ÂN ÐỨC PHẬT THỨ TÁM
VIII- Itipi so Bhagavà Buddho
(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa Bút-thô).
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Buddho = Ðức Phật.
Buddho nghĩa là đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh; rồi Ngài thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành; cũng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả; Nhất Lai Thánh Ðạo - Nhất Lai Thánh Quả; Bất Lai Thánh Ðạo - Bất Lai Thánh Quả; Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả tùy theo 5 pháp chủ và ba la mật của mỗi chúng sinh.
Do đó, Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Buddho = Ðức Phật.
Ân Ðức "Sammàsambuddho" và Ân Ðức "Buddho" khác nhau như thế nào?
- Ân Ðức Sammàsambuddho nghĩa là tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh.
Ân Ðức Sammàsambuddho có 2 loại trí tuệ đặc biệt là:
- Trí tuệ chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế đầu tiên.
- Trí tuệ thành (pativedhanàna).
- Ân Ðức Buddho nghĩa là không chỉ tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh, mà còn thuyết pháp giáo huấn chúng sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả; Nhất Lai Thánh Ðạo - Nhất Lai Thánh Quả; Bất Lai Thánh Ðạo - Bất Lai Thánh Quả: Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả tùy theo 5 pháp chủ và ba la mật của mỗi chúng sinh.
Ân Ðức Buddho có 2 loại trí tuệ đặc biệt là:
*Trí tuệ của Bậc Toàn Giác (Sabbannutanàna),
* Trí tuệ giáo hóa chúng sinh (desanànàna).
Ðối với Ðức Phật có trọn đủ các loại trí tuệ:
- 4 tuệ phân tích (patisambhidànàna).
- 6 tuệ cá biệt (asàdhàrananàna).
- 10 tuệ lực (dasabalanàna)...
thành tựu cùng lúc với Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả.
Niệm Ân Ðức Buddho
Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật "Ân Ðức Buddho" này sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng lòng tôn kính nơi Ðức Thế Tôn có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Buddho..., Buddho..., Buddho...", hoặc câu Ân Ðức Buddho: là "Itipi so Bhagavà Buddho..., Itipi so Bhagavà Buddho..., Itipi so Bhagavà Buddho...", làm đối tượng thiền định...
(Phần còn lại giống như Ân Ðức Araham).
Xâu chuỗi của sư Hộ Pháp cho chúng tôi
ÂN ÐỨC PHẬT THỨ CHÍN
IX- Itipi so Bhagavà
(Cách đọc: Í-tí-pí-xô phá-gá-voa).
Ðức Thế Tôn có Ân Ðức Bhagavà.
Ân Ðức Bhagavà = Ðức Thế Tôn vô cùng cao thượng nhất trong toàn thế giới chúng sinh. Ân đức này, không phải phụ vương, mẫu hậu của Ngài đ?t tên, cũng không phải chư thiên, phạm thiên nào suy tôn Ngài.
Sự thật, Ân Ðức Bhagavà này là kết quả qua một quá trình tiến triển tạo 30 pháp hạnh ba la mật trải qua 3 thời kỳ của Ðức Chánh Ðẳng Giác Bồ Tát.
Ví dụ:
Trường hợp Ðức Phật Gotama trong thời đại chúng ta.
Tiền thân của Ðức Phật Gotama là Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt, nghĩa là trí tuệ có năng lực hơn cả đức tin và tinh tấn, đã tạo 30 pháp hạnh ba la mật trải qua 3 thời kỳ.
1- Thời kỳ phát nguyện trong tâm: Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt phát nguyện trong tâm, đồng thời tạo 30 pháp hạnh ba la mật: 10 pháp hạnh ba la mật bậc thường, 10 pháp hạnh ba la mật bậc trung, 10 pháp hạnh ba la mật bậc thượng suốt thời gian 7 a tăng kỳ (A tăng kỳ âm từ Pàli: asankheyya nghĩa là trải qua vô số kiếp trái đất).
2- Thời kỳ phát nguyện bằng lời: Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt đã trải qua 7 a tăng kỳ tạo 30 pháp hạnh ba la mật, có đủ năng lực phát nguyện bằng lời cho tất cả chúng sinh nghe biết nguyện vọng của mình, phát nguyện sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác trong thời vị lai, để tế độ chúng sinh, đồng thời tiếp tục tạo 30 pháp hạnh ba la mật thêm suốt 9 a tăng kỳ nữa.
Qua 2 thời kỳ này vẫn còn là Ðức Bồ Tát bất định (aniyatabodhisatta), nghĩa là có thể thay đổi nguyện vọng của mình, trở thành Ðức Phật Ðộc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác.
3- Thời kỳ được Ðức Phật thọ ký: Ðức Bồ Tát có trí tuệ ưu việt sau khi đã trải qua 2 thời kỳ: phát nguyện trong tâm và bằng lời, có đầy đủ năng lực mạnh, có thiện tâm bất thối chí, Ðức Bồ Tát có duyên lành đến hầu Ðức Phật.
Trường hợp vị đạo sĩ Sumedha (tiến thân của Ðức Phật Gotama) đến hầu Ðức Phật Dìpankara. Ðức Phật Dìpankara có Phật nhãn thông suốt vị lai, biết rõ nguyện vọng của vị đạo sĩ Bồ Tát Sumedha sẽ thành tựu được như ý, nên Ðức Phật Dìpankara thọ ký vị đạo sĩ rằng:
"Trong thời vị lai, còn 4 a tăng kỳ và 100.000 đại kiếp trái đất [*] nữa, vị đạo sĩ Bồ Tát Sumedha này sẽ trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác có danh hiệu Gotama".
[*] Ðại kiếp trái đất dịch từ danh từ Pàli "kappa": thời gian kiếp trái đất trải qua 4 a tăng kỳ thành-trụ-hoại-không.
Ngài đương nhiên trở thành Ðức Bồ Tát cố định (niyatabodhisatta), bất thoái chí, tiếp tục bồi bổ 30 pháp hạnh ba la mật trải qua 24 Ðức Phật thọ ký, Ðức Phật thọ ký cuối cùng là Ðức Phật Kassapa.
Ðức Bồ Tát kiếp chót là Thái tử Siddhattha xuất gia hành đạo tại đại cội Bồ Ðề vào canh chót ngày rằm tháng tư (âm lịch). Ngài đã chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh. Ðồng thời trở thành bậc Chánh Ðẳng Giác nên có Ân Ðức Bhagavà = Ðức Thế Tôn.
Ân đức Bhagavà có 6 đức chính: Issariya, Dhamma, Yasa, Siri, Kàma, Payatta.
1- Thế nào gọi Issariya: Tự chủ?
Ðức Thế Tôn có tâm tự chủ các pháp tam giới và siêu tam giới.
- Tâm tự chủ pháp tam giới: như Ðức Thế Tôn hóa phép thần thông song hành (yamakapatihàriya) có 2 luồng nước và lửa phát xuất từ kim thân của Ngài; một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên trái, rồi thay đổi, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên trái ; cũng như vậy đến 2 mắt, 2 lỗ tai...
- Tâm tự chủ pháp siêu tam giới: Ðức Phật thuyết pháp xong, các hàng đệ tử đồng thanh nói lên lời hoan hỉ "Sàdhu - sàdhu" trong thời gian khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Ðức Thế Tôn có thể nhập Arahán Thánh Quả định để hưởng sự an lạc Niết Bàn.
Ðó gọi là Issariya = tự chủ.
2- Thế nào gọi là Dhamma: Chánh pháp?
Ðức Thế Tôn đã chứng đắc 9 siêu tam giới pháp đó là 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn đầu tiên trong toàn thế giới chúng sinh, diệt đoạn tuyệt tất cả 1.500 loại phiền não, 108 loại tham ái, và tất cả mọi tiền khiên tật do tích lũy vô lượng kiếp quá khứ.
Ðó gọi là Dhamma = Chánh pháp.
3- Thế nào gọi là Yasa: Tiếng tốt lành?
Ân đức của Ðức Thế Tôn được lan truyền khắp tất cả mọi chúng sinh, khắp mọi nơi từ cõi người cho đến cõi long vương, đến chư thiên ở 6 cõi trời dục giới, đến chư phạm thiên ở 15 cõi trời sắc giới (trừ cõi Vô tưởng thiên). Và thậm chí ngay cả chư phạm thiên ở cõi vô sắc giới cũng niệm tưởng đến Ân Ðức Phật.
Ðó gọi là Yasa = Tiếng tốt lành.
4- Thế nào gọi là Siri: Hạnh phúc?
Kim thân của Ðức Thế Tôn có đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của bậc thượng nhân, có hào quang mát mẻ phát ra từ kim thân của Ngài. Nên nhân loại, chư thiên, phạm thiên đến hầu đảnh lễ cúng dường đến Ðức Thế Tôn, lúc nào cũng cảm thấy hạnh phúc an lạc phát sanh hỉ lạc. Cho nên, những chúng sinh đến hầu Ðức Thế Tôn bao nhiêu lần cũng cảm thấy chưa đủ.
Ðó gọi là Siri - Hạnh phúc.
5- Thế nào gọi là Kàma: Nguyện ước thành tựu?
Ðức Thế Tôn khi còn là Ðức Bồ Tát Sumedha có nguyện ước:
- "Buddho bodheyyam". Như Lai tự mình chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế trở thành Ðức Phật rồi, sẽ giáo hóa chúng sinh cùng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế để trở thành bậc Thánh nhân (tự giác - giác tha).
Ðiều ước nguyện ấy đã thành tựu.
