Trợ giúp - Tìm kiếm - Thành viên - Lịch ghi nhớ
Phiên bản đầy đủ: Âm dương trong đời sống hàng ngày
Thực Dưỡng > Nguyên lý Thực Dưỡng > Triết lý âm dương
Thelast
ÂM VÀ DƯƠNG TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY


Tất cả các hiện tượng đều bị sự chi phối của lực lượng tâm (âm) và ly tâm (dương). Chúng tạo nên những chuyển động ra ngoài hoặc vào trong của mọi vật chất.

Âm (chuyển động đi ra) là kết quả của sự giãn nở, trong khi dương là kết quả của sự tập trung tích tụ và co rút. Chúng ta có thể thấy các xu hướng này của vũ trụ trong cơ thể con người cũng như sự co bóp của quả tim, bụng, lồng ngực như trong những tiến trình tự nhiên của sự tiêu hoá.

Trong vùng không trung và địa chất có 2 lực tác động thường xuyên lên mọi vật là lực hút xuống, lực hướng tâm. Dương lực có chiều hướng đi vào tâm trái đất cùng với tia sáng mặt trời, ánh sáng các vì sao và ánh sáng bùng nổ của các vì sao còn lực ly tâm, âm lực có chiều hướng đi ra khỏi tâm trái đất. Tất cả mọi vật trên trái đất đều nằm trong trạng thái cân bằng của 2 loại lực hút và đẩy này. Ngày xưa người ta gọi nó là thiên lực và địa lực.

Trong cơ thể chúng ta cũng có thể tìm ra 2 phần hoàn toàn chịu những lực khác nhau tác động. Đầu được kéo lên còn thân bị kéo xuống. Chúng ta có thể coi đầu như là một phần kết tụ đông đặc của cơ thể và phần mình như là một phần nới lỏng của đầu. Cái đầu được kết cấu như để chịu tác động của 1 lực kéo lên hay lực ly tâm nhiều hơn và phần mình của chúng ta được kết cấu như là để thích hợp hơn với lực hướng tâm kéo xuống. Vị trí của đầu thích hợp với âm lực ly tâm còn mình thích ứng với dương lực hút xuống nên đầu chúng ta có xu hướng đặc và rắn chắc hơn là cơ thể. Tỷ lệ trung bình giữa đầu và mình là 1/7 trong khi đó tỉ lệ giữa lực ly tâm âm và lực hướng tâm dương cũng chính xác là 1/7 khi nó tác động lên chúng ta. Tỷ số này cũng được phản ánh trong phần bị biến mất khỏi trái đất là 1/7, nó cũng là tỉ số giữa các đỉnh cao sóng đúng bằng 1/7.

Trong thế giới thực vật, phần mọc dưới đất tương thích với dương lực nó có xu hướng ăn về rễ xuống đất và hướng về tâm trái đất. Còn phần trên mặt đất của cây tương ưng với âm lực, nó có hướng vươn lên và đi ra xa theo kiểu ly tâm. Trong các mục đích thực hành, theo yêu cầu cần thiết lập sự cân bằng âm dương trong nấu ăn. Nên bổ các gốc, của của rau quả theo chiều dọc thay vì cắt chúng theo chiều ngang để đảm bảo mỗi mảnh đều còn lại cân bằng âm dương.

Ân và dương luôn luôn có chiều hướng biến đổi sang nhau theo một vòng liên tục, nó được phản ánh trong công việc thay phiên nhau liên tục của ngày và đêm, mùa nóng và mùa lạnh của hơi thở và và thở ra. Lực dương có tính có lại tạo nên sự nóng cuối cùng dẫn đến sự giãn nở hay âm. Trong khi đó thì lực giãn nở tạo ra lạnh lại tạo nên kết quả làm cho nó nóng lên. Và kết quả là những thực vật ở miền âm lực nhiều và lạnh thì thường bé nhỏ hơn là những thực vật mọc ở vùng khí hậu nóng có kích thước lớn.

