IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

14 Trang V  « < 7 8 9 10 11 > »   
Reply to this topicStart new topic
> Hạ Tải Tài Liệu Nghiên Cứu Phật Giáo
huynhdoan2000
bài Mar 10 2010, 09:30 PM
Bài viết #81


Hội viên năng động
***

Nhóm: Members
Bài viết: 1,189
Gia nhập vào: 21-January 08
Thành viên thứ.: 203



Chào các bác...

Khi học chữ Hán để đọc Đại tạng kinh, chúng ta phải học 214 chữ bộ thủ...Nhờ bộ thủ, ta sẽ tra được tự điển chữ Hán, nhất là có thể hiểu nghĩa chữ Hán dễ dàng hơn...

Trong mạng có bài viết dạy cách học bộ thủ mau chóng...Xin post lên đây cho các bác tham khảo
Kể cũng hay...Cám ơn tác giả nghĩ ra cách học bộ thủ như thế nầy...

Cách học bộ thủ dễ nhất

1. MỘC (木) - cây, THỦY (水) - nước, KIM (金) - vàng
2. HỎA (火) - lửa, THỔ (土) - đất, NGUYỆT (月)- trăng, NHẬT (日) - trời
3. XUYÊN (川) - sông, SƠN (山) - núi, PHỤ (阜) - đồi (1)
4. TỬ (子) - con, PHỤ (父) - bố, NHÂN (人) - người, SỸ (士) - quan (2)
5. MIÊN (宀) - mái nhà, HÁN (厂) - sườn non (3)
6. NGHIỄM (广) - hiên, HỘ (戶) - cửa, cổng - MÔN (門), LÝ (里) - làng
7. CỐC (谷)- thung lũng, HUYỆT (穴)- cái hang
8. TỊCH (夕) - khuya, THẦN (辰) - sớm (4), Dê – DƯƠNG (羊), HỔ(虍) - hùm
9. NGÕA (瓦) - ngói đất, PHẪU (缶) - sành nung
10. Ruộng - ĐIỀN (田), thôn - ẤP 邑 (5), què - UÔNG (尢), LÃO(老) – già

Giải thích :

a) 2 câu đầu nói đủ thất diệu (mặt trăng, mặt trời và 5 ngôi sao trong hệ mặt trời Kim, mộc , thủy , hoả , thổ) - tức là nói về Thiên.

cool.gif 2 câu 3 và 4 tiếp theo nói về Địa và Nhân (các thứ trên mặt đất, và các dạng người).

c) 2 câu 5 và 6 là những khái niệm do con người tạo ra, sử dụng, cư trú.

d) 2 câu 7 và 8 nói về thời hồng hoang, ở trong hang núi, bắt đầu có khái niệm về buổi sáng, buổi tối, cũng như thiên địch (hổ) và thức ăn (dê). Người TQ cổ đại nuôi dê rất sớm.

e) 2 câu 9 và 10 nói về thời kỳ đã tìm ra lửa, biết nung ngói, gốm sứ, làm ruộng, đời sống con người tốt hơn, nâng cao tuổi thọ, nên có chữ Lão là người già.

Phụ chú :

(1). Phụ 阜 nghĩa gốc là quả đồi đất, thường dùng trong các chữ Hán chỉ địa danh. Thực tế ứng dụng bộ này với hình thức là 阝,bộ thủ bên trái như chữ Nguyễn 阮, Phòng 防, hạn 限.

(2). Sỹ là người có học, ở đây vì bắt vần, nên tôi cho Sỹ là quan lại. Vì chỉ có người có học mới có thể ra thi làm quan.

(3) Hán 厂, nghĩa gốc là chỗ sườn núi (non) rộng rãi, dùng để làm nơi sản xuất, vì vậy mà người ta mới lấy nó làm chữ Xưởng 厂 (trong “công xưởng”).

(4). Chữ Thần 辰 nghĩa là Thìn (1 trong 12 con giáp), cũng có nghĩa là ngày giờ (vd: cát nhật lương thần : ngày lành giờ tốt). Cổ văn trong tiếng Hoa dùng giống như chữ 晨 là buổi sớm, ở đây vì bắt vần, tôi cho Thần là buổi sớm.

(5). Chữ Ấp 邑 nghĩa là đất vua ban, nhưng người Việt Nam ở miền nam thường dùng chữ Ấp với nghĩa là một khu vực, một thôn làng, vì vậy tôi cho thôn là Ấp. Khi ứng dụng, Ấp có hình thức阝như Phụ, nhưng ở bên phải chữ, như Giao 郊, Đăng 邓, Trịnh 郑.

11. DẪN 廴- đi gần, SƯỚC 辶 - đi xa (1)
12. BAO 勹 - ôm, TỶ 比 - sánh, CỦNG 廾 - là chắp tay (2)
13. ĐIỂU 鳥 - chim, TRẢO 爪 - vuốt, PHI 飛 - bay
14. TÚC 足 - chân, DIỆN 面 - mặt, THỦ 手 - tay, HIỆT 頁 - đầu (3)
15. TIÊU 髟 là tóc, NHI 而là râu (4)
16. NHA 牙 - nanh, KHUYỂN 犬 - chó, NGƯU 牛- trâu, GIÁC 角 - sừng
17. DỰC 弋 - cọc trâu, KỶ 己 - dây thừng (5)
18. QUA 瓜 - dưa, CỬU 韭 - hẹ, MA 麻 - vừng, TRÚC竹 - tre (6)
19. HÀNH 行 - đi, TẨU 走 - chạy, XA 車 - xe
20. MAO 毛 - lông, NHỤC 肉 - thịt, Da 皮 - Bì, CỐT 骨 - xương.

Giải thích :
- Hai câu 11, 12 nói về các động tác của con người (chân và tay)
- Câu 13 nói đến loài chim,
- Câu 14 có tính biền ngẫu : Túc, Diện, Thủ, Hiệt - Thủ //Túc ; Diện//Hiệt. (chân tay, đầu mặt)
- Câu 15 nối tiếp chữ Hiệt là đầu người (nên có tóc, có râu)
- Câu 16 có tính biền ngẫu : Nha, Khuyển, Ngưu, Giác (Chó có răng nanh nhọn, Trâu có sừng cong) Đồng thời Trâu chó, cũng là 2 con vật đi đôi với nhau. (Ngưu thực ra là bò, trâu là 水牛thủy ngưu)
- Câu 17 có tính nối liền : Cọc trâu, Dây thừng (cọc buộc trâu ắt phải có dây thừng)
- Câu 18 nói về thực vật. Qua, Cửu, Ma, Trúc (các loại thực vật)
- Câu 19 nói đến Giao thông, các từ đều nằm trong cùng trường nghĩa (đi lại)
- Câu 20 nói đến các bộ phận trên cơ thể. Mao, Nhục, Bì , Cốt (lông, thịt, da, xương). Đồng thời cũng có tính biền ngẫu. Mao đi với Bì (da lông); Cốt đi với Nhục (xương thịt).


Phụ chú :
1. Hai bộ Dẫn, Sước có ý nghĩa rất rộng, thường chỉ về hành động, đặc biệt là sự đi lại, ở đây tôi tạm dịch Dẫn là đi trong phạm vi gần, Sước là đi trong phạm vi xa. (Cũng là để cho bắt vần)
2. Bao : bao bọc, ôm ấp, bao che. Nên tôi viết Bao = ôm. Tỷ = so sánh. Bộ Củng có nghĩa là 2 tay chắp lại để nâng 1 vật nào đó , hoặc chắp tay lại. (Cổ văn vẽ bộ Củng là hình 2 bàn tay)
3. Bộ Hiệt vẽ cái đầu người. Chú ý phân biệt với bộ Thủ (vẽ đầu con thú, nghĩa gốc Thủ là đầu con thú - Lý Lạc Nghị)
4. Bộ Tiêu nghĩa là tóc dài, các chữ chỉ về râu tóc thường có bộ này.
Bộ Nhi vốn là 1 chữ tượng hình, vẽ chòm râu dưới cằm (Lý Lạc Nghị). Sau này người ta giả tá (mượn chữ Nhi này để chỉ 1 nghĩa khác). Cho nên ngày nay bộ Nhi trở thành 1 hư tự trong tiếng Hán. Trong 1 vài chữ Hán có chứa bộ Nhi, bộ Nhi vẫn mang ý nghĩa là râu cằm.
耐 (nhẫn nại, bị nhổ râu,đau, phải nhẫn nại); 耍 (chơi đùa, đàn bà vốn ko có râu, thế mà bộ Nữ lại đi với bộ Nhi (râu).
5. Bộ Dực là cọc buộc mũi tên, hoặc súc vật. Ở đây tôi dịch là cọc buộc trâu, cũng chỉ là để liên tưởng mà thôi.
Bộ Kỷ cũng là vẽ 1 sợi dây thừng (Lý Lạc Nghị) sau đó, người ta cũng giả tá chữ này làm 1 trong 10 thiên can. (vd: năm Kỷ mùi). Và còn giả tá làm nghĩa Kỷ là tôi, bản thân, mình.紀 Người nguyên thủy ghi nhớ bằng cách lấy 1 sợi dây thừng thắt lại nhiều nút, mỗi nút là 1 sự kiện, nay có thêm nghĩa một gian đoạn như “thập kỷ”, “thế kỷ”.
6. 芝麻 Nghĩa là Vừng (hoặc Mè trong tiếng miền nam). Người miền nam gọi vừng là Mè vì họ bắt chước cách đọc chữ 芝麻 của người Quảng đông. Bộ Ma còn có nghĩa là cây gai.

21. KHẨU (口) là miệng, Xỉ (齒) là răng
22. Ngọt CAM (甘), mặn LỖ (鹵), dài TRƯỜNG (長), kiêu CAO (高)
23. CHÍ (至) là đến, NHẬP (入) là vào
24. BỈ (匕) môi, CỮU (臼) cối, ĐAO (刀) dao, MÃNH (皿) bồn
25. VIẾT (曰) rằng, LẬP (立) đứng, lời NGÔN (言)
26. LONG (龍) rồng, NGƯ (魚) cá, QUY (龜) con rùa rùa
27. LỖI (耒) cày ruộng, TRỈ (黹) thêu thùa
28. HUYỀN (玄) đen, YÊU (幺) nhỏ, MỊCH (糸) tơ, HOÀNG (黃) vàng
29. CÂN (斤) rìu, THẠCH (石) đá, THỐN (寸) gang
30. NHỊ (二) hai, BÁT (八) tám, PHƯƠNG (方) vuông, THẬP (十) mười

Giải thích :

21. Câu 1 nói về miệng và răng (cùng trường nghĩa).
22. Câu 2 nối tiếp câu 1, nói về vị giác , ngọt , mặn, sau đó chuyển tiếp đến sự trưởng thành (cao, dài). Sự trưởng thành có liên quan mật thiết đến răng.
23. Câu 3 tiếp tục nói đến những điều liên quan với miệng. (đến, vào trong miệng)
24. Câu 4 nói về dụng cụ làm bếp.(môi múc canh, cối giã gạo, con dao, cái bát mãnh (tôi tạm dịch là cái bồn cho bắt vần).
25. Được ăn rồi thì phải nói, câu này là những chữ về việc quân tử Lập Ngôn. (viết là nói rằng, và lập ngôn (tạo dựng uy tín, tiếng nói cho riêng mình).
26. Câu tiếp theo bắt đầu là con rồng (ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo). Câu này gồm 3 loài thủy tộc. Trong đó đều là linh vật. (Long, quy) và 1 con có thể hóa rồng (ngư-cá).
27. Câu này là chuyển tiếp, nói sang việc nhà nông (cày ruộng, thêu thùa).
28.Thêu thì cần có chỉ , nên câu tiếp theo nói về bộ mịch là tơ và các bộ Huyền, yêu, đều có hình dạng giống bộ Mịch. và bộ Hoàng là màu vàng vì sắc tơ có màu vàng. (Đồng thời Huyền, hoàng thường đi với nhau, yêu mịch cũng vậy, và đôi khi dùng với nghĩa như nhau)
29. Câu này nói về cân đo, đong, đếm, Cân là rìu, là 1 cân (đơn vị đo trọng lượng); Thạch là đá, cũng là 1 thạch (đơn vị đo khối lượng); Thốn là 1 tấc, là đơn vị đo chiều dài, ở đây để bắt vần tôi dịch 1 thốn là 1gang tay (sai nhưng dễ liên tưởng).
30. Câu 10 là những bộ thủ dùng để đếm, 2, 8, 10. Có thêm bộ Phương là phương hướng. (thập phương).

