IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Mắt của kẻ ác = Tam bạch đản, Thuật dưỡng sinh và đời người qua tướng mắt
Diệu Minh
bài Apr 23 2007, 08:43 AM
Bài viết #1


Bạn của mọi người
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 17,608
Gia nhập vào: 13-February 07
Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I
Thành viên thứ.: 5



Tiên sinh Ohsawa mỗi khi gặp người lạ thường làm 3 điều:

1. Bấm mạnh vào làn da tay giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ
2. Nhìn đôi tai
3. Quán sát đôi mắt người này
Nếu nghe tiên sinh phán "Sapaku" tất là cuộc đời người này không mấy yên ổn và có lẽ trong những ngày, tháng, năm tới đây sẽ gặp rất nhiều khó khăn bi thảm, vì những cơ năng tâm linh gần như mất dây liên lạc mật thiết với thế xác và toàn thể cơ cấu của người này đã mất quân bình.
Nhưng:
Tất cả chúng ta đều là tam bạch đản, ít hoặc nhiều.
Làm sao bây giờ ?



Sau đây là quyển sách quí đó:


--------------------
________Ngọc Trâm_________
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
leos73
bài Oct 12 2013, 07:56 AM
Bài viết #2


Advanced Member
***

Nhóm: Members
Bài viết: 229
Gia nhập vào: 22-August 10
Từ: thanh hóa
Thành viên thứ.: 24,947



G.OHSAWA













THUẬT DƯỠNG SINH

ĐỜI NGƯỜI QUA TƯỚNG MẮT






















NGŨ MINH













THUẬT DƯỠNG SINH
& ĐỜI NGƯỜI QUA TƯỚNG MẮT


Nguyên tác
G.Ohsawa (sakurazawa nyoiti)

TÔN THẤT HANH VÀ NGUYỄN ĐÌNH CUNG
NGŨ MINH XUẤT BẢN LẦN 1























MỤC LỤC
Lời giới thiệu của Dịch giả
Lời mở đầu
Thánh lễ
Đức tin và Y khoa
Sự Trị liệu
Sự liên quan giữa thức ăn và phái nam nữ
Cầu nguyện và nhịn đói
Thuốc dùng ngoài
Thuốc uống
Phép mầu nhiệm
Muối
Đường
Sữa
Chất lỏng
Nhai kỹ
Thức ăn chính
Thức ăn tinh thần
Các thức uống khác
Tính đồng nhất của vũ trụ
Bảng thức ăn dưỡng sinh hàng ngày phân loại theo âm và dương






















LỜI GIỚI THIỆU CỦA DỊCH GIẢ
Sanpaku, Tam bạch đản, Ba tròng trắng. Có mấy ai ngờ rằng danh từ lạ tai này lại dính líu đến nhiều cái chết- bất đắc kỳ tử - của nhiều danh nhân cầm vận mệnh xứ mình, những cái chết làm đảo điên thế giới.
“Hỡi những người bị chứng Tam bạch đản, hãy chữa chạy cho hết tình trạng này trước đã, rồi hẳn làm gì thì làm”. Đó là lời nhắn nhủ của Tiên sinh Ohsawa , được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như những hồi chuông báo nguy....
Khi được giới thiệu một người lạ, Tiên sinh thường làm ba điều:
1. Bấm mạnh vào làn da tay giữa ngón tay cái và ngón trỏ.
2. Nhìn đôi tai.
3. Quan sát đôi mắt người này.
Nếu nghe Tiên sinh phán: “Sanpaku” tất là cuộc đời người này không mấy yên ổn và có lẽ trong những ngày, tháng, năm tới đây, sẽ gặp rất nhiều khó khăn bi thảm, vì những cơ năng tâm linh gần như mất dây liên lạc mật thiết với thể xác và toàn thể cơ cấu của người này đã mất quân bình.
“Hãy chạy chữa cho hết tình trạng này rồi hãy làm gì thì làm...”.
Chúng tôi dịch thuật cuốn sách này với mục đích giúp những ai muốn tìm hiểu thêm về bí quyết cuộc sống, sống thế nào cho “thuận thiên”. “Thuận thiên” hầu “giã tồn” đã đành nhưng thuận thiên cố nhất là để đạt được hạnh phúc, sống với một cuộc sống vui tươi và tự do, đúng với nghĩa danh từ này.
Đây là công trình thứ nhì của chúng tôi, một món quà nhỏ dành cho các bạn Dưỡng sinh và cho đời, để đền đáp một phần nào công ơn dạy dỗ của Tiên sinh qua các sách báo của Người và để làm tròn một phần nào nhiệm vụ truyền bá Nguyên lý Duy nhất mà Người đã giao phó khi Người rời khỏi Việt Nam cuối tháng năm 1965 sau mười ngày diễn thuyết tại Sài Gòn và Huế.
Cũng như cuốn đầu - Dưỡng Sinh trong đời sống hàng ngày - việc dịch thuật làm sao khỏi khiếm khuyết, nhất là nguyên tác do một người Mỹ viết (trong phần lời mở đầu) và dịch sách của Người, vì lối tư tưởng và hành văn của người Mỹ khác hẳn cách diễn tả của người Đông phương nên có khi rất khó mà lột hết ý tưởng của họ.
Vì thế chúng tôi cũng mong các bậc cao minh chỉ giáo cho và vạch ra những chỗ sai lầm hầu chỉnh đốn lại trong kỳ xuất bản thứ nhì.

Dịch giả cẩn chí

LỜI MỞ ĐẦU
Tại sao lại lúc đó? Tại sao lại chỗ đó. Tại sao ông ta đã chết như vậy. Tại sao? Tại sao? Chúng tôi tự hỏi... Bầu trời im lặng.
W.H.AUDEN

