ Trái cây :

• Dùng tráng miệng mỗi tuần ba ngày các loại trái cây phương Bắc nấu, hấp chín.
• Nếu thích, thỉnh thoảng ăn một ít trái cây tươi và khô.

+ Rau củ ngọt :

• Được nấu dùng mỗi ngày.
• Nếu thích mỗi tuần dùng một hoặc hai lần các chất ngọt cô đặc.
• Nếp lên men (amasaké) dùng đôi khi.

+ Thức uống :

• Trà già ba năm (bancha), nước suối, trà gạo dùng mỗi ngày.
• Nước ép cà rốt được dùng nhiều lần mỗi tuần nếu thích.
• Tránh uống các loại thức uống lạnh và không nên uống quá nhiều nước.

+ Thức nêm :

• Nên nêm nhạt thức ăn. Các loại gia vị kích thích như gừng, củ cải ngựa nên tránh cho đến khi bệnh thuyên giảm.

+ Thức uống đặc biệt :

• Mỗi tuần dùng hai ba lần nước sốt rau củ ngọt.
• Trong tháng đầu trị bệnh, pha 1/3 cà rốt nạo, 1/3 củ cải trắng daikon nạo, thêm nước ninh nhỏ lửa từ hai đến ba phút, nêm vài giọt tương tamari cho có vị. Mỗi tuần uống hai ba lần.
• Trà rong biển phổ tai cũng được uống nhiều lần mỗi tuần cho đến khi bệnh thuyên giảm.

+ Chăm sóc tại nhà:

• Nghiền bằng cối đất 1/2 đậu hũ và 1/2 rau xanh tươi đắp thẳng vào vùng đau.
• Rau xanh hoặc đậu hũ có thể dùng đắp riêng từng loại hai, ba lần mỗi tuần lên khớp đau trong một tháng.
• Trong một tháng đầu trị bệnh, áp gạc gừng nóng lên vùng thận hai lần mỗi tuần.

+ Các đề nghị khác :

• Nhai nhỏ cho đến khi thức ăn biến thành nước mới nuốt là điều quan trọng nhất.
• Chà xát bằng khăn nóng mỗi sáng và trước khi ngủ.
• Mỗi ngày đi bộ nửa giờ để tập luyện cơ thể.
• Tắm và tắm nhanh dưới vòi sen mỗi ngày để vệ sinh cơ thể.
• Tốt nhất là không nên hút thuốc.
• Nếu vùng ngón cái viêm đau, thường xảy ra trong nhiều ca thống phong, rất nên mang tấtcô ton để bảo vệ.
Thelast
CHƯƠNG 6
CHĂM SÓC TẠI NHÀ BỆNH VIÊM KHỚP


Như chúng ta đã nói trong Chương 3, bệnh viêm khớp là hậu quả của sự tích lũy những chất thặng dư xung quanh các khớp. Tình trạng sản sinh và tích lũy thường đến trước khi bị thoái hóa xương, khớp và các mô nối. Những triệu chứng tổng quát như là rối loạn tiêu hóa, cảm, sốt, tiêu chảy, mụn nhọt và những báo hiệu khác cho biết là cơ thể đang nổ lực tống khứ cặn bã, căn nguyên của nó không gì khác hơn là sự mất cân bằng trong ẩm thực thường ngày.

Với cái nhìn dưỡng sinh, các triệu chứng có điểm lợi ích. Nó giúp cho cơ thể tống khứ cặn bã và đem lại sự thông suốt cho bệnh viêm khớp cũng như các bệnh nghiêm trọng khác. Khi chúng ta thực dưỡng tương đối đúng đắn, nếu có, chỉ xảy ra những vấn đề nhỏ và thường có thể giải quyết tại nhà bằng cách thay đổi lối ăn (đặc biệt là tránh các thức ăn đã tạo ra sự mất cân bằng) và chuẩn bị một vài món đặc biệt để chăm sóc tại nhà là đủ.