31. NỮ (女) con gái, NHÂN (儿) chân người (1)
32. KIẾN (見) nhìn, MỤC (目) mắt, XÍCH (彳) dời chân đi (2)
33. Tay cầm que gọi là CHI (支 ) (3)
34. Dang chân là BÁT (癶), cong thì là Tư (厶) (4)
35. Tay cầm búa gọi là THÙ (殳) (5)
36. KHÍ (气) không, PHONG (風) gió, VŨ (雨) mưa, TỀ (齊) đều (6)
37. LỘC (鹿) hươu, MÃ (馬) ngựa, THỈ (豕) heo
38. Sống SINH (生), LỰC (力) khoẻ, ĐÃI (隶) theo bắt về (7)
39. VÕNG (网) là lưới, CHÂU (舟) thuyền bè (8)
40. HẮC (黑) đen, BẠCH (白) trắng, XÍCH (赤) thì đỏ au

Giải thích :

1. Bộ Nhân (vẽ hai chân của loài người). Có thể thấy điều này trong chữ Kiến (nhìn) : Trên vẽ mắt, dưới vẽ 2 chân người, ngụ ý : chỉ có loài người thì mới có "kiến giải" "kiến thức".
2. Nói đến nữ thì nghĩ đến phái đẹp, và khiến cho người ta phải ngắm nhìn (bộ kiến) nhìn thì bằng mắt (bộ Mục) và nhìn thấy rồi sẽ cất bước theo đuổi (bộ Xích là bước đi)
3.Chữ Chi này nghĩa gốc là "1 cành, 1 que" vẽ bàn tay 又 và 1 cành cây nhỏ có 3 cái lá thành ra chữ 十.
Xin lưu ý rằng bộ Hựu thường có nghĩa là bàn tay trong các chữ ghép (phồn thể). (Theo Lý lạc Nghị)
4. Dạng chân là Bát 癶 : Vẽ 2 bàn chân dạng ra, qua 1 quá trình lịch sử biến đổi tự dạng (hình dáng chữ) lâu dài, nó có hình dạng như ngày nay.
Vd : 登 bước lên (thường là làm lễ nhận ngôi, tế trời đất quỷ thần), gồm 癶 và 豆
(Đâu là 1 loại đồ đựng thức ăn thời xưa làm từ gỗ) ngụ ý chân bước lên, bưng theo đồ đựng thức ăn để tế lễ. (Theo Lý Lạc Nghị)
** Bộ Tư : không có ý nghĩa. (tôi thấy giống 1 cái gì đó cong cong)
5. Bộ Thù : Vẽ bàn tay cầm một công cụ phá đá (giống như cái búa thời cổ đại) bên trên là búa, bên dưới là bộ Hựu chỉ bàn tay.
6. Bộ Khí : Vẽ đám hơi bốc lên. Bộ Phong : gồm chữ phàm chỉ âm đọc. Bộ trùng là sâu bọ, ngụ ý gió nổi thì côn trùng sinh ra (theo Nguyễn Khuê). Bộ Vũ : nét 一là bầu trời; nét丨là từ trên xuống; nét 冂 là chỉ một vùng; bốn chấm 丶丶丶丶là vẽ các hạt mưa. (theo Lý Lạc Nghị). Bộ Tề : Vẽ 3 bông lúa trổ đều nhau, cây ở giữa mọc trên đất cao nên cao nhất, 2 cây 2 bên mọc ở đất thấp hơn, nên bông lúa cũng thấp hơn. (theo Lý Lạc Nghị). Bộ Tề này biến đổi tự dạng rất lớn, khó nhận ra được. cúng ta xem chữ Tề viết theo lối tiểu triện sẽ rõ.
Bộ Tề thêm vào cạnh gió mưa, khí hậu, ngụ ý mong muốn mưa thuận gió hòa. Tề có nghĩa là tày, đều 1 lượt. Vd : Tề thiên đại thánh là Đại thánh ngang bằng trời (to bằng trời); tội tày trời (Tội lớn bằng trời); Nhất tề : cùng (đều).
7. Tiếp đến nói về các loài thú quen thuộc với người TQ : hươu, ngựa, heo, và các đặc tính của chúng như súc Sinh, khoẻ mạnh. Cuối cùng là việc đuổi bắt chúng (bộ Đãi) là việc dành cho nô lệ, nên chữ lệ có bộ đãi.
8. Cũng liên quan đến săn bắn thì có chài lưới, và thuyền bè giang hồ. Mà trên giang hồ thì có hắc, có bạch, đồng thời cũng cũng hay đổ máu (xích là đỏ).

41. Thực (食) đồ ăn, Đấu (鬥) đánh nhau (1)
42. Thỉ (矢) tên, Cung (弓) nỏ, Mâu (矛) mâu, Qua (戈) đòng (2)
43. Đãi (歹) xương, Huyết (血) máu, Tâm (心) lòng (3)
44. Thân (身) mình, Thi (尸) xác, Đỉnh (鼎) chung, Cách (鬲) nồi (4)
45. Khiếm (欠) thiếu thốn, Thần (臣) bầy tôi (5)
46. Vô (毋) đừng, Phi (非) chớ, Mãnh (黽) thời ba ba (6)
47. Nhữu (禸) chân, Thiệt (舌) lưỡi, Cách (革) da (7)
48. Mạch (麥) mỳ, HÒA (禾) lúa, Thử (黍) là cây ngô (8)
49. Tiểu (小) là nhỏ, Đại (大) là to (9)
50. Tường (爿) giường, Suyễn (舛) dẫm, Phiến (片) tờ, Vi (韋) vây (10)

Giải thích:
1. Thực (食) là đồ ăn, bởi vì ăn uống mà con người tranh giành (đấu, đánh nhau). Bộ Thực gồm Nhân (人) và Lương (良, nghĩa gốc là lương thực). Bộ Đấu có 2 chữ Vương (王 vua), có thể coi như 2 ông vua vác cây mâu đến gần để đánh nhau.

2. Đánh nhau thì phải dùng đến vũ khí nên có : Thỉ (矢) là mũi tên, Cung (弓) là cái cung (để bắt vần, nên gọi là Nỏ), Mâu (矛), cái mâu (vũ khí của Trương Phi là cái Bát xà mâu), Qua (戈) là cái đòng, 1 thứ vũ khí cổ xưa (Truyện kiều có câu : Vác Đòng chật sân).

3. Đánh nhau thì máu đổ xương rơi nên có bộ Đãi (歹) là xương tàn, Huyết (血) là máu, và Tâm là tim (心), tấm lòng (luôn đi cùng với chữ Huyết).

4. Đánh nhau thì có kẻ còn sống, giữ được Thân (身), kẻ bỏ xác (bộ Thi 尸), kẻ làm vua thì có Đỉnh (鼎) tượng trưng thân phận (như cửu đỉnh ở Huế), có nồi to (Cách 鬲, cái nồi rất lớn).

5. Kẻ thua trận phải thần phục làm bề tôi (bộ Thần 臣), bề tôi thì luôn luôn thiếu thốn hơn chủ, thiếu sót (bộ Khiếm欠)

6. Câu này chuyển ngoặt, khuyên răn bề tôi, chớ làm điều phi pháp (Vô 毋, Phi 非) và nói về động vật Mãnh (黽, con baba).

7. Tiếp theo nói về động vật, Nhữu (禸) là vết chân thú, Thiệt (舌) là lưỡi, và Cách (革) là da thú đã thuộc, có thể làm giày, quần áo, túi v.v… là nguyên liệu làm vật dụng.

8. Tiếp đến là các loài ngũ cốc. Mạch (麥) chính là lúa mạch, gồm chữ Mộc (木) và 2 chữ Nhân (人tượng trưng cho 2 bông lúa mạch) và bên dưới vẽ rễ cây lúa mạch. 木+人+人+夂. Bộ Hòa (禾) gồm bộ Mộc 木 thêm 1 phết bên trên ngụ ý bông lúa gạo. Bộ Thử (黍) gồm bộ Hòa (禾) ngụ ý cây lúa. Bộ Nhân人 tượng hình vỏ trái bắp ngô, bên dưới vẽ 1 cái lõi bắp ngô, và 4 hạt bắp ngô. (氺 giống bộ Thủy nhưng không có nghĩa là nước 水)。

9. Tiểu (小) nhỏ, Đại (大) to, là nói đến những bộ có nghĩa đối nhau.

10. Tiếp theo sẽ là Tường đối ngược dạng chữ với Phiến (片). Tường vẽ cái giường (chữ Sàng, giường có bộ tường. 牀 = 床). Quay bộ Tường 90 độ theo chiều ngược kim đồng hồ, sẽ thấy hình dạng cái giường. Bộ Phiến (片) ngược với bộ Tường (爿), nghĩa là mỏng (như tờ giấy, nên tôi tạm dịch Phiến là tờ). Bộ Suyễn (舛) vẽ 2 bàn chân dẫm trên mặt đất, nhưng vì thời gian dài biến đổi tự dạng, nên khó mà nhận ra 2 bàn chân. (bạn có thể thấy nó trong chữ Vũ 舞 là múa). Bộ Vi (韋) ở giữa có 1 chữ Khẩu tượng trưng cho 1 tòa thành. Bên trên bên dưới vẽ 2 bàn chân đang đi vòng quanh tòa thành (ngụ ý bao vây). Tương tự bộ Suyễn (舛), tự dạng biến đổi nhiều, ta khó nhận ra được. ( nguồn Lý Lạc Nghị - bộ Vi, bộ Suyễn)

51. TRỈ (夂) bàn chân, TUY (夊) rễ cây,
52. TỰ (自) từ, TỴ (鼻) mũi, NHĨ (耳) tai, THỦ (首) đầu.
53. THANH (青) xanh, THẢO (艹) cỏ, SẮC (色) màu,
54. TRĨ (豸) loài hổ báo, KỆ (彑) đầu con heo.
55. THỬ (鼠) là chuột, rất sợ mèo,
56. HƯƠNG (香) thơm, MỄ (米) gạo, TRIỆT (屮) rêu, DỤNG (用) dùng.
57. ĐẤU (斗) là cái đấu để đong,
58. Chữ CAN (干) lá chắn, chữ CÔNG (工) thợ thuyền.
59. THỊ (示) bàn thờ cúng tổ tiên,
60. NGỌC (玉) là đá quý, BỐI (貝) tiền ngày xưa.

Giải thích :

1. Bộ Trỉ (夂) vẽ hình 1 cái bàn chân đang đi xuống.
Vd : a) Giáng 降 gồm các tổ hợp nét : 阝(phụ : đồi cao), 夂 (trỉ : bàn chân), ヰcũng là hình vẽ của 1 bàn chân.
Một quả đồi (阝, phụ) và 2 bàn chân đi từ trên đồi xuống thì có nghĩa là “Giáng” (đi xuống). (Hình vẽ 2 bàn chân bên phải đã trải qua hàng nghìn năm biến đổi tự dạng, nên hơi khó nhận ra, bạn nào muốn coi diễn biến của hình vẽ này, xin tìm nguồn tư liệu “汉字演变五百例” của 李乐毅) .
cool.gif Phùng 逢 : Gồm bộ 辶 (Sước), 夂 (Trỉ), 丰(Phong). Ban đầu viết như thế này 夆 (phong), Phùng nghĩa là gặp gỡ, muốn gặp được thì phải đi tới (bộ Trỉ, bàn chân) bên dưới là chữ Phong chỉ âm đọc, Phong biến âm thành “Phung” rồi “Phùng”. Sau đó người ta thêm bộ Sước vào cho rõ nghĩa hơn. (Sước là đi xa, ngụ ý hành động).
Bộ Tuy (夊) trông rất giống bộ Trỉ (夂), nên đôi khi người học dễ bị nhầm lẫn. Nhưng bạn chỉ cần để ý 1 chút là sẽ phân biệt được.
Vd : Chữ 麥 = 木+人+人+夊 . Chữ Mạch là cây lúa mạch, nên có chữ Mộc chỉ cây, hai chữ Nhân là vẽ 2 bông lúa nặng trĩu, bên dưới vẽ rễ cây lúa mạch.

2. Chữ Tự (自) ban đầu chính là vẽ cái mũi. Sau đó người ta mượn chữ "Mũi" này để chỉ nghĩa Tự như “Tự mình”. Vì vậy cần phải tạo ra 1 chữ khác chỉ cái mũi, chính là chữ Tỵ. (âm đọc cổ của chữ Tự 自 và Tỵ 鼻 gần giống nhau)
鼻(Tỵ) = 自 (tự) + 畀(tý). Chữ Tỵ = mũi được tạo mới là 1 chữ Hình thanh (bộ Tự bên trên chỉ nghĩa, chữ Tý bên dưới chỉ âm đọc)
畀Tý ghép bởi hai tổ hợp nét là 田(điền) và 廾(Củng). Tý nghĩa là đem cho. Bên trên vẽ bộ Điền 田, tượng trưng 1 gói quà, ta có thể coi như 1 chiếc bánh chưng cho dễ nhớ. Bên dưới vẽ hai bàn tay (bộ Củng 廾vẽ hai bàn tay chắp lại nâng một vật). Ngụ ý, đem quà đi tặng.
Bộ Nhĩ (耳) vẽ cái tai. Đã bị biến đổi tự dạng rất nhiều
Bộ Thủ (首)vẽ đầu con thú, có 2 sừng phía trên, khá giống đầu 1 con vật có sừng. Chú ý phân biệt với bộ Hiệt (頁, câu 14) vẽ đầu người, không có 2 sừng bên trên.

3. Bộ Thanh (青) nghĩa là màu xanh, ghép từ hai tổ hợp nét 生 và 丹. Chữ Hán cổ viết bên trên là Sinh (Sanh) chỉ âm đọc (Ghi chú : âm đọc Hán cổ và âm Hán hiện đại khác nhau, có lẽ thời cổ đại, chữ Sinh và chữ Thanh có âm đọc tương đối giống nhau). Bên dưới là Đan chỉ màu đỏ, ngụ ý màu xanh luôn đi đôi với màu đỏ, nay viết thành chữ nguyệt 月.
Bộ Thảo (艹) vẽ 2 ngọn cỏ, cổ văn (艸) và hiện nay (艹) đều dễ dàng nhận ra điều đó.
Bộ Sắc (色) trong màu sắc, vẽ con Kỳ nhông đuôi dài, 2 nét trên cùng là cái đầu con kỳ nhông, phần ở giữa vẽ cái thân con kỳ nhông, nét cong dưới cùng là cái đuôi con kỳ nhông. Vì con kỳ nhông thường thay đổi màu nhanh chóng, nên người Trung Quốc lấy hình dạng con vật này để chỉ nghĩa màu sắc.