Cái chết của Tổng thống Kennedy đã đảo lộn cuộc sống của nhiều người và làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực, trong số đó có cuốn sách này. Và thật là lạ lùng, chính những thắc mắc triền miên mà Auden nêu ra ở trên, đã khiến chúng ta trong gần suốt tháng 11(1) ngày nọ qua ngày kia phải thường trực bên khung máy truyền hình, hoặc miệt mài với những trang báo dày đặc những dòng chữ hầu như bất tận.
Thời bấy giờ, trong tờ NewYork Herald Tribune số ra ngày Chúa nhật 15-1-1964, một bài báo dưới ngòi bút của Tom Wolle đã tiết lộ thêm một cách gián tiếp những điều ngoài bản công bố chính thức của chính quyền về tấm thảm kịch ấy với tiêu đề “TAM BẠCH ĐẢN TẠI ĐẠI LỘ SỐ 2”. Thật không có gì để ta liên tưởng đến vụ thảm sát Dallas cả. Nhưng ngay câu đầu cảu bài báo đã làm ta phải chú ý:
“Cả 3 người có loại mắt “Tam Bạch Đản:” Abdul Kasse, Tổng thống Ngô Đình Diệm, Tổng thống Kennedy, tất cả đều bị thảm sát, tất cả đều bị huỷ diệt vì ảnh hưởng của chứng tam bạch đản. Đừng xem đó là một sự trùng hợp, mà là một điều rất quan trọng, một hồi chuông báo nguy cho nhân loại và toàn thể các quốc gia trên thế giới. Đấy là nhận định của giới dưỡng sinh, và người lãnh đạo giới này, ông Georges Ohsawa, nhà tiên tri người Nhật Bản và cũng là người chủ xướng thuyết NGUYÊN LÝ DUY NHẤT, đã chứng minh được điều đó.
Vốn là một ký giả thuộc loại cấp tiến và hiểu biết thế nào và đến đâu là giới hạn của nghề nghiệp, nên bằng con mắt nhà nghề tôi đã đọc qua nhiều đoạn rời rạc, không liên tục đó.
Bài báo với với những lời văn như bán tín bán nghi nói về một nhóm người có vẻ lập dị, chuyên ăn gạo lứt, ăn cá và mè (vừng) ở đầu đại lộ số 2, nêu