Với những thực phẩm thiên nhiên có thể nấu tại nhà trong bếp. Nó cũng đủ để giúp làm nhẹ các vấn đề thứ yếu như cảm, ho, bệnh ngoài da, sốt và rối loạn tiêu hóa. Khi áp dụng đúng đắn, các phương tiện cổ truyền này rất an toàn và không gây các phản ứng phụ, chúng đã được dùng như là một cách sống hòa hợp với thiên nhiên từ hàng ngàn năm nay.

Các thức uống đặc biệt và các hình thức khác để chăm sóc tại nhà sau đây nhằm mục đích giáo dục và không nên xem như là tiêu đề có tính chất y học. Bệnh nhân viêm khớp và các tình trạng nghiêm trọng khác thì luôn được khuyến cáo tìm kiếm một lời khuyên y khoa thích hợp. Vả lại, cũng đừng nên do dự tiếp xúc với một thầy hướng dẫn dưỡng sinh giỏi hoặc một trung tâm để được hướng dẫn sử dụng đúng cách những phương thức chăm sóc tại nhà.

Ngoài các mục thực phẩm được giới thiệu trong quyển sách này, bạn có thể tìm xem các sách nấu ăn cùng loại như quyển Macrobiotic Food and cooking Series, Arthritis tác giả Aveline Kushi, chủ biên Wendy Esko. Quyển này cung cấp các công thức, thực đơn và ý kiến để chuẩn bị các món ăn theo nguyên lý âm dương.
Thelast
1. Thức uống và thức trang trí :

* Xích tiểu đậu : Xích tiểu đậu là loại đậu hạt nhỏ, chắc, hình thuôn, màu đỏ hoặc nâu. Nó chứa ít chất mỡ và dầu hơn các loại đậu khác, ở Viễn Đông người ta xem nó như là một loại ngũ cốc. Được dùng như là một thức ăn phụ dưới dạng súp nấu chung với ngũ cốc và để ăn tráng miệng. Nó đã trở thành một thực phẩm chủ yếu trong các món dưỡng sinh.
Trà làm từ loại xích tiểu đậu có màu nâu sậm và bóng dùng làm mềm các chất rắn và làm khỏe thận. Ruột và thận là những cơ quan bài tiết, cả hai đều có chức năng chuyên biệt để thanh lọc các chất độc tích trữ trong cơ thể các chất này thường gây nên bệnh viêm khớp.

* Trà xích tiểu đậu : Đổ một tách xích tiểu đậu đã rửa sạch vào nồi, thêm ba hoặc bốn tách nước và một miếng rong phổ tai độ 2cm 50. Đậy nắp đem nấu nhỏ lửa để riu riu ba mươi đến bốn mươi lăm phút. Lọc lấy nước.
Trà xích tiểu đậu có thể dùng với các thức uống khác trong nhiều ngày. Xác đậu còn lại đem nấu súp hoặc nấu cơm với gạo lứt.

* Trà cọng ba năm : Hái cọng, cành, thân trà vào giữa mùa hạ, sao sơ. Các loại trà này chứa rất ít hoặc không có càfêin hoặc tanin.
Không như các loại khác có tính axit, trà bancha có tính kiềm nhẹ, vị dịu, có lợi cho sự tiêu hóa, cho chất lượng máu và cho đầu óc. Nó cũng thích hợp dùng cho trẻ em. Trong hầu hết gia đình dưỡng sinh, trà bancha là thức uống phổ thông trong các loại thức uống, được dùng vào giữa và cuối bữa ăn.
Thelast
* Trà cọng bancha còn gọi là trà Kukicha : Cách pha trà: Lấy một muỗng canh trà cọng cho vào khoảng một lít nước, đem nấu. Để nhỏ lửa sôi trong ba đến năm phút (vị nhẹ) hoặc từ mười đến mười lăm phút (vị nặng).

* Trà củ cải trắng daikon số 1: Củ cải trắng daikon là một loại thức ăn không thể thiếu được trong nhà bếp cổ truyền Viễn Đông xưa kia và nay ngay cả ở Mỹ. Loại củ nhỏ trông giống như củ cà rốt, mọc nhanh, phát triển đa dạng và có vị hăng.

