IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Sống và chết, Nguyên tác của Ohsawa
Diệu Minh
bài Sep 24 2007, 08:06 PM
Bài viết #1


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,428
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



Sống và chết
Nguyên tác Ohsawa

Phần I
Quan niệm của phương Tây và phương Đông về sự sống và cái chết là hoàn toàn trái ngược nhau, như đã được nêu trong tạp chí Đời sống (Life magazine- ngày 9/8/1965) và tạp chí Thời đại (Time magazine – ngày 24/9 và 12/11/1965):

“Con người chết từ từ qua từng ngày”

và được giải thích như sau:

“Mặc dù có sự phát triển của y học, cho tới nay tuổi thọ vẫn chưa được kéo dài chút nào. Việc giảm tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh đã tạo ra ảo tưởng - về mặt thống kê, cho rằng tuổi thọ trung bình của người Mỹ đã được tăng lên ...

Chất dinh dưỡng dành cho trẻ con Mỹ đang mang tính độc hại ...

Các nhà lão khoa không tin vào việc dùng thuốc có thể kéo dài được tuổi thọ...

Khoa học đã làm tăng tuổi thọ một cách rất chậm chạp, nhưng lại không tăng cường được sinh khí của con người...

Qua con số thống kê, cho ta thấy rằng, nếu các bệnh về tim, thận được tạm xem như đã được hoàn toàn chữa khỏi – thì tuổi thọ nhìn chung cũng chỉ tăng được không quá 10 năm; việc chữa khỏi bệnh ung thư cũng chỉ có thể tăng lên chừng 1,8 năm mà thôi...

Các cuộc mổ tử thi trên xác các binh sĩ trẻ (độ tuổi 18-22) bị chết trong cuộc chiến tranh Triều tiên, cho thấy nhiều trường hợp chết vì một căn bệnh không ngờ tới, đó là bệnh sơ cứng động mạch. Chúng tôi buộc phải đi đến kết luận rằng lão khoa mới chỉ là công tác nghiên cứu ban đầu...

Điều này cũng lưu ý các chuyên gia về chăm sóc sức khoẻ trẻ em, cần phải xem xét lại ý kiến của họ về nguồn dinh dưỡng cho trẻ.

Người ta biết rằng, trong số những động vật, con nào có tỉ lệ phần đầu to nhất so với phần còn lại của thân thể chúng, thì có tuổi thọ dài nhất. Lấy con sóc làm thí dụ. Đem so sánh với thân, thì sóc có đầu lớn nhất, và nó sống lâu nhất. Điều tình cờ nữa là nó có trí thông minh vượt trội...(*)

Không có ai chết vì tuổi già; mọi người đều chết vì một căn bệnh nào đó, như bệnh tim mạch, đái đường, thấp khớp, đau dây thần kinh, ung thư...

Trọng lượng của đầu người chỉ chiếm 2% của trọng lượng toàn cơ thể - và tiêu thụ khoảng 25% lượng Oxy được chuyển hoá trong cơ thể...

Mỗi ngày có đến hàng triệu tế bào cơ thể bị huỷ diệt...

Theo lão khoa, nguyên nhân chính gây ra tuổi già là có sự đông cứng nhanh của chất collagen, hoặc tạm gọi là mô liên kết; một loại của protein đơn giản được thấy ở khắp nơi trong cơ thể - ở dưới da, trong xương sụn, lấp kín những khoảng trống của nội bào. Chất này chiếm khoảng 30% tổng lượng protein trong cơ thể. Sự mềm mại và tính đàn hồi của da trẻ thơ chính là sản phẩm trực tiếp của Collagen mới...

Khi chất collagen đông cứng, thì không còn hy vọng gì có thể phục hồi lại được sự mềm dẻo của cơ thể. Tuy nhiên, bác sĩ Corn, trong khi làm thí nghiệm trên chuột, bước đầu có nhận xét rằng protein trong đậu nành sẽ giúp loại bỏ được điều này...