1 Năm 1963, Cựu Tổng thống Kennedy bị ám sát ngày 23-11-1963
lên sự liên quan quan giữa nhóm này với một nhóm người khác tại Nữu ước vào năm 1961 đã di cư từ Long Island tới Chico và Californie để tránh bom nguyên tử.
Còn những người bị chứng tam bạch đản số phận của họ sẽ như thế nào? Và nhà tiên tri Nhật Bản phi thường kia là ai? Cuối bài báo, trong một trang khác, người ta cắt nghĩa chữ Sanpaku như sau: “Không chỉ cơ thể bị bệnh hoạn, mà cả tinh thần lẫn tâm lý cũng bị nguy kịch nữa - Ở người bị chứng tam bạch đản, toàn bộ cơ cấu đều mất sự quân bình để đưa đến cho họ tai nạn hoặc cái chết thảm khốc... cái vùng trắng lộ ra ngay bên dưới con ngươi trong mắt họ là biểu hiện cho trạng thái gọi là chứng tam bạch đản”.
Câu chuyện kỳ lạ ấy tiếp tục như sau: “Tháng tám vừa rồi trong một căn phòng tại khách sạn Wentworth, trước bàn ăn điểm tâm - trên mặt bàn bày một số hình ảnh các nhân vật tên tuổi trên thế giới; Marilyn Monroe, Brigitte Bardot, Karim Kassem, Tổng thống Diệm, và tổng thống Kennedy - ông Georges Ohsawa nói với một phóng viên: “Tổng thống Kennedy một ngày gần đây sẽ gặp nhiều khó khăn lớn lao”. Và riêng với các môn đồ, ông cho biết là “Tổng thống Kennedy sẽ chết một cách bi thảm”.
Nói với một phóng viên? Và phóng viên kia là ai? Lời tiên tri đáng ghi nhớ về sự ám sát ba vị nguyên thủ ấy có được đăng trên báo nào không? Các vị bác sĩ riêng của ông nghĩ như thế nào? Và Sở Mật vụ nữa?
Có điều rõ ràng là câu chuyện ấy đã nêu lên nhiều câu hỏi hơn là để trả lời.
Kết luận, bài ấy trích những lời trong một bức thư của nhà tiên tri Nhật Bản báo trước cái chết của Gandhi, của Hiler, sự cáo chung của nền thống trị Anh Quốc tại Ấn Độ. Cũng vì bức thư này mà ông suýt bị mất mạng vì dám tiên đoán sự bại trận thê thảm của chính quốc gia mình là Nhật Bản trong Đệ nhị thế chiến.
“Hàng ngàn người Mỹ đã đọc lời tiên đoán của tôi về cái chết thảm khốc của Tổng thống Kennedy, thế mà không một ai đến tiếp xúc với tôi để tìm cách biến cải số mệnh cho ông ta.
Động lực thúc đẩy tôi báo trước sự sụp đổ bi thảm của các quốc gia, các xã hội và mỗi cá nhân là chủ ý cảnh cáo tất cả hãy kịp thời tìm cách biến đổi vận mệnh của mình .... Nhưng than ôi! thật hiếm thấy ai đến hỏi tôi phải làm sao cả!
Vì đâu mà trí phán đoán của họ thấp kém đến thế? Từ lâu người Đông phương đã biết rõ ý nghĩa tình trạng tam bạch đản, nhưng người ta lại quên mất tại sao lại có tình trạng ấy... Tất cả mọi người chúng ta không nhiều thì ít, đều bị chứng tam bạch đản ... phải tự chữa cho lành bệnh đã, rồi hãy mưu tính bất cứ chuyện gì”.
Tôi cất kính đeo mắt, bước vào phòng tắm và nhìn thật kỹ mình trong gương soi mặt. Ông ta nói đúng: tôi thấy mắt tôi cùng một trường hợp như các ông Gandli, Hitler, Kassem, Diệm, Kennedy...
Đôi mắt tôi trông như hai quả trứng đổ ốp la. Tam bạch đản, đích thị rồi. Tam bạch đản hạng nặng nữa chứ! Tôi cắt bài báo của tờ Herald Tribune nhét vào túi. Thế rồi những ngày sau đó, cứ mỗi khi gặp bàn bè hoặc bất cứ người nào khác tôi không thể không nhìn vào mắt họ. Mọi bức hình in trên báo chí cũng được tôi quan sát kỹ lưỡng.
Thật là khủng khiếp! Gần như tất cả mọi người đều bị chứng tam bạch đản! Tôi bắt đầu tự hỏi liệu những người kia, những độc giả khác của tờ Herald Tribune, cũng như tôi, có để ý đến màu trắng của đôi mắt tôi không.Và từ đó tôi đeo kính râm. Một buổi chiều tôi tình cờ gặp cô Carmen de Lavallade, một nữ vũ công tên tuổi nhất của nước Mỹ . Thường thì các vũ công như các lực sĩ luôn luôn săn sóc thân thể của họ; cơ thể phải vận động nhiều, nên cần được bồi dưỡng thường xuyên. Họ thay đổi cách ăn uống, đến các quán ăn Dưỡng sinh tìm thức bổ dưỡng, nhờ các nhà chuyên môn để sửa lưng và xoa nắn lại các bắp thịt nhức mỏi, cùng mọi cách chữa trị khác. Carmen nhắc đến câu chuyện đăng trên báo Herald Tribune và cho biết dân du mục cũng từng nói đến điều này. Nhưng cô, cô đâu có bị chứng Tam bạch đản. Tôi nhìn vào đôi mắt nhung diễm lệ của nàng mà nói như vậy. Nàng cười trả lời: “Có lẽ là không cưng ơi! Nhưng nếu tôi ở trong tình trạng đó, tôi sẵn lòng thử bất cứ điều gì”. Trước kia có lần Carmen bị trượt chân té ngửa ở cầu thang hậu sân khấu, từ đó lưng nàng không còn bình thường nữa. Nàng đã chạy chữa bằng đủ mọi cách và bây giờ thì cô lại nhanh nhẹn đi trước cả tôi nữa. Nàng vừa gọi điện thoại lại Ohsawa Foundation ở Đại lộ số 2 và hẹn chiều chủ nhật tới sẽ đến học cách nấu nướng. Cô hứa sẽ liên lạc với tôi.
Tôi thấy ý kiến đi học nấu ăn không có gì hấp dẫn lắm. Hồi xưa khi sắp làm cha, tôi đã từ chối không chịu học thay tã lót cùng cách thức bồng ẵm săn sóc sơ sinh và bây giờ thì cũng thế.