Trà củ cải daikon nạo trong y học cổ truyền dùng hạ sốt do gây mồ hôi (không sử dụng cho người quá yếu hoặc trẻ nhỏ).

Cách chế : Nạo 1 hoặc 2 muỗng canh củ cải trắng daikon và cho vào tách, thêm 1/4 hoặc 1/2 muỗng trà gừng nạo và một muỗng canh tương cổ truyền tamori. Rót từ từ trà già bancha nóng hoặc nước sôi lên hỗn hợp, khuấy đều và uống nóng.
Thelast
*Trà củ cải trắng daikon số 2 : Trà này gây tiểu và làm êm dịu cơ thể.

Cách chế: Nạo một ít củ cải trắng daikon, đặt vào giữa một miếng vải sạch. Vắt nước lấy hai muỗng canh nước ép và trộn với khoảng sáu muỗng canh nước, cho vào soong thêm một nhúm muối. Đem nấu lửa nhỏ chừng một phút uống nóng.

Chỉ uống mỗi ngày một lần và tốt nhất là không uống liên tục quá ba ngày trừ khi có sự chỉ dẫn khác.

* Trà củ cải số 3 : Trà này giúp làm tan chất mỡ và đờm nhầy tích lũy trong cơ thể, đặc biệt tác dụng khi dùng quá nhiều mỡ và dầu.

Nạo một muỗng canh củ cải trắng cho vào tách, thêm vào đó một muỗng trà tương tamari, rót trà già ba năm vào cho ngập. Uống nóng.

Cũng như tất cả các loại trà củ cải trắng daikon, tốt nhất là không nên uống liên tục quá hai hoặc ba ngày ngoại trừ ca đặc biệt có chỉ định khác.

* Trà củ cải trắng daikon cà rốt : Trà này giúp cơ thể tống khứ mỡ và hòa tan các chất rắn tích lũy ở vùng ruột và ở các khớp.

Nạo một muỗng canh củ cải tươi và cà rốt. Cho hai tách nước vào soon, bỏ củ cải và cà rốt nạo vào, thêm một nhúm muối đem nấu nhỏ lửa từ 5 đến 8 phút.

* Trà củ cải khô : Trà này dùng hạ sốt cho người không thể dùng được củ cải sống.

Cách chế : Cho 1/4 tách củ cải khô daikon vào soon thêm 2 tách nước. Đậy lại và đem nấu với lửa nhỏ chừng mười phút, uống khi còn nóng.

* Củ cải nạo daikon dùng trang trí : Củ cải sống nạo dùng trang trí và giúp tiêu hóa chất dầu và mỡ trong thức ăn, như trong các món tempura hoặc mochi và nó còn giúp trong việc biến dưỡng các chất dầu và mỡ trong cá và trong các động vật khác.

Cách làm : Nạo hai muỗng củ cải daikon sống và rắc một ít tương tamari lên (có thể thêm một miếng gừng), dùng trang trí lên đĩa thức ăn.
Thelast
* Trà củ sen tươi : Ở các nước Viễn Đông, củ sen đã được biết từ hàng nhiều thế kỷ trong tác dụng làm nhẹ các vấn đề của bộ hô hấp, gồm ho, thở tắt nghẹt. Rễ của hoa sen mọc dưới nước thành từng đoạn, có màu nâu nhạt và bên trong có những lỗ hỗng. Có thể chế biến làm nhiều món ăn với các loại rễ rau củ khác hoặc với rong biển. Củ sen còn dùng chế làm trà uống hoặc làm cao đắp.

Cách chế : Rửa sạch rồi nạo khoảng 10cm củ sen. Vắt bằng vải lấy độ một tách nước củ sen. Thêm vào bằng chừng ấy nước xong cho vào soong, thêm một nhúm muối đem nấu. Hạ lửa thật nhỏ nấu từ ba đến năm phút, uống ngày một đến hai tách trong nhiều ngày.