4. Bộ Trĩ (豸, hoặc Sãi, Trãi) vẽ hình 1 con thú đuôi dài, bên trên là cái đầu có mõm nhọn, răng dài. có thể phân ra thành :
- Đầu con thú tượng hình bằng bộ nguyệt viết nghiêng
- Lưng và đuôi con thú là nét cong bao bên ngoài
- 4 chân con thú tượng hình bằng 2 nét cong bên trong (vì đây là hình vẽ con thú nhìn nghiêng)
Những loài thú dữ có xương sống thường dùng bộ Trĩ này để chỉ ý. Vd : 豹,豺,豼,貇,貅,
Bộ Kệ (彑) vẽ cái đầu con heo, có mõm dài, rất khó nhận ra, nhưng ta có thể thấy tàn dư của nó trong các chữ Hán đang dùng ngày nay : 彖 [tuàn], âm Hán Việt là thoán, vốn là 1 loài heo rừng, sau mượn dùng làm chữ Soán trong kinh dịch.

5. Bộ Thử (鼠) là con chuột, cổ văn vẽ hình 1 con chuột, sau đó diễn biến thành chữ như ngày nay. Nếu bạn lấy chữ Thử tiểu triện quay ngược kim đồng hồ 90 độ, sẽ thấy khá giống 1 con chuột đang bò 鼠.
hiện nay, muốn nhớ được chữ này, bạn có thể nhớ theo cách sau : Thử thuộc bộ Cữu (臼 cối xay gạo). Con chuột "xay" gạo cũng khá dữ dội, cho nên lấy bộ Cữu (臼) tượng trưng cho cái đầu của nó. Phần bên dưới vẽ 3 nét dài 4 nét ngắn. 3 nét dài tượng trưng cho mình và đuôi con chuột, 4 nét ngắn tượng trưng cho 4 chân.

6. Bộ Hương (香) nghĩa là thơm, bên trên viết bộ Hòa (禾cây lúa), bên dưới viết bộ Cam (甘 nghĩa là ngọt ngào, sau biến thành chữ Viết 曰). Gộp 2 ý lại thành mùi bông lúa chín ngọt ngào và thơm tho. 香 = 禾 + 甘 = 禾 + 曰
Bộ Mễ (米) vẽ hình 1 bông lúa, sau có nghĩa là gạo. Trông hình dạng chữ khá giống bông lúa. Những chữ Hán có chứa bộ Mễ (米) thường chỉ về các loại hạt, hạt nhỏ, thậm chí nhỏ đến mức không nhìn thấy vd : 精, 氣
Bộ Triệt (屮) vẽ 1 ngọn cỏ, tượng trưng cho loài rêu, bộ này ít dùng.
Bộ Dụng (用) vẽ hình 1 quả chuông (không có núm). Người xưa đặt nó trên bàn làm việc, khi cần "DÙNG" đến lính hầu, người ở thì dùng tay nắm lấy lắc cho kêu. do vậy mà người TQ vẽ cái chuông này để chỉ nghĩa Dùng, sử dụng.

7. Bộ Đấu (斗) vẽ hình 1 cái đấu đong gạo. Người TQ cổ đại đong bằng đấu. Ở miền bắc vẫn dùng đơn vị "đấu" để đong gạo cho đến tận nhưng năm 80 của thế kỷ 20.

8. Bộ Can (干) là cái lá chắn, họăc là dụng cụ dùng để dựng giáo mác thời xưa. Nay đã biến đổi dạng chữ, khó nhận ra, tuy nhiên nó cũng rất đơn giản, chỉ có 3 nét, nên cũng khá dễ nhớ.
Bộ Công (工) vẽ hình cái thước thợ (giống như thước kẹp thợ sắt ngày nay) 1 dụng cụ để lấy góc vuông của người thợ Trung quốc cổ đại. Nếu bạn nào có chuyên môn về xây dựng sẽ dễ dàng hình dung ra hơn.

9. Bộ Thị (示) vẽ hình 1 cái bàn thờ thời tiền sử (họ dùng 1 mặt đá làm mặt bàn, chụm 3 khúc gỗ làm chân), nên bộ Thị hiện nay viết : Nét trên cùng là thức ăn cúng tế, nét ngang thứ 2 là mặt bàn thờ, 3 nét có chiều thẳng là vẽ chân bàn. bộ Thị hiện có 2 cách viết được chấp nhận : 示, 礻 như : 福,社,祭,。。。

10. Bộ Ngọc (玉) vẽ 1 chuỗi ngọc, cổ văn viết chữ Ngọc玉 và chữ Vương 王 giống nhau, sau này người ta mới thêm 1 chấm nhỏ vào bộ Ngọc để phân biệt với chữ Vương. Rất nhiều người học chữ Hán thường nhầm là bộ "Vương". Thực ra, không hề có bộ Vương, chỉ có bộ Ngọc, bộ ngọc khi nằm trong các chữ Hán phức tạp, có hình dạng của chữ Vương.
Vd : 珍珠, 琥珀, 玻璃, …
Bộ Bối (貝) vẽ hình cái vỏ sò, hai nét dưới cùng là hai cái khớp trên vỏ con sò biển. Người Trung quốc cổ đại trao đổi hàng hóa bằng vỏ sò, họ dùng vỏ sò thay thế tiền. Do vậy, Bối có nghĩa mở rộng là tiền bạc, đồ quý hiếm, của báu. Vd trong tiếng việt : Bảo bối,
Qua 1 thời gian dài biến hình, bộ Bối khó nhận ra được hình dạng vỏ sò, nhưng nó thường nằm trong các chữ chỉ về tiền bạc, 貴賤 quý tiện, 買賣mua bán, 賠償bồi thường v.v

61. ĐẬU (豆) là bát đựng đồ thờ,
62. SƯỞNG (鬯) chung rượu nghệ, DẬU (酉) vò rượu tăm.
63. Y (衣) là áo, CÂN (巾) là khăn,
64. HỰU (又) bàn tay phải, CHỈ (止) chân tạm dừng.
65. ẤT (乙) chim én, TRÙNG (虫) côn trùng,
66. CHUY(隹) chim đuôi ngắn, VŨ (羽) lông chim trời.
67. QUYNH (冂) vây 3 phía bên ngoài,
68. VI (囗) vây bốn phía, KHẢM (凵) thời hố sâu.
69. PHỐC (攴) đánh nhẹ, THÁI (采) hái rau,
70. KỶ (几) bàn, DUẬT (聿) bút, TÂN (辛) dao hành hình.

Giải thích :

1. Câu 61-63 vẫn tiếp tục nói đến bàn thờ, và các thứ đặt trên bàn thờ :
Đậu (豆) là bát đựng đồ thờ, Sưởng (鬯) là rượu cúng, dậu (酉) là vò rượu, y (衣) là áo (giấy), cân (巾) là khăn (giấy), đều là cá thứ dùng để cúng tế.

2. Câu 63 nói về y áo, khăn, thì liên tưởng đến tay chân. Nên câu 64 trình bày hai bộ Hựu (又) là bàn tay, và Chỉ (止) là bàn chân (theo nghĩa gốc xưa), nay 2 chữ hựu và chỉ đã dùng với nghĩa khác.

3. Câu 65-66 nói về chim và thức ăn của chim. Ất (乙) là chim én, trùng (虫) là thức ăn của chim, chuy (隹) là loài chim đuôi ngắn, vũ (羽) là lông của các loài chim.

4. Câu 67-68 đều nói đến các bộ thủ bao vây : Quynh (冂), vi (囗), khảm (凵). Hình dáng chữ viết lại rất giống nhau, cần phân biệt cẩn thận.

5. Câu 69 liệt kê 2 bộ thủ mang ý nghĩa hành động bằng tay, phốc (攴), thái (采).

6. Câu 70 nói về luật pháp, hình phạt : kỷ (几) là bàn và duật (聿) là bút, dùng để ghi chép khẩu cung, nếu có tội thì tân (辛), con dao để thích chữ lên mặt phạm nhân.

71. VĂN (文) là chữ viết, văn minh,
72 .CẤN (艮) là quẻ Cấn, giống hình bát cơm.
73. Ma là QUỶ (鬼), tiếng là ÂM (音),
74. CỔ (鼓) là đánh trống, DƯỢC (龠) cầm sáo chơi.
75. THỊ (氏) là họ của con người,
76. BỐC (卜) là xem bói, NẠCH (疒) thời ốm đau.
77. Bóng là SAM (彡), vạch là HÀO (爻)
78. Á (襾) che, MỊCH (冖) phủ, SƠ (疋) ĐẦU (亠) nghĩa nan.
79. SỔ (丨) PHẾT (丿) MÓC (亅) CHỦ (丶) nét đơn,
80. HỄ (匸) PHƯƠNG (匚) BĂNG (冫) TIẾT (卩), thì dồn nét đôi.
81. VÔ (无) là không, NHẤT (一) mộ thôi,
82. Diễn ca bộ thủ muôn đời không quên.

Giải thích :

1. Câu 70 nói về duật (聿) là bút, nên câu tiếp theo 71 này nói về văn, chữ viết.

2. Câu 72 nói về quẻ cấn (艮), một quẻ torng kinh Dịch. Kinh Dịch là bộ sách liên quan đến nhiều lĩnh vực, thường dùng trong bói toán.

3. Nhắc đến bói toán thì nghĩ ngay đến mê tín, nói đến mê tín thì nói đến ma quỷ. Người Trung Quốc xưa cũng dùng âm nhạc để xua đuổi ma quỷ. Nên 2 câu 73, 74 nói về bộ Quỷ (鬼), âm (音) là tiếng, là âm nhạc, nói đến cổ (鼓) là đánh trống, và dược (龠) là cây sáo.

4. Cũng trong bói toán, thầy thường hỏi họ tên, nên tiếp theo là bộ thị (氏) tức họ tên của người.

5. Khi bệnh thì người ta cũng hay xem bói, nên thầy bói cũng kiêm cả thầy thuốc trị bệnh. Câu 76 trình bày hai bộ bốc (卜) là xem bói, và nạch (疒) là ốm đau.

6. Trong bói toán, sau quẻ là hào (爻), dịch có 64 quẻ, một quẻ có 6 hào. Còn quẻ không rõ thì mơ hồ, chỉ thấy bóng dáng, nên câu 77 này giới thiệu bộ sam (彡) là bóng, là ảnh, rung động.

7. Câu 78 giới thiệu hai bộ cùng nghĩa : Á (襾) là che đậy, mịch (冖) là che phủ. Còn bộ sơ (疋) ý nghĩa mơ hồ, khó nói rõ, thường dùng làm chân của 1 chữ Hoa, và bộ đầu (亠) cũng vậy, nhưng thường ở phần đầu của chữ viết.

8. Câu 79 liệt kê 4 bộ thủ 1 nét : Sổ (丨), phết (丿), móc (亅), chủ (丶), nghĩa không rõ ràng.

9. Câu 80 liệt kê 4 bộ thủ 2 nét : Hễ (匸), Phương (匚), Băng (冫), Tiết (卩).

10. Câu 81 liệt kê 2 bộ thủ cuối cùng là : Vô (无) là không, Nhất (一) là một.
Go to the top of the page
 
+Quote Post
phannhathieu
bài Mar 11 2010, 04:47 PM
Bài viết #82


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 423
Gia nhập vào: 13-April 07
Từ: HCMC
Thành viên thứ.: 14



tới chừng nào mình mới có phước dính được vô đây nhỉ?(tự hỏi)
Go to the top of the page
 
+Quote Post
huynhdoan2000
bài Mar 14 2010, 09:05 AM
Bài viết #83


Hội viên năng động
***

Nhóm: Members
Bài viết: 1,189
Gia nhập vào: 21-January 08
Thành viên thứ.: 203



QUOTE(phannhathieu @ Mar 11 2010, 04:47 PM) *
tới chừng nào mình mới có phước dính được vô đây nhỉ?(tự hỏi)




Chúng ta là những người "kém" phước !!!

Mà không biết ...thực sự là chúng ta kém phước hay là tại chúng ta "nghĩ" mình là người kém phước ???

Tớ thấy... hình như câu sau đúng hơn ??

Vì chúng ta nghiệp nặng, phước mỏng...nên chỉ biết tu niệm Phật..Đây là câu thứ nhất...
"Nghĩ" cho kỹ thì...thật ra chúng ta là những người đầy đủ phước đức ...mới biết được pháp môn niệm Phật...Đây là suy ra từ câu thứ hai...

Thôi, từ đây không nói chúng ta là những người kém phước nữa...Mà thực sự chúng ta là những người "may mắn" ...

.............................................................

Học chữ Hán tương đối dễ...vì tiếng Việt có nhiều tiếng lấy gốc từ tiếng Hán...nên...chỉ cần biết cách đọc âm Hán Việt là...hiểu nghĩa. Học chừng ba bốn ngàn chữ là tạm xài được...kỳ dư thì tra từ điển...
Đại tạng kinh là thứ chúng ta nên học hỏi...
Go to the top of the page
 
+Quote Post
huynhdoan2000
bài Mar 22 2010, 08:49 AM
Bài viết #84


Hội viên năng động
***

Nhóm: Members
Bài viết: 1,189
Gia nhập vào: 21-January 08
Thành viên thứ.: 203



Chào các bác...