Nhưng Carmen đã giữ lời hứa tối chủ nhật, sau khi học ra,nàng gọi điện thoại lại mời tôi đến uống trà. Nàng vừa ở Đại lộ số 2 về mang theo một lô thức ăn Dưỡng sinh: gạo lứt, muối hột, nước tương đậu nành, rong biển Nhật và 2 loại trà. Cả căn phòng của nàng nực mùi hương ngoại lai kỳ lạ đó. Cửa sổ phòng mở rộng đón gío tháng giêng thổi mạnh và chồng nàng là ông Geoffrey Holder đang lăng xăng để làm cho phòng được thoáng khí. Nguyên do chính vì trà dưỡng sinh trước khi pha phải đem sao cho vàng và khử thổ. Mà lửa đầu vì quá tay đã bị cháy khét, nên Carmen phải làm lại, vì thế còn phải đợi lâu thêm nữa mới có trà uống. Ông Georffrey, xưa nay đã quá quen thuộc với sự hăm hở của Carmen mỗi lần đón nhận một phép tiết thực mới, bây giờ ông cũng nhẫn nại đợi chờ nàng chán nản từ bỏ lối sống Dưỡng sinh cùng cách uống trà kỳ quặc này. Nhưng như để tự bênh vực, Carmen đưa tôi xem cuốn sách nhỏ mua tại Đại lộ số 2 nhan đề là “ ZEN DƯỠNG SINH - THUẬT TRƯỜNG THỌ VÀ HOÀN ĐỒNG” của G.Ohsawa chữ ZEN in bằng chữ hoa, còn toàn là chữ nhỏ...
Tôi bắt đầu lật cuốn sách thứ nhì. Tuy viết bằng tiếng Anh căn bản, nhưng cuốn sách lại in ở Nhật, cho nên ngoài khổ sách trông đã kỳ lạ, lại còn rất nhiều lỗi chính tả, nhiều hàng và nhiều chữ sắp sai. Sách Nhật nếu do thợ in người Mỹ sắp chữ chắc còn tệ hơn thế nữa.
Có lẽ điều hơi lạ là tại sao tờ Herald Tribune không hề nói đến vịêc nhà tiên tri Nhật có viết sách. Carmen bằng lòng cho tôi mượn quyển sách nhỏ ấy một đêm Thế rồi cả đêm đó tôi không rời cuốn sách,tôi đọc một lần, rồi lại thêm một lần nữa; trong đời tôi, chưa một cuốn sách nào làm tôi xúc động sâu xa đến thế. Tại sao tôi bị chứng tam bạch đản điều đó rõ ràng như một dòng chữ đen viết trên vách tường trắng. Suốt một đêm dài trực diện với những ý tưởng vô cùng giản dị khúc chiết của con người mang tên Sakurazawa Nyoiti hay Georges Ohsawa đã làm đảo lộn tất cả trong tôi. Ông ta nói rằng: “Phải tự chữa cho lành bệnh đã, rồi hỹ mưu tính bất cứ việc gì”.
Ngày hôm sau tôi đeo kính râm vào đi thẳng đến 217 Đại lộ số 2. Cơ sở Ohsawa (Ohsawa Foundation) chiếm từng lầu nhất của một căn phố xưa nép mình núp bóng cạnh một bệnh viện tối tân đồ sộ. Mặt trước nhà dùng làm quán ăn, đằng sau là bếp. Bây giờ vào khoảng trước giờ cơm chiều, cả bốn cái bàn ăn đều còn trống. Ở một góc phòng một dãy kệ với nhiều sản phẩm trường sinh lạ mắt, góc bên kia là một quầy sách nhỏ. Ngay sau cửa ra vào, và trên tấm bảng dán tin, một vòng dây treo lủng lẳng một xấp phóng ảnh của một bài báo đăng trên tờ Herald Tribune- không phải bài báo nói về chứng tam bạch đản đã khiến tôi đến đây - mà lại là một vấn đề khác cũng do ký giả Tom Wolfe viết ngày 18-8-1963, ba tháng trước xảy ra vụ Dallas! Tiêu đề ấy thật quá rõ ràng và chính xác:
TỪ KENNEDY ĐẾN BARDOT
Quá nhiều chứng Tam bạch đản
Bài báo thuật lại một cuộc phỏng vấn ông Ohsawa, rất dài, tại phòng trọ của ông ở Went - worth. Trên bàn là cuốn sách dán đầy hình của Tổng thống Kennedy , Albert Schweitzer, Willy Brandt, Franz Joseph Strauss, cố võ sĩ hạng nhà nghề Davey Moore, Natalie Wood, bà Barbara Powers, vợ của viên hoa tiêu chiếc U - 2, Brigitte Bardot, Francoise Sagan, hình các phụ nữ in ở bìa các sách báo, đủ hạng và đủ loại người...”.
Ông Ohsawa nói: “Khoảng ba năm về trước, tôi được thấy nhiều bức hình của các ông Nixon và Kennedy. Tuy còn rất trẻ, nhưng ông Kennedy đã bị chứng Tam bạch đản rồi, tôi đã tiên đoán ông ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong những ngày sau đó. Ba năm trước tôi đã nói như vậy rồi”.
Nói đến đây, ông nhướng mắt lên như để hỏi: quý vị thấy rõ chứ. Con mắt tam bạch đản theo nghĩa đen là một con mắt có ba phần tròng trắng. Như vậy mắt của người bị chứng tam bạch có một khoảng tròng trắng dưới con người - tỷ dụ mắtcủa TT Kennedy ông dùng đầu viết chì chỉ thẳng vào khoảng tròng trắng lộ ra phía dưới con ngươi của tổng thống. Như vậy, thêm một lần nữa, những điều không thấy đề cập đến trong bìa báo này, ta phải hiểu ra làm sao?
Không thấy nói gì đến sách của ông Ohsawa viết, cũng không nhắc gì đến Tổng thống Ngô Đình Diệm hoặc ông Abdul Karsim Kassem. Số phận người đầu tiên trong ba người bị thảm sát xem như đã trở thành “Số phận của tất cả chúng ta”.
Lời tiên tri chính xác đầu tiên đó của ông Ohsawa đã bị quên lãng đi phần nào với thời gian.
Thế nhưng nếu trước kia ông Winchell hay Drew Pearson cũng tuyên bố y như vậy, chắc chắn bây giờ họ đã nổi tiếng như cồn rồi. Có nhiều nhà chiêm tinh nói trước được vài sự việc ít quan trọng hơn, bằng những lời lẽ mơ hồ hơn, mà cũng đã được người đời ca tụng hết lời. Sau này, theo lời những người đã dự buổi nói chuyện của ông Ohsawa trong khoảng thời gian tháng tám ấy, tôi được biết thêm lời tiên tri lại càng tỏ ra phi thường hơn nữa. Ông Ohsawa đã từng nói đến sự tương quan giữa một Tổng thống Kenedy bị chứng Tam bạch đản với những ông Diệm, những Kassem nguyên thủ quốc gia mà ông tiên đoán là sẽ bị thảm sát trước ông Kennedy.
Người ta cũng thấy ngoài ra còn có mỗi một vị tổng thống Mỹ nữa là ông Abraham Lincoln, được xếp hạng trong danh sách những người bị chứng tam bạch đản. Một điển hình khác nữa là trường hợp hoàng tử Ferdinand của nước Áo bị ám sát ở Sarajevo. Người giả dạng cho hoàng tử giống hệt ông từ hình dáng, cử chỉ đến y phục, trừ một điểm không giống: hoàng tử bị chứng tam bạch đản mà anh thì không.