- "Mutto moceyyam". Như Lai tự mình giải thoát khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài rồi, sẽ giáo huấn chúng sinh cũng được giải thoát cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài (tự độ - độ tha).
Ðiều nguyện ước ấy đã thành tựu.
- "Tinno tareyyam". Như Lai tự mình vượt qua biển khổ luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc rồi, sẽ dẫn dắt chúng sinh cùng vượt qua biển khổ luân hồi đạt đến Niết Bàn an lạc (tự đáo - đáo tha).
Ðiều nguyện ước ấy đã thành tựu.
Ðó gọi là Kàma = nguyện ước thành tựu.
6- Thế nào gọi là Payatta: Tinh tấn không ngừng?
Hằng ngày Ðức Thế Tôn có sự tinh tấn không ngừng hành 5 phận sự gọi là Buddhakicca =phận sự của Ðức Phật (Bộ Chú giải Anguttaranikàya, phần Ekakanipata...)
Năm phận sự của Ðức Phật.
1- Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ (pure-bhattakicca).
2- Phận sự sau khi độ ngọ (pacchàbhattakicca).
3- Phận sự canh đầu đêm (pathamayàma).
4- Phận sự canh giữa đêm (majjhimayàma).
5- Phận sự canh chót đêm (pacchimayàma).
Giải thích:
a) Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ như thế nào?
Mỗi buổi sáng đến giờ đi khất thực, đôi khi Ðức Phật ngự đi khất thực một mình để tế độ chúng sinh nào đó; đôi khi Ðức Phật cùng với chư Tỳ khưu Tăng ngự đi vào xóm, thành để khất thực. Khi Ðức Phật thọ thực xong, có số dân chúng thỉnh Ðức Phật thuyết pháp; có số xin quy y Tam bảo thọ trì ngũ giới... có số xin Ðức Phật cho phép xuất gia xong, Ðức Phật ngự trở về chùa.
Phận sự sau khi độ ngọ như thế nào?
Khi Ðức Phật ngự trở về chùa, rửa chân xong, đứng trên bục giảng, Ngài khuyên dạy chư Tỳ khưu:
"Bhikkhave appamàdena sampàdetha.
Dullabho Buddhuppàdo lokasmim.
Dullabho manussattapatilàbho.
Dullabhà khanasampatti.
Dullabhà pabbajjà
Dullabham saddhammassavanam".
"Này chư Tỳ khưu! Các con hãy nên cố gắng hoàn thành mọi phận sự Tứ thánh đế, bằng pháp không dễ duôi, tiến hành Tứ niệm xứ.
- Ðức Phật xuất hiện trên thế gian là một điều khó.
- Ðược sanh làm người là một điều khó.
- Có được cơ hội hành phạm hạnh cao thượng là một điều khó.
- Ðược xuất gia trở thành Tỳ khưu là một điều khó.
- Ðược nghe chánh pháp là một điều khó".
Ðó là những điều khó mà Ðức Phật hằng ngày thường khuyên dạy chư Tỳ khưu chớ nên dễ duôi!
Ðức Phật ngự vào cốc Gandhakuti, còn chư Tỳ khưu mỗi vị, mỗi nơi để tiến hành thiền định, hoặc tiến hành thiền tuệ.
c) Phận sự canh đầu đêm như thế nào?
Canh đầu: Ðức Phật giáo huấn chư Tỳ khưu, có số hỏi pháp, luật; có số xin thọ pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ; có số nghe pháp. Qua hết canh đầu, chư Tỳ khưu đảnh lễ Ðức Phật trở về chỗ ở của mình.
d) Phận sự canh giữa đêm như thế nào?
Canh giữa: Ðức Phật cho phép chư thiên, phạm thiên trong 10.000 thế giới đến hầu Ngài, đảnh lễ xong đứng một nơi hợp lẽ bạch hỏi pháp. Ðức Phật giảng giải những câu hỏi của chư thiên, phạm thiên xong, hết canh giữa, chư thiên, phạm thiên đảnh lễ Ðức Phật trở về cảnh giới của mình.
e) Phận sự canh chót đêm như thế nào?
Ðức Phật phân chia canh chót làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: Ðức Phật đi kinh hành.
- Giai đoạn giữa: Ðức Phật ngự vào cốc Gandhakuti nghỉ ngơi, nằm nghiêng bên phải, có trí nhớ trí tuệ biết mình thức dậy.
- Giai đoạn chót: Ðức Phật nhập đại bi định, khi xả định quán xét chúng sinh trong 10.000 thế giới bằng Phật nhãn tuệ, xem xét chúng sinh nào đã có gieo duyên lành với Ngài, đã từng tạo ba la mật từ chư Phật quá khứ đến kiếp hiện tại này, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả, Ngài ngự đến để tế độ chúng sinh ấy, dầu ở gần hay xa; ở thế giới này hay thế giới khác.
Mỗi ngày mỗi đêm Ðức Thế Tôn hành trọn đủ 5 phận sự ròng rã suốt 45 năm, cho đến giây phút cuối cùng tịch diệt Niết Bàn.
Ân Ðức Bhagavà còn nhiều ý nghĩa khác.
Ðức Thế Tôn là bậc có trọn đủ các pháp của bậc Tôn Sư.
Do đó, Ngài có Ân Ðức Bhagavà = Ðức Thế Tôn.
Niệm Ân Ðức Bhagavà
Người Phật tử thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, "Ân Ðức Bhagavà" này sẽ phát sanh đức tin trong sạch nơi Ðức Thế Tôn, có trí tuệ sáng suốt, phát sanh hỉ lạc, tăng trưởng tâm tôn kính nơi Ðức Thế Tôn, có lòng dũng cảm, tránh khỏi mọi điều tai hoạ, phước thiện được tăng trưởng.
Hành giả tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức "Bhagavà..., Bhagavà..., Bhagavà...," hoặc câu Ân Ðức Bhagavà: "Itipi so Bhagavà..., Itipi so Bhagavà..., Itipi so Bhagavà...", làm đối tượng thiền định. Ðề mục Ân Ðức Phật này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc vi tế, rộng lớn vô lượng vô biên, vì vậy định tâm không thể an trú vào một điểm nào nhất định, nên chỉ có khả năng chứng đạt đến cận định, mà không thể chứng đạt đến an định, nên không thể chứng đắc được bậc thiền hữu sắc nào. Như vậy, cận định tâm vẫn còn thuộc dục giới đại thiện tâm.
(Phần còn lại giống Ân Ðức Araham).
* * *
Ðề mục niệm 9 Ân Ðức Phật là một đề mục thiền định vô cùng sâu sắc, vi tế, rộng lớn, vô lượng vô biên, vô tận. Do đó, định tâm không thể an trú một đ?i tượng nào nhất định để đạt đến an định, nên không thể chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, mà chỉ có thể đạt đến cận định mà thôi.
Tiến hành niệm Ân Ðức Phật này, hành giả tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Ðức Phật, có lòng tôn kính sâu sắc nơi Ðức Phật, phát sanh hỉ lạc, thân tâm an tịnh, làm vắng lặng phiền não; có trí tuệ sáng suốt, phước thiện tăng trưởng, đặc biệt có thể tránh khỏi những điều rủi ro tai hại đến sanh mạng, cuộc sống thường được an lạc.
Hành giả thường niệm Ân Ðức Phật có cảm tưởng như gần gũi với Ðức Phật, nên tâm luôn luôn có sự hổ thẹn và ghê sợ mọi tội lỗi, nên giữ gìn giới hạnh trong sạch dễ dàng. Hành giả có giới hạnh trong sạch, có định tâm thường niệm tưởng đến Ân Ðức Phật, sau khi chết hy vọng chắc chắn sẽ tái sanh nơi cõi thiện giới.
- Nếu tái sanh làm người sẽ là người có trí tuệ, có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ, ở địa vị cao quý.
- Nếu tái sanh làm chư thiên, sẽ là một thiên nam hoặc thiên nữ có nhiều oai lực, hào quang sáng ngời, hưởng sự an lạc đặc biệt hơn các chư thiên khác.
Hơn thế nữa, tái sanh kiếp nào, nếu gặp Ðức Phật hoặc giáo pháp của Ðức Phật sẽ dễ dàng phát sanh đức tin trong sạch nơi Tam bảo, lắng nghe chánh pháp, thực hành theo chánh pháp, dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát mọi cảnh khổ tử sanh luân hồi trong ba giới bốn loài.
QUẢ BÁU CỦA ÐỀ MỤC NIỆM ÂN ÐỨC PHẬT
Niệm Ân Ðức Phật có oai lực tránh được tai họa
Dàrusàkatikaputtavatthu: tích đứa bé, con trai người đốn củi, được tóm lược như sau (Dhammapadatthakathà, chuyện Dàrusàkatikaputtavatthu):
- Trong thành Ràjagaha có 2 đứa bé trai:
Một đứa có chánh kiến, con của gia đình người làm nghề đốn củi, có đức tin nơi Tam bảo.
Một đứa có tà kiến, con của gia đình ngoại đạo.
Hai đứa thường chơi trò bắn bi, đến phiên đứa bé chánh kiến, trước khi bắn viên bi, nó niệm tưởng Ân Ðức Phật rằng: "Namo Buddhassa = con thành kính đảnh lễ Ðức Phật" rồi mới bắn; lần nào nó cũng bắn trúng đích, được thắng cuộc.
Ðến phiên đứa bé tà kiến, trước khi bắn viên bi, nó cũng niệm tưởng vị Arahán của nó rằng:"Namo Arahantànam ï= con thành kính đảnh lễ chư Arahán" [*] rồi mới bắn; lần nào nó cũng bắn không trúng đích, bị thua luôn.