Từ tết đến giờ...đệ hay bị đau răng...Thường tự nghĩ...chỉ cần ăn uống đúng đắn là sẽ hết đau ...
Than ôi, vì công việc làm ăn phải bôn ba...không thể nào ăn uống đúng đắn...Sức khỏe trong người thường lên voi xuống chó...haha...kệ cha nó...Nó muốn bệnh cho nó bệnh...Nó muốn hết thì cứ hết...
Đúng như câu nói..."Quân bình Âm Dương là cái gì mong manh lắm !!!" Bạn đang mạnh khỏe ư ?? Đồng ý ...Nhưng chắc là chỉ mạnh khỏe trong ngày đó....Qua bữa sau...chưa chắc !!! Tế bào...đơn vị nhỏ nhất cấu tạo nên cơ thể...thay đổi hàng ngày, hàng phút, hàng giây...Biết bao sự "biến chuyển" trong cơ thể xảy ra chỉ trong chớp mắt....
Hôm qua, đệ đi trám răng...Không ngờ Tây y lại hay như thế !!! Và như vậy, Đông y, nam y cũng có cái hay của nó ...Suy cho cùng....việc trị bệnh cũng là hình thức lấy lại cân bằng Âm Dương...
Trong Phật giáo có nói về Ngũ Minh...

Kinh Tâm Địa quán, phẩm Bà-la-mật :" Hàng trí giả các Bồ-tát thường thích nghe những pháp sâu nhiệm, tâm sinh khát ngưỡng, không hề biết chán. Các ngài biết phân biệt chân lý Nhị đế, dứt trừ Nhị chướng, thông suốt Ngũ minh, thuyết các pháp yếu, giải quyết mọi điều nghi vấn."

Ngũ Minh .

Năm minh. Chỉ năm môn học xưa của Ấn độ, nhờ đó mà trí tuệ phát triển. Đây là những môn học mà người nội đạo [ tức trong đạo Phật] và ngoại đạo đều cần phải học. Còn gọi là Ngũ minh xứ. Gồm có :
1. Thanh minh [Sabdavidya]: Thuyết minh về ngôn ngữ, văn tự. Giống như ngôn ngữ văn tự học.
2. Công xảo minh [Silpakamasthanavidya]: Thuyết minh về mọi công nghệ, kỹ thuật, toán pháp. lịch số,...
3. Y phương minh [Cikitsavidya]: Thuyết minh về y thuật. Giống như y học.
4. Nhân minh [Hetuvidya]: Thuyết minh về lẽ chính tà, chân ngụy. Đó là Luận lý học tức như lô-gich học ngày nay.
5. Nội minh [Adhyatmatidya]: Thuyết minh về tôn chỉ của học phái mình. Như Phật giáo lấy Kinh, Luật, Luận làm Nội minh.



Nội minh là Đại tạng kinh đấy...
Thanh minh ...tức là...học thêm chữ Tàu, chữ Anh, ....
Công xảo minh là...học nghề...Không biết học làm thầy bói có gọi là Công xảo minh không nhỉ ??
Nhân minh là...học làm luật sư ??? Người phải có cái giọng sang sảng mạnh mẽ mới...cự cãi được...Đệ pótay cái này...Ai nói thì nghe...Cãi chi cho mệt, hao tổn nước miếng...Oan ức chẳng cần thanh minh....Nhằm nhò gì...Mấy người ít nói là..."thâm độc" lắm chứ không phải "hiền" đâu...
Y phương minh...học làm thuốc...Đệ chắc phải học thêm cái nầy...haha...đau răng chỉ cần...một chút thuốc là xong ngay...
Go to the top of the page
 
+Quote Post
huynhdoan2000
bài Mar 31 2010, 09:12 PM
Bài viết #85


Hội viên năng động
***

Nhóm: Members
Bài viết: 1,189
Gia nhập vào: 21-January 08
Thành viên thứ.: 203




Tình cờ vào trang web giacngo.vn đệ thấy bài viết nầy...Tác giả là Tam tạng pháp sư chăng ? Tác giả là cư sĩ hay tu sĩ ?? Thật là hoan hỷ !!! Mong sao cho nước Viêt nam chúng ta sớm có được bộ Đại tạng kinh bằng tiếng Việt...