Mỗi năm, Viện lão khoa đã nhận được trên 3 triệu đô-la tiền quyên góp; ngoài ra Bộ Y tế Mỹ cũng dành khoản tiền gấp ba lần số tiền trên để dành cho việc nghiên cứu về lĩnh vực này...

Một số người nghĩ rằng cần tập trung vào nghiên cứu về tương lai và cách điều trị sức khoẻ cho người già trong xã hội chúng ta, bởi vì nguyên nhân tuổi già sẽ phải được khám phá sớm trong tương lai. Cách đây 15 năm, những người khác (như bác sĩ M.C. , khoa Y trường đại học Boston) thì cho rằng nghiên cứu lão khoa không nên vượt quá mức độ dành cho nghiên cứu bệnh ung thư...
(Tạp chí Đời sống - Life Magazine).
Khi chúng ta nghiên cứu vật chất từ trong cuộc sống, thì dường như cái chết là sự phát hiện quan trọng nhất ở phương Tây trong nhiều thế kỷ qua, và là động lực đầu tiên. Ngược lại, ở phương Đông - lại tìm thấy sự sống.

ở phương Tây đã và sẽ còn bị kinh hoàng bởi sự phát hiện này. Trái lại, ở phương Đông người ta kêu lên trong sự sửng sốt đầy niềm tin vui. Đây thực sự là thí dụ điển hình về tính nhị nguyên.

Điều này giải thích tại sao phương Tây lại là nơi sản sinh ra khoa học, vật lý, nghiên cứu các vấn đề tồn tại... liên quan nhiều đến thế giới hữu hình. Ngược lại, ở phương Đông là nơi sản sinh ra tôn giáo, nghiên cứu về Đạo, nghiên cứu về tinh thần và thế giới vô hình.

Y học phương Tây tập trung sự quan tâm vào việc nghiên cứu xác chết, như mổ tử thi, soi kính hiển vi, làm giảm đau. Trái lại, y học phương Đông lại tập trung vào việc khám phá sự vĩ đại của vũ trụ và tinh thần (Xem sách “Hoàng Đế Nội Kinh”).

Trong một bài viết với tiêu đề : “Cái chết là bạn đồng hành vĩnh viễn của chúng ta”, tạp chí Thời đại đã nêu:
“Đối với con người, không còn tư tưởng gì dằn vặt hơn là điều này:
Chúng ta chắc chắn sẽ phải chết...
Nền văn minh là thành trì, nhưng nền móng của nó lại chìm trong thế giới của sự chết chóc...

Người Ai cập đã làm một nghĩa địa rất rộng và được xem như vườn ươm những linh hồn đã xuất khỏi thế giới của họ...

Sự tàn phá của chiến tranh, đã không phải là động lực để Aztecs chinh phục Mexico. Họ đã bị thúc giục bởi lòng ham muốn thoả mãn thú tính của thần ăn thịt...

Con người đã tạo dựng nên những thành quả to lớn của trí tuệ nhằm khắc phục những khổ đau và nỗi kinh hoàng của sự chết chóc:

Các triết gia từ thời Socrate, cách đây 2300 năm cho đến Karl Jasper ngày nay, không ngừng nỗ lực để chuẩn bị cho con người đi vào cõi chết. Nhiều người khác cũng đã cố gắng diễn giải rằng sự chết là điều không thể tránh, dù bằng phép thuật hoặc bằng mọi cách gì đi nữa...

Theo Epicurus, chết chẳng là gì đối với chúng ta, bởi lẽ cái gì bị phân huỷ thì không có khả năng cảm nhận, và cái gì không thể cảm nhận được là cái bỏ đi...

Montaigne cũng nhắc lại ý này trong công thức nổi tiếng:

“Chúng ta chẳng cần quan tâm đến cái chết, dù ta sống hay chết. Nếu chúng ta đang sống, tức là ta tồn tại, chẳng có gì phải bận tâm. Nếu chúng ta chết, cũng chẳng có vấn đề gì, bởi vì ta không còn nữa...