[*] Ngoại đạo không có bậc Thánh Arahán thật, gọi là vị Arahán chỉ là cách tôn xưng, cho nên không có oai lực nào cả.
Một hôm, đứa bé chánh kiến theo cha ngồi trên chiếc xe bò đi vào rừng đốn củi. Buổi chiều chở củi về nhà ở trong thành Ràjagaha. Khi đến gần nghĩa địa bên ngoài cổng thành, người cha đứa bé cho xe ngừng lại, thả bò cho ăn cỏ, uống nước. Con bò đi theo đường vào thành, người cha đi tìm bò theo dấu chân vào thành. Khi gặp được con bò, ông định dắt bò trở ra thì cửa thành đã đóng rồi, người cha đành ở lại trong thành chờ đến sáng mai.
Ðứa con trai nhỏ nằm trên xe củi chờ người cha, đói khát ngất xtu nằm ngủ thiếp đi trong xe củi. Ban đêm, có hai dạ xoa đi kiếm ăn, một dạ xoa có chánh kiến và một dạ xoa có tà kiến, cả hai dạ xoa nhìn thấy đứa bé nằm ngủ mê trên xe, dạ xoa tà kiến bảo rằng: "Ðứa bé kia là vật thực của chúng ta, chúng ta sẽ ăn thịt nó". Mặc dầu dạ xoa chánh kiến can ngăn, dạ xoa tà kiến vẫn tiến đến đưa tay nắm đôi chân đứa bé, đứa bé này vốn là con của gia đình có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, cha mẹ dạy cậu bé thường ngày niệm Ân Ðức Phật, nên khi dạ xoa vừa nắm chân đứa bé, đứa bé thức tính, cậu liền niệm Ân Ðức Phật rằng: "Namo Buddhassa". Dạ xoa tà kiến nghe đến Ân Ðức Phật, kinh hoàng hoảng sợ rút tay lại. Liền khi ấy, dạ xoa chánh kiến bảo rằng: "Chúng ta đã phạm phải một tội lỗi lớn rồi! Chúng ta phải chịu hành phạt thôi!".
- Ðứa bé này đang bị đói khát, vậy nhà ngươi hãy vào trong cung điện Ðức Vua đem mâm đồ ăn của Ðức Vua cho đứa bé này ăn, để lập công chuộc tội lỗi của nhà ngươi. - Dạ xoa chánh kiến bảo.
Dạ xoa tà kiến nghe nói phải, nên biến vào thành lấy mâm đồ ăn ra. Một dạ xoa hóa làm cha và một dạ xoa hóa làm mẹ của đứa bé, cho đứa bé ăn giống như cha mẹ của đứa bé hằng ngày. Ðứa bé ăn xong, dỗ đứa bé nằm ngủ ngon; trước khi hai dạ xoa từ giã đứa bé; khắc chữ cho biết những sự việc xảy ra trên chiếc mâm vàng, với cố ý chỉ để một mình Ðức Vua thấy biết mà thôi, còn những người khác không thấy, không biết được. Hai dạ xoa trở về chỗ ở của mình.
Sáng hôm sau, trong cung điện của Ðức Vua phát giác chiếc mâm vàng cả đồ ăn bị mất trộm. Lnnh thị vệ đi lục soát khắp nơi không tìm gặp, rồi ra khỏi thành nhìn thấy chiếc mâm vàng và bộ đồ chén đĩa của Ðức Vua nằm trên xe củi, thấy đứa bé trong xe, bèn hỏi: "Những đồ vật này từ đâu có?". Ðứa bé trả lời: "Cha mẹ của con đem đến cho con ăn". Quân thị vệ bắt đứa bé với tang vật rõ ràng, dẫn đến trình Ðức Vua.
Ðức Vua Bimbisàra cầm chiếc mâm vàng tang vật, nhìn thấy những dòng chữ của dạ xoa ghi lại. Ðức Vua hỏi cậu bé:
- Này con, sự việc xảy ra như thế nào?
Ðứa bé tâu:
- Tâu Ðức Vua, con không ăn trộm, đêm qua cha mẹ con mang đến cho con ăn rồi dỗ con ngủ. Con chỉ biết như vậy thôi.
Ðức Vua truyền lệnh bắt cha mẹ đứa bé dẫn đến trình Ðức Vua, rồi dẫn đứa bé và cha mẹ của nó cùng nhau đến hầu Ðức Phật tại chùa Veluvana. Ðảnh lễ Ðức Thế Tôn xong bèn bạch rằng:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, có phải chỉ có niệm Ân Ðức Phật mới hộ trì cho người hành pháp? Còn niệm Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng... có hộ trì cho người hành pháp được hay không? Bạch Ngài.
Ðức Phật dạy:
- Này Ðại Vương! Không chỉ niệm Ân Ðức Phật mới hộ trì cho người hành pháp, mà còn niệm Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng, niệm thân ô trược, niệm rải tâm từ, niệm rải tâm bi... cũng được hộ trì cho người hành pháp vậy.
Người Phật tử, ngày đêm tinh tấn niệm Ân Ðức Phật: "Itipi so Bhagavà Araham...", hoặc niệm ân Ðức Pháp: "Svàkhàto Bhagavatà dhammo...", hoặc niệm Ân Ðức Tăng:"Suppatipanno Bhagavato sàvakaSangho...", sẽ là người luôn luôn được tâm trí sáng suốt, không mê muội, tránh mọi tai họa xảy đến cho mình.
Nhân cơ hội ấy, Ðức Phật thuyết pháp tế độ, cậu bé và cha mẹ của cậu bé đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Về sau, cả người cha, người mẹ và đứa con đều xuất gia tiến hành thiền tuệ chứng đắc đến Arahán Thánh Ðạo, Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán.
Oai Lực Niệm Ân Ðức Tam Bảo
Tích Ðại Ðức Mahàkappina (Bộ Dhammapadatthakathà, chuyện Mahàkappinattheravatthu), khi Ngài còn là một vị Vua trị vì kinh thành Kukkutavatì. Một hôm, Ðức Vua cùng 1.000 vị quan cận thần cưỡi ngựa du lãm ngoài thành, gặp nhóm người lái buôn từ kinh thành Sàvatthi đi vào thành, Ðức Vua bèn hỏi:
- Này các ngươi, ở kinh thành Sàvatthi có tin lành gì không?
- Tâu Ðức Vua: Buddho uppanno! = Ðức Phật đã xuất hiện trên thế gian!
Ðức Vua vừa nghe đến danh hiệu "Buddho", thì liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có. Ðức Vua hỏi lại đến lần thứ ba, những người lái buôn đều tâu như lần trước, lần nào cũng phát sanh hỉ lạc như vậy. Ðức vua hỏi tiếp:
- Còn tin lành nào khác nữa?
- Tâu Ðức Vua: Dhammo uppanno! = Ðức Pháp đã xuất hiện!
Ðức Vua vừa nghe đến "Dhammo", như lần trước, liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nên hỏi đến lần thứ ba, nghe tâu đến lần thứ ba, lần nào cũng phát sanh hỉ lạc như vậy. Ðức vua hỏi tiếp:
- Còn tin lành nào khác nữa?
- Tâu Ðức Vua: Sangho uppanno! = Ðức Tăng đã xuất hiện!
Ðức Vua vừa nghe đến "Sangho", như hai lần trước, liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nên hỏi đến lần thứ ba, nghe tâu đến lần thứ ba, lần nào cũng phát sanh hỉ lạc như vậy.
Ðức Vua lấy tấm biển vàng ghi 300 ngàn đồng tiền vàng làm tiền thưởng, rồi trao cho nhóm người lái buôn, truyền lệnh đem đến trình Hoàng hậu Anojà để lãnh thưởng. Trong biển vàng, Ðức Vua ghi rõ, xin trao ngai vàng lại cho Hoàng hậu lên ngôi trị vì đất nước.
Ðức Vua không hồi cung, cùng 1.000 vị quan cận thần từ đó đi đến hầu Ðức Phật. Trên đường đi gặp con sông Aparacchà sâu và rộng lớn, nơi đây không thuyền bè, với tâm mong muốn sớm hầu Ðức Phật, nên Ðức Vua niệm Ân Ðức Phật: "Itipi so Bhagavà Araham, Sammàsambuddho, Vijjàcaranasampanno, Sugato, Lokavidù, Anuttaropurisadammasàrathi, Satthàdeva-maussànam, Buddho, Bhagavà". Do oai lực của Ân Ðức Phật, Ðức Vua cùng 1.000 vị quan cưỡi ngựa băng qua sông ấy một cách dễ dàng.
Tiếp đến gặp con sông Nìlavàhinì, cũng sâu và rộng lớn không thuyền bè, như lần trước, Ðức Vua niệm Ân Ðức Pháp: "Svàkkhàto Bhagavatà Dhammo, Sanditthiko, Akàliko, Ehipassiko, Opaneyyiko, Paccattam veditabbo vinnùhi". Do oai lực của Ân Ðức Pháp, Ðức Vua cùng các quan cưỡi ngựa băng ngang qua sông ấy một cách dễ dàng như trước.
Tiếp đến lại gặp con sông Candabhàgà, cũng sâu và rộng lớn không thuyền bè, như hai lần trước, Ðức Vua niệm Ân Ðức Tăng: "Suppatipanno Bhagavato SàvakaSangho, Ujuppatipanno Bhagavato SàvakaSangho, Nàyappatipanno Bhagavato SàvakaSangho, Sàmìcippatipanno Bhagavato SàvakaSangho, yadidam cattàrì purisayugàni attha purisapuggalà. Esa Bhagavato SàvakaSangho Àhuneyyo, Pàhuneyyo, Dakkhineyyo, Anjalikaranìyo, Anuttaram punnakkhettam lokassa". Do oai lực của Ân Ðức Tăng, Ðức Vua cùng các quan cưỡi ngựa băng ngang con sông ấy một cách dễ dàng như hai lần trước.