Tất cả những điều này thật là kỳ dị, có tính cách mê hoặc, khó giải thích. Làm sao cắt nghĩa mối tương quan giữa sự mất quân bình của thể xác và tinh thần ở cố Tổng thống Kennedy - hay ở ông Diệm hoặc Kassem, với những biến cố xảy ra tại Dallas, Saigon hoặc Irak. Những vết thương có từ Đệ nhị thế chiến đến nay vẫn còn hành hạ Tổng thống Kennedy, và ai cũng biết là ông vẫn phải dùng đến thuốc men thường xuyên để chữa trị. Nhưng với ý do nào đó khiến cho ông trở thành một người bị chứng tam bạch đản, mở đường cho tai nạn, cho thảm cảnh ăn khớp một cách lạ lùng với những sự kiện được phát giác về sau này, trong biến cố Dallas.
Nhà tiên tri đã nói: “Phải tự chữa lành đã, rồi hãy mưu tính bất cứ chuyện gì”.
Tôi lấy một bản phóng ảnh của bài báo rồi với đôi kính râm trên mắt, tôi làm ra vẻ hết sức tự nhiên, lựa mua các thứ sản phẩm dưỡng sinh, cố lãng tránh cái nhìn đầy cảm tình của bà chủ quán tóc hoa râm và khoẻ mạnh. Tôi mua thêm một cuốn sách và bảo là mua dùm cho một người bạn, vụng về như đứa bé10 tuổi lần đầu tiên đến được phòng cạnh nhà mua thuốc. Về nhà, tôi nấu cơm theo cách chỉ dẫn trong sách, tôi cũng sao một ít trà và không quên mở rộng cửa sổ. Nếu trên đời này có một người cần phải theo triệt để ăn tuyền gạo lứt - không thêm một món gì khác trong 10 ngày, người đó chính là tôi.
Điều làm tôi ngạc nhiên trước hết là cơm ăn được lắm. Rồi sau khi nhai mỗi búng 50 lần, tôi bắt đầu thấy thích cơm ấy. Tôi cứ tưởng rồi đây sẽ phải khổ sở khi phải bỏ cà phê, đường, nước ngọt, trái cây, nước trái cây, bánh mứt, thịt thà, khoai tây, cà chua... và bao nhiêu thứ khác nhưng tôi quyết làm thử xem. Tôi tin rằng không thể nào bớt lượng nước uống xuống gần số không vì tôi thường ghiền cà phê, trà và nước ngọt... Nhưng phép dưỡng sinh Ohsawa còn có một điều an ủi là không thấy nói gì đến việc kiêng cử thuốc lá, mặc dầu luận rất dài về bệnh ung thư. Bản tường trình chính thức của Chính phủ Mỹ vừa được công bố đã liên kết bệnh ung thư phổi và bệnh tim với thuốc lá nhưng không hề đề cập - hay rất ít - đến thức ăn và thức uống. Như vậy, trong lúc một số đông bạn bè tôi tập bỏ thuốc lá thì tôi sẽ tập bỏ thói ăn nhậu.
Như những người trên 40 tuổi, tôi không hẳn là bị bệnh nhưng cũng không hẳn là mạnh khoẻ. Suốt thời gian 10 năm làm việc trong ban biên tập của một tờ báo Nữu Ước, tôi đã thấy nhiều bạn bè và đồng nghiệp đồng tuổi hoặc trẻ hơn tôi nữa, đã lăn ra chết như ruồi. Ở Nữu Ước tôi chưa bao giờ đi đưa đám một người bạn trên 50. Ngược lại ở miền quê Michigan, nơi sinh trưởng của tôi, tôi chưa dự đám tang người nào dưới 80 cả. Tất cả bốn ông bà nội ngoại tôi đều sống đến ngoài tám mươi. Cha mẹ tôi đã quá thất tuần mà vẫn còn tráng kiện. Trước kia tôi luôn luôn khoẻ mạnh cho đến lúc tôi nhập ngũ và ở gần 4 năm trong quân đội kỳ Đệ nhị Thế chiến, trong đó có hai năm ở Bắc Phi và Âu Châu. Phần lớn sự hiểu biết của tôi về nền y khoa Mỹ quốc, là qua một số ít thuốc men của quân đội Mỹ. Tôi suýt chết vì sưng phổi tại Anh Quốc, tôi bị bệnh rét rừng ở Phi Châu và sau khi giải ngũ tôi bị bệnh.... (mononuclecosic), bệnh gan và đủ thứ bệnh sốt lặt vặt. Sau khi đọc sách của ông Ohsawa, điều làm cho tôi ngạc nhiên là mặc dầu đã đi nhiều bác sĩ, thế mà không một ông nào tò mò hỏi tôi về những thức ăn uống thường ngày. Dĩ nhiên, trong quân đội đó là một việc phi lý. Thực đơn đã được cấp trên ấn định và người ta cam đoan với các bà mẹ ở nhà rằng thức ăn thức uống của binh sĩ Mỹ ngon nhất hoàn cầu. Nhưng cơ thể tôi lại không thích hợp với thức ăn quân đội. Sau một năm ăn uống như thế tôi bị bệnh trĩ ra huyết khiến tôi quá sức sợ hãi, vì xưa nay tôi cho rằng bệnh ghê gớm ấy là bệnh về già, chứ đâu phải là của lứa tuổi đôi mươi. Hồi còn nhỏ tôi đã có lần bị thương và mẹ tôi nữa, phải vào trị bệnh tại bệnh viện, vì bác sĩ khám nghiệm cho biết là bị ung thư. Sau hai lần giải phẫu mẹ tôi về nhà với thân thể gần như tật nguyền. Còn tôi thì sợ bệnh trĩ trở nên trầm trọng nên đã giải phẫu lần hai. Thật ra bệnh trĩ không thể biến chứng thành ung thư, và khoa giải phẫu cũng không giúp cho bệnh trĩ của tôi thuyên giảm phần nào dầu chỉ trong vài tuần. Tôi thử đủ mọi cách trị liệu được quảng cáo ở các ga xe điện hầm và trên truyền hình, nhưng tất cả đều vô hiệu.
Sau hết tôi bị một chứng bệnh trầm trọng hơn nữa. Từ lâu tôi bị nhức đầu, không ngày nào khỏi uống một vài viên aspirin hay nhiều hơn nữa. Thế rồi một hôm aspirin cũng trở thành vô hiệu. Đau đầu nhức liên miên suốt hằng 10 ngày, đến nỗi tôi chẳng ngủ, chẳng ăn uống, chẳng đi đứng gì được nữa. Vào một ngày chủ nhật, tôi kiệt sức và được cấp tốc chở vào bệnh viện Veteran ở Manhattan. Tôi không thể nào chịu nổi cơn đau đớn. Tại đây họ khám lại toàn diện cơ thể tôi bằng những máy móc y khoa tối tân và kết quả do một bác sĩ trẻ tuổi cho biết là: tôi hoàn toàn khoẻ mạnh, bình thường về mọi phương diện, chưa kể đến một vài cơ cấu lại còn tốt lạ lùng. Điều này còn làm tôi nghi ngờ nên lắp bắp hỏi: “Thế còn bệnh nhức đầu của tôi?”. Bác sĩ bảo rằng nếu không bớt thì tuần tới trở lại. Tôi như kẻ đang chờ nghe tuyên án và quả nhiên tôi không thể chịu đựng đau đớn thêm 24 giờ nữa. Tôi gọi điện thoại ngay cho một thầy thuốc quen chuyên về phá thai và từng nổi tiếng là giỏi. Đặc biệt, không khi nào ông chữa bệnh theo lề lối y khoa truyền thống. Ông mời tôi đến nhà, hỏi thăm rất kỹ về cách khám bệnh của mấy ông bác sĩ kia, đoạn dùng một cây kim dài một cách đáng sợ để bơm vào mũi tôi thứ thuốc gì rất mát.