Bắt đầu từ hiểu biết này chúng ta có thể phân loại tất cả mọi biểu hiện trong sự sống, trong mối quan hệ tương hỗ đưa tất cả quay về một bản chất hoặc quay về 2 phẩm tính đặc thù âm và dương. Từ đó chúng có quan hệ lẫn nhau không có một cái gì hoàn toàn âm và không có một cái gì hoàn toàn dương. Tất cả chỉ là mức độ âm dương khác nhau mà thôi. Âm và dương không cứng nhắc mà luôn hoán chuyển sang nhau.

Thí dụ ánh sáng, nóng, màu đỏ tính tích cực, điện dương, cực…tính, sóng dài, thế giới động vật, tính dục của đàn ông có thể được xếp loại như là dương lực theo một cách tương ứng. Trong khi đó bóng tối, lạnh giá, màu xám, điện tích âm, cực tử âm sóng ngắn, thế giới thực vật và tính dục của đàn bà có thể coi như tương ứng với âm lực. Từ đây chúng ta có thể thấy âm và dương thường xuyên tác động vào nhau như là đàn ông và đàn bà, như là 2 cực nam châm. Âm và dương đứng đối lập nhau và chúng trợ giúp và hoàn thiện lẫn cho nhau.
Thelast
Các vòng xoắn trên ốc


Quan sát chuyển vận âm dương theo thời gian chúng ta thấy mẫu chuyển động của chúng ta là theo đường xoắn chôn ốc khi nhìn từ trên xuống và dạng chuỗi- Helical khi nhìn từ dưới lên. Dạng vũ trụ này có thể nhìn thấy trong Galaty (dải ngân hà) cũng giống như gió và dòng chảy của đại dương, trong cấu trúc phát triển của cây cối, trong dòng chảy xuống của nước xuống sàn nhà, trong vân tay trong cấu trúc của DNA, trong cấu trúc đôi tai của ta, và trong kiểu mọc tóc dạng xoắn ốc được cấu tạo khởi đầu từ dương lực tử bề mặt hướng về trung tâm và từ trên với tới tấng kết nối tiếp theo bắt đầu nó bị chi phối bởi một tâm lực giãn nở ly tâm tử trung tâm quay ngược lại phía bề mặt như vậy trở nên giãn nở hơn là vùng âm của vòng xoắn trong khi đó trung tâm trở nên cô đặc hơn là vùng dương.

Khi khoa học kiểm tra các điện tử và proton theo từng phần, người ta thấy rằng chúng không nằm tuỳ ý mà phải phân vùng theo các vùng xoắn của các chuyển động năng lượng như ở nguyên tử. Nơi đó sự đông đặc của năng lượng được độc lập trong một cách đặc biệt hoặc tích điện cao. Đối với proton năng lượng tập trung này được cô đặc lại chúng tích điện dương, tập trung cục bộ tại một chỗ và mang tính dương. Đối với các điện tử các đám mây năng lượng kiểu xoắn tích điện âm và tích tụ ở vỏ ngoài, chúng mang tính âm, giãn nở. Dù sao, điện tử quay quanh hạt nhân với một vận tốc lớn hơn là hạt nhân chuyển động nên hướng tâm. Mặc dù hạt nhân có kích thước lớn hơn điện tử, nhưng sự cân bằng động vẫn được thiết lập thông qua việc chuyển động của các điện tử hay chuyển động hướng.

Cấu trúc xoắn của vũ trụ đã để lại nhiều dấu vết trên gương mặt con người. Trong thực tế, cấu hình cơ bản của cơ thể con người là dạng xoắn. Điều này có thể nhìn ảo khi con người còn ỏ dạng bào thai. Hai vòng xoắn đối lập phụ trợ trên cơ thể chúng ta hoạt động thông qua các hệ tiêu hoá và hệ thần kinh. Khi còn ở dạng bào thai hệ tiêu hoá khởi đầu dương hơn bắt đầu từ trung tâm và nằm ở vị trí hướng vào trong, trong khi hệ thần kinh nằm ở ngoài vỏ cơ thể mang tính âm hơn. Trong số các thành phần dinh dưỡng mà bào thai tiếp nhận từ máu mẹ, cái nhân tố âm hơn như các protein và chất béo bị hút vào hệ tiêu hoá dương nhiều hơn làm cho nó tự nên âm đi: mềm và giãn nở. Tuy khi đó các khoáng chất dương như cale; lại thâm nhập nhiều hơn vào bề ngoài cơ thể nơi có hệ thần kinh âm tính hoạt động làm cho nó trở nên dương hơn (cứng và cô đặc) và tạo nên xương sống.