Như đã biết trước, Ðức Phật ngồi dưới gốc cây phóng hào quang 6 màu sáng ngời làm hiệu cho Ðức Vua cùng 1.000 vị quan biết. Tất cả đều đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn xong, rồi ngồi nghe Ngài thuyết pháp. Nghe xong, Ðức Vua cùng 1.000 vị quan đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi đảnh lễ Ðức Phật xin xuất gia trở thành Tỳ khưu. Ðức Phật quán xét thấy rõ tất cả đều có phước thiện phát sanh 8 món vật dụng của Sa môn, nên Ngài đưa bàn tay phải chỉ bằng ngón trỏ mà truyền dạy:
"Etha bhikkhavo, caratha brahmacariyam sammà dukkhassa antakiriyàya".
"Các con hãy lại đây! Các con trở thành Tỳ khưu theo nguyện vọng! Chánh pháp mà Như Lai thuyết giảng hoàn hảo đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối, các con hãy thực hành phạm hạnh đúng đắn dẫn đến sự tận cùng của khổ đế".
Khi Ðức Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì, Ðức Vua cùng 1.000 vị quan trở thành Tỳ khưu có đầy đủ 8 món vật dụng của Sa môn được phát sanh do thần thông. Chư Tỳ khưu ấy có tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh tịnh như vị Tỳ khưu 60 hạ.
Về phần những người lái buôn khi nhận được biển vàng do Ðức Vua ban cho, đi thẳng vào cung điện xin yết kiến Hoàng hậu Anojà, trình chiếu chỉ xin lãnh thưởng 300 ngàn đồng vàng. Hoàng hậu thấy vậy bèn hỏi:
- Các ngươi làm việc gì mà Hoàng thượng ban thưởng số tiền lớn như vậy?
- Tâu Hoàng hậu, chúng thần không làm công việc gì, chỉ có báo một tin lành mà thôi.
- Các ngươi có thể nói cho ta nghe được không?
- Tâu Hoàng hậu! Có thể được: Buddho uppanno! = Ðức Phật đã xuất hiện trên thế gian!
Hoàng hậu vừa nghe đến danh hiệu "Buddho" thì liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có, bà hỏi lại đến lần thứ ba, các người lái buôn tâu lại như lần trước, lần nào cũng phát sanh hỉ lạc. Bà truyền bảo:
- Còn tin lành nào khác nữa?
- Tâu Hoàng hậu: Dhammo uppanno! = Ðức Pháp đã xuất hiện!
Hoàng hậu vừa nghe đến "Dhammo", như lần trước liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nên hỏi lại lần thứ ba, nghe tâu lần nào cũng phát sanh hỉ lạc như vậy. Bà truyền tiếp:
- Còn tin lành nào khác nữa?
- Tâu Hoàng hậu: Sangho uppanno! = Ðức Tăng đã xuất hiện!
Hoàng hậu vừa nghe đến "Sangho", như hai lần trước, liền phát sanh hỉ lạc chưa từng có, nên hỏi lại lần thứ ba, nghe tâu lần nào cũng phát sanh hỉ lạc như vậy.
Hoàng hậu truyền dạy:
- Ba tin lành lớn lao đến dường ấy, mà Hoàng thượng ban thưởng cho các người có 300 ngàn. Còn ta, mỗi tin lành, ta ban thưởng cho các ngươi 300 ngàn, các ngươi được lãnh thưởng 900 ngàn tiền vàng".
Như vậy, các lái buôn chỉ báo tin lành Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng đã xuất hiện mà được lãnh thưởng 1.200 ngàn đồng tiền vàng.
- Hoàng Thượng cùng 1.000 quan cận thần đi đâu? - Hoàng hậu hỏi tiếp.
- Tâu Hoàng hậu, Ðức Vua cùng 1.000 quan cận thần đi đến hầu Ðức Phật và sẽ xuất gia. - Các lái buôn trả lời.
Nghe tâu như vậy, Hoàng hậu truyền gọi phu nhân của 1.000 vị quan đến báo tin:
- Hoàng thượng của chúng ta hay tin lành Ðức Phật, Ðức Pháp, Ðức Tăng đã xuất hiện trên thế gian, Người đã từ bỏ ngai vàng để lại cho ta, như nhổ bỏ bãi nước miếng, rồi ngự đến hầu Ðức Phật, sẽ xuất gia để giải thoát khổ.
Chẳng lẽ ta không có khổ hay sao? Ðức Vua từ bỏ ngai vàng như nhổ bỏ bãi nước miếng, chẳng lẽ ta lại quỳ gối liếm bãi nước miếng ấy hay sao? Ta cũng sẽ đi đến hầu Ðức Phật, sẽ xuất gia để giải thoát khổ? Còn các ngươi nghĩ thế nào?
Nhóm 1.000 phu nhân đồng tâm nhất trí xin đi theo Hoàng hậu đến hầu Ðức Phật.
Hoàng hậu truyền sửa soạn ngựa quý, cùng 1.000 phu nhân mỗi người một ngựa theo sau đến hầu Ðức Phật, và đi theo con đường mà Ðức Vua cùng các quan đã ngự đi.
Hoàng hậu cùng các phu nhân đi đến con sông Aparacchà, Hoàng hậu niệm Ân Ðức Phật:"Itipi so Bhagavà Araham...". Do oai lực Ân Ðức Phật, mọi người cùng băng qua con sông ấy một cách dễ dàng.
Tiếp đến con sông Nìlavàhinì, Hoàng hậu niệm Ân Ðức Pháp: Svàkkhàto Bhagavatà Dhammo...". Do oai lực Ân Ðức Pháp, mọi người cùng băng qua con sông ấy một cách dễ dàng.
Tiếp đến con sông Candabhàgà, Hoàng hậu niệm Ân Ðức Tăng: "Suppatipanno Bhagavato SàvakaSangho...". Do oai lực Ân Ðức Tăng, mọi người cũng đều băng qua con sông ấy một cách dễ dàng. Thế rồi, Hoàng hậu cùng các vị phu nhân ngự đến hầu Ðức Phật.
Ðức Thế Tôn biết Hoàng hậu Anojà cùng 1.000 vị phu nhân sắp đến, Ngài phóng hào quang 6 màu sáng ngời làm hiệu, Hoàng hậu cùng các vị phu nhân biết, đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn xong bạch:
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, Ðức Vua Mahàkappina cùng 1.000 vị quan có đến đây không? Bạch Ngài!
Ðức Phật hóa phép thần thông che khuất không để Hoàng hậu cùng 1.000 phu nhân nhìn thấy Tỳ khưu Mahàkappina cùng 1.000 vị Tỳ khưu khác. Ðức Thế Tôn dạy rằng:
- Các con hãy ngồi nghe Như Lai thuyết pháp, rồi tại nơi đây các con sẽ nhìn thấy Mahàkappina cùng các quan.
Hoàng hậu cùng 1.000 vị phu nhân an tâm ngồi nghe Ðức Phật thuyết pháp. Khi nghe pháp xong, Hoàng hậu cùng 1.000 vị phu nhân đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Ðồng thời ngay khi ấy, Tỳ khưu Mahàkappina cùng 1.000 vị Tỳ khưu khác đều chứng đắc từ Nhất Lai Thánh Ðạo - Nhất Lai Thánh Quả, đến Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán cùng với 4 Tuệ phân tích.
Khi ấy, Ðức Phật thâu phép thần thông, Hoàng hậu cùng các phu nhân nhìn thấy Ðức Vua Mahàkappina cùng 1.000 vị quan, bây giờ ở trong tướng mạo một Tỳ khưu trang nghiêm như vị Ðại Ðức 60 hạ. Hoàng hậu cùng các vị phu nhân phát sanh đức tin trong sạch, kính xin Ðức Thế Tôn xuất gia trở thành Tỳ khưu ni.
Ðức Thế Tôn chỉ dạy Hoàng hậu cùng 1.000 phu nhân đến tìm gặp Ðại Ðức Tỳ khưu ni Uppalavannà chỉ dẫn cách xuất gia trở thành Tỳ khưu ni.
Hoàng hậu cùng 1.000 vị phu nhân sau khi đã trở thành Tỳ khưu ni thời gian không bao lâu, tất cả đều chứng đắc đến Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán trong giáo pháp của Ðức Phật.
Oai lực niệm Ân Ðức Phật, Ân Ðức Pháp, Ân Ðức Tăng thật phi thường!
Qua câu chuyện trên, chúng ta hiểu rằng: danh hiệu Buddho, Dhammo, Sangho không phải dễ được nghe trong kiếp tử sanh luân hồi ba giới bốn loài, bởi vì, Ðức Phật xuất hiện trên thế gian này rất hiếm có; có khi trải qua vô số kiếp trái đất thành - trụ - hoại - không mà không một Ðức Phật Toàn Giác nào xuất hiện cả. Cho nên, Ðức Phật xuất hiện trên thế gian rất hiếm có, khi Ðức Phật xuất hiện, Ngài đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cho chúng sinh; nhất là những chúng sinh nào có đã gieo duyên lành từ Ðức Phật ở quá khứ, đã tạo ba la mật trọn đủ; nay kiếp hiện tại này, những hạng chúng sinh ấy gặp được Ðức Phật hoặc giáo pháp của Ðức Phật chắc chắn sẽ được lợi ích cao thượng là chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
Câu Chuyện Ðại Ðức Subhùti
Tiền kiếp Ðại Ðức Subhùti [*] tên là Nanda, thuộc dòng tộc Bà la môn. Ngài sanh vào thời kỳ Ðức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, cách kiếp trái đất của chúng ta 100.000 đại kiếp.