Ba số phận được trang bị bằng những chiếc kéo khổng lồ, trong khi Ông già thời gian lại đang cầm chắc lưỡi hái tử thần...

Nỗ lực lớn lao của thiên chúa giáo là vượt qua cái chết:

Hỡi cái chết, đâu là chiến công của ngươi?
Hỡi cái chết, đâu là sự đau đớn do ngươi gây ra?
Hãy khóc lên Paul the Apostle...

Đây là hình ảnh một bộ xương người, ngồi dạng chân trên lưng con ngựa màu xanh nhạt, với tiếng cười rên rỉ, rền vang... được mô tả trong tập cuối của Thánh Kinh Apocalypse (sự tiết lộ của Thánh John về ngày tận thế).

Đây là sự phán đoán tạo sức mạnh trên toàn trái đất; nó làm phiền lòng con người, gây áp lực lên họ, ép buộc họ tiến vào cả hai lĩnh vực siêu phàm, cao thượng và hành động bạo lực.

ở phương Tây và đặc biệt là ở Mỹ ngày nay, thái độ đối với sự bí ẩn của cái chết là hoàn toàn trái ngược lại với truyền thống xưa kia.

Quan điểm y học cho rằng cái chết đang được ngăn cản, làm cho nó diễn biến ngày một chậm hơn. Các học giả như Norbert Wiener tin rằng chúng ta có thể kéo dài cuộc sống của con người đến mức có thể. Thực vậy, họ run sợ khi nghĩ đến lúc - không còn là quá lâu - khi con người đã hoàn tất việc gia tăng dân số quá tải trên trái đất này.

Về mặt xã hội, con người ngày một trở nên vô nhân đạo, thường được thể hiện trong các buổi tang lễ và việc để tang. Chỉ duy nhất có đám tang của Kennedy hoặc của Churchill mới làm chúng ta nghe thấy một lần nữa những âm thanh não nề của tiếng trống đưa tang.

Theo quan điểm tôn giáo, thì sự bảo đảm - thậm chí mới chỉ là ý tưởng - cho sự bất tử, đã trở nên thực sự mơ hồ, khó hiểu và thiếu chính xác. Kết quả cuối cùng của cái chết - một khi bị sự bí ẩn đầy đen tối và nỗi kinh hoàng thống trị - sẽ bị sao nhãng hoàn toàn. Điều này có ý nghĩa vô cùng sâu sắc.


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
Diệu Minh
bài Sep 24 2007, 08:12 PM
Bài viết #2


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 20,428
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



Quan điểm của phương Đông về sự sống và cái chết

Quan điểm chung của người Mỹ về cái chết (như đã được nêu trong tạp chí Thời đại và Đời sống) được đúc kết từ nhiều tài liệu có chung một dòng tư tưởng (tạp chí Thời đại số 24/9/65):

“Chiến tranh là điều muôn thuở và không thể tránh khỏi được của cuộc sống”.

Qua đây, chúng ta thấy được nhận thức chung, mang tính hạn chế của người Mỹ - “Thượng đế” của thế giới hiện đại!

Khoa học hiện đại đã lừa gạt và làm chúng ta tin rằng ta đang sống trong sự phát triển liên tục, vô hạn, theo xu hướng toàn thể (trong mọi lĩnh vực). Trong thực tế, khoa học mới chỉ hướng về một thế giới vật chất, tương đối và không hiểu biết gì về những nguyên tắc ban đầu của thế giới siêu hình như: Hoà bình, Công lý, Đời sống, Tự do, Ký ức, Tinh thần, ý chí, Xét đoán, Sức khoẻ, Hạnh phúc, Chân lý... (Siêu hình học là môn học nghiên cứu về thế giới tuyệt đối, vô hạn).