Cấu trúc của cánh tay và thân cũng theo hình xoắn. Khi xem xét các vị trí bị xoắn trong thời kỳ phôi thai của một đứa trẻ có thể nhận thấy điều này cũng như khi đứa trẻ mới sinh. Tay và chân chúng bao gồm 7 lớp xoắn theo quỹ đạo hình logorit giống như các dạng xoắn ….thông qua vũ trụ. Thí dụ với tay, phần gốc tay theo hình xoắn, phần từ vai cho đến khuỷu tay là thứ hai. Từ khuỷu tay đến cổ tay là thứ ba, từ cổ tay đến đốt ngón tay là thứ tư, và ba đốt của từng ngón đều có những lớp cơ xoắn riêng. Tổng cộng là 7 lớp cơ xoắn của cánh tay. Cũng vậy khoảng cách từ vai cho đến khuỷu tay bằng ½ khoảng dài của cả cánh tay, khoảng từ khuỷu tay đến cổ tay cũng xấp xỉ một nửa từ khuỷu tay. Khoảng cách từ cổ tay đến gốc ngón tay bằng ½ từ cổ tay đến đầu ngón tay. Khoảng cách từ gốc ngón tay đến đốt thứ nhất bằng ½ từ gốc ngón tay đến đầu ngón tay. Khoảng cách từ đốt thứ nhất đến cuối đốt 2 bằng ½ khoảng cách sát từ cuối đốt 1 đến đầu ngón tay.

Trong nhiều thế kỷ con người ở Phương Đông đã từng nghiên cứu về mối quan hệ tương hỗ đối kháng và bổ trợ lẫn nhau giữa Âm và Dương trong cơ thể con người. Mối quan hệ này tạo cơ sở cho châm cứu và y học Phương đông cổ xưa. Mặc dù đơn giản trong thực hành, nhưng diagnogsis ảo có thể xuy xét các biểu hiện bên trong của bệnh nhân qua việc quan sát các biểu hiện bên ngoài của họ mà không cần phải dùng đến các thiết bị đắt tiền để kiểm tra bên trong bệnh nhân.

Kỹ thuật này có thể được làm chủ một cách dễ dàng bởi vì nó được xây dựng cơ bản trên sự ứng dụng của thuyết âm dương.

Khi áp dụng trật tự của âm dương vào sự lựa chọn và chuẩn bị nấu ăn cho bữa ăn hàng ngày, có 2 nhân tố cơ bản luôn cần quan tâm đó là thời gian và không gian. Sự lựa chọn thời điểm ăn kiêng có một tác dụng cách mạng tới trật tự cuộc sống sinh học hiện tại cũng như tác dụng tới mối quan hệ tương hỗ hiện tại trên mặt đất giữa các nhân tố âm dương nằm trong mọi chiều của vũ trụ. Trước hết chúng ta hãy cân nhắc thời điểm dựa trên những chỉ dẫn và sự phát triển đời sống sinh học trên trái đất.
Thelast
Âm và Dương trong đời sống hàng ngày.

Nói chung thức ăn động vật mang tính dương và tạo ảnh hưởng co cụm trong khi các thức ăn động vật mang tính âm và tạo ảnh hưởng trương giãn cũng vậy, các nhân tố áp suất, lửa và thời gian chế biến càng có ảnh hưởng lớn trong khi đó ít áp lực, nước, dầu và đun ít gây nên sự giãn nở của thức ăn. Trong thế giới thực vật chúng ta có thể chọn thức ăn âm với các loại rau quả ngũ cốc có thước lớn, mọc trên bề mặt đất theo hướng vươn lên hoặc dưới mặt đất theo hướng xuyên ngang, các loại quả củ có nhiều nước, mềm và dài mảnh dễ được trồng ở những vùng nóng.