[*] Bộ chú giải Anguttaranikàya, phần Etadaggavagga, chuyện Ðại Ðức Subhìtittheravatthu.
Cậu Nanda khi trưởng thành đi xuất gia trở thành Ðạo sĩ có nhóm đệ tử gồm có 84.000 vị trú ở dãy núi Himavanta.
Một hôm, Ðức Phật Padumuttara ngự đến dãy núi Himavanta, vị Ðạo sĩ cùng nhóm đệ tử đến hầu hộ độ cúng dường hoa, trái cây đến Ðức Phật.
Ðức Phật Padumuttara dạy Ðạo sĩ Nanda:
"Này Nanda, con nên tiến hành tuỳ niệm Ân Ðức Phật (Buddhànussati) là pháp hành cao quý. Do phước thiện mà con đã tiến hành tuỳ niệm Ân Ðức Phật, con sẽ hưởng sự an lạc ở cõi trời dục giới suốt 30.000 đại kiếp trái đất, con sẽ là Ðức Vua trời ở cõi Tam thập tam thiên suốt 20 kiếp. Tái sanh ở cõi người con sẽ là Ðức Chuyển luân thánh vương 1.000 kiếp, còn làm vua ở xứ lớn không sao kể xiết; trong các kiếp lớn, kiếp nhỏ trong vòng tử sanh luân hồi, con có đầy đủ các thứ của cải quý báu. Tất cả của cải quý báu ấy không bao giờ bị ai chiếm đoạt. Suốt 100.000 đại kiếp, trong vòng tử sanh luân hồi, con sẽ không bị sa vào trong 4 đường ác. Ðến kiếp trái đất, có Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, khi ấy con tái sanh trong một gia đình phú hộ, đặt tên là "Subhùti". Khi trưởng thành con từ bỏ của cải gồm có 80 triệu đi xuất gia trở thành Tỳ khưu, sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán có đức hạnh thọ thí cao quý xuất sắc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật Gotama".
Ðó là lời thọ ký của Ðức Phật Padumuttara.
Ðạo sĩ Nanda thực hành niệm Ân Ðức Phật theo lời dạy của Ðức Phật Padumuttara, mọi kết quả phát sanh đúng như lời thọ ký của Ðức Phật. Ðến thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu thân của đạo sĩ Nanda tái sanh gia đình phú hộ Sumana trong kinh thành Sàvatthi, đặt tên là Subhùti. Ðến khi trưởng thành, từ bỏ gia đình, của cải đi xuất gia trở thành Tỳ khưu, tiến hành thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán cùng với 4 Tuệ phân tích.
Ðức Phật tán dương Ðại Ðức Subhùti có đức hạnh thọ thí cao quý xuất sắc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của của Ðức Phật, đúng theo lời thọ ký của Ðức Phật Padumuttara ở quá khứ.
Tích Singàlakamàtàtherìvatthu
(Chú giải Anguttaranikàya, phần Etadaggavagga, chuyện Singàlakamàtàtherìvatthu.)
Tiền kiếp mẹ của cậu Singàlaka là cô gái của một vị quan, sanh vào thời kỳ của Ðức Phật Padumuttara. Khi cô trưởng thành được phép từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu ni trong giáo pháp của Ngài. Tỳ khưu ni này là một người có đức tin trong sạch nơi Tam bảo. Do nhờ thiện pháp ấy, trong vòng tử sanh luân hồi suốt 100.000 đại kiếp không bị sa vào 4 đường ác (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh).
Thời kỳ Ðức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, cô tái sanh làm con gái của phú hộ ở kinh thành Ràjagaha. Khi cô trưởng thành kết hôn cùng với người con trai của phú hộ, sanh được một người con trai đặt tên là Singàlaka. Do đó, bà có tên gọi là Singàlakamàtà = mẹ của cậu Singàlaka.
Về sau, bà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu ni, với đức tin trong sạch đặc biệt trong giáo pháp của Ðức Phật Gotama; sau khi trở thành Tỳ khưu ni, bà tiến hành đề mục niệm Ân Ðức Phật (Buddhànussati) rồi dùng định tâm của đề mục niệm Ân Ðức Phật làm nền tảng, tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Ðạo - Nhập Lưu Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán.
Một hôm, Ðức Phật tán dương Tỳ khưu ni Singàlakamàtà có đức tin trong sạch xuất sắc nhất trong hàng nữ Thanh Văn đệ tử của Ðức Phật.
Và còn có nhiều trường hợp tương tự khác.
Ðề mục niệm Ân Ðức Phật là một đề mục dễ làm cho phát sanh đức tin nơi Tam bảo, mà đức tin là nền tảng mọi thiện pháp từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến siêu tam giới thiện pháp.
Như vậy, đề mục niệm Ân Ðức Phật không chỉ là đề mục thiền định, có khả năng chứng đạt đến cận định, mà còn là pháp làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ uẩn, diệt tận tham ái, phiền não, chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo -Thánh Quả và Niết Bàn được. Như Ðức Phật dạy:
"Này chư Tỳ khưu, có một pháp hành mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sanh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp - sắc pháp, để diệt tận tham ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền não; để phát sanh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Pháp hành ấy là gì?
Pháp hành ấy chính là Buddhànussati = pháp hành tùy niệm Ân Ðức Phật.
Này chư Tỳ khưu, pháp hành tùy niệm Ân Ðức Phật, mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sanh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp; để diệt tận tham ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền não; để phát sanh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn". (Anguttaranikàya, phần Ekadhammapàli)
Qua lời giáo huấn của Ðức Phật trên, thì đề mục tùy niệm Ân Ðức Phật không chỉ là đề mục thiền định, mà còn làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ nữa.
Ðề mục tùy niệm Ân Ðức Phật có hai giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: đề mục tùy niệm Ân Ðức Phật thuộc thiền định hành giả tiến hành tùy niệm Ân Ðức Phật có khả năng dẫn đến sự chứng đạt đến cận định(phương pháp đã trình bày ở phần trước).
- Giai đoạn sau: Sau khi tiến hành đề mục tùy niệm Ân Ðức Phật chứng đạt đến cận định, hành giả cần phải thoát ra khỏi đề mục niệm Ân Ðức Phật, dùng tâm cận định của đề mục niệm Ân Ðức Phật làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ.
Tiến hành thiền tuệ
Hành giả tiến hành thiền tuệ cần phải có danh pháp, sắc pháp hoặc thân, thọ, tâm, pháp thuộc Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) làm đối tượng của thiền tuệ.
Như vậy, đề mục tùy niệm Ân Ðức Phật làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ như thế nào?
Dựa theo Chú giải Chi bộ kinh, phần pháp một chi, giải về đề mục niệm Ân Ðức Phật ấy. Theo chân nghĩa pháp, ai niệm Ân Ðức Phật?
- Ðàn ông niệm Ân Ðức Phật có phải không? Cũng như vậy đàn bà, chư thiên, phạm thiên niệm Ân Ðức Phật có phải không?
- Ðúng theo chân nghĩa pháp, không có một ai niệm Ân Ðức Phật; mà chỉ có đại thiện tâm hợp với trí niệm Ân Ðức Phật mà thôi.
Bây giờ, hành giả tiến hành thiền tuệ có đại thiện tâm hợp với trí làm phận sự cận định tâm thuộc danh pháp, làm đối tượng thiền tuệ (trong phần niệm tâm của pháp hành Tứ niệm xứ) và sắc pháp đó là sắc ý căn(hadayavatthu) là nơi nương nhờ của đại thiện tâm hợp với trí ấy phát sanh. Như vậy, danh pháp liên quan với sắc pháp này làm đối tượng của thiền tuệ.
Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp ấy, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp ấy dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
Hay một cách khác: hành giả tiến hành thiền tuệ có đại thiện tâm hợp với trí làm phận sự cận định tâm, làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đại thiện tâm hợp với trí ấy thuộc thức uẩn.
- Thọ tâm sở đồng sanh với đại thiện tâm ấy thuộc thọ uẩn.
- Tưởng tâm sở đồng sanh với đại thiện tâm ấy thuộc tưởng uẩn.
- Các tâm sở khác còn lại đồng sanh với đại thiện tâm ấy thuộc hành uẩn.
- Sắc ý căn (hadayavatthu) thuộc sắc uẩn là nơi nương nhờ của đại thiện tâm hợp với trí ấy phát sanh.
Ngũ uẩn này là đối tượng của thiền tuệ. (trong phần niệm pháp của pháp hành Tứ niệm xứ).
Trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sanh, sự diệt của ngũ uẩn ấy, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của ngũ uẩn ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và Niết Bàn.
Như vậy, gọi là: Niệm Ân Ðức Phật làm nền tảng để tiến hành thiền tuệ.
Như Ðức Phật dạy:
"Này chư Tỳ khưu, pháp hành tùy niệm Ân Ðức Phật mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sanh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp này; để diệt tận tham ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền não; để phát sanh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã; để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn".
Quả báu đặc biệt niệm Ân Ðức Phật
Hành giả tiến hành niệm Ân Ðức Phật, trong kiếp hiện tại chưa chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả - Niết Bàn, hành giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt ngay trong kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai như sau:
- Ðược phần đông chúng sinh kính trọng.