Điều này thể hiện sự hạn chế trong tư duy, kiến thức, tư tưởng của người Mỹ. Bergson đã nhận xét rằng khoa học phương Tây hoàn toàn sao nhãng về thế giới tinh thần (tâm linh), niềm hạnh phúc, hoà bình và chỉ lao mạnh mẽ vào việc nghiên cứu vật chất. Hiển nhiên là việc phát triển vũ khí giết người hoặc vũ khí huỷ diệt ở phương Tây đã đạt tới đỉnh cao chưa bao giờ thấy ở khắp mọi nơi trên trái đất!

Trong quá trình phát triển nhận thức của con người về đời sống, ở phương Đông hoàn toàn trái ngược với những gì xảy ra ở phương Tây.

Sự phản ứng nguyên thủy của người phương Đông trước cuộc sống đó là sự ngạc nhiên. Người phương Đông nghiên cứu vũ trụ một cách toàn diện, cùng với các hiện tượng trên trái đất; họ luôn tự hỏi sâu sắc về những gì họ đã thấy: rừng núi, sông hồ, cỏ cây, côn trùng, gió tuyết, mưa bão. Thậm chí họ rất đỗi sửng sốt trước bản thân đời sống. Họ suy nghĩ, trầm tư và đi đến kết luận rằng thế giới vật chất nguyên thuỷ là cõi hư vô (void).

Người phương Tây không thể đạt tới quan niệm sâu sắc về sự chấp nhận và chấp nhận hoàn toàn: Nó dựa hoàn toàn ngay cả vào lúc kết thúc của cái gọi là vật chất tuyệt đối; nó được gắn liền với vật chất; tin tưởng vào vật chất - quyền hạn, vàng, kiến thức - như là tin vào chúa giám hộ.

Các nhà tư tưởng phương Đông, trải qua hàng ngàn năm qua đã hoàn toàn chìm đắm trong sự suy tư về một cơ chế mà ở đó thế giới là hư vô, là sự bao la vô tận - để từ đây đã sản sinh ra vô vàn hiện tượng có thể nhìn thấy được. Kết quả lao động của họ đã đưa đến sự khám phá ra Logic nhất thể của Kinh thánh (Genesis: mô tả về sự hình thành thế giới) và sự tồn tại. Logic này đã lan truyền trên toàn thế giới dưới hình thức thô thiển như 5 tôn giáo lớn ở phương Đông.

Người Trung quốc đã đưa siêu hình học và triết học vào lĩnh vực vật lý nhằm giải thích nguyên tắc và cơ chế của sự chuyển hoá trong vũ trụ. Họ đã đạt được kết quả thật kỳ diệu, đó là việc tìm ra kỹ thuật thủ công để chuyển hoá nguyên tử, trong việc chế tạo kim loại thời trung cổ. Người Trung quốc và người ấn độ đã biết đến nhôm và sắt từ hàng ngàn năm về trước; thậm chí họ hiểu việc luyện quặng và sản xuất ra thép.

Lời giáo huấn của đạo Lão, đạo Khổng và đạo Phật, cũng như triết học Vệ-đà đã dọi chiếu tia sáng long lanh vào bản chất của chu kỳ đời sống.

Không dừng lại ở những phát hiện của mình - người phương Đông tiếp tục quan tâm đồng thời vào triết học (thế giới tâm linh) và cả lĩnh vực vật lý (thế giới vật chất). Cuối cùng, họ từ bỏ việc nghiên cứu vật lý bởi vì họ cảm thấy thế giới vô tận và tuyệt đối là sâu sắc hơn và việc nghiên cứu khám phá thế giới này mang lại nhiều điều thích thú hơn - nó làm cho người ta quên hết mọi thứ.

Thế giới tương đối bị hạn chế và có giới hạn; họ cho rằng, nghiên cứu nó sẽ gặp một giới hạn, tiến tới sự kết thúc. Nếu theo đuổi việc nghiên cứu theo cách này, thì khi vượt quá giới hạn đó - ta sẽ rơi vào cõi vô tận, lọt sang một vùng đất hoàn toàn mới lạ, nơi mà các quy luật của thế giới tương đối không thể nào áp dụng được. Điều này đã xảy ra đối với vật lý hạt nhân hiện đại.

