Quan điểm của Phật giáo Nguyên Thủy về Mật tong
Từ trước đến nay, giới Phật giáo trong nước cũng như trên khắp thế giới đã có nhiều tranh luận xung quanh việc liệu Mật tông có phải do chính Đức Phật Thích Ca thuyết ra hay không. Hai luồng dư luận phủ nhận và khẳng định đều có những lý lẽ riêng của mình.Những người không chấp nhận kinh điển của tông phái Mật tông là đạo Phật, cũng như bác bỏ cách tu hành của tông phái này là không thể hiện tính cốt tuỷ của đạo Phật, thường có các quan điểm chung như sau :
1/. Dựa vào các cuộc nghiên cứu lớn về lịch sử đạo Phật, đều không có chứng cứ lịch sử xác thực nào cho thấy Mật tông là do chính Phật thuyết. Cả ba lần kết tập kinh điển đều không có các kinh Mật tông.
2/. Đạo Phật Nguyên Thuỷ phủ nhận linh hồn & Thượng đế (Vô ngã), ngay sau khi giác ngộ Phật Thích Ca đã hướng tâm đi tìm linh hồn & nhưng không thấy. Tuy nhiên Mật tông lại có cả linh hồn & Thượng đế (Hữu ngã). Trong quá trình phát triển của các tông phái Phật giáo sau này , sự xuất hiện các lý thuyết về linh hồn & Thượng đế thường có các dạng như :
+ Linh hồn hữu hình (thân trung ấm) : sau khi chết, con người sẽ đi vào trạng thái thân trung ấm, trải qua các giai đoạn khác nhau trước khi táisinh vào một đời sống mới.
+ Linh hồn vô hình : sau khi chết, thức ấm sẽ đi tìm bụng mẹ để tái sinh.
+ Thượng đế hữu hình : một đấng toàn năng làm chủ một quốc độ trang nghiêm thanh tịnh nào đó. Nếu người ta tin tưởng vào vị này và thường tụng niệm cầu khấn danh hiệu thì sau khi chết sẽ được vãng sinh vào cõi nước Thiên Đàng đó, hưởng phúc vĩnh viễn.
+ Thượng đế vô hình : hay còn có các cách gọi khác là Phật tánh, pháp thân, bản thể chân như, thể tính, đại ngã, duy ngã độc tôn, bản lai diện mục, tâm bản nhiên ... là trạng thái nhất thể tuyệt đối phủ trùm vạn hữu, thực tại phổ quát không phân ly nhưng tất cả lại vọng sinh ra từ đó. Các mô tả về trạng thái này giống hệt giáo lý về Đại Ngã - Chân Ngã của Yoga Ấn Độ.
Nhiều người theo Phật giáo Nguyên Thuỷ phủ nhận tính Phật giáo của Mật tông thường cho rằng sở dĩ người tu Mật nhìn thấy thân trung ấm và nhận tha lực từ các cõi giới siêu hình của Thần Phật là vì sự tu luyện của họvẫn còn trong vòng Tưởng tri chứ không phải Liễu tri. Vì họ tu Tưởng nên có quan kiến giống hệt các tôn giáo khác, về linh hồn sau khi chết, về các cõi giới siêu hình, về sự cứu rỗi, ban rải tha lực của thánh thần.
Còn về đại ngã - pháp thân - bản thể chân như - tâm bản lai diện mục - giác tính bất nhị của Mật tông, thì nhiều nhà tu hành Nguyên Thuỷ cho
rằng đó chẳng qua là tưởng Thức của định vô sắc Thức Vô Biên Xứ mà thôi.
Khi chứng nhập định này thì sẽ thấy tâm thức phủ trùm vô hạn, phi khônggian thời gian. Và tất cả các cõi giới siêu hình cũng như nhất thể tuyệt đối pháp thân này đều là do tưởng thức lưu xuất ra, không thật có và không phải là Niết Bàn của đạo Phật Nguyên Thuỷ.
Các nhà Sư Trưởng lão Nguyên Thuỷ này có cách lý giải là trước khi tìm ra con đường để đi đến giác ngộ giải thoát, Đức Phật đã tu chứng các định vô sắc, trong đó có cả Thức Vô Biên Xứ (pháp thân - đại ngã - bản thể chân như - thể tính, ...) nhưng không thấy giải thoát, nên đã bỏ. Quá trình chứng nhập các định vô sắc như sau :
Giữ tâm không suốt các thời -> chứng nhập Không Vô Biên Xứ Định
Xa lìa tưởng Không -> chứng nhập Thức Vô Biên Xứ Định
Xa lìa tưởng Thức -> chứng nhập Vô Sở Hữu Xứ Định
Xa lìa tưởng không của Vô sở hữu xứ -> chứng nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định
Các nhà Sư Nguyên Thuỷ cho rằng, các phép tu của Mật tông để chứng nhập pháp thân - bản thể tuyệt đối, thực chất chính là từ Không Vô Biên Xứ đivào Thức Vô Biên Xứ. Trong pháp vô thượng du già quan kiến (tối thượng Mật tông), người thầy trước tiên giới thiệu trò vào tâm bản nhiên, rồi khi trò đã biết tâm bản nhiên rồi thì cứ hướng tới trạng thái đó mà tu hành, giữ tâm vô phân biệt đến khi nào an trụ hoàn toàn trong tâm bản nhiên thì đắc đạo.
Đây gọi là lấy mục đích làm phương tiện, hoặc "kết quả thừa". Để có thể rơi vào tâm bản nhiên, thì trước hết người ta phải phát triển tâm không bằng một nghi vấn, hoặc một đối tượng được bám nắm chặt chẽ trong tâm, đến khi có một tác động đột ngột vào thân hoặc tâm, thì Tưởng Không sẽ vỡ tan và Thức Vô Biên sẽ xuất hiện (giác tánh bất nhị phủ trùm vạn hữu).
Điều này tương tự pháp thiền quán của mật tông, khi đã chứng nhập tâm không, hành giả sẽ khởi quán đẩy lui tưởng Không và sẽ giác ngộ nhất thể tuyệt đối. Vì vậy quy trình này được các nhà Sư Trưởng lão Nguyên Thuỷ quy về Thức Vô Biên Xứ Tưởng Định, một trạng thái tâm của tưởng Định vẫn còn vô minh lậu ở trong Định và dục lậu khi ra khỏi Định.