- Thiện tâm trong sạch thanh tịnh.
- Khi sắp chết, tâm bình tĩnh sáng suốt, không mê muội. Sau khi chết do thiện nghiệp này cho quả tái sanh làm người cao quý hoặc chư thiên cao quý.
- Tái sanh kiếp nào cũng thuộc hàng chúng sinh cao quý.
- Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ.
- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý.
- Thân có mùi thơm.
- Miệng có mùi thơm tỏa ra.
- Có trí tuệ nhiều.
- Có trí tuệ sâu sắc.
- Có trí tuệ sắc bén.
- Có trí tuệ nhanh nhẹn.
- Có trí tuệ phong phú.
- Trí tuệ phi thường.
- Nói lời hay có lợi ích...
- Kiếp vị lai có duyên lành gặp Ðức Phật, lắng nghe chánh pháp dễ dàng chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo - Thánh Quả và Niết Bàn...
Ðó là những quả báu phát sanh từ niệm Ân Ðức Phật.
-ooOoo-
ÐOẠN KẾT
Ðức Phật là một Ðấng Từ Phụ chung của tất cả mọi người Phật tử là các bậc Xuất gia tu sĩ và các hàng tại gia cư sĩ. Tất cả chúng ta đều hết lòng tôn kính Ðức Phật, để tỏ lòng tôn kính, mỗi người Phật tử cúng dường Ðức Phật bằng những phẩm vật quý giá tùy theo khả năng của mình.
Ðức Phật dạy cúng dường có hai cách:
- Cúng dường bằng phẩm vật (amisapùjà) như: hương, hoa...
- Cúng dường bằng hành pháp (patipattipùjà): hành giới, hành định, hành tuệ...
Trong hai cách cúng dường này, Ðức Phật tán dương, ca tụng cách cúng dường bằng hành pháp gọi là cao thượng nhất.
Ðến khi Ðức Phật gần tịch diệt Niết Bàn, Ngài dạy chỉ có hành pháp mới thật là cúng dường Ðức Phật một cách cao quý nhất.
Như trong bộ Chú giải Pháp cú, tích Ðại Ðức Attadattha:
Khi Ðức Phật truyền dạy cho chư Tỳ khưu được rõ, thời gian tịch diệt Niết Bàn của Ngài không còn lâu.
Chư Tỳ khưu, thường đến hầu hạ Ðức Phật với lòng tôn kính yêu thương, riêng Ðại Ðức Attadattha nghĩ: "Ðức Thế Tôn còn thời gian không lâu sẽ tịch diệt Niết Bàn, còn ta vẫn chưa diệt được tham ái, ta nên cố gắng tiến hành thiền tuệ, chứng đắc đến Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán khi Ðức Thế Tôn còn hiện tiền". Nghĩ vậy, Ngài ở nơi thanh vắng một mình để tiến hành thiền tuệ, có số Tỳ khưu chê trách Ngài không biết kính yêu Ðức Phật. Ðức Phật biết rõ, bảo một Tỳ khưu gọi Ngài đến.
Ðức Phật bèn hỏi Ngài:
- Này con, con nghĩ thế nào mà hành động như vậy?
- Kính bạch Ðức Thế Tôn, con được nghe biết Ðức Thế Tôn không còn bao lâu nữa sẽ tịch diệt Niết Bàn, con cố gắng tiến hành thiền tuệ để chứng đắc đến Arahán Thánh Ðạo - Arahán Thánh Quả, trong khi Ðức Thế Tôn còn hiện tiền.
Nghe vậy, Ðức Thế Tôn bèn Sàdhu! Sàdhu! = Lành thay! Lành thay! Ngài dạy:
"Bhikkhave, yassa mayi sineho atthi, tena Attadatthena viya bhavitum vattati. Na hi gandhàdìhi pùjentà mam pùjenti, dhammà-nudhammapatipattiyà pana mam pùjenti, tasmà annenapi Attadatthasadiseneva bhavitabbam". (Bộ Dhammapadatthakathà, chuyện Attadatthatheravatthu).
(Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu nào có lòng kính yêu Như Lai, Tỳ khưu ấy nên noi gương như Tỳ khưu Attadattha. Thật vậy, những người cúng dường bằng hương hoa v.v... chưa phải là cúng dường Như Lai. Những người tiến hành theo pháp hành thiền tuệ chứng đắc siêu tam giới pháp, mới thật là cúng dường Như Lai. Vì vậy, những người khác nên thực hành giống như Tỳ khưu Attadattha).
Ðến khi Ðức Phật sắp tịch diệt Niết Bàn, chư thiên các cõi trời mang những đóa hoa trời, hương trời, âm thanh trời... đến cúng dường Ðức Phật.
Khi ấy Ðức Phật dạy Ðại Ðức Ànanda:
"Này Ànanda, sự cúng dường những phẩm vật từ cõi trời như thế ấy, chưa phải tỏ lòng tôn kính Như Lai, hay tôn trọng, hay kính yêu, hay cúng dường, hay lễ bái Như Lai.
Này Ànanda, Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ nào theo hành pháp hành thiền tuệ chứng đắc siêu tam giới pháp , cung kính thực hành nghiêm chỉnh theo Giới - Ðịnh - Tuệ, thực hành theo chánh pháp. người ấy mới thật tôn kính Như Lai, tôn trọng, kính yêu, cúng dường, lễ bái Như Lai một cách cao thượng.
Như vậy, này Ànanda, trong Phật giáo này, các con nên học tập rằng: "Chúng ta nên theo hành pháp hành thiền tuệ, chứng đắc siêu tam giới pháp, cung kính thực hành nghiêm chỉnh theo giới - định - tuệ, thực hành theo chánh pháp".(Bộ Dìghanikàya, phẩm Mahàvagga, Kinh Mahàparinibbànasutta.)
* * *
Ðức Phật là đấng Từ Phụ của tất cả chúng sinh. Ðể tỏ lòng tôn kính Ðức Phật, Ðấng Từ Phụ, chúng con cố gắng tinh tấn thực hành theo lời giáo huấn của Ngài, để xứng đáng cúng dường đến Ngài; đồng thời đem lại cho chúng con sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cao quý; vừa đóng góp vào việc duy trì, bảo tồn Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian, hầu đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho tất cả chúng sinh nhất là chư thiên và nhân loại.
Ciram titthatu saddhammo lokasmim
Ciram titthatu saddhammo Vietnamratthasmim.
Nguyện cầu chánh pháp được trường tồn trên thế gian.
Nguyện cầu chánh pháp được trường tồn trên Tổ quốc Việt Nam thân yêu.
Tỳ khưu Hộ Pháp
-ooOoo-
Thầy Tâm Hạnh là người thầy đầu tiên dạy chúng tôi thiền nguyên thủy và khuyên chúng tôi đi Miến, hiện thầy đang ở Mỹ, thầy nói với chúng tôi: biết tu trong khi ăn mau đắc đạo nhất…
Nay bạn nào có pháp môn niệm Ân Đức Phật, có thiền quán vipassana, có đủ duyên nên nhai cơm lứt mỗi miếng thật nhiều lần để rèn luyện ý chí và có thêm “sức khỏe” cho tới ngày TỚI ĐÍCH!
Đôi Lời Tác Bạch
Ngọc Trâm
Niệm Ân Đức Phật một thời gian…khi đủ duyên, chúng ta sẽ có sự thành tựu và nó là MỘT PHÁP, đây chính là con đường THIỀN TỊNH SONG TU chân chánh, có công năng dẫn tới con đường giác ngộ giải thoát…Niệm Ân Đức Phật là một trong 40 đề mục của thiền chỉ, đỉnh cao là sinh ra trạng thái cận định làm nền tảng cho thiền Minh Sát rất thiện xảo và nó cũng chính là 1 trong 4 thiền BẢO HỘ cho người hành thiền minh sát…Kinh nghiệm riêng là mỗi khi tôi có tác ý hướng tâm tới ĐỨC PHẬT, nhớ tưởng tới những hồng ân của Đức Phật là lòng tôi xuất hiện nhiều niềm vui và sự hiểu biết mới nảy sinh… và tôi quán sát tâm … tâm sở dễ dàng hơn…Pháp này rất thích hợp với những người có duyên sâu với ĐỨC THẾ TÔN và con đường giải thoát giác ngộ ra khỏi luân hồi sinh tử ngay trong kiếp sống này… với những người chân tu thì CHỈ CÓ ĐỨC PHẬT LÀ QUÍ BÁU ĐÁNG CHO CHÚNG TA PHẢI NOI THEO! Gặp ai nói gì cũng chớ vội tin vì đây là tuyên ngôn về sự tự do tư tưởng của Đức Phật, ngay Pháp môn Niệm Ân Đức Phật này bạn cũng có thể THỬ xem thế nào… thấy tốt thực sự hãy hạ thủ công phu… vì tôi THIẾU CHÁNH TÍN cho nên tôi phải trả giá…mãi nhiều năm trôi qua… tôi mới nhận ra sự lợi ích vô cùng lớn lao của PP này…niệm Ân Đức Phật giúp tăng trưởng đức tin với Tam Bảo làm nảy sinh tuệ giác và vô vàn phước báu… “Đức tin bằng một hạt cải chỉ núi núi sẽ dời đi” câu của Chúa Jesus là nền tảng cho suốt tuổi thơ của tôi…tín mà không phải là CHÁNH TÍN sẽ dễ có nguy cơ trở thành tà tín…mê tín dị đoan… cho nên phải có sự hiểu biết căn bản thì mới có được CHÁNH TÍN… là thứ không thể thiếu được với mỗi hành giả tu thiền quán…. Vì sẽ tới ngày cần cân bằng ngũ lực: TÍN – TẤN – NIỆM – ĐỊNH – TUỆ…thì tâm thức mới đủ lực đẩy các tâm hạ liệt lên một mức độ cao hơn: TỪ - BI – HỈ - XẢ thực sự…
Tôi tu thiền Vipassana ở SOM – Miến Điện từ 2004, thầy tôi là ngày U Tejanyia nghe tôi trình Pháp như sau: con đang đi thiền hành thì tự dưng nhớ tới thầy rồi có một lằn sóng nhớ tới Đức Phật và con lẩm nhẩm niệm Ân Đức Phật, có 9 ân nhưng con chỉ nhớ được có 8 ân; thầy tôi bảo: cứ thấy Pháp là thấy Phật…
Rồi thầy tôi bảo tôi “giầu trí tưởng tượng” nên niệm Ân Đức Phật bổ trợ vào Pháp hành của tôi, rồi tôi trình Pháp hỏi thầy: ở Việt Nam chỉ có Ấn Đức Phật bằng tiếng Hán Nôm: Ứng cúng, Chánh Biến Tri, … ở đây thì tiếng Pali, vậy con phải niệm Ân Đức Phật bằng tiếng nào? Thầy bảo: tiếng Việt! Ôi thế bằng thầy ra cho tôi công án!