Góp phần đề nghị một đề cương biên dịch cho Đại tạng kinh Việt Nam
Cùng với Phong trào Chấn hưng Phật giáo dấy khởi ở khắp 3 miền Nam Trung Bắc, với các tạp chí Phật học như Từ Bi Âm (Nam, 1932), Viên Âm (Trung, 1933), Đuốc Tuệ (Bắc, 1935), công việc biên dịch 3 tạng Kinh, Luật, Luận từ tiếng Hán sang tiếng Việt để hình thành Đại tạng kinh Việt Nam đã được xúc tiến và nối tiếp.
Hơn 60 năm của thế kỷ XX, chúng ta đã phiên dịch được khá nhiều, nhưng do những điều kiện khách quan và chủ quan, Đại tạng kinh Việt Nam vẫn chưa được hoàn thành. Thế kỷ XXI đã đi qua được 4 năm, thời gian vẫn đang mở rộng trước mắt - mở rộng nhưng không phải là vô tận - vì hầu như không còn lý do gì để chần chừ, trì trệ; hoàn thành Đại tạng kinh Việt Nam phải là Phật sự hàng đầu của Phật giáo Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Đại tạng kinh Việt Nam nói ở đây tức là Đại tạng kinh được biên chép bằng tiếng Việt Nam hiện đại (chữ Quốc ngữ), biên dịch từ cơ sở là 2 nguồn: Đại tạng kinh Nam truyền (tạng Pali) và Đại tạng kinh Bắc truyền (tạng Hán. Sau này có điều kiện sẽ tham khảo thêm tạng Tây Tạng).
Nơi bài viết Một vài suy nghĩ về Đại tạng kinh Việt Nam trước thế kỷ mới, in trong sách Phật giáo trong thế kỷ mới, tập 2, NXB Giao Điểm, Hoa Kỳ, 1997, tr. 301-322, chúng tôi đã biện giải khá chi tiết về một số vấn đề có tính lý luận, lịch sử và giá trị. Bài viết này chỉ xin bàn về mấy vấn đề có tính thực tiễn.
Trước hết là xin giới thiệu tóm lược nội dung của 2 Đại tạng kinh Nam truyền và Bắc truyền. Về Đại tạng kinh Nam truyền, chúng ta có thể tham khảo bài viết Tam tạng Thánh giáo Nam truyền của Thượng tọa Phước Sơn đăng ở Nguyệt san Giác Ngộ số 59, tháng 2-2001 (tr. 77-90), sau in trong sách Phật học cơ bản, tập 4. Hiện tình dịch thuật của Đại tạng kinh này, những công việc cần tiếp tục thực hiện v.v..., chúng tôi xin dành cho chư vị có thẩm quyền. Ở đây chỉ xin "góp phần đề nghị một đề cương biên dịch" đối với Đại tạng kinh chữ Hán.
Đại tạng kinh chữ Hán, chỉ nói về phần gốc, tức 3 tạng Kinh, Luật, Luận được dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa, về nội dung, chúng tôi dựa theo bố cục của Đại tạng kinh Đại Chánh tân tu (ĐTK/ĐCTT) xin nêu vắn tắt như sau:
I. Tạng Kinh: Phân làm 9 bộ với 17 tập (không kể phần Mật giáo), mỗi tập theo khổ 22 x 27 với số trang từ 800 - 1.000 trang.
1. Bộ A Hàm: Gồm 2 tập 1 và 2, tập hợp các kinh mang số hiệu từ 1 đến 151.
2. Bộ Bản Duyên: Gồm 2 tập 3, 4 với các kinh mang số hiệu từ 152 đến 219.
3. Bộ Bát Nhã: Gồm 4 tập 5, 6, 7, 8, giới thiệu các kinh mang số hiệu từ 220 đến 261.
4. Bộ Pháp Hoa: Gồm non nửa tập 9, giới thiệu các kinh mang số hiệu từ 262 đến 277.
5. Bộ Hoa Nghiêm: Gồm hơn nửa tập 9 và tập 10, tập hợp các kinh mang số hiệu từ 278 đến 309.
6. Bộ Bảo Tích: Gồm tập 11 và 1/3 tập 12, tập hợp các kinh mang số hiệu từ 310 đến 373.
7. Bộ Niết Bàn: Gồm 2/3 tập 12, tập hợp các kinh mang số hiệu từ 374 đến 396.
8. Bộ Đại Tập: Gồm 1 tập 13, giới thiệu các kinh mang số hiệu từ 397 đến 424.
9. Bộ Kinh Tập: Gồm 4 tập 14, 15, 16, 17, tập hợp các kinh mang số hiệu từ 425 đến 847.
II. Tạng Luật: Gồm 3 tập 22, 23, 24, tập hợp giới thiệu toàn bộ hệ thống Luật tạng của các bộ phái, mang số hiệu từ 1421 đến 1504. (Khoảng cách về số hiệu từ Kinh: 847 sang Luật: 1421 là 4 tập 18, 19, 20, 21 giới thiệu về Mật giáo).
III. Tạng Luận: Phân làm 5 bộ, 8 tập (từ tập 25 đến 32).
1. Bộ Thích kinh luận: Gồm 1 tập 25 và 1/3 tập 26, tập hợp các luận với nội dung là giải thích kinh, mang số hiệu từ 1505 đến 1535.
2. Bộ Tỳ đàm: Gồm 2/3 tập 26, các tập 27, 28, 29, tập hợp các luận thuộc hệ A tỳ đàm, mang số hiệu từ 1536 đến 1563.
3. Bộ Trung quán: Gồm 1/3 tập 30, tập hợp các luận thuộc hệ Trung quán, mang số hiệu từ 1564 đến 1578.
4. Bộ Du già: Gồm 2/3 tập 30 và tập 31, giới thiệu các luận thuộc hệ Du già - Duy thức, mang số hiệu từ 1579 đến 1627.
5. Bộ Luận tập: Gồm 1 tập 32, tập hợp các luận và luận thích mang số hiệu từ 1628 đến 1692, không thể sắp vào 4 bộ kể trên.
Số lượng như vậy là quá nhiều và hết sức phong phú. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh địa lý, trong quá trình chuyển dịch để hoàn thành Đại tạng kinh chữ Hán, chúng ta cần lưu ý mấy điểm:
* Thứ 1: Dịch trùng. Tức một bản kinh chữ Phạn có nhiều bản Hán dịch, ra đời vào những thời gian khác nhau. Ví như kinh Duy Ma có 3 bản Hán dịch, kinh Kim Cương có 6 bản Hán dịch, kinh A Di Đà có 2 bản Hán dịch, Bát Nhã Tâm kinh có 7 bản Hán dịch v.v... (chỉ căn cứ theo số lượng còn lưu truyền, được ĐTK/ĐCTT tập hợp).
* Thứ 2: Kinh chính và kinh Biệt hành: Kinh chính là kinh đầy đủ, gồm nhiều quyển. Kinh Biệt hành là những mảng kinh rời, ngắn, thường là 1 phẩm, 1 đoạn của kinh chính kia, hầu hết được dịch trước kinh chính. Ví dụ một số kinh Biệt hành của kinh Hoa Nghiêm:
- Kinh Tiểu Thập Trụ, 1 quyển, N0 283: là phẩm Thập trụ nơi kinh Hoa Nghiêm (phẩm thứ 15).
- Kinh Đại Thập Trụ, 4 quyển, N0 285: là phẩm Thập địa (phẩm thứ 26).
- Kinh Đẳng Mục Bồ Tát Sở Vấn Tam Muội, 3 quyển, N0 288: là phẩm Thập định (phẩm thứ 27).
- Kinh Độ Thế, 6 quyển, N0 292: là phẩm Ly thế gian (phẩm thứ 38) v.v...
Tất cả các kinh chính, Biệt hành, dịch trùng, đều được ĐTK/ĐCTT tập hợp đủ cả.
* Thứ 3: Về chất lượng của một số bản Hán dịch:
Ở đây không hề có ý khen chê, mà chỉ nêu lên một sự kiện có tính lịch sử. Được dịch vào giai đoạn đầu, người cộng tác ít, câu văn dịch còn đang ở giai đoạn hình thành, từ ngữ cũng như thuật ngữ Phật học còn đang dò dẫm, nội dung lại bàn về các vấn đề cao siêu, vi tế, nên một số bản kinh Hán dịch rất khó đọc, khó lĩnh hội. Đáng kể nhất cho trường hợp này là Pháp sư Trúc Pháp Hộ (226-304). Pháp sư Trúc Pháp Hộ được xem là một trong 3 dấu mốc tiêu biểu nơi quá trình dịch thuật và hoàn thành Đại tạng kinh chữ Hán nói chung, kinh điển Hán tạng nói riêng. (Hai dấu mốc kia là Pháp sư Cưu Ma La Thập (344-413) và Pháp sư Huyền Tráng (602-664). Đóng góp của Pháp sư Trúc Pháp Hộ cho Đại tạng kinh chữ Hán là rất lớn. Pháp sư đã dịch đến 95 tên kinh gồm 208 cuốn, nhưng do các yếu tố như vừa nêu, nên một số lượng khá nhiều bản kinh Hán dịch của Pháp sư đã thuộc vào loại rất khó lĩnh hội.
Từ 3 điểm cần lưu ý như thế, chúng ta có thể đưa ra một kết luận mang tính khẳng định: Trong tiến trình chuyển dịch 3 tạng Kinh, Luật, Luận chữ Hán sang chữ Việt để góp phần hoàn thành Đại tạng kinh Việt Nam, chúng ta không nên dịch toàn bộ mà chỉ chọn dịch. Đây là điều mà người Nhật đã làm. Người Nhật đã dựa vào ĐTK/ĐCTT, chọn dịch để hoàn thành Đại tạng kinh Nhật Bản và đó là một tham khảo tốt cho chúng ta. Vậy tham khảo và chọn dịch như thế nào? Chúng tôi xin đi sâu hơn vào nội dung của từng phần, từng bộ, và cũng xin đề xuất hướng chọn dịch cụ thể:
IV. Tạng Kinh:
1. Bộ A Hàm: Bộ A Hàm gồm 2 phần chính và rời. Phần A Hàm chính tức gồm 4 bộ kinh A Hàm:
* Trường A Hàm: Mang số hiệu 1, gồm 22 quyển với 30 kinh, Hán dịch là 2 Đại sư Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm, tương đương với kinh Trường Bộ (Dìgha-Nikàya) của tạng Pali.
* Trung A Hàm: Mang số hiệu 26, gồm 60 quyển với 222 kinh, Hán dịch là Đại sư Cù Đàm Tăng Già Đề Bà, tương đương với kinh Trung Bộ (Majjhima-Nikàya) của tạng Pali.
* Tạp A Hàm: Mang số hiệu 99, gồm 50 quyển với 1.362 kinh ngắn, Hán dịch là Đại sư Cầu Na Bạt Đà La, tương đương với kinh Tương Ưng Bộ (Samyutta-Nikàya) của tạng Pali.
* Tăng Nhất A Hàm: Mang số hiệu 125, gồm 51 quyển, 52 phẩm với 471 kinh và phẩm tự, Hán dịch là Đại sư Cù Đàm Tăng Già Đề Bà, tương đương với kinh Tăng Chi Bộ (Anguttara-Nikàya).
Phần A Hàm rời tức các kinh ngắn, về nội dung hầu hết đều có mặt trong 4 bộ kinh chính kia, nhưng đã được dịch riêng, lẻ tẻ, phần lớn được dịch từ đời Tây Tấn (265-317) trở về trước:
- Các kinh mang số hiệu từ 2 đến 25: là Trường A Hàm rời.
- Các kinh mang số hiệu từ 27 đến 98: là Trung A Hàm rời.
- Các kinh mang số hiệu từ 100 đến 124: là Tạp A Hàm rời. Riêng kinh Ương Quật Ma La có 3 bản Hán dịch: 118, 119, 120, nên chọn 1 bản 118, bỏ bớt 2 bản kia).
- Các kinh mang số hiệu từ 126 đến 151: là Tăng Nhất A Hàm rời.
Học giả Lương Khải Siêu (1873-1929) trong bài viết Bàn về bốn bộ A Hàm đã đưa ra 6 điểm để nhấn mạnh về tầm quan trọng của 4 bộ kinh ấy. Xin trích 2 điểm sau (5, 6):
- A Hàm chẳng những không xung đột với kinh điển Đại thừa (Bắc truyền) mà giáo nghĩa Đại thừa được cưu mang trong đó không ít.
- A Hàm trình bày rất nhiều về tình hình xã hội đương thời. Đọc A Hàm có thể biết được hoàn cảnh sinh hoạt của Đức Thế Tôn và Ngài đã có những nỗ lực để ứng cơ giáo hóa như thế nào... (dẫn theo: Định Huệ dịch. Tập văn Suối Nguồn, số 4, Vu lan 1999).
Do tính chất quan trọng như vậy nên theo chúng tôi, về bộ A Hàm nên Việt dịch hết, cả phần chính và phần rời. Các kinh ngắn nơi phần A Hàm rời sẽ góp phần soi sáng thêm cho các kinh ở phần chính. Ví như kinh Thiện Sinh (còn gọi là kinh Thiện Sinh Tử, kinh Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ), một bản kinh ngắn nhưng rất tiêu biểu, nêu bày quan điểm của Phật giáo về một số vấn đề thuộc nhân sinh - xã hội, có mặt cả ở điển tịch Nam truyền và Bắc truyền. Nơi Kinh tạng Nam truyền, kinh ấy được ghi lại trong kinh Trường Bộ, kinh số 31, có tên là kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt (kinh Trường Bộ, tập 2, HT. Minh Châu dịch, 1991, tr. 529-547). Nơi Hán tạng, kinh này ngoài 2 bản được ghi lại nơi kinh Trường A Hàm, kinh số 16, quyển 11) và kinh Trung A Hàm (kinh số 135, quyển thứ 33), còn có 2 bản Hán dịch nữa: Một do Đại sư An Thế Cao dịch, mang tên kinh Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ, N0 16, 1 quyển. Một do Đại sư Chi Pháp Độ dịch, mang tên kinh Thiện Sinh Tử, N0 17, 1 quyển, đều nằm trong phần Trường A Hàm rời. Một sự dồi dào như thế sẽ giúp ích rất nhiều cho các nhà nghiên cứu.
2. Bộ Bản Duyên: Gồm 2 phần: Các kinh viết về lịch sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và mảng kinh viết về tiền thân (tiền thân Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, chư vị Bồ tát, các vị đại đệ tử của Phật Thích Ca).
a) Các kinh viết về lịch sử: gồm 14 kinh, kệ tán, sưu tập, mang số hiệu từ 184 đến 197. Có mấy điểm đáng chú ý:
* Ngoài yếu tố lịch sử vẫn luôn được tôn trọng, các kinh thuộc phần này đều có những chi tiết tô đậm khía cạnh linh diệu, kỳ vĩ, mang tính tượng trưng, ẩn dụ cao, cũng là điều thường gặp nơi phần lớn các kinh thuộc Phật giáo Bắc truyền.
* Về niên đại xuất gia - thành đạo của Đức Bổn Sư:
- Các kinh mang số hiệu 184, 185, 189 (Kinh Tu Hành Bản Khởi, 2 quyển, Hán dịch là Trúc Đại Lực và Khang Mạnh Tường, dịch vào đời Hậu Hán (25-220). Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi, 1 quyển, Hán dịch là cư sĩ Chi Khiêm, dịch vào đời Đông Ngô (229-280). Kinh Quá Khứ - Hiện Tại Nhân Quả, 4 quyển, Hán dịch là Đại sư Cầu Na Bạt Đà La dịch vào đời Lưu Tống (420-478) đã nêu rõ: 17 tuổi kết hôn với công chúa Da Du Đà La, 19 tuổi xuất gia, 25 tuổi thành đạo. Đây có thể là những tư liệu căn bản để các nhà nghiên cứu về Hán tạng thuộc những thế hệ trước hình thành kiến giải: Theo Phật giáo Bắc truyền, Đức Phật Thích Ca xuất gia năm 19 tuổi, thành đạo năm 25 tuổi.
- Kinh N0 195: Kinh Thập Nhị Du, 1 quyển, Hán dịch là Sa môn Ca Lưu Đà Dà, dịch vào đời Đông Tấn (317-419), là một bản kinh rất ngắn, giới thiệu sơ lược về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ghi rõ: 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành đạo. Nhất là kinh N0 190: Kinh Phật Bản Hạnh Tập, 60 quyển, Hán dịch là Đại sư Xà Na Quật Đa, dịch vào đầu đời Tùy (580-618), là bộ kinh bề thế nhất thuộc Hán tạng viết về lịch sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nơi các quyển 10, 12, 14, 16 đã cho thấy niên đại xuất gia và thành đạo là 29 tuổi và 35 tuổi.
Như thế, nơi bộ Bản Duyên thuộc Hán tạng đã có ít nhất là 2 kinh nêu rõ về niên đại xuất gia, thành đạo của Phật Thích Ca giống với Phật giáo Nam truyền. Hầu hết các nhà nghiên cứu Phật học hiện đại đều theo thuyết ấy: 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành đạo, 80 tuổi nhập Niết bàn.
Về phần này, chọn dịch nên bỏ bớt kinh N0 186: Kinh Phổ Diệu, 8 quyển, Hán dịch là Pháp sư Trúc Pháp Hộ, dịch vào đời Tây Tấn (265-317). Kinh này có 2 bản Hán dịch. Chúng ta chọn bản sau, N0 187: Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, 12 quyển, Hán dịch là Đại sư Địa Bà Ha La (613-687), dịch vào đời Đường (618-906).
* Các tác phẩm: N0 192: Phật Sở Hành Tán, thi kệ, tác giả là Bồ tát Mã Minh, 5 quyển, Hán dịch là Đại sư Đàm Vô Sấm, dịch vào đời Bắc Lương (397-439); N0 193: Kinh Phật Bản Hạnh, thi kệ, 7 quyển, Hán dịch là Đại sư Bảo Vân, dịch vào đời Lưu Tống (420-478) là 1 dị dịch của tác phẩm Phật Sở Hành Tán; N0 194: Kinh Tăng Già La Sát Sở Tập, do Đại sĩ Tăng Già La Sát (Samgharaksa) soạn tập, Hán dịch là Đại sư Tăng Già Bạt Trừng, dịch vào đời Phù Tần (351-394), là những thi kệ, soạn thuật viết về lịch sử Đức Phật Thích Ca, nổi bật nhất là Phật Sở Hành Tán. Đây là tác phẩm thi ca đầu tiên thuộc Phật giáo Bắc truyền ghi nhận mô tả về cuộc đời Đức Bổn Sư. Phật Sở Hành Tán qua bản Hán dịch của Đại sư Đàm Vô Sấm gồm 5 quyển, 28 phẩm, với 9.216 câu thơ 5 chữ, là một thành tựu rất đáng kể trong nỗ lực “thi ca hóa” cuộc đời của Đức Bổn Sư. (Xem thêm bài viết của chúng tôi: Phật Sở Hành Tán, tác phẩm thi ca..., Nguyệt san Giác Ngộ, số 26, tháng 5-1999).