Các loại thực vật dương là loại có kích thước nhỏ có xu hướng mọc sâu xuống dưới đất, và mọc xuyên ngang trên mặt đất, chúng khô và cứng ngắn chắc chúng thường được trồng ở các vùng lạnh. Chúng ta cũng có thể phân loại thực vật theo mầu sắc. Các màu tím xanh và trắng trên rau quả thiên về âm. Các thực vật vàng nâu và đỏ thiên về dương.

Ngoài ra chúng ta có thể phân âm dương theo tỉ lệ hoá học giữa thành phần muối Na mang tính dương và bồ tạt (kali) mang tính âm theo sự phân tích định lý âm dương chúng ta thường phân các loại thức ăn như rau: Trứng, thịt, thịt gà, chim, cá rồi sau đó là các loại rau thực vật củ quả theo sự sống cân bằng 1/7 trong các yếu tố của Na/ ka. Sau đó phân tiếp đến các loại đậu, hạt củ, cải bắp, hoa quả, các loại mật, dung dịch, chất nhớt ở cây, đường, cần sa. Từ đó chúng ta cần phải thường xuyên duy trì tỉ lệ âm dương cân bằng khi chúng ta chế biến xào nấu và pha trộn chúng thâm nhập vào nhau. Ví dụ nếu ta nấu thức ăn gần thịt, trứng và các thức ăn động vật mang tính dương cao yêu cầu chúng ta phải gia giảm một lượng tương đối các thức ăn âm như hoa quả, đường, rau, rượu vang để thiết lập sự cân bằng. Dù sao thì cũng rất khó để cân bằng những bữa ăn nhiều thức ăn như vậy và hậu quả là dễ gây nên đau ốm. Đau ốm bệnh tật không có gì khác ngoài mất cân bằng do một vài nhân tố nào đó.

Trong những phạm trù của thức ăn, có những biểu hiện âm và dương thí dụ thịt cá đỏ như cá kiếm dương hơn là thịt cá trắng. Trong số ngũ cốc, kiều mạch dương hơn và ngũ cốc là âm nhất. Gạo đó là dương nhất. Đậu nhỏ chứa ít dầu azuki dương hơn là các loại đậu to như lạc hay đậu phộng tương. Cũng vậy với các loại hạt các loại hạt ít dầu dương hơn các loại to nhiều dầu.
Thelast
Hưởng cách ăn uống

Để phản ánh toàn bộ trật tự sinh học trong bữa ăn của chúng ta, nhằm thiết lập tốt nhất tỷ số cân bằng âm dương 7/1 thì 50% thực phẩm hàng ngày của chúng ta đều không được ở dạng chế biến xay xát hoặc chế biến bằng các chất ướp hoá học. Các loại lúa mỳ , lúa gạo, ngũ cốc đều không được xay xát. Khi nấu ăn tốt nhất nên dùng các loại nồi áp xuất để cho các chất dinh dưỡng không bị bốc hơn bay đi mất. Đối với các loại lúa mỳ tất cả các hạt lúa mỳ không được chà xát trước khi làm bánh. Đối với bánh mỳ tốt nhất là được nướng từ bột mỳ nguyên chất mà không cho men vào. Nói chung nên tránh cho các loại kem vào các loại bánh bột mỳ ngay cả khi chúng được làm từ bột nguyên chất

HÌNH VẼ trang 16


Nếu có thịt động vật nên ít hơn 10%

Cùng với ngũ cốc, khoảng 20-25% thức ăn hàng ngày có thể được nấu cùng rau quả. Có thể nầu theo nhiều kiểu nấu khác nhau như đun, luộc, nấu, rán, kho, chiên, xào…và nấu bằng nồi áp suất. Trong số các loại rau củ, cà rốt, củ cải, dai kon, turnip, khoai tây, ngó xen, burdock là thích hợp khi chế biến các loại rau củ, nên nấu cả củ lẫn ngọn theo tỉ lệ cần bằng âm dương. Trong số rau có thể kể đến cải bắp, củ hành, witer squash, súp lơ, brocolli, cải tàu lá có nhiều dinh dưỡng, có thể dùng là dai kon và turning (xu hào) để điều chỉnh khẩu phần thân bằng quả dưa chuột, nấm, rau diếp, đậu trắng, hay các loại rau ghém khác.