Về phòng tôi lấy sách niệm Ân Đức Phật của sư Hộ Pháp ra đọc đi đọc lại và cầu nguyện: Ước gì mình làm được bài kệ về 9 Ân Đức Phật làm sao cho dễ nhớ, dễ đọc, dễ trao truyền…và câu chữ nó sắp hàng đi ra làm cho tôi chỉ việc “tóm gọn” từng câu và xếp lại thành bài KỆ như sau:
KỆ 9 ÂN ĐỨC PHẬT
Ngài là bậc diệt tận
Tất cả mọi phiền não
Xứng đáng được cúng dường
Nên gọi bậc Ứng cúng.
Ngài là bậc tự mình
Chứng ngộ Tứ Thánh Đế
Đạt giác ngộ viên mãn
Nên gọi Chánh Biến Tri.
Ngài là bậc toàn hảo
Cả minh và cả hạnh
Có một hạnh đơn giản
Tưởng rằng rất dễ làm
Mỗi bữa ăn chừa ra
Bốn năm miếng mới no
Là Ngài đã dừng lại
Ai làm được như vậy
Chánh niệm được liên tục
Bệnh tật ít viếng thăm
Nhất là ăn thức ăn
Như ở thời Đức Phật
Ngài là bậc toàn giác
Trí tuệ siêu tam giới
Của pháp hành Thiền Tuệ. Minh Hạnh Túc
Ngài là bậc thuyết Pháp
Những chân lý nhiệm mầu
Đem lại nhiều lợi ích
Cho tất cả chúng sinh. Thiện Thệ
Ngài là bậc thông suốt
Biết rõ hết tất cả
Mọi điều trong tam giới. Thế gian giải
Ngài là bậc điều phục
Ai có duyên với Ngài
Từ ác chuyển sang lành
Từ phàm lên bậc thánh.
Vô Thượng điều ngự trượng phu
Ngài là thầy cao quí
Của cả thiên và nhân. Thiên Nhân Sư
Ngài là bậc song tuệ
Tuệ một của Chư Phật
Và loại tuệ thứ hai
Tuệ giáo hoá chúng sanh. Phật
Ngài là bậc ân đức
Bậc siêu xuất tam giới.
Thành tựu do trọn đủ
Ba mươi Ba-la-mật
Và sáu ân đặc biệt
Chỉ có Ngài mới có. Thế Tôn
Ngày nào cũng niệm tưởng
Đến hồng ân Đức Phật
Đức tin sẽ trọn đủ
Trí tuệ sẽ sáng suốt
Phát sanh nhiều hỷ lạc
Thêm nhiều lòng dũng cảm
Tránh khỏi mọi tai ương
Phước thiện được tăng trưởng.
Shwe - Oo - Min, 15 - 12- 2005, Myanmar
Nanissari - Ngọc Trâm, Phỏng theo “Pháp môn niệm Phật” của sư Hộ Pháp, NXB TP HCM
Mang bài kệ này với cái tâm mãn nguyện sâu xa lên phòng trình Pháp, thấy tôi “thế nào” đó ??? thầy tôi đuổi phắt tôi về Việt Nam!
Thế là tất cả cộng đồng người Việt ở trường thiền SOM “chấn động” và tôi thì có thêm đề mục mới quan sát thân và tâm lúc đó… lúc thầy đuổi về Việt Nam…NÓ như thế nào???? Tôi nhận thấy có phản ứng trong thân và tâm, một luồng khi đi lên sau gáy! Và sau một ngày sau tâm tôi nó lầm bầm ở trong, NÓ suy xét: Việt Nam thì mình đã chán òm mình mới tới đây, giờ đây mà đuổi thì mình còn MUỐN về đâu không? Rõ ràng TÔI không muốn đi đâu nữa? vậy làm sao? … bỗng một cái tâm nó NÓI: thì nhảy vào niết bàn mà ngồi! trời, giống như là “nhảy vào toilet” mà NGỒI vậy! lúc đó “tôi” liên tưởng tới Niết Bàn (?) với tôi NÓ giống như là cái toilet! Thế là tâm tư tôi nhẹ bỗng!? giờ (2013) sau khi niệm Ân Đức Phật liên tục hơn… tôi mới có đủ dũng khí mà kể ra “sự thật” đó…ôi tâm trí: chúng mới lưu manh làm sao?! Khi “tâm trí” bĩ cực… tức là NÓ bị dồn vào “chân tường” của ý thức… tới chỗ “không thể nghĩ bàn” được…bỗng có “sáng tạo”…?
Tôi rất biết ơn thầy tôi: lúc ngài chê tôi đủ kiểu, lúc ngài khen tôi hết từ để khen, rồi cuối cùng: đuổi về… năm sau tôi sang Miến, sau một tháng… ngài thấy tôi chào thầy đi về ngài bảo: ở đây không có gạo lứt mày đi về chứ gì? (hai lần trước tôi sang Miến với động cơ đây là cơ hội duy nhất và cuối cùng trong đời, mỗi lần 6 tháng, lần sau 8 tháng… tôi xuất gia gieo duyên 2 lần và tôi tu “chết thôi”, tu hùng hục tu như một con điên!…). Tôi “gọi” thầy tôi là “máy chém bản ngã”…
Tôi mang “câu nói” đó làm tư lương cho cuộc hành trình của tôi… vừa qua (cuối 2012) cô Thu tới đó, về kể: ngài nói tao điên in ít tao dạy những đứa điên nhiều nhiều…! rồi thầy cười khà khà…thầy tôi thật là tuyệt vời, có những thiền sinh… họ che chắn “yếu điểm” tới mức thầy chả có cơ hội để “chê” họ, họ “bao bọc” những thói hư tật xấu vào mấy tầng “bản ngã kim cương”…tâm họ “cửa đóng then cài”… bản ngã NÓ rất SỢ thay đổi…nếu học đạo mà không cởi mở thì thầy sẽ khó dạy…bạn khó có thể tiến hóa nếu không cởi mở… đôi khi thầy bảo: chúng mày tấp rác vào gầm giường… đôi khi tu giỏi thì những xấu ác của tâm nó mới lòi tói ra, tu NGON? Sẽ chỉ thấy LẠC của định và hiểm họa của tâm định ??? thầy tôi đã giúp tôi vượt qua chướng ngại của sự hiểu biết “của tôi”…GIÚP cho chúng tôi có được chánh kiến…
Tôi trở về Việt Nam mang theo pháp hành quán tâm áp dụng vào đời sống nhưng vẫn thấy phiền não nhiều hơn niềm vui… cho tới khi tôi gặp Pháp môn niệm Ân Đức Phật bằng xâu chuỗi do ngài Hộ Pháp chỉ dạy trực tiếp thì từ đó đời tôi mới thực “sang trang”…
Thời gian đầu mới sử dụng xâu chuỗi tôi thấy tâm tôi nó lầu bầu ở trong: sao xâu chuỗi lại kẹt cứng thế này … sao nó không dễ dàng cho mình “lần” … rồi có lúc thấy cái dây sâu nó làm lỏng cái chuỗi hạt tôi cũng thấy “không hài lòng” vì nó “chả có gì như ý”…rồi những cái hạt nhựa lại là loại “rởm” vừa lần xâu một thời gian, nó bong chóc ra… rồi dần dần tôi vượt qua được cái trạng thái bất toại nguyện đó… lúc nhớ lúc quên trong khi đang niệm theo xâu chuỗi… rồi tôi đeo lủng lẳng cái xâu chuỗi trên cổ để có thể bất cứ lúc nào tôi cũng có thể sử dụng, sau khi ở trên núi Dinh thỉnh Pháp với sư Hộ Pháp sư cho chúng tôi bó xâu chuỗi tôi bèn lấy ngay “một xâu” và thực hành liền tức thì, tôi trở về tu tập ở Phước Sơn thêm một vài tuần…mỗi ngày tôi chỉ sử dụng được từ 2 -5 lần là nhiều… đến tháng thứ 2 tôi bắt đầu nhận ra cái TÂM … các tác ý chưa thực hiện… các trạng thái tâm sinh hoạt thế nào TÔI soi thấy rõ, xin lỗi, chánh niệm tỉnh thức tự động làm việc không có cảm giác TÔI niệm Phật, không có cảm giác TÔI thấy…chỉ là những tiến trình… trời ơi, đây là con đường “dành riêng” cho loại kiểu người NHƯ TÔI, đây rồi, hoan hô! Sadhu!