Sau khi ngủ được một giờ, tôi thấy hơi đỡ. Kiến thức về y khoa của tôi cho biết ông ta đã dùng đến á phiện trắng.
Ông ta ghi trên một mảng giấy cho tôi vài điều phải tuân theo: triệt để cấm hút thuốc, cấm cà phê. Buổi sáng ăn bột lứt kiều mạch với sữa và đường. Trưa thì cơm. Tối cũng cơm với thịt gà. Ông cho biết tôi bị chứng máu chảy chậm (Pestural hypotension), và chỉ cho tôi mấy động tác thể dục phải tập hàng ngày. Tôi về làm y theo lời dặn mặc dù biết rằng nếu bỏ cà phê và thuốc lá, tôi sẽ khó làm việc được, nhưng tôi nhất quyết nghe theo lời ông cho đến một lúc tôi cảm thấy bệnh thuyên giảm được phần nào. Thế rồi tôi tái phạm và hút thuốc trở lại. Nhưng nếu bệnh nhức đầu tái phát, tôi lại nghỉ hút. Có lẽ phép ăn gạo trắng của ông ta làm cho tôi dễ dàng chấp nhận thuyết của ông Ohsawa, theo đó thì không gì quan trọng bằng phép tiết thực. Giữa hai phép ăn uống nói trên chỉ có mỗi một điểm giống nhau: cả hai đều cho ăn gạo. Nhưng trước kia hồi chưa đọc sách Ohsawa, tôi cứ nghĩ rằng gạo là gạo, chẳng có gì khác. Tôi không hề phục vụ ở Thái Bình Dương và chưa từng thấy một đám ruộng cho nên không ý thức được hột lứt như thế nào. Tôi biết sự khác biệt giữa bánh mì đen bánh mì trắng, Nhưng tôi không nghĩ là có nhiều loại gạo, tôi chỉ biết gạo qua các món ăn trong tiệm ăn người Tàu, mặt khác cây lúa mọc hoang ở Minnesota cho một thứ gạo mà đúng ra chẳng phải là gạo. Hai ngày liền tôi ăn gạo lứt, rồi một việc mà tôi không ngờ đã xảy đến cho tôi. Một buổi sáng, giữa lúc đang làm việc, bỗng nhiên tôi buồn nôn và đầu nhức như búa bổ. Vượt xa cả cơn đau khiến tôi phải vào bệnh viện trước kia. Trong cả đời tôi chưa bao giờ bị như thế. Tôi đã tự nguyện dầu thế nào cũng quyết tâm theo đuổi phương pháp đến cùng, tôi cố gắng, nhưng thật quá sức chịu đựng của tôi. Tình trạng này có thể làm cho tôi thối chí bỏ cuộc. Sau này tôi mới được biết rằng nhiều người mới theo cũng như tôi, đã lâm vào tình trạng bất ngờ nói trên, họ đâm ra sợ hãi, quy hết mọi trách nhiệm cho cái món gạo lứt kia rồi trở lại uống aspirine, ăn thịt bít tết, ăn kem...
Nhưng linh tính đã khiến tôi liên tưởng trường hợp tôi đang chịu đựng với người cai ma tuý. Ma tuý cũng chỉ là một thứ hoá phẩm. Tôi đã bỏ hết các thứ như aspirine, cà phê, gờ-lu-ta-mát-so-di-um, những thứ thuốc tên dài lê thê được in rõ ràng trên hộp đựng bày bán khắp nơi.
Mãi về sau, tôi mới hiểu rằng, phản ứng càng dữ dội bao nhiêu trong vài ba ngày đầu, tức là bệnh càng nặng bấy nhiêu.Tôi trải qua một ngày khủng khiếp, nhưng đêm đó tôi ngủ thật ngon giấc và sáng hôm sau, tôi phát giác được một điều lạ. Tôi cảm thấy khoẻ khắn vô cùng, còn cơm gạo lứt thì mùi vị thơm ngon lạ đời. Đến khoảng ngày thứ năm, lần đầu tiên tôi cảm thấy người tôi đã thay đổi rõ ràng. Thay đổi về tinh thần, chứ không phải về thể xác. Hôm ấy có một buổi họp để đúc kết tình hình trong hãng - khi buổi họp chấm dứt, tôi kinh ngạc mà nhận thấy rằng tôi đã điều khiển buổi họp một cách xuất sắc lạ thường.
Thường thì sau những buổi họp như vậy áo tôi ướt đẫm mồ hôi vì phải để hết tâm lực phân tách những ưu khuyết điểm, và lần nào cũng thế, mỗi lần họp về, tôi vẫn thấy còn nhiều thiếu sót, chưa được giải quyết thoả đáng.
Lần này thì khác hẳn. Trên bàn hội nghị, tôi hiền hoà, điềm tĩnh, sáng suốt, chính xác, và nhặm lẹ giải quyết được cả những vấn đề lòng dòng từ hai năm nay. Khi đứng dậy, tôi vẫn chưa hiểu được tại sao tôi lại có thể như thế. Điều ấy chỉ có thể giải thích như sau: sự khác bịêt lớn lao ấy là kết quả của năm ngày ăn cơm gạo lứt!.
Những ngày sau đó, tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: bệnh chảy máu ruột - bàn chải đánh răng dính đầy máu - bệnh ung mủ ở chân răng - tất cả những điều ấy, bây giờ thì chấm dứt! tay và da tay tôi cũng thay đổi khác hẳn. Từ 10 ngày nay tôi ngưng uống aspirine, mồ hôi cũng không ra nữa. Tôi không còn khó chịu vì những luồng gió lạnh vào tiết tháng Giêng và tháng Hai. Tôi cảm thấy làn da tôi đổi khác mỗi lúc tôi rửa tay. Buổi sáng tôi thức giấc sớm hơn đến 3,4 giờ đồng hồ. Cơ thể tôi dồi dào sinh lực và tôi ngạc nhiên khi thấy mỗi đêm không phải đến 8 giờ mà chỉ cần từ 4 đến 6 giờ nghỉ ngơi là đủ. Áo sơ mi tôi bây giờ rộng ra. Thế rồi một buổi sáng kia, khi cạo râu tôi ngạc nhiên nhận thấy xương hàm tôi hiện rõ mà không còn bị che dấu dưới lớp thịt mỡ. Lưng quần bây giờ cũng rộng ra, như có lần đã xảy ra. Có một điều khó tin mà tôi khám phá ra là chân phồng lên vì đôi giày đã trở nên quá rộng. Hai tuần sau tôi từ 193 sụt xuống còn 173 cân anh. Tôi cao 1th80 vòng eo lối 99 phân nên tự cho là không mập lắm. Trước kia cũng có lần tôi bị sụt cân nhưng chưa khi nào dễ dàng và tự nhiên như bây giờ. Rồi lần lượt các chuyện buồn cười xảy đến. Đã mấy tháng nay tôi không về nhà, nên khi tôi về thăm gia đình, mọi người sửng sốt bàn tán về sự thay đổi của tôi.
Cũng vì vậy, ở các buổi họp của Hãng - thường bao giờ cũng vào giờ cơm trưa - chúng tôi đáng lẽ nói đến công việc thì cũng vì tôi mọi người lại xoay quanh qua bàn luận về chuyện Dưỡng sinh, và đề tài này được đem ra thảo luận vô cùng sôi nổi.