Ngoài ra số rau ngũ cốc có thể dùng 5-10% súp (1-2 cốc súp) trong 1 ngày. Súp có thể nầu cùng tương miso được làm từ đậu tương muối và ngũ cốc. Có thể cho thêm vào súp một ít rong biển có thể nấu bằng tamari, một loại nước sốt đậu thiên nhiên, súp cần phải có ngũ cốc và đậu trong đó có thể dùng các loại rau củ khác nhau.

10% khẩu phần thức ăn hàng ngày của chúng ta nếu có đậu, rong biển và xà lách, hoa quả theo mùa, đạm động vật tốt nhất là dùng cá ngọt hoặc cá biển, các loại hạt, mầm hạt tuỳ theo thời tiết, mùa màng và thể trạng hoàn cảnh cá nhân của từng người.

Trong số các loại hạt, đều dùng các loại hạt nhỏ như azuki, hạt vừng, hạt cải còn các loại đậu khác cũng có thể dùng. Nói chung đậu nành chứa nhiều dầu và có tính âm đối với việc sử dụng hàng ngày. Vậy theo truyền thống chúng được dùng với muối biển để làm miso và tamari để sử dụng hàng ngày.

Trong số các loại rong biển thì có thể dùng hiziki, arame, wakame, kombu, nori, có thể được dùng thường xuyên khi cho vào súp.

Do hoa quả thường rất âm có thể dùng chúng và pha chế cùng với muối cũng có thể dùng 1 phần thức ăn động vật thường về mùa đông và ở vùng lạnh nhưng tỉ lệ âm dương của chúng không được quá 1/7 so với thực vật. Khi dùng đạm động vật có thể dùng một số loại âm tính hơn như các loại màu trắng, ở xa chúng ta nhất trong nấc thang tiến hoá, so với cá thịt đỏ. Hơn nữa khi có hoa quả và xà lách, do một số điều kiện, thức ăn động vật có thể cần phải tránh trong một số thời điểm nhất định. Trong số các đồ uống thường dùng để thiết lập sự cân bằng âm dương có trà ban cha, cà phê làm từ ngũ cốc, và từ gạo lứt. Nói chung chúng ta chỉ uống khi khát và nếu cần bạn có thể uống 3 đến 4 lần một ngày. Còn khi chân tay bạn hoạt động nhiều bạn cần uống thêm rượu mui.
Khi nấu, dầu trở nên âm hơn nên ta chỉ cho ít chứ không nên thường xuyên dùng nhiều. Tốt nhất nên dùng thêm muối biển trắng, dầu tương tamari, miso, hoặc ameboshi (mận muối).
Thelast
Còn một vài điều cần phải lưu ý thêm khi chế biến ngũ cốc và các thực phẩm khác. Hay dùng nhất là Gomasio (nước làm từ muối biển và hạt sesames). Tuỳ thuộc vào việc bạn cần tăng cường âm hay dương cho bữa ăn mà bạn có thể dùng tỉ lệ sesames seeed (hạt… với muối là 8/1 hay 12/1...). Tốt nhất là nên làm gamasio vài ngày trước khi dùng trong thùng muối gọi là suribachi để cho nó nguyên chất. Đối với các loại rong biển, khi đun nên cắt nó vụn nhỏ và cho vào khẩu phần của người ăn nhiều muối. Một điểm cân bằng lưu ý là việc nhai thức ăn, thức ăn khi vào miệng được phân rã bởi việc nhai và hoà trộn của nước bọt. Cần phải chú ý nhai kỹ thức ăn cho đến khi chúng nhuyễn và nuốt xuống dạ dày. Với những người cần giảm béo và có các vấn đề tinh thần, đặc biệt cần chú ý đến việc nhai, tuỳ thuộc từng người số lần nhai có thể ăn đến 50-200 lần miếng cơm được tiêu hoá ngay khi ta còn thức để không bị nằm đọng lại lâu tại một chỗ nào đó của hệ tiêu hoá và tích tụ lại trong cơ thể. Và không cần phải nói chúng ta đều biết rằng mối hoạt động vật lý và tinh thần cần được bù đắp lại bữa ăn.