Tôi nhớ sau khi sư Hộ Pháp đưa cho tôi xâu chuỗi và cách thức sư dạy niệm từng hạt thế nào… rồi sư lại cho cả hai bó xâu chuỗi to tướng… nhưng cảm thấy tôi vẫn “chưa thỏa mãn” với những gì sư đưa cho… để làm PHÁP BẢO mang về Hà Nội, sư bèn đưa cho tôi cái cuộn băng catset của sư về Pháp môn Niệm Ân Đức Phật…
Niệm Ân Đức Phật là có thêm định và tôi đã có sẵn năng lực của thiền quán, giờ tâm được bình an vui vẻ hơn trước, đức tin cũng tăng trưởng hơn… bầu không khí trong gia đình tôi khác trước và công việc hanh thông, tôi rủ được những người cộng tác làm việc cho tôi, những nhân viên của tôi… và những người đang đau khổ hữu duyên với tôi cùng thực hiện dễ dàng, họ đạt được những kết quả rất tốt đẹp, tôi biết nhiều điều hay… mà cảm thấy không dễ dàng bảo cho người khác cùng biết được như mình, nay niệm Ân Đức Phật là phương tiện thiện xảo…
Vô cùng biết ơn sư Hộ Pháp và Tam Bảo, người Việt Nam mình giỏi thật!
Theo luật của vũ trụ: Múc nước lên nước mạch chảy về…
Sau khi tôi liên tục chia sẻ giáo Pháp, sáng nay (17/2/2013) chắc chư thiên bảo tôi cách thức chỉ tiếp cho người khác cách thức "nhập môn" niệm Ân Đức Phật thật là diệu dụng tức khắc...
Hôm qua tôi tới cửa hàng của Hoa Liên ở 74 Quán Sứ mua về được mấy loại xâu chuỗi... và tới cửa hàng bên cạnh... cũng chọn ra được mấy loại vòng mà tôi thấy THÍCH, về nhà cứ cầm cái vòng đeo cổ tay có các loại hạt.... tôi thấy "thinh thích" mà chả hiểu vì sao? Rồi sáng nay bỗng bật ra... cách thức thiện xảo cho những người MỚI NHẬP MÔN.... lúc đầu tôi không "làm theo cách này" nên có nhiều khó khăn hơn và KHÔNG HỨNG THÚ bằng...
Tức là bạn có sẵn một cái vòng xâu chuỗi hạt loại "đeo vào cổ tay"... bạn niệm vị Phật nào cũng được nhưng niệm Ân Đức Phật là diệu dụng nhất...
Có những người niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT và THẤY tốt, cứ để họ ở MỨC độ đó, nếu họ muốn vươn lên... hãy chỉ bảo cho họ "theo cách này"... chúng ta phải tôn trọng tín ngưỡng của người khác...
Nên tôn trọng "tôn giáo bạn"... căn cơ chúng sinh không đồng đều, cần phải HIỂU và THƯƠNG mọi chúng sinh trong vòng luân hồi đều đã từng là quyến thuộc của mình...
Với cách thức này bạn NIỆM bất cứ gì mà bạn đã quen sử dụng, cũng đều tốt, nhưng niệm Ân Đức Phật thì tốt hơn vì mình còn BIẾT được Đức Phật có những đặc điểm tuyệt vời nào để còn NOI THEO, THEO GƯƠNG....
Bạn có thể niệm chỉ mỗi một ân cho thuần thục
Rồi bạn niệm tới Ân thứ hai... Và sau đó bạn học kiểu "cuốn chiếu" niệm ân thứ nhất rồi thứ hai...
Bạn nên có hai loại xâu chuỗi (loại dài có các điểm nút để dễ dàng tự kiểm tra xem tâm mình thế nào, loại ngắn để có thể đeo vào cổ tay…)... hai cái để còn "thực nghiệm" với Pháp môn xâu chuỗi này...Với các gợi ý trên, bạn có thể tự sáng tạo ra cách học tốt nhất cho bạn...
Cũng có thể sử dụng vòng này bằng cách niệm cả 9 Ân Đức Phật bằng chỉ một sâu chuỗi này, với "điều kiện" là bạn cần phải thư giãn, giữ tâm quân bình để nhớ cho đều đặn... rồi giáo Pháp sẽ tìm đến với bạn!
Và nếu không nhớ? lại làm lại, trong kiểu niệm này bạn không phải lo lắng sợ hãi, không phải lo sai, lo không đúng, bạn tự tu tự ngộ lấy các trạng thái thân tâm của bạn một cách trực tiếp …
Thiền Niệm Ân Đức Phật
Chỉ có Đức Phật là quí báu, đáng cho chúng ta phải noi theo…
7 cách niệm Ân Đức Phật thiện xảo
Chúng ta sẽ đi từ thấp lên cao, từ dễ tới khó hơn, khi đã thuần thục cách thứ nhất, niệm tiếp lên các cách cao hơn, tâm sẽ định mạnh dần và hiểu dần việc thực hành miên mật sẽ đem lại quả báu như thế nào:
1. Cách thứ nhất niệm: A-ra-hăng - Đức Phật trọn lành
2. Cách thứ 2 Í-tí-pí-sô/ Phá-gá-voa/ A-ra-hăng sau khi niệm thuộc lòng và thuần thục, cần ghi nhớ ơn Đức đó nghĩa tiếng Việt là gì? Bước đầu có thể tham khảo bài kệ 9 Ân Đức Phật ở dưới…
3. Cách niệm thứ 3: niệm tiếp Ân Đức thứ 2… rồi cũng như trên cần thuộc lòng và hiểu ý nghĩa…rồi ghép với ân đức thứ nhất …
4. Cách thứ 4: ghép hai Ân Đức cùng niệm thuần thục; lúc này cần có cái xâu chuỗi kiểu vòng tay để thực hành sức định tâm sẽ mạnh lên…
5. Cách thứ 5: cứ tuần tự niệm dần thuần thục từng ân rồi ghép lại theo vòng xâu chuỗi nhỏ… ghép 3 ân Đức …cho tới 9 Ân Đức, sau khi đã thuộc 9 ân…lúc này cần có cái vòng chuyên dụng để có thể tự kiểm tra sức định của mình tới đâu… cứ niệm dần tới ngày tâm hoàn toàn an tịnh và sẽ thấy thêm các đề mục trên thân và tâm xảy ra, tự tìm tới dẫn dắt mình tu tiến…cũng có thể chỉ niệm đúng 9 đặc tính và bỏ qua câu Itipi so Bhagava…cho xâu chuỗi nhỏ đeo tay…
6. Cách thứ 6: Có thể chọn ân nào mình thấy THÍCH và chuyên niệm Ân đó, nhất là Ân Đức mà mình muốn triển khai trau dồi trong kiếp sống này…
7. Cách thứ 7: sử dụng thuần thục cách niệm Ân Đức Phật bằng xâu chuỗi.
Bạn có thể sáng tạo ra các phương thức mới… theo hai loại vòng nhỏ đeo tay và vòng chuyên dụng…
CÁCH PHÁT ÂM RA TIẾNG VIỆT 9 ÂN:
1. Í-tí-pí-sô/ phá-gá-voa/Á-rá-hăng
(Itipi so Bhagava Arham)
2. Í-tí-pí-sô/ phá-gá-voa/Săm-ma-săm-bút-thô (Itipi so Bhagava Sammasambudho)
3. Í-tí-pí-sô/ phá-gá-voa/ Vít-xà/chá-rá-ná/săm-banh-nô
(Itipi so Bhagava Vijjacaranasampanno)
4. Í-tí-pí-sô/ phá-gá-voa/Sú-gát-tô
(Itipi so Bhagava Sugato)
5. Í-tí-pí-sô/ phá-gá-voa/Lô-ká-ví-đu
(Itipi so Bhagava Lokavidu)
6. Í-tí-pí-sô/ phá-gá-voa/Á-nút-tá-rô/ Pú-rí-sá-đăm-má-sa-rá-thí (Itipi so Bhagava Anuttaro Purisadammasarathi)
7. Í-tí-pí-sô/ phá-gá-voa/ Xạt-tha-đê-vóa-má-nút- sa-năng
(Itipi so Bhagava Satthadevamanussanam)
8. Í-tí-pí-sô/ phá-gá-voa/ Bút-thô
(Itipi so Bhagava Buddho)
9. Í-tí-pí-sô/ phá-gá-voa
(Itipi so Bhagava)
Bạn sẽ khám phá ra nhiều điều của thân và tâm bằng vào sức định ngày một tăng trưởng... nhiều niềm vui của sự hiểu biết mới sẽ tới…
Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi: niệm 9 Ân Đức Phật bằng sâu chuỗi đặc dụng là tốt nhất, hiệu quả nhất, mang lại nhiều hỉ lạc nhất!
Sau khi đã TỚI trình độ này, cần tìm thầy học thêm để biết cách THẤY tâm trong khi niệm Ân Đức Phật và trong mọi lúc mọi nơi để có được chánh kiến giải thoát…
Nên mua sắm loại vòng tay kiểu trơn tức là không có cái hạt to có túm dây ... loại gỗ thì sử dụng vào mùa đông, mùa hè có mồ hôi sử dụng loại gỗ không hay… tùy duyên mà bạn có được loại xâu chuỗi nào để sử dụng…
Nếu bạn muốn có xâu chuỗi để niệm Ân Đức Phật:
Xin liên hệ theo địa chỉ:
ĐT: 0438534225