Trong những tiệm ăn ở Nữu ước sang trọng cũng như bình dân, thực đơn ít khi có món gì tôi ăn được. Vì vậy tôi ăn rất ít hoặc không ăn gì cả. Điều này khó mà giải thích cho đầy đủ trong mấy mươi phút nói chuyện. Tôi bắt đầu tự hào cho mình là một Ohsawa thứ hai. Sự thật tôi đã hoàn toàn thay đổi tất cả. Bây giờ, bất chợt tôi mới hiểu được thế nào là sức khoẻ.
Tôi cảm được người tôi tràn ứ sinh lực, tôi hăng hái, tôi điềm tĩnh, tôi sáng suốt lạ lùng, những điều này rất mới mẻ đối với tôi. Một công chuyện của hãng xưa kia phải cả tháng chưa chắc đã xong, bây giờ tôi giải quyết chỉ trong 10 ngày.
Tôi có thể làm việc liên tiếp suốt 24 tiếng, nghỉ ngơi vài giờ rồi lại tiếp tục. Riêng về năng lực và sự dẻo dai, tôi có thể nói là vượt cả bạn thanh niên chỉ bằng một phần hai tuổi tôi, tôi “thưởng thức được” sự mệt mỏi. Lúc bây giờ đang mùa bệnh cúm, bệnh sưng cuống họng và nhiều thứ bệnh khác, nhưng hình như tôi đã được miễn dịch. Cho đến tóc tôi đã bắt đầu rụng và bạc lần ở hai bên thái dương thì bây giờ lại không còn rụng nữa và bắt đầu đen trở lại.
Khi tôi trở lại Ohsawa Foundation lần thứ nhì ở Đại lộ thứ II thì vẫn người đàn bà tóc muối tiêu ấy tiếp tôi. Bà soạn cho tôi các thứ cần dùng, rồi bỗng nhiên bà nhìn kỹ tôi, khẽ kêu lên: “Nãy giờ không nhận ra ông, nhưng bây giờ thì tôi nhớ ra rồi!”. Tôi cất đôi kính râm, rồi chúng tôi cùng ngồi uống trà và trò chuyện với nhau. Sau đó bà nhìn tôi thật kỹ, và tỏ ý muốn tôi điền vào một phiếu lý lịch để lưu vào hồ sơ. Tôi có cảm tưởng mình là một sinh viên mới được nhận vào Đại học Harvard. Bà ấy là Irma Paule, quản lý cơ sở Nữu ước. Khi nghe kể lại trường hợp của chính bà, thì trường hợp của tôi thật chẳng thấm vào đâu. Bây giờ thì tôi đã hiểu vì đâu ở bà tiềm tàng nguồn năng lực ấy, sự điềm tĩnh ấm lòng ấy, sự nhẫn nại ấy với đủ mọi thứ bận rộn, công việc hằng ngày, bên chiếc điện thoại không ngớt tiếng chuông reo, một thứ hạnh phúc dễ truyền lẫn sang người khác, Irma xem tay tôi bảo rằng song thân tôi đã dùng quá nhiều thịt hàng ngày, bà nói đến một vài điều khác nữa. Tôi nhận thấy là bà ta nói đúng. Bà tế nhị không đả động gì đến cặp mắt tôi. Tôi vẫn còn bị chứng tam bạch đản và tình trạng ấy sẽ còn kéo dài nữa. Bà khuyên tôi nên đổi cách ăn uống đôi chút để thích nghi với tình trạng suy kém hiện tại; bà còn cho tôi nhiều ý kiến hữu ích về việc ẩm thực khi di chuyển (chẳng hạn kiếm một tiệm ăn Ý Đại Lợi gọi món Spaghetti ăn với tôm và nước xốt) hoặc khi bị kẹt trong các buổi tiệc tùng chỉ cần một ly rượu Scotch nguyên chất hớp từng hớp nhỏ suốt buổi). Từ đó, chúng tôi trở nên đôi bạn thân.
Sau ba tháng, tôi mới thật sự sống cuộc đời hình giả và sứ giả một tín đồ Ohsawa. Khi số cân tôi còn khoảng 75 ký, tôi phải may lại áo quần khác. Áo sơ mi từ số 16 nay xuống số 15, vòng lưng từ 34 còn lại 29. Áo tôi mặc số 42 lúc vào, thì lúc ra khỏi tiệm y phục chỉ còn số 38. Tủ áo tạm thời của tôi chứng tỏ sự thay đổi về thể xác của tôi.
Khi xuân về là mùa tiết thực. Nhiều người bạn nam nữ quá mập cứ đeo theo dôi hỏi bí quyết sụt cân khiến tôi phát khùng. Tôi chán ngấy vì cứ phải giải thích rằng tôi đang theo một phép tiết thực để được mạnh khoẻ, sự sụt cân chỉ là vịêc phụ. Tôi nhẫn nại chỉ dẫn cho họ: đến số 317 Đại lộ thứ II mua cuốn sách của Ohsawa tiên sinh rồi tự chữa lấy.
Nhưng người đầu tiên thật sự theo tôi làm môn đồ lại không sinh sống ở Nữu Ước. Một hôm tại phi trường Kennedy tôi gặp một người quen cũ, cô Sheile, một nữ nghệ sĩ người Anh ghé lại đây trên đường từ Nam Mỹ đi Luân đôn. Cô ngạc nhiên thấy tôi sụt mất 25 ký. Liên tiếp mấy tuần lễ ở xứ nóng miền nhiệt đới, sự ăn uống quá độ đã làm cô mập phì ra khiến phân nửa số áo mang theo không còn dùng được vì quá chật. Thế mà cô lại sắp phải trở về Luân đôn và trình diễn ở đó. Cô muốn được biết phép tiết thực thần diệu của tôi. Tôi không có thì giờ giảng giải gì hết, ngoài việc chỉ nói sơ qua về gạo lứt bởi vì tôi cũng không biết tại Luân đôn có cơ sở Ohsawa nào không nữa. Sau này, tôi biết là có. Tôi liền gửi thơ với đầy đủ chi tiết cho cô. Khoảng ba tuần lễ sau đó tôi nhận được một lá thư đối với tôi thật là quý báu. Sheila thụât lại cô đã mua cuốn sách nhỏ và thực hành ngay phép dưỡng sinh của ông Ohsawa, cô đã mặc lại được các thứ áo đắt tiền trước kia. Sau đó cô lại ngạc nhiên thấy rằng ngoài sự việc trên cô hưởng được thêm mấy điều lợi bất ngờ nữa: Cơ thể cô thay đổi toàn diện. Cô kê ra một danh sách dài các chứng bệnh đột nhiên biến mất như do một phép lạ nào. Hai năm trước đây, cô đã trải qua nhiều cuộc giải phẫu và phải thường xuyên dùng rất nhiều loại thuốc. Bây giờ thì thuốc men bỏ hết và chưa đến hai tháng cô đã sụt được gần 10 kí. Hình của cô do các tạp chí phụ nữ đăng tải để so sánh trước và sau khi cô áp dụng phép dưỡng sinh; đã được tiếng vang lớn trong giới phụ nữ. Tôi có cảm tưởng tôi là một bác sĩ Kidare vậy.