Người phương Tây gặp khó khăn lớn lao khi tìm hiểu về vũ trụ bao la, tuyệt đối và vĩnh hằng. Đối với họ thì nguyên tắc tương đối là bao chùm và hãy vượt qua nó!! Nhưng tiếc thay, cái tương đối lại có biên giới, có giới hạn; chúng ta gặp cái tận cùng mà ở đó chẳng có gì để mà tiến vào. Chúng ta tiến tới một điều hiển nhiên không hề nhầm lẫn đó là “sự vượt quá giới hạn”, là vô hạn và tuyệt đối; chúng ta tiếp cận với sự thất vọng, sự ngớ ngẩn, nản lòng và cô đơn đầy dẫy bất hạnh của cuộc đời vật chất.

ở phương Tây, các nhà toán học Tây phương mới đây đã phát hiện như sau:

Trước thời điểm 10-13 - về lý thuyết, từ điểm này chúng ta nằm trong cõi hư vô (void).

Khoa học phương Tây đã phát triển trải qua hàng trăm năm; 30 năm qua - kỷ nguyên của khoa học nguyên tử - có thể được xem như là giai đoạn phát triển cuối cùng của nguyên tử. Niềm vinh quang to lớn và kéo dài của nó là đã tạo ra vũ khí giết người, loại vũ khí không có sự bình đẳng: bom nguyên tử. Đây quả thực là điểm đối của năm tôn giáo lớn - con đường đi đến cuộc sống, công lý và hạnh phúc ở phương Đông.

Đó là những vận mệnh riêng rẽ của phương Đông và phương Tây.

Là một đứa trẻ ở phương Đông, tôi đã bị lôi cuốn bởi cái gì dường như là nguyên nhân của mọi thảm kịch trên thế giới... sự tồn tại không ổn định. Khi là nạn nhân của bệnh nan y - hình như chính bản thân mình đã nằm trong một định mệnh phải rời khỏi thế giới ở độ tuổi 18 - đã được thuốc đông y cứu chữa khỏi. Bằng thứ thuốc đó và cũng kể từ đó, việc học hành của tôi đã đi theo một con đường thẳng: từ phương pháp trường thọ, Kinh dịch, Đạo Lão - đỉnh cao của tư tưởng Đông phương.

Trên con đường đi tìm kiếm, tôi đã tiếp cận một nguyên tắc độc nhất- một nguyên tắc đồng thời kết hợp cả thể chất và triết học. Không thể chỉ áp dụng cái này, hoặc cái kia, mà là phải áp dụng cân bằng cả hai: đó là nguyên tắc của chính cuộc sống. Tôi đã dành 40 năm để nghiên cứu sâu và phát triển nó.

Nội dung kết quả nghiên cứu đã được xuất bản trong suốt 30 năm với 300 loại ấn phẩm các cỡ lớn, nhỏ khác nhau và các hình thức khác nhau như tạp chí định kỳ, tập san.

Nếu người ta áp dụng được điều hiểu biết sâu sắc của nguyên tắc này vào vấn đề tồn tại của đời sống và cái chết thì có thể đi đến kết luận sau:

Vũ trụ là sự không ngừng dãn nở theo hướng ly tâm (1), đang chuyển động với tốc độ vô chừng lớn, không thể đo đếm, tính toán được - ở mức độ vô hạn, tuyệt đối và không bao giờ ngừng. Sự dãn nở theo hướng ly tâm đã nhanh chóng tạo ra hai cực (2) : Âm và Dương. Hai cực này lại tạo ra vô vàn hiện tượng và từ đây, thế giới hữu hạn được hình thành. Thế giới này có sự kết thúc, bởi vì theo định nghĩa, đây là thế giới hữu hạn và có giới hạn. Chính tại điểm kết thúc này, hiện tượng hữu hạn mất đi và đồng thời xuất hiện sự vô hạn và tuyệt đối ngay từ sự khởi đầu. Chu kỳ này được lặp đi lặp lại không bao giờ ngừng. Quá trình lên xuống vô hạn mang tính phù du, ngắn ngủi, luôn luôn biến đổi không ngừng trong vũ trụ: đây là cuộc sống.