Nói chung các loại thức ăn động vật như thịt và trứng có thể được chấp nhận đối với những người sống ở các vùng phân cực. Ngũ cốc và rau quả nằm lại trong bụng từ 2- 2,5 giờ còn để tiêu hoá thịt phải mất 4,5 giờ. Trong lúc này cần sự tập trung của mạch máu vào và chúng chạy quanh vùng dạ dày và phân chia ra các số mạch máu cho việc tiêu hoá, một số khác cho các hoạt động trí não nên lúc này sự suy nghĩ có thể bị mất đi sự mạch lạc.

Cũng vậy quá trình phân huỷ thịt tạo ra các amiso axit mang tính âm chẩy vào trong máu và biến đổi sự cân bằng đã được thiết lập từ trước trong máu. Quá trình cân bằng này thường xuyên được duy trì nhờ việc bổ xung chất lượng muối vào máu. Các khoáng chất này được lấy từ rau củ, ngũ cốc được ăn cùng với thịt, các loại protein nằm trong thịt được phân huỷ và tích tụ lại sau đó biến đổi ra dạng tóc, lông của cơ thể hoặc là chúng tích tụ lại dạng không hoạt động gọi là dạng béo bão hoà. Dạng chất béo bão hoà này chứa ở khắp nơi trên cơ thể đầu tiên là ở những vùng ít vận động của cơ thể, sau đó bao quanh các nhóm dây thần kinh gây nên cảm giác trương phềnh và nặng nề. Sự nặng nề này tạo nên tự tăng colesteron trong máu cùng các axits béo dính chặt vào các thành mạch máu. Hơn thế ở trong ruột, các protein phân giải từ động vật phá huỷ các vi khuẩn có lợi tạo các vitamin B complex trong một cần sử dụng để trải lượng ……Hydracacbon và hoá giải lượng axit glutamic trên não.

Trong sữa và các sản phẩm hàng ngày khác, chúng ta thấy rằng trong thiên nhiên, các con vật dừng việc bú mẹ khi răng của chúng mọc ra và chúng có thể nhai thực phẩm riêng của chúng, Sữa người là thực phẩm lý tưởng cho trẻ con, còn sữa bò không đủ dưỡng chất cho trẻ nhỏ. Sữa bò chứa 3,8 % protein và chứa nhiều thành phần mà trẻ nhỏ khó tiêu hoá. Trong khi đó sữa người chỉ chứa 1,5 % protein dưới dạng lactal bumin rất dễ tiêu hoá. Do sữa bò hay bị phơi ra ngoài không khí nên các vi khuẩn thường sinh ra trong nó, do nó bị nhiễm khuẩn nên cần phải cho vào nó các chất hoá học giữ cho nó khỏi bị biến chất, điều này làm thay đổi cấu trúc trong thành phần của nó. Cũng như axit amin trong thịt, các thành phần chất béo trong sữa cũng phân bố khắp cơ thể, tích tụ và gây nên các điều kiện bất lợi cho sức khoẻ.

Đối với đường tinh chế, cần phải nói về tác dụng lên cơ thể của 3 loại đường khác nhau:

Đường đơn mono.. có trong hoa quả và mật ong
Đường kép có trong đường mía, sữa.
Đường tổng hợp có trong ngũ cốc và rau củ.

Trong quá trình phân giải thông thường, đường ngũ cốc hay đường tổng hợp được phân giải nhờ nước bọt trong miệng sau đó phân giải trong dạ dày và sau đó bị phân huỷ hoàn toàn tại ruột non và ruột già.