Thế rồi tình cờ tôi được thêm một bài học vô cùng quý giá. Từ nhiều tháng nay tôi đang có rắc rối vì một vụ tranh tụng với vợ tôi. Trong hai tháng tôi đã phải đến hầu toà bốn lần, cũng như toà đã đình xử nhiều lần. Lần thứ năm tôi đã phòng bị đem theo trong túi áo mưa một ít bánh gạo để ăn trưa nếu phiên toà kéo dài. Khi phiên toà kết thúc, hai vị đại diện pháp luật liền tống đạt cho tôi một bản án tống giam 90 ngày tại nhà lao Dân sự với tội trạng đã khinh miệt toà án. Hai vị cảnh sát người Ái Nhĩ Lan rất lịch sự, họ để tôi ăn hết hai chiếc bánh gạo trong xe trên đường đưa tới nhà giam. Đến nơi, sau khi giao lại, họ chào tôi rồi vội vàng từ giã để kịp đi dự đám tang một đồng nghiệp. Ở đây từ nhân viên khám đường cho đến tù nhân đều rất tử tế và mọi việc cứ như vậy, bình thường dễ chịu cho đến giờ cơm tối. Thức ăn trong thực đơn của nhà lao, về phương diện dưỡng sinh, gồm toàn các thứ có hại cho sức khoẻ con người: sà lách, khoai tây chiên với cà chua, bánh mì trắng, cà phê, thịt và trái cây hộp.
Chín mươi ngày dài lê thê, từ cuối tháng 5 cho đến đầu tháng 9. Từ ngày theo Dưỡng sinh đến giờ tôi chỉ “phá giới” có một lần: hôm đó tôi nhận lời đi ăn cơm tối với bạn bè, bà chủ nhà nấu cơm riêng cho tôi, và một món cá. Nhưng cá lại xốt với chanh và cà chua. Tôi chỉ ăn cá, nhưng cá cũng đã thấm xốt khá nhiều, khiến hôm sau tôi bị tiêu chảy và đi ra huyết như tháo cống. Từ đó tôi không cần thêm bài học nào nữa. Nhiều lúc đến tiệm ăn, tôi ngồi suốt cả buổi mà không gọi món gì cả, khiến mọi người phải để ý đến việc tôi nhịn ăn. điều này với tôi là bình thường. Nhưng trong nhà tù thì khác. Thấy tôi không đả động gì đến các bữa ăn, người ta chú ý và bàn tán về tôi. Tôi cố hết sức thật giản dị giảng giải cho họ về lý thuyết Âm dương, nhưng đây đâu phải là hội trường lý tưởng để thuyết về Triết lý Á Đông, khi tôi vừa cân ướt chân ráo tới đây! Người ta thân mật cảnh cáo tôi rằng tại nhà lao dân sự này không có thuốc men bệnh xá gì đâu; hễ tôi lăm le tuyệt thực là sẽ bị tống ngay qua khám đường Bellevue ở đó người ta sẽ dùng một cái ống để nhét thức ăn vào bụng tôi. Lời bông đùa ấy được thực hiện sáng hôm sau khi họ đưa tôi xuống bếp làm việc, dọn bàn, chia phần ăn, rửa chén bát. Sau hai ngày không ăn uống gì tôi có bần thần đôi chút, nhưng rồi cũng hết.
Các bạn tôi chia nhau phần của tôi và vui vẻ đánh cuộc với nhau về ngày giờ tôi sẽ bị tống qua Nhà lao Bellevue. Qua ngày thứ tư thấy tôi vẫn lo lắng các công việc lặt vặt như thường lệ, mọi người có vẻ ngạc nhiên và hoài nghi sức chịu đựng của tôi, trong khi chính tôi là người ngạc nhiên về tôi hơn ai hết. Cứ ba tuần một lần, tù nhân có quyền gởi mua vài món ăn dặm tại một tiệm thực phẩm bên ngoài gần đó, mà tất cả món ăn “ngon lành”, tuy chưa nhìn vào bảng liệt kê tôi cũng dư biết là không thích hợp với tôi.
Người ta gởi mua đủ thứ: sandwich, pizza, nước ngọt, kem, bánh... Tôi cố nhờ họ mua cho ít chai nước suối nhưng được trả lời là món này không có trong danh sách các món được phép mua.
Ngày hôm sau, thay vì gọi luật sư, tôi điện thoại cho Irma. Phản ứng của bà ta chẳng khác nào một vị thuốc bổ cho tôi. Khi được biết tôi đang ở nhà lao, bà cười mà bảo: “Tuyệt diệu! Anh đã sống theo dưỡng sinh gần bốn tháng nay, anh có thể tuyệt thực ba mươi ngày không có gì nguy hiểm đâu. Dĩ nhiên anh sẽ gầy đi, nhưng tin tôi đi, nếu có làm sao thì cứ nhịn đói, không có gì tốt bằng nhịn đói, bệnh gì cũng sẽ lành cả. Ngày thứ hai anh hơi nhức đầu và cảm thấy hơi bần thần phải không? Nhưng bây giờ thì tốt lắm rồi. Tôi cứ mong sao cho được họ nhốt tôi một tháng: đó là một dịp may hiếm có trong đời. Cầu nguyện và tuyệt thực. Đó chính là những gì mà tất cả chúng ta đều cần”.
Bà Irma tình nguyện mua dùm cho tôi vài chai nước suối - và bà sẽ đem vào cho tôi cùng ít chiếc bánh gạo phòng hờ. Đến giờ thăm, bà đã có mặt trong đám đông, với hai chai nước suối và một gói bánh gạo. Người vào thăm quá đông nên chúng tôi chỉ có thể đứng xa vẫy tay chào nhau qua các song cửa sắt Thế rồi Luật pháp vươn vai đứng dậy. Cái mụ có phận sự kiểm soát các gói đồ gửi vào cho tù nhân chỉ cho phép tôi lấy gói bánh gạo nhưng giữ lại mấy chai nước. Tôi cãi lý với mụ ta nên bị dẫn vào phòng giấy viên giám ngục. Tôi cố tự bào chữa bằng cách dựa vào các luật lệ mà tôi được biết. Tôi nói tôi bị đau ở bộ phận tiêu hoá bác sĩ bắt tôi phải tuyệt đối ăn theo phương thức 90% cốc loại 10% rau đậu. Viên giám ngục nói: “Ở đây sáng nào cũng có cốc loại. Tôi cố giải thích rằng tôi không được phép ăn các thứ cốc loại rang phồng có đường ấy. Y cho rằng đó là phỉ báng nhà lao này, mà thức ăn đều đúng theo tiêu chuẩn... Tôi vừa định giải thích rằng tôi không cần gì ngoài bánh gạo và nước suối để sống, thì y bổng để ý đến gói bánh gạo của tôi. Tôi đổi ngay chiến lược và nói rằng đó chỉ là những bánh ngọt, những món ăn để nhắm chơi vì vậy y cho qua. Nhưng về nước suối thì y nhất quyết không nghe. Tôi muốn mua bất cứ thứ nước ngọt nào ở tiệm bánh cũng được, nhưng về nước suối thì phải hỏi ý kiến cấp trên. Chúng tôi đi đến một sự dung hoà. Vì Irma có bảo tôi: “Anh xin họ ít nước sôi để nguội”. Viên giám ngục bằng lòng ký giấy phép cho tôi được uống nước sôi để nguội mỗi ngày 3 lần. Với nước này và số bánh Irma cho, tôi có thể sống qua ngày được. Mãi đến tối chủ nhật, lệnh cấp nứoc sôi cho tôi vẫn chưa chuyển tới nơi phụ trách