Ba tác phẩm trên, nên chọn dịch mỗi Phật Sở Hành Tán.
cool.gif Mảng kinh viết về tiền thân: gồm 54 kinh ngắn, vừa, còn lại nơi bộ Bản Duyên. Có mấy ghi nhận:
* Đây là mảng kinh mang đậm tính chất văn học hơn hết, đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với văn học Trung Quốc, là điều đã được học giả Lương Khải Siêu khẳng định. Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), nơi sách Sử Trung Quốc, phần bàn về tiểu thuyết đời Đường, đã cho: “Nhờ đọc kinh Phật, trong đó chép đời nhiều vị Phật, nhiều truyện tưởng tượng nên văn nhân Trung Quốc bắt chước lối viết truyện của Ấn Độ” (Sử Trung Quốc, tập 1, NXB Văn Hóa, 1997, tr. 351). Kinh Phật mà ông Nguyễn nói đến ấy chính là phần kinh viết về tiền thân nơi bộ Bản Duyên.
* Một số truyện tiền thân mang dáng dấp thần thoại nên đã chịu ảnh hưởng theo hệ thần thoại của Ấn Độ. Một số truyện khác, khi mô tả, phản ánh các sự việc, các tương quan về xã hội, nhân sinh, cũng không vượt qua yếu tố thời đại, yếu tố lịch sử, khiến chúng hầu như không còn thích hợp theo cách nhìn của con người trong xã hội hôm nay chăng? Đây là vấn đề cần được các nhà nghiên cứu Phật học Việt Nam hiện đại soi sáng đối chiếu, biện minh để tìm ra những lý giải hợp lẽ.
* Một số truyện tiền thân mô tả về quá trình hành hóa độ sinh của Đức Bổn Sư thuộc loại “siêu việt”, nên cần được lĩnh hội theo ý nghĩa tượng trưng thuộc phạm trù “không thể nghĩ bàn”. Đó là những “nhân không thể nghĩ bàn” (tiền thân) để dẫn tới “quả không thể nghĩ bàn” là thành tựu đạo quả Bồ đề Vô thượng. Tóm lại, ở phần này, người đọc kinh, học kinh, nói như HT. Thiện Siêu là phải có “con mắt trạch pháp”.
Chọn dịch nơi mảng kinh viết về tiền thân, nên bỏ bớt:
* N0 1578: Kinh Đại Bi Phân Đà Lợi, 8 quyển, Hán dịch: Mất tên người dịch. Kinh này đã có bản Hán dịch của Đại sư Đàm Vô Sấm: Kinh Bi Hoa, N0 157, 10 quyển, (văn nơi kinh N0 1578 hầu hết đều tối nghĩa, khó đọc).
* N0 160: Luận Bồ Tát Bản Sinh Man, 16 quyển, Hán dịch: Đại sư Thiệu Đức, Huệ Tuân. Luận này gồm 2 phần: 4 quyển đầu kể về tiền thân Phật (14 truyện), từ quyển 5 - 16 là một thứ “thơ biện giải”, phần nhiều mỗi câu 8 chữ, nội dung rất dàn trải, mơ hồ. Có thể giữ lại 4 quyển đầu, bỏ 12 quyển sau.
3. Bộ Bát Nhã: Gồm 2 phần: chính và Biệt hành.
A. Phần chính: Tức kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Mahà Prajnà pàramita-Sùtra), mang số hiệu 220, gồm 600 quyển (chiếm 3 tập 5, 6, 7 nơi ĐTK/ĐCTT), Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602-664), dịch vào đời Đường, cụ thể là từ tháng Giêng năm 660 đến tháng 10 năm 663, và đó là công trình lớn sau cùng của Pháp sư Huyền Tráng, vì tháng 2 năm sau (664) thì Pháp sư viên tịch. Kinh được thuyết giảng tại 4 nơi (xứ) với 16 hội:
- Núi Linh Thứu, thuộc thành Vương Xá: 7 hội (hội 1, 2, 3, 4, 5, 6, 15).
- Khu Lâm viên Kỳ Đà - Cấp Cô Độc: 7 hội (hội 7, 8, 9, 11, 12, 13, 14).
- Cung trời Tha Hóa Tự Tại: 1 hội (hội 10).
- Gần ao Bạch Lộ trong tinh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá: 1 hội (hội 16). Hội dài nhất là hội 1 gồm 400 quyển. Các hội, 8, 9, 13, mỗi hội chỉ gồm 1 quyển.
Căn cứ theo 16 hội, thì: - 9 hội: 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15, 16 gồm 481 quyển là phần Pháp sư Huyền Tráng dịch mới. - 7 hội: 2, 4, 6, 7, 8, 9, 10 gồm 119 quyển đã có các vị thuộc thế hệ trước dịch rồi, Pháp sư Huyền Tráng dịch lại. (Có một số kinh được dịch sau Pháp sư Huyền Tráng).
Cần chú ý là về các thuật ngữ, một số địa danh, nhân danh, Pháp sư Huyền Tráng đã sử dụng nơi bộ kinh này, hoặc theo lối phiên âm, hoặc theo cách dịch ý, có khác so với các dịch giả đi trước:
- Bạc Già Phạm (Thế Tôn).
- Mười tôn hiệu của Phật: Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật - Bạc Già Phạm.
- Bốn chúng đệ tử: Bí sô, Bí sô ni, Ô ba sách ca, Ô ba tư ca.
- Tám bộ chúng hộ pháp: Thiên, Long, Dược xoa, Kiền đạt phược, A tố lạc, Yết lộ đồ, Khẩn nại lạc, Ma hô lạc già.
- Sáu Ba la mật: Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát nhã.
- Ba đường ác: Địa ngục, Quỷ giới, Bàng sanh.
- Hữu tình (chúng sanh) Dị sanh (phàm phu) Cụ thọ (Tôn giả) Đỗ đa (đầu đà) Tát ca da kiến (thân kiến) Tốt đổ ba (tháp) Thiết lợi đa (xá lợi) Du thiện na (do tuần) Nhất sanh sở hệ (Nhất sanh bổ xứ) Rừng Thệ Đa (rừng Kỳ Đà) Thất La Phiệt (Xá Vệ) Căng già (sông Hằng)...
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa đã được HT. Trí Nghiêm Việt dịch và đã được biên tập, dò lại tạm gọi là hoàn chỉnh.
B. Phần Biệt hành: Tức nơi tập 8 ĐTK/ĐCTT. Có 3 chi tiết:
a) Các kinh Biệt hành: gồm:
- N0 221: Kinh Phóng Quang Bát Nhã: 20 quyển, Hán dịch là Đại sư Vô La Xoa, dịch vào đời Tây Tấn (265-317) thuộc về hội thứ 2 nơi kinh chính (gồm 78 quyển, từ quyển 401 - 478).
- N0 222: Kinh Quang Tán Bát Nhã: 10 quyển, Hán dịch là Pháp sư Trúc Pháp Hộ, dịch vào đời Tây Tấn, cũng thuộc về hội thứ 2 nơi kinh chính.
- N0 223: Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật: 27 quyển, Hán dịch là Pháp sư Cưu Ma La Thập, dịch vào đời Hậu Tần (384-417), cũng thuộc về hội thứ 2.
- N0 224: Kinh Đạo Hành Bát Nhã, 10 quyển, Hán dịch là Đại sư Chi Lâu Ca Sấm, dịch vào đời Hậu Hán (25-220), thuộc về hội thứ 4 (gồm 18 quyển, từ quyển 538 - 555).
- N0 225: Kinh Đại Minh Độ, 6 quyển, Hán dịch là cư sĩ Chi Khiêm, dịch vào đời Đông Ngô (229-280), thuộc về hội thứ 4.
- N0 226: Kinh Ma Ha Bát Nhã Sao, 5 quyển, Hán dịch là Đại sư Đàm Ma Bì và Trúc Phật Niệm, dịch vào đời Phù Tần (351-394), thuộc về hội thứ 4.
- N0 227: Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã, 10 quyển, Hán dịch là Pháp sư Cưu Ma La Thập, cũng thuộc về hội thứ 4...
Nói chung, các kinh Biệt hành này, kể cả một số kinh được dịch sau Pháp sư Huyền Tráng, đều có nơi kinh chính.
Về phần các kinh Biệt hành, ở đây. Chỉ nên Việt dịch 2 kinh N0 223 và N0 227 do Pháp sư Cưu Ma La Thập Hán dịch. Kinh N0 223: Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, 27 quyển (còn gọi là kinh Đại Phẩm Bát Nhã) đã được HT. Trí Tịnh Việt dịch. Và xin nhắc lại: Bộ luận Đại Trí Độ (N0 1509, 100 quyển) của Bồ tát Long Thọ chính là giải thích kinh Đại Phẩm Bát Nhã ấy.
cool.gif Kinh Kim Cương: Kinh Kim Cương vốn là 1 hội trong kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa: hội thứ 9, quyển 577, mang tên là “Phần Năng Đoạn Kim Cương”, do tính chất quan trọng nên đã được tách riêng ra và Hán dịch rất sớm. Như vậy, kinh Kim Cương, ngoài bản dịch của Pháp sư Huyền Tráng, còn có 5 bản Hán dịch nữa, 4 bản dịch trước và 1 bản dịch sau:
- N0 235: Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, Hán dịch là Pháp sư Cưu Ma La Thập.
- N0 236: Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, Hán dịch là Đại sư Bồ Đề Lưu Chi, dịch vào đời Hậu Ngụy (đầu thế kỷ thứ VI TL).
- N0 237: Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, Hán dịch là Đại sư Chân Đế, dịch vào đời Trần (giữa thế kỷ thứ VI TL).
- N0 238: Kinh Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật, 1 quyển, Hán dịch là Đại sư Cấp Đa, dịch vào đời Tùy (580-618).
- N0 239: Kinh Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa, 1 quyển, Hán dịch là Đại sư Nghĩa Tịnh, dịch vào đời Đường, đầu thế kỷ thứ VIII.
Trong ấy, bản dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập ra đời sớm nhất và cũng là bản dịch có giá trị và được biết đến nhiều nhất.
Các bản Việt dịch kinh Kim Cương hiện có đều dịch từ bản Hán dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập. Nên Việt dịch luôn 4 bản Hán dịch kia.
c) Tâm kinh Bát Nhã:
Xuất xứ của Tâm kinh Bát Nhã được tìm thấy ít nhất là ở 6 đoạn nơi kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, rõ nhất là nơi phẩm thứ 3: phẩm Tương ưng, phần 1, thuộc quyển 4 (ĐTK/ĐCTT, tập 5, tr. 22A - 22B). (Xem thêm bài viết của chúng tôi: Giới thiệu kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa, nguyệt san Giác Ngộ số 24, 25, tháng 3-4/1998).
Tâm kinh Bát Nhã mà người Phật tử thường đọc tụng là theo bản Hán dịch của Pháp sư Huyền Tráng (N0 251, ĐTK/ĐCTT, tập 8, tr. 848C). Ngoài ra, còn có 6 bản Hán dịch Tâm kinh Bát Nhã nữa, mang số hiệu 250, 252, 253, 254, 255, 257, trong đó, bản N0 250 là của Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch, 5 bản còn lại đều được dịch sau Pháp sư Huyền Tráng, và đều có phần mở đầu (Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại...) cùng phần kết thúc (đại chúng nghe kinh, hoan hỷ phụng hành).
Nên chọn dịch thêm bản Hán dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập.
4. Bộ Pháp Hoa: Gồm 2 phần chính và liên hệ.
A. Phần chính: Tức kinh Pháp Hoa với 3 bản Hán dịch:
- N0 262: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, 7 quyển, 28 phẩm, Hán dịch là Pháp sư Cưu Ma La Thập. Đây là bản Hán dịch phổ cập nhất. Toàn bộ các bản Việt dịch kinh Pháp Hoa hiện có đều dịch từ bản Hán dịch này.
- N0 263: Kinh Chánh Pháp Hoa, 10 quyển, 27 phẩm, Hán dịch là Pháp sư Trúc Pháp Hộ. Đây là bản Hán dịch đầu tiên về kinh Pháp Hoa.
- N0 264: Kinh Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa, 7 quyển, 27 phẩm, Hán dịch là 2 Đại sư Xà Na Quật Đa và Đạt Ma Cấp Đa, dịch vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI TL, đời Tùy (580-618). Có mấy ghi nhận:
a) Bản Hán dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập gồm 28 phẩm, tức có thêm phẩm Đề Bà Đạt Đa (phẩm 12), 2 bản Hán dịch kia không có. Việc tách phần nói về Đề Bà Đạt Đa thành 1 phẩm riêng không phải là không có lý do chính đáng. Ngay nơi kinh Tát Đàm Phân Đà Lợi (N0 265, ĐTK/ĐCTT, tập 9), số lượng chỉ hơn 1 trang ĐTK, là một đoạn rất ngắn của kinh Pháp Hoa cũng đã nói đến phẩm Đề Bà Đạt Đa. Còn theo học giả người Nhật Nikkyo Niwano thì phẩm ấy là nói về “sự lớn lao và toàn hảo của giáo lý Đức Phật...” (Đạo Phật ngày nay, Trần Tuấn Mẫn dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam xuất bản, 1997, tr. 320).
cool.gif Bản Hán dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập đã đặt phẩm Chúc lụy ở phẩm 22, sau đấy còn 6 phẩm nữa, và phẩm cuối kinh (phẩm 28) là “Phẩm Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát”. (Trong khi 2 bản Hán dịch kia thì phẩm Chúc lụy được đưa xuống cuối kinh). Một số nhà nghiên cứu, chú giải kinh Pháp Hoa đã có ý kiến về vị trí gọi là không hợp lý của phẩm Chúc lụy nơi bản Hán dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập. Nhưng học giả Nikkyo Niwano đã đưa ra những biện giải rất có lý để xác nhận tính chất logic của sự việc ấy (Sđd, tr. 691 - 692).
c) Pháp sư Cưu Ma La Thập đã dịch rất chuẩn tên của vị Bồ tát Avalo Kitesvara trong tiếng Phạn là “Bồ tát Quan Thế Âm”. Trước đó, nơi bản Hán dịch của mình, Pháp sư Trúc Pháp Hộ đã dịch là Bồ tát Quang Thế Âm ( ) với hàm nghĩa là vị Bồ tát luôn có ánh sáng ứng hợp với mọi âm thanh nơi thế gian. Sau này, Pháp sư Huyền Tráng đã dịch là Quán Tự Tại. Cũng nên kể thêm, Đại sư Trí Huệ Luân, đời Đường, nơi bản Hán dịch Tâm kinh Bát Nhã của mình, đã dịch là Bồ tát Quan Thế Âm Tự Tại (ĐTK/ĐCTT, T8, tr. 850A-850B).
d) Phẩm “Phổ Môn” nơi bản Hán dịch của Pháp sư Trúc Pháp Hộ không có kệ. Còn nơi bản Hán dịch đời Tùy thì cả phần văn xuôi và kệ đều y như bản Hán dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập (tên của 27 phẩm nơi bản Hán dịch ấy cũng dùng lại y như bản Hán dịch đời Hậu Tần).
Bài kệ nơi phẩm Phổ Môn gồm 104 câu 5 chữ, nhìn ở góc độ văn học là một thành tựu tuyệt vời trong sự kết hợp hài hòa giữa thi ca, âm nhạc, hội họa và triết lý. Học giả Lương Khải Siêu đã gọi Pháp sư Cưu Ma La Thập là “ông vua trong giới phiên dịch” là rất xác đáng.
Kinh Pháp Hoa, xét về mặt số lượng thì chỉ là một bộ kinh thuộc loại vừa, nhưng về mặt tư tưởng với việc thuyết minh cùng khẳng định về giáo pháp Nhất thừa, khẳng định khả tính giác ngộ nơi mọi chúng sinh - kể cả những kẻ xấu ác nhất v.v... nên hầu hết các nhà nghiên cứu xưa nay đều xác nhận đấy là một bộ kinh vĩ đại của Phật giáo Bắc truyền. Cứ nhìn vào số lượng các sách chú giải, giảng luận về kinh Pháp Hoa hiện có trong ĐTK/ĐCTT cũng đủ thấy bộ kinh ấy đã được chú trọng và có ảnh hưởng lớn như thế nào. Về phương diện kế thừa và phát huy, kinh Pháp Hoa được xem là nền tảng giáo pháp của tông Thiên Thai với những xiển dương của Đại sư Trí Khải (538-597).
Kinh Pháp Hoa theo bản Hán dịch của Pháp sư Cưu Ma La Thập đã được Việt dịch khá sớm và nhiều. Nên dịch cả 2 bản Hán dịch kia.
B. Phần liên hệ: Gồm các kinh mang số hiệu từ 265 đến 277, nên Việt dịch hết.
5. Bộ Hoa Nghiêm: Cũng gồm 2 phần chính và Biệt hành.
A. Phần chính: Gồm 3 bộ Hoa Nghiêm:
a)N0 278: Kinh Hoa Nghiêm, bản 60 quyển, 34 phẩm, 7 xứ (nơi chốn thuyết giảng), 8 hội, Hán dịch là Đại sư Phật Đà Bạt Đà La (359-429) dịch vào năm 418, cuối đời Đông Tấn (317-419).
cool.gif N0 279: Kinh Hoa Nghiêm, bản 80 quyển, 39 phẩm, 7 xứ, 9 hội, Hán dịch là Đại sư Thật Xoa Nan Đà (652-710) dịch vào năm 695-699, đời Đường (Võ Tắc Thiên, 624-705). Đây là bản Hán dịch đầy đủ nhất về kinh Hoa Nghiêm.
c) N0 293: Kinh Hoa Nghiêm, bản 40 quyển, Hán dịch là Đại sư Bát Nhã (734-?) dịch vào năm 796-798 đời vua Đường Đức Tông. Từ quyển 1 - 39 tương đương với phẩm 39 (phẩm Nhập pháp giới, bản 80 quyển), quyển 40 tương đương với phẩm 36 (phẩm Phổ Hiền hạnh).
Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh vĩ đại bậc nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về mặt số lượng, cách thế diễn đạt và tư tưởng. Phẩm Nhập pháp giới là một phát hiện, một soi sáng kỳ diệu, độc nhất vô nhị về hành trình giác ngộ, giải thoát của con người. Giáo sư D.T. Suzuki viết: “Còn về kinh Hoa Nghiêm, đấy quả thực là một toàn hảo của tư tưởng Phật giáo. Theo ý tôi, không có một nền văn học tôn giáo nào trên thế giới có thể sánh kịp với sự lớn lao về quan niệm, sự sâu thẳm của cảm thụ và mức vĩ đại của sự biên soạn mà kinh này đạt được. Đấy là cái dòng suối vĩnh cửu của cuộc đời mà không một tâm thức nào có tính cách tôn giáo đến đó rồi quay về mà còn khao khát hay còn chưa hoàn toàn thỏa mãn” (Nghiên cứu kinh Lăng Già, Thích Chơn Thiện - Trần Tuấn Mẫn... dịch, 1992, tr. 110-111).
Về phương diện kế thừa và phát huy, kinh Hoa Nghiêm là giáo pháp căn bản của tông Hoa Nghiêm, người khởi xướng là Đại sư Pháp Thuận (577-640) với phát hiện về pháp quán “Chu biến hàm dung”, dẫn tới việc thành lập 10 Huyền môn nổi tiếng, là một lý giải, một quảng diễn sáng giá nhất, tuyệt vời nhất trong sứ mạng phát huy diệu lý duyên khởi.
Kinh Hoa Nghiêm, bản 80 quyển, đã được HT. Trí Tịnh Việt dịch từ lâu. Được sự đồng ý của HT., chúng tôi đã biên tập, dò lại rất kỹ lưỡng và có thể xem đấy là bản Việt dịch hoàn chỉnh về kinh Hoa Nghiêm 80 quyển. Nên dịch luôn cả 2 bản Hán dịch kia (bản 60 quyển và bản 40 quyển).
Có một điểm cần lưu ý: Nơi quyển 25 của bản 40 quyển, tương đương với quyển 72 của bản 80 quyển, thuộc phẩm Nhập pháp giới, có một vài chi tiết vô lý, mâu thuẫn, cần được xem lại và có thể lược bỏ để giữ nguyên giá trị cho bộ kinh.
B. Phần biệt hành: Gồm các kinh ngắn, vừa, mang số hiệu từ 280 đến 292, từ 294 đến 309, tất cả đều có nơi kinh chính 80 quyển, nên bỏ khỏi dịch, vì hầu hết đã có rồi, đã không phát hiện gì thêm mà nhiều bản biệt hành rất tối nghĩa, khó lĩnh hội. Chẳng hạn các kinh N0 288/3 (phẩm Thập định), kinh N0 292/6 (phẩm Ly thế gian) v.v... trong khi nơi kinh chính, văn sáng, nghĩa rõ, thì rất nhiều đoạn nơi các kinh ấy, người đọc không biết dịch giả muốn nói gì.
6. Bộ Bảo Tích: Gồm 2 phần chính và phần liên hệ.
A. Phần chính: Tức kinh Đại Bảo Tích (Mahàratnakùta-sùtra), N0 310, 120 quyển, 49 hội, do Đại sư Bồ Đề Lưu Chí (562-727) dịch và tập hợp các kinh đã được dịch từ trước. Công việc này được tiến hành từ năm 706, kéo dài trong 8 năm thì hoàn thành. Trong tổng số 49 hội, 120 quyển, thì:
* Các kinh được dịch từ trước: 23 hội, hơn 80 quyển.
* Các kinh do Đại sư Bồ Đề Lưu Chí dịch gồm 26 hội, hơn 39 quyển. Bảo Tích có nghĩa là tích tập các Pháp bảo, nên mỗi hội có thể xem như một bộ kinh với chủ đề riêng và có một vài trùng lặp với các bộ khác. Chẳng hạn:
* Hội thứ 46 mang tên: hội “Văn Thù thuyết Bát Nhã” gồm 2 quyển 115, 116, Hán dịch là Đại sư Mạn Đà La Tiên, dịch vào khoảng đầu thế kỷ thứ VI TL, đời Lương (502-556), chính là hội thứ 7 của kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (quyển 574, 575).
* Hội thứ 47 mang tên “Hội Bồ tát Bảo Kế” gồm 2 quyển 117, 118 do Pháp sư Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn thì trùng với kinh Đại Tập, quyển 25, 26, do Đại sư Đàm Vô Sấm dịch vào đời Bắc Lương (397-439).
Kinh Đại Bảo Tích đã được HT. Trí Tịnh Việt dịch và cũng đã được biên tập, dò lại tương đối hoàn chỉnh.
B. Phần liên hệ:
Các kinh thuộc hệ Bảo Tích mang số hiệu từ 311 đến 373 hầu hết đều có trong kinh Đại Bảo Tích, vậy chỉ nên dịch một số kinh sau đây:
* Kinh Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng (gọi tắt là kinh Thắng Man), N0 353, 1 quyển, Hán dịch là Đại sư Cầu Na Bạt Đà La, dịch vào đời Lưu Tống (420-478). Kinh này thuộc hội 48 của kinh Đại Bảo Tích mang tên hội "Phu nhân Thắng Man”, 1 quyển, nhưng do tầm quan trọng của nội dung kinh nên cần được Việt dịch thêm, giúp các nhà nghiên cứu đối chiếu, tham khảo. (Hiện chúng ta đã có bản Việt dịch, chú giải công phu của HT. Trí Quang).
* Kinh Vô Lượng Thọ: N0 360, 2 quyển, Hán dịch là Đại sư Khương Tăng Khải, dịch vào đời Tào Ngụy (220-265).
* Kinh Đại A Di Đà: N0 364, 2 quyển, do cư sĩ Vương Nhật Hưu (?-1173) hiệu đính biên tập vào khoảng năm 1160-1162 đời Triệu Tống (960-1276).
* Kinh Quán Vô Lượng Thọ: N0 365, 1 quyển, Hán dịch là Đại sư Cương Lương Da Xá, dịch vào khoảng năm 424 đời Lưu Tống (420-478).
* Kinh A Di Đà: N0 366, 1 quyển, Hán dịch là Pháp sư Cưu Ma La Thập.
* Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ: N0 367, 1 quyển, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng, là một dị dịch của kinh A Di Đà.
Các kinh trên (360, 364, 365, 366, 367) là những kinh chủ yếu của tông Tịnh Độ và tín ngưỡng Tịnh độ. (2 kinh 360, 364 đều có nơi hội thứ 5 của kinh Đại Bảo Tích, mang tên: hội “Như Lai Vô Lượng Thọ”, gồm 2 quyển 17, 18).
7. Bộ Niết Bàn: Cũng gồm 2 phần: phần chính và phần liên hệ.
A. Phần chính: Tức kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahà-parinirvàna-sùtra) cũng là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền, thuyết minh về các giáo nghĩa như Như Lai thường trụ, chúng sinh đều có Phật tính, xiển đề đều thành Phật... Kinh này có 2 bản Hán dịch:
* Kinh Đại Bát Niết Bàn Bắc bản: N0 374, 40 quyển, 13 phẩm, do Đại sư Đàm Vô Sấm (385-433) Hán dịch vào khoảng năm 415-421 đời Bắc Lương.
* Kinh Đại Bát Niết Bàn Nam bản: N0 375, 36 quyển, 25 phẩm, do các Đại sư Huệ Nghiêm (363-443), Huệ Quán (thế kỷ V TL) và cư sĩ Tạ Linh Vận (385-433) dựa vào bản Hán dịch kinh Đại Bát Nê Hoàn của Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), N0 376, 6 quyển, tham khảo Bắc bản của Đại sư Đàm Vô Sấm để tu đính, soạn thành vào khoảng sau năm 421 đầu đời Lưu Tống.
Sự kiện “Niết bàn” của Đức Bổn Sư đã được nói đến trong kinh Trường A Hàm (kinh số 2: kinh Du Hành, ĐTK/ĐCTT, T1, tr. 11A - 30B) và một số kinh thuộc Trường A Hàm rời (các kinh mang số hiệu 5, 6, 7), nhưng với kinh Đại Bát Niết Bàn, nội dung đã không dừng ở việc thuật lại giai đoạn sau cùng của cuộc đời Đức Thế Tôn, mà đã nhân nơi bối cảnh ấy thuyết minh, quảng diễn một số diệu lý then chốt như đã nêu trên.
Nên Việt dịch cả 2 bản Hán dịch kinh Đại Bát Niết Bàn.
B. Phần liên hệ:
Những kinh thuộc bộ Niết Bàn mang số hiệu từ 376 đến 396 nên Việt dịch hết.
8. Bộ Đại Tập: Cũng gồm 2: phần chính và phần liên hệ.
A. Phần chính: Là kinh Đại Phương Quảng Đại Tập (Mahàsamnipàta-sùtra), gọi tắt là kinh Đại Tập, N0 397, 60 quyển, 17 phẩm, Hán dịch do các Đại sư:
- Đàm Vô Sấm (385-433) dịch vào đời Bắc Lương, từ phẩm 1 đến phẩm 11 và phẩm 13, gồm 29 quyển.
- Trí Nghiêm (350-427) và Bảo Vân (376-449) dịch phẩm 12 (4 quyển) vào đời Lưu Tống.
- Đại sư Na Liên Đề Da Xá (490-589) dịch vào đời Cao Tề (550-576) gồm các phẩm 15, 16, 17 (15 quyển) và phẩm 14 gồm 12 quyển, dịch vào đầu đời Tùy (580-618).
Công việc sắp xếp này là do Đại sư Tăng Tựu thực hiện vào đời Tùy. Nội dung kinh Đại Tập thuyết minh về một số pháp tu tập của hạnh Bồ tát như Ba học, 6 Ba la mật, các pháp Tam muội, Tổng trì, cùng nhấn mạnh về sự nghiệp hộ pháp của 8 bộ chúng.
Có 2 điểm cần lưu ý:
- Một số đoạn nơi phần sau của phần Nhật tạng (phẩm 14, quyển 34 - 45), nội dung hoặc lạc đề, hoặc quá xa rời tính chất giác ngộ, giải thoát của Phật giáo, đề nghị lược bỏ.
- Đoạn cuối của phần Nguyệt tạng (phẩm 15, quyển 46 - 56) nêu việc phân công hộ trì Chánh pháp của chư vị trong 8 bộ chúng cùng các vị tiên, các ngôi sao trong “Nhị thập bát tú” v.v... cần được tóm lược, bỏ bớt.
B. Phần liên hệ: Các kinh thuộc bộ Đại Tập mang số hiệu từ 398 đến 424, chỉ nên Việt dịch các kinh:
* Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện: N0 412, 2 quyển, Hán dịch là Đại sư Thật Xoa Nan Đà, dịch vào đời Đường. (Đại sư Thật Xoa Nan Đà là dịch giả kinh Hoa Nghiêm, bản 80 quyển).
* Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập Bồ Tát Niệm Phật Tam Muội Phần: N0 415, 10 quyển, Hán dịch là Đại sư Đạt Ma Cấp Đa, dịch vào đời Tùy.
* Kinh Ban Chu Tam Muội: N0 418, 3 quyển, Hán dịch là Đại sư Chi Lâu Ca Sấm, dịch vào đời Hậu Hán.
* Kinh Đại Tập Hội Chánh Pháp: N0 424, 5 quyển, Hán dịch là Đại sư Thi Hộ, đời Triệu Tống.
9. Bộ Kinh Tập: Bộ này gồm 4 tập 14, 15, 16, 17 của ĐTK/ĐCTT. Có mấy ghi nhận:
a) Nên tách và tập hợp các kinh ngắn, vừa, nói về Thiền, Quán thành một mảng và Việt dịch. Đó là các kinh mang số hiệu: 463, 464, 465, 466, 467 (tập 14), 602, 603, 604, 605, 609, 610, 611, 612, 613, 614, 616, 617, 618, 619, 620, 621, 622, 623, 624, 625, 627, 630, 631, 632, 633, 634 đến 648 (tập 15).
cool.gif Đưa kinh Bột Kinh Sao (kinh Hiền Nhân), N0 790, 1 quyển, Hán dịch là cư sĩ Chi Khiêm (thế kỷ thứ III TL) lên bộ Bản Duyên, vì nội dung kinh này nói về tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni.
c) Đưa kinh Thủ Lăng Nghiêm, N0 945 (tập 19), 10 quyển, Hán dịch là Đại sư Bát Thích Mật Đế, dịch vào khoảng đầu thế kỷ VIII TL, đời Đường, lên bộ Kinh Tập.
d) Chúng tôi dựa theo sự lựa chọn của người Nhật về các kinh nên dịch (Việt dịch) thuộc bộ Kinh Tập này như sau (có nhắc tới các kinh đã được Việt dịch)(*):
* Tập 14: Các kinh mang số hiệu: 425 (8 quyển) 426 (1 quyển) 427 (1 quyển) 433 (1 quyển) 434 (3 quyển) 450 (1 quyển): Kinh Dược Sư, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng. 452 (1 quyển): Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh, Hán dịch là Thư Cừ Kinh Thanh, dịch vào đời Lưu Tống. 454 (1 quyển): Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật, Hán dịch là Pháp sư Cưu Ma La Thập. 456 (1 quyển) 460 (1 quyển) 461 (2 quyển) 471 (1 quyển) 475 (3 quyển): Kinh Duy Ma, Hán dịch là Pháp sư Cưu Ma La Thập. 477 (1 quyển) 480 (1 quyển) 482 (4 quyển) 485 (4 quyển) 489 (20 quyển) 512 (1 quyển) 513 (1 quyển).
* Tập 15: 586 (4 quyển) 600 (1 quyển): Kinh Thập Thiện, Hán dịch là Đại sư Thật Xoa Nan Đà. 650 (2 quyển) 653 (3 quyển).
* Tập 16: 656 (14 quyển) 657 (10 quyển) 661 (1 quyển) 663 (4 quyển): Kinh Kim Quang Minh, Hán dịch là Đại sư Đàm Vô Sấm. 666 (1 quyển) 668 (1 quyển) 669 (2 quyển) 670 (4 quyển) 671 (10 quyển) 672 (7 quyển): 3 kinh 670, 671, 672 là kinh Lăng Già, với 3 bản Hán dịch của các Đại sư: Cầu Na Bạt Đà La (4 quyển), Bồ Đề Lưu Chi (10 quyển) và Thật Xoa Nan Đà (7 quyển). Nên Việt dịch hết 3 bản Hán dịch. 673 (2 quyển) 676 (5 quyển): Kinh Giải Thâm Mật, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng. 680 (1 quyển) 682 (2 quyển) 683 (1 quyển) 684 (1 quyển) 685 (1 quyển) 686 (1 quyển) 687 (1 quyển): Các kinh từ 684 đến 687 là các kinh ngắn nói về đạo Hiếu, trong ấy kinh 685 là kinh Vu Lan. (Xem thêm bài viết của chúng tôi: Giới thiệu chùm kinh ngắn trong Hán tạng nói về chữ Hiếu, nguyệt san Giác Ngộ số 77, 78 tháng 8-9/2002). 688 (1 quyển) 692 (1 quyển) 695 (1 quyển) 697 (1 quyển) 700 (1 quyển) 701 (1 quyển) 702 (1 quyển) 708 (1 quyển) 709 (1 quyển) 714 (1 quyển) 717 (2 quyển).
* Tập 17: 721 (70 quyển) 723 (1 quyển) 726 (1 quyển) 727 (10 quyển) 734 (1 quyển) 735 (1 quyển) 741 (1 quyển) 745 (1 quyển) 765 (7 quyển) 766 (1 quyển) 769 (1 quyển) 775 (1 quyển) 779 (1 quyển): Kinh Bát Đại Nhân Giác, Hán dịch là Đại sư An Thế Cao, dịch vào đời Hậu Hán. 780 (1 quyển) 781 (1 quyển) 784 (1 quyển): Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Hán dịch là 2 vị Đại sư Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, tương truyền là kinh được Hán dịch sớm nhất ở Trung Quốc. 788 (1 quyển) 792 (1 quyển) 796 (1 quyển) 799 (1 quyển) 801 (1 quyển) 807 (1 quyển) 810 (2 quyển) 811 (1 quyển) 814 (1 quyển) 815 (3 quyển) 818 (2 quyển) 821 (2 quyển) 822 (1 quyển) 829 (1 quyển) 832 (1 quyển) 833 (1 quyển) 835 (1 quyển) 837 (1 quyển) 839 (2 quyển) 840 (1 quyển) 842 (1 quyển): Kinh Viên Giác, Hán dịch là Đại sư Phật Đà Đa La, dịch vào đời Đường. 843 (3 quyển) 846 (1 quyển).
II. Về tạng Luật (3 tập 22, 23, 24, mang số hiệu từ 1421 đến 1504) và tạng Luận (8 tập: tập 25 - 32, mang số hiệu từ 1505 đến 1692) chúng ta nên theo sự chọn dịch của người Nhật, như họ đã ghi rõ nơi phần Mục lục ĐTK/ĐCTT (tr. 150 - 178).
Cùng với Phong trào Chấn hưng Phật giáo dấy khởi khắp 3 miền Nam Trung Bắc với các tạp chí Phật học như Từ Bi Âm (Nam, 1932), Viên Âm (Trung, 1933), Đuốc Tuệ (Bắc, 1935), công việc biên dịch 3 tạng Kinh, Luật, Luận từ Hán tạng sang tiếng Việt để hình thành Đại tạng kinh Việt Nam đã được xúc tiến và nối tiếp. Hơn 60 năm của thế kỷ XX, chúng ta đã chuyển dịch được khá nhiều, nhưng do những điều kiện khách quan và chủ quan, Đại tạng kinh Việt Nam vẫn chưa được hoàn thành. Thế kỷ XXI đã đi qua được 4 năm, thời gian vẫn đang mở rộng trước mắt - mở rộng nhưng không phải là vô tận - vì hầu như không còn lý do gì để chần chừ, trì trệ; hoàn thành Đại tạng kinh Việt Nam phải là Phật sự hàng đầu của Phật giáo Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
(*) Sự dựa theo này không hoàn toàn cố định, vẫn có thể có một số thay đổi cho hợp lý, ví dụ nơi tập 14: 2 kinh N0 461 (2 quyển) và 462 (3 quyển). Hai kinh này là hai bản Hán dịch từ 1 bản tiếng Phạn:
* Kinh N0 461/2: kinh Văn Thù Sư Lợi hiện bảo tạng, Hán dịch là Pháp sư Trúc Pháp Hộ, đời Tây Tấn (ĐTK/ĐCTT, T14, tr.452B - 466A).
* Kinh N0 462/3: kinh Đại Phương Quảng Bảo Khiếp, Hán dịch là Đại sư Cầu Na Bạt Đà La, đời Lưu Tống (ĐTK/ĐCTT, T14, tr.466B-480A). Người Nhật đã chọn bản N0 461/2 trong khi bản N0 462/3 văn sáng rõ, thuận hợp dễ hiểu, còn bản N0 461/2 văn có rất nhiều đoạn lủng củng, tối nghĩa, rất khó đọc. Đề nghị chúng ta nên chọn bản N0 462/3.
Đảo Nguyên
Go to the top of the page
 