Nói riêng, không có sự chết trong quá trình này. Đời sống trên trái đất chỉ là một nhịp nhỏ bé nằm trong sự biến đổi của vô hạn. “Đó chỉ là sự tồn tại phù du, một khoảnh khắc, nằm trong tỷ lệ cực kỳ nhỏ bé của vũ trụ bao la; nó chỉ ngắn ngủi như một khoảnh khắc của 10 -13 hoặc 10 -27 giây đồng hồ mà thôi. Đó là một điểm nhỏ bé đến nỗi không thể tưởng tượng được - một điểm không có kích thước, không trọng lượng và không có số lượng. Thật khó có ai có thể hiểu được rằng khoảng sâu vô tận lại chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc như vậy!”.

Theo cơ lý thuyết (giải thích về nguồn gốc sự sống), thì khoa học phương Tây khảo sát một thời điểm vô cùng nhỏ, nhưng họ lại không thấy hết được sự sâu kín ẩn náu trong nó. Đây chính là sự sai lầm mắc phải ngay từ điểm xuất phát. Việc xem xét C.G.S (Centimeter, Gram, Second/giây) - một công thức tương đối - một thông số đo đếm tuyệt đối, thông dụng để tham khảo, để giả định đó là sự thống nhất tối thiểu về thời gian và không gian là một sai lầm nghiêm trọng. Đó chỉ là sự thống nhất tưởng tưởng, một sản phẩm của thế giới tương đối và vì thế nó trở nên vô dụng trong phạm vi vô hạn và tuyệt đối.

Nguồn gốc của nhược điểm này đã có cách đây trên hai ngàn năm, cho đến tận thời Hy lạp. Nó tồn tại mãi trong tác phẩm của Descarte, nhà toán học và triết học người Pháp ; ông chia thế giới thành “hữu hình” và “vô hình”, hay thế giới vật chất và thế giới siêu hình. Thực không may, ông bỏ quên mất vô hình mà chỉ đi vào khảo sát hữu hình thôi.

Việc nghiên cứu thế giới hữu hình đã được tiến hành từ rất lâu, ngày nay chúng ta cần phải trở về từ điểm xuất phát gốc và bắt đầu việc nghiên cứu mới về siêu hình học. W. Heitler, nhà vật lý đã từng được trao giải thưởng; ông đã khẩn thiết nêu vấn đề này trong tác phẩm Con người và khoa học (Man and Science). Tiếp theo đó sẽ nỗ lực để thống nhất cả hai - vật lý và siêu hình học - đây là một nỗ lực mà cũng phải mất hàng ngàn năm mới có thể làm được. Tuy nhiên, nếu có thể đưa Nguyên tắc độc nhất vào nền văn minh Châu Âu, vào khoa học, kỹ thuật ngay từ bây giờ, thì thời gian có thể rút ngắn lại. Dường như không có con đường nào khác, ngắn hơn thế.
Hãy tưởng tượng rằng, cuộc đời là một bài tập viết - một bài thơ, tiểu thuyết hay là một luận án. Dấu chấm phân tách các phần, và nhấn mạnh các điểm mà từ đây mở ra các chương mới của câu chuyện, có liên quan đến những điều có từ trước đó. Chính vì thế mà dấu ngắt quãng (chấm câu) là niềm vui thích đối với cá nhân muốn biết quan điểm và kết thúc của bài viết (của câu chuyện) ra sao - nó tạo ra cái khung cho sự phát triển. Những ai phụ thuộc vào từng từ, từng lời văn thì bám chặt vào mức độ đã chứng kiến; tuy nhiên dấu chấm xuất hiện, tạo rạ sự ngưng nghỉ hoặc chấm dứt hẳn hoạt động của điều gì đang viết.