Khi đường tinh chế đi vào dạ dày nó gây nên phản ứng đường nơi đó dạ dày phân giải nó trong chốc lát. Khoảng ¼ cốc chè lượng đường tinh chế có thể đủ để gây nên phản ứng này. Do đường tinh chế mang tính kiềm alkalad (kiềm) mạnh nên dạ dày phải tập trung một lượng axít lớn để làm trung hoà nó. Nếu lượng đường quá nhiều lượng axít thường xuyên phải tập trung tại dạ dày tạo thành một bức tường tạo nên sự khó chịu gây nên loét dạ dày. Máu của chúng ta bị mang tính kiềm do ăn nhiều đường cũng sẽ có phản ứng trung hoà nhờ việc thu hút nhiều axit vào máu tạo nên sự thừa axit. Các khoáng chất trong thức ăn được hoạt động cao độ để thực hiện đủ cho việc cân bằng này. Nếu hàng ngày chúng ta ăn quá nhiều đường, sự cung cấp khoáng chất sẽ không đủ đáp ứng để cân bằng và chúng ta phải huy động các khoáng chất nằm sâu trong cơ thể như là canxi và răng. Nếu điều này thường xuyên xảy ra thì xương và răng sẽ thường xuyên thiếu canxi và bị suy yếu. Lượng đường thừa sẽ tích tụ lại trong cơ thể dưới dạng glucogen ở gan. Khi lượng đường tích tụ vượt quá giới hạn cho phép 50g ở gan nó chảy vào trong máu dưới dạng axit béo và các axít này tích tụ ở các phần ít hoạt động của cơ thể như bu hock bắp đùi, bụng và mông. Nếu tiếp tục uống đường tinh chế các axit béo này tiếp tục thâm nhập vào các bô phận hoạt động như là trái tim và thận, thâm nhập và phá huỷ sự bình thường của đường một làm chúng hoạt động kém đi và đi đến chỗ suy thoái.
Thelast
Sự sử dụng đường ngày càng nhiều trong các nước hiện đại có thể thấy ở sự gia tăng bất ngờ của bệnh tật suy thoái như bệnh đau tim trong đó 2/5 dân mỹ bị chứng bệnh này. Đường tinh chế cũng tác động đến sự suy nghĩ của thần kinh thông qua việc phá huỷ các vi khuẩn đường một có lợi trong việc hấp thụ vitamin B cần thiết cho sự tạo ra các axit glutamic gây nên những tác động xấu trực tiếp lên các tế bào não. Sự thiếu hụt các thành phần này gây nên sự mất trí nhớ, trì độn ở con người.

Nói chung đường tinh chế phát triển mạnh mẽ cùng những sản phẩm tinh chế của khí hậu nhiệt đới gây nên hiệu ứng quá âm trên cơ thể vật lý của chúng ta tác động xấu đến các yếu tố tinh thần, ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thần kinh bộ não. Nó gây nên phản ứng đường trong dạ dày. Bạn có thể tham khảo thêm về hậu quả của đường của tác giả “ William Dufty nhà sách shiiton” xuất bản.

Những chất ngọt như mật ong và các dịch ngọt thiên nhiên khác cũng có tác động tương tự như đường tinh chế nhưng ở mức độ nhỏ hơn nhiều và có thể tránh dùng nhiều trong cuộc sống hàng ngày. Các thực phẩm tinh chế khác như bánh mỳ trắng, gạo trắng cũng nên tránh dùng do chúng đã bị mất đi các bột cám chứa nhiều vitamin và khoáng chất và chúng không còn là thực phẩm toàn diện khi lớp vỏ cám bên ngoài bị mất đi, mỳ và gạo bị mất vitamin B cần thiết để phân giải hydracacbon. Từ khi gạo xát trắng bắt đầu được dùng ở phương đông các trường hợp bị beriberi hay thiếu chất B1 ngày càng nhiều .

Nói chung con người ôn đới nên tránh dùng nhiều hoa quả ngọt như chuối, táo, chanh, cam,…. nhập khẩu từ các nước nhiệt đới bởi chúng rất âm. Họ cũng không nên dùng nhiều gia vị hương liệu từ các nước này , nên ít dùng các loại rau quả cà chua, khoai tây, bởi chúng rất nhiều kali và mang tính âm thực tế cà chua và khoai tây không thuộc về vùng khí hậu miền Bắc và chúng ta nhập khẩu từ các nước nhiệt đới.