* Trà bột củ sen : Để đóng gói, người ta dùng bột củ sen cho tiện, trà này có cũng tác dụng như trà củ sen tươi, có bán ở các cửa hiệu bán thực phẩm thiên nhiên.
Thelast
* Trà phổ tai : Phổ tai (kombu) thuộc bộ rong biển Laminaria bao gồm những loại bẹ, rong, tảo và nhiều loại ở vùng biển sâu, lá rộng và dày. Ở Nhật nó được thu hoạch ở bờ biển phía Nam Hokkaido. Vào gần cuối mùa hạ, người ta dùng thuyền và một cây sào dài để thu hoạch nó, đem phơi nơi có gió và cất giữ từ hai đến ba năm trong bóng râm trước khi đem bán dưới nhiều dạng.

Trong y học cổ truyền, rong biển đặc biệt được biết có tác dụng làm mạnh tim, lọc máu và tốt chung cho hệ thống tuần hoàn. Nó còn rất hữu ích cho thận, hệ bài tiết và cơ quan sinh sản, làm dẻo các mạch máu, gân, mô tế bào và các khớp, đem lại sự dẻo dai, nhu nhuận cho nhiều hệ thống tương quan của cơ thể.

Cũng như các loại rong ăn được khác, phổ tai rất giàu muối khoáng và các chất dinh dưỡng khác, và nó giúp tống khứ các chất độc tích lũy ở các cơ quan, ở mạch máu và ở các khớp. Trà làm từ phổ tai cung cấp nhiều chất dinh dưỡng. Có hai cách căn bản để chế trà phổ tai:

1. Đổ khoảng một lít nước vào nồi và thêm vào đó một miếng phổ tai 10cm. Đậy lại và đem nấu, ninh cho đến khi chỉ còn lại hai tách.

2. Lấy độ 15cm phổ tai đặt vào lò nướng ở nhiệt độ 175oC trong mười đến mười lăm phút cho đến khi phổ tai giòn và dễ vỡ nhưng không bị cháy, cho vào cối đất xay thành bột mịn.

Mỗi lần dùng lấy nửa muỗng trà bột phổ tai cho vào tách, rót nước sôi vào, khuấy đều và uống khi còn nóng.

Bạn có thể dùng một tách hay hơn nữa loại trà này trong nhiều ngày liên tục hoặc thưởng thức như là một thức uống nhiều lần trong tuần.

* Trà lúa mạch và trà gạo lứt : Cũng như trà già ba năm, trà ngũ cốc lứt giúp điều hòa sự bổ dưỡng, nó cũng giúp loại trừ các chất thăng dư do ăn quá nhiều mỡ và protein động vật. Trà này còn giúp làm da bớt khô, đặc biệt là nơi tay và chân, đồng thời còn làm khỏe phổi và đại tràng (trà gạo lứt), khỏe gan và mật (trà lúa mạch barley).

Cách chế : Rang một đến hai muỗng canh lúa mạch hoặc 1/4 tách gạo lứt, thêm vào đó độ một lít nước. Đem nấu nhỏ lửa trong mười phút, dùng làm thức uống chủ yếu mỗi ngày. Trà lúa mạch giúp làm cân bằng lại các khớp bị hóa cứng do dùng quá nhiều thực phẩm động vật.
Thelast
* Trà nấm sồi shitake : Nguồn gốc nấm sồi ở Viễn Đông, ngày nay nó còn được trồng ở Mỹ. Nó rất ngon và có thể dùng dưới dạng tươi hoặc khô. Từ nhiều thế kỷ nay nấm sồi đã được dùng để cân bằng khi dùng các loại thịt động vật và các loại dược phẩm khác. Trà nấm sồi còn được dùng làm êm dịu các tình trạng căng cứng của các khớp do dùng quá nhiều muối và thức ăn động vật.

Cách chế : Bỏ một tai nấm sồi vào nồi. Thêm hai tách nước. Đem nấu nhỏ lửa (đậy nắp) với một chút muối hoặc một muỗng trà tương tamari cho đến khi còn lại một tách. Lọc và uống mỗi lần nửa tách khi còn nóng.
Đây là phiên bản "lo-fi" của nội dung trang chính. Để xem phiên bản đầy đủ với nhiều thông tin hơn , xin hãy nháy vào đây.
Invision Power Board © 2001-2024 Invision Power Services, Inc.