Tác giả thường biết rõ chỗ kết thúc, ngay từ khi bắt đầu. Những độc giả thông thái phải dự đoán được sự kết thúc và đối với họ thì dấu chấm câu là chỗ thư dãn, chỗ tạm nghỉ đầy hứng thú.

Để so sánh với sự việc khác tương tự - ta hãy xem đời sống là một câu chuyện dài như tiểu thuyết Cuốn theo chiều gió (Gone With The Wind).

Những lời văn, những câu, cứ lặp đi lặp lại một cách tự nhiên. Một dấu chấm xuống dòng, những khoảng trống và khoảng trống ở cuối mỗi câu, mỗi chương - trông chẳng khác gì việc hạ màn trên sân khấu nhà hát, hoặc giờ nghỉ giải lao giữa buổi diễn để chuẩn bị cho một cảnh mới trong câu chuyện.

Nếu không có chỗ dừng, giờ tạm nghỉ giữa buổi diễn hoặc khoảng trống, thì các sự kiện trong câu chuyện chẳng khác gì như keo dính, giống như một khối chất kết dính. Nếu chúng ta định làm một hỗn hợp, gồm hàng trăm, hàng ngàn từ như vậy và nếu người ta viết Cuốn theo chiều gió không hề có một dấu chấm câu hoặc khoảng trống giữa các từ, ngữ thì kết quả sẽ chỉ có thể là một mớ lộn xộn, hỗn tạp, vô nghĩa.

Cũng cách so sánh tương tự, nếu chúng ta in các nốt nhạc trong bản Giao hưởng số 9 của Beethoven, không chừa một khoảng trống (không có dấu ngưng nghỉ); hoặc nếu cùng một lúc, cho phát âm thanh của các nốt nhạc trong bản nhạc này, thì kết quả chẳng khác gì một thứ tiếng ồn lớn mà thôi.

Một thí dụ nữa - nếu chỉ trong một giây đồng hồ, chúng ta chiếu toàn bộ các hình ảnh trong một cuốn phim lên màn ảnh, với tốc độ cao, thì cuộc đời phiêu lưu đầy mạo hiểm của Laurence of Arabia, trông chẳng khác gì một bức tranh trừu tượng điên loạn.

Nếu như toàn bộ nguyên tử của người mình yêu được đem ép chặt lại, không chừa một khoảng trống nào giữa các hạt nhân và điện tử, thì kết quả chỉ còn là một vật to bằng đầu mũi kim, cân nặng 40-45 Kg; và như thế thì đâu còn khuôn mặt, đôi mắt đáng yêu nữa?

Toàn bộ các hoạt động có ở một người đàn ông khi yêu, ghét, khóc, giết người, chính là nhờ có khoảng trống và những ảo tưởng nằm bên trong.

ở phương Đông, đời sống và các hiện tượng liên quan đến đời sống chỉ là một thế giới ảo - tuy đẹp nhưng giống như chiếc bong bóng, mang tính phù du (ngắn ngủi, tạm thời); như đám sương mù màu hồng, đang bốc hơi dưới sức nóng mặt trời; là một thế giới mỏng manh, trôi nổi đáng thương. Người ta yêu quý cuộc sống và khát khao nó là vì người ta khát khao những kho báu - những thứ chỉ có trong giấc mơ mà thôi.

Sau thời kỳ trì trệ chừng vài ngàn năm, cuối cùng thì người phương Đông đã khám phá được rằng vật chất là “khoảng không gian chứa đựng những điều hết sức khác thường, mang tính toán học” (trích trong “Matter, (Lapp) Life Science Library”). Nhưng trong những năm nghiên cứu về vật chất, người ta xem đây như là điểm cuối cùng của mọi vật, và chính điều này đã để lại cho người phương Đông điều bất lợi. Với họ, vật chất đã từ lâu là của cải và là kho báu quý giá nhất của mình - để rồi cuối cùng, mặc dù họ phát hiện ra sự thực vĩ đại mà giáo sư Lapp đã bàn tới - thì ý nghĩa đầy đủ của nó (vật chất) đã né tránh họ. Hơn thế nữa, điều này đã làm họ bị đảo lộn, bối rối một cách nghiêm trọng... với lý do hợp lý.