+Quote Post
DIEUHANG
bài Apr 6 2010, 10:02 AM
Bài viết #86


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 623
Gia nhập vào: 25-December 07
Thành viên thứ.: 174



Bác Huynhdoan ui!! rất cám ơn bác thường chia sẽ Phật pháp cũng như chia sẽ nhưng tài liệu Phật pháp mà bác sưu tầm được
Gởi bác xem sự kiện này nhé: http://hoibongsen.com/diendan/showthread.p...42929#post42929
Bài này do thầy Hạnh Nhân ở Huế post lên nên DH tin tưởng. DH cũng đã được gặp thầy một lần, Thầy rất từ bi và đức độ
Đúng là Phật pháp rất nhiệm màu bác nhỉ
Go to the top of the page
 
+Quote Post
huynhdoan2000
bài Apr 6 2010, 10:18 PM
Bài viết #87


Hội viên năng động
***

Nhóm: Members
Bài viết: 1,189
Gia nhập vào: 21-January 08
Thành viên thứ.: 203





Gởi bác xem sự kiện này nhé: http://hoibongsen.com/diendan/showthread.p...42929#post42929

Chào cô DH...

Đến bây giờ thì đệ đã "ngộ" rồi...Phật là vô lượng quang, là vô lượng thọ...Phật không có hình tướng nhất định... Quang Mục nữ trong kinh Địa Tạng...trong giấc chiêm bao thấy Phật là một vầng sáng sắc vàng ...
Người có tâm nghĩ đến Phật thì sẽ thấy Phật...
Đệ đôi khi ngồi suy nghĩ...cảm thấy mình....thấy Phật thì ít, mà thấy "không Phật" thì nhiều ...Đệ đang từng bước khắc phục ...
Go to the top of the page
 
+Quote Post
DIEUHANG
bài Apr 14 2010, 02:10 PM
Bài viết #88


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 623
Gia nhập vào: 25-December 07
Thành viên thứ.: 174



Huynh Huynhdoan ui!!!! Thêm nữa nè:
http://phattuvietnam.net/1/9805.html
Go to the top of the page
 
+Quote Post
huynhdoan2000
bài Apr 15 2010, 09:36 PM
Bài viết #89


Hội viên năng động
***

Nhóm: Members
Bài viết: 1,189
Gia nhập vào: 21-January 08
Thành viên thứ.: 203



QUOTE(DIEUHANG @ Apr 14 2010, 02:10 PM) *
Huynh Huynhdoan ui!!!! Thêm nữa nè:
http://phattuvietnam.net/1/9805.html



Chào cô DH...

Một hiện tượng ánh sáng xảy ra . Người thì bảo ...hào quang xuất hiện . Kẻ thì nói...hiện tượng cầu vồng. Hào quang cũng được, cầu vồng cũng xong!!
Hạnh phúc thay cho những ai thấy là "hào quang" !!! Tăng trưởng tín tâm...Kẻ thấy là cầu vồng...chả có lợi ích gì ...
Lúc đệ còn nhỏ, đi ra ngoài đường mà thấy mấy bao nhang [ hết nhang], người ta quăng , hễ thấy có hình Phật là đệ lượm lên...Lòng tôn kính rất mực đối với Phật, Bồ tát...
Có thể người khác chỉ thấy ...đó là giấy...Nhưng với đệ, đó là ứng hóa thân của Phật...

Cô có nhớ bài kệ Kiến Phật không ??

Phàm khi gặp hình tượng Phật, Bồ tát...chúng ta đọc bài kệ như sau :

Ngược đắc kiến Phật
Đương nguyện chúng sanh
Đắc vô ngại nhãn
Kiến nhất thiết Phật ...
Go to the top of the page
 
+Quote Post
DIEUHANG
bài Apr 17 2010, 09:54 AM
Bài viết #90


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 623
Gia nhập vào: 25-December 07
Thành viên thứ.: 174



Chào Huynh Huynhđoan
Một hiện tượng ánh sáng xảy ra . Người thì bảo ...hào quang xuất hiện . Kẻ thì nói...hiện tượng cầu vồng. Hào quang cũng được, cầu vồng cũng xong!!
Hạnh phúc thay cho những ai thấy là "hào quang" !!! Tăng trưởng tín tâm...Kẻ thấy là cầu vồng...chả có lợi ích gì ...

Huynh nói đúng. Hôm chủ nhật vừa rồi là ngày sinh hoạt đạo tràng HBS, có thầy Hạnh Nhân( người đưa đoạn quay lên mạng) vào SG và đến tham dự , Khi SH xong kéo nhau đi ăn chay với thầy, DH có hỏi thầy về đoạn quay trên là của ai. Thầy nói là của một sinh viên lúc đò đến viếng cảnh chùa Bãi bụt cùng các bạn. Anh SV này thấy phát sáng mà không biết đó là Đức Quán Thế Âm và hào quang nhưng thấy lạ thì mang đt ra quay trong lúc các bạn khác thì không thấy gì cả. Anh này mang về cho mẹ xem thì mẹ anh này nhìn ra Đức Quán Thế Âm và Hào quang.
Thế mới biết nhìn được hào quang hay không còn do phước duyên của mình nữa.
DH dự định ra thăm dì ở ĐN trong năm nay. Thấy có lễ lớn vào ngày 19/6 âm lịch là ngày vía của Đức Quán Thế Âm ở chùa Bãi bụt. DH chọn ngày đó ra viếng chùa luôn, giờ mới biết chùa Bãi bụt là chùa của những đoạn quay trên, may quá hì hì...
Lúc đệ còn nhỏ, đi ra ngoài đường mà thấy mấy bao nhang [ hết nhang], người ta quăng , hễ thấy có hình Phật là đệ lượm lên...Lòng tôn kính rất mực đối với Phật, Bồ tát...
Có thể người khác chỉ thấy ...đó là giấy...Nhưng với đệ, đó là ứng hóa thân của Phật...

Thật hoan hỉ khi đọc đoạn này. Huynh từ nhỏ đã có tín tâm như vậy thật là phước lành từ vô lượng kiếp, chắc huynh tu nhiều kiếp trước và có duyên với Tịnh Độ. Kiếp này gặp Phật pháp, gặp pháp môn Tịnh độ thật là duyên phước. Không phải ai cũng có được tín tâm như thế. DH từ nhỏ chẳng thể có được ý thức như huynh, có một lần đi viếng chùa ở vũng tàu cùng mấy cô Phật tử. Trưa nắng vàng mắt thấy cô Phật tử cúi xuống lượm tờ nhãn hiệu của nhang có hình Bồ tát Quán Thế Âm lên rồi cô từ từ vuốt ra cho thẳng với lòng cung kính, lúc đó DH mới giật minh cảm nhân và mới có ý thức từ đó. Nay nếu đi đâu mà nhìn thấy nhãn bao nhang có hình Phật là DH cũng lượm lên cất vào nơi trịnh trọng và tím nơi sạch sẽ đốt, xong lấy hốt tro bỏ vào gốc cây chứ không để mọi người giẫm lên. Đúng là mình còn quá vô minh nên đi một ngày đàng là học được một sàng khôn. hihi...
Go to the top of the page
 
+Quote Post

14 Trang V  « < 7 8 9 10 11 > » 
Reply to this topicStart new topic
2 người đang đọc chủ đề này (2 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 16th June 2025 - 03:32 AM