Nếu chúng ta không có những điều kiện tốt chúng ta nên tránh dùng cả asparagus, củ cải đường, hạt tiêu xanh, zuchini, spinach bởi chúng rất âm. Còn nếu bạn mạnh khoẻ có thể dùng chúng vừa phải. Nước ép hoa quả rất âm. Nếu bạn dùng chỉ nên dùng khi cơ thể mạnh khoẻ. Các thực phẩm đóng hộp , đông lạnh, và sử lý công nghiệp nên tránh vì chúng bị sử lý bằng hoá chất và chứa đường. Nước ngọt nên tránh dùng nước ngọt ướp lạnh, loại trừ chè và cà fê có thể dùng. Ngoài ra các hoá chất nên tránh bởi chúng rất âm như ma tuý, dầu, rượu, bia, dấm chua. Dù sao trong số các loại đồ uống thì bia mang tính dương nhất vì nó làm từ ngũ cốc đã lên men và có độ cồn thấp hơn rượu. Có thể dùng thi thoảng nếu bạn khoẻ mạnh.
Thelast
Sự lựa chọn các chất dinh dưỡng.

Có 1 câu hỏi lớn thường xuyên được đặt ra trong giới thực dưỡng là liệu một khẩu phần ăn chỉ gồm ngũ cốc rau quả, hạt đậu, rong biển, xà lách, hoa quả theo mùa, cá liệu có đủ cung cấp dinh dưỡng cho ta hàng ngày không. Loài người đời sống khoẻ mạnh hàng ngìn năm nay bởi việc sử dụng các món ăn này chỉ có ngày nay ta mới đưa ra khái niệm dinh dưỡng về protein theo quan điểm của các nhà phân tích.

Trong 60 năm trước đây khẩu phần ăn của phần đông người Mỹ vẫn là ½ ngũ cốc, 10% thịt động vật.

Một khẩu phần ăn hoàn thiện, cân bằng cần chứa các khoáng chất protein, chất béo, hydracacbon và vi tamin. Về quan điểm calo gạo lứt chứa 337 calo, kiều mạch chứa 360 calo đậu tương chứa 392 calo, đậu azuki chứa 326 calo. So sánh chúng với thịt bò chỉ gồm 146 calo, trứng chỉ cho 156 calo, sữa chỉ cho 59 calo (tính trên 100 g môi loại và chúng tôi cung cấp số liệu này từ các viện thống kê dinh dưỡng của Nhật bản và Hoa kỳ).

Về quan điểm protein. Ngũ cốc và đậu rất giàu protein gạo lứt chứa 7,4 g protein, kiều mạch chứa 13,9 g, đậu azuki chứa 21, 5 g, đậu tương chứa 34,39 g, miso chứa 14 g protein. Trong số thực phẩm động vật trứng có 12,7 g protein, thịt bò có 21g, và sữa có 2,9g.

Chúng ta thấy kiều mạch có nhiều protein hơn là trứng. Đậu tương chứa nhiều protein hơn là thịt bò và trứng. Khi chọn thực phẩm ngoài số lượng chúng ta cần quan tâm cả đến chất lượng.

Trong gạo lứt thành phần các loại protein là 72/100 khi 10 loại axitamin trong gao lứt hơn là 70%

Nói về mặt kinh tế, ngũ cốc, đậu và các protein rau quả gây nhiều chú ý hơn. Ví dụ chúng có thể được trồng ở từng vùng khác nhau, và trồng luân phiên giữa ngũ cốc và đậu cho 8 lần nhiều protein hơn là chăn nuôi gia súc tại vùng đó. Dù cho thịt gia súc ngày càng nhiều nhưng thức ăn chính vẫn là ngũ cốc. Ở Mỹ thường tuyên truyền dùng nhiều đậu tương dưới dạng miso, tamiri hoặc đậu phụ. Để duy trì sức khoẻ tạo sự cân bằng trong môi trường sống của chúng ta tỉ số khoáng chất và protein phải là 1/7 cũng như tỉ lệ protein so với hydracacbon là 1/7 và hydracacbon so với nước là 1/7.
Đây là phiên bản "lo-fi" của nội dung trang chính. Để xem phiên bản đầy đủ với nhiều thông tin hơn , xin hãy nháy vào đây.
Invision Power Board © 2001-2024 Invision Power Services, Inc.