Nếu thế giới của chúng ta quả là điều bí ẩn, không thể nhận thức được, thực sự là một nơi chứa đựng “những điều đặc biệt mang tính toán học”; Vậy cái mà người phương Tây đã mặc nhiên công nhận - bản chất của vật chất - thì thuật ngữ của người phương Đông gọi là ảo ảnh, bong bóng, là điều ngớ ngẩn đầy vô lý. Chiến tranh, sự phản bội, làm điều xấu, sát nhân và “tất cả cái gì của bản thân khoa học” đều là những cái hết sức vô lý. Điều này phản ảnh một cách chắc chắn sự đảo lộn trong tư tưởng. Điều không thể có thực.

Người phương Tây dường như đang đợi chờ sự cứu vớt của phép thần diệu, khi con tàu của họ bị mắc kẹt trong băng giá giữa đêm đen. “Nền văn minh khoa học” và những hành khách trên con tàu bị mắc cạn đang tuyệt vọng tìm kiếm con đường cũ với niềm hy vọng, lòng trung thành, lòng nhân ái và sự mê tín - những cái chỉ có thể đưa họ trở về một chốn: với nhận thức rằng thế giới vật chất chỉ là hư ảo.

Khi người Hy Lạp, Democritus phân chia vũ trụ thành hai phần - nguyên tử và khoảng không - ông đã tạo ra động lực mạnh mẽ cho thuyết Nhị nguyên. Khi ông say mê nghiên cứu nguyên tử, thì bỏ quên mất việc nghiên cứu không gian và khoa học ra đời.

Khoa học phương Tây, vật lý, khoa học tự nhiên (trước đây gọi là triết học tự nhiên) đã sản sinh ra nền văn minh khoa học. Nó phát triển trải qua thời kỳ dài 2500 năm, từ Bán Nhị nguyên của Democritus, tương tự như Nhị nguyên của phương Tây - vờ chấp nhận nó như là một điều có thực (monism).
Nền văn minh khoa học giống như đứa trẻ sơ sinh, bị dị dạng vì thuốc giảm đau (thalidomide); như đứa trẻ hoang thai, được sinh ra từ mê tín dị đoan. Nó là con đẻ của sự sai lầm do quá tin vào điều mà ta cho rằng cần phải nắm bắt và giải thích về cuộc sống, về không gian và vũ trụ bao la - kết quả của nhận thức sai lầm về vật chất - về thực chất, đây là một dạng trong ngõ cụt của thuyết Nhị nguyên.

Điều thật lạ lùng là ở phương Tây đã có những con mắt chỉ có thể nhìn thấy vật chất - con mắt thiển cận, mà qua nó “thế giới hữu hình không thể tồn tại”. Những con mắt chấp nhận sự mù loà về tinh thần như những con mắt bình thường - những con mắt không nhận thấy sự mù loà của bản thân nó trong thế giới siêu hình.
Thậm chí, mặc dù khoa học phương Tây (về bản chất chỉ là vật lý) đã được phương Đông chấp nhận ở vào thời điểm được xem là cùng trình độ và cùng chất lượng (nếu không phải là có sự ưu việt) như các nhà hiền triết phương Đông đã giảng dạy môn siêu hình trong hàng thiên niên kỷ. Tuy nhiên, cũng có những nhà tư tuởng phương Đông lại chỉ có những con mắt về thế giới siêu hình thôi.

Ghi chú:
Trên cơ sở hiểu biết về Âm-Dương, bạn hãy trả lời những câu hỏi sau đây của Giáo sư Ohsawa:
1. Tại sao những nhận xét về con sóc (thí dụ nêu trong sách) là đúng?
2. Quy luật chung chi phối kích thước của đầu người là gì?


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 14th September 2025 - 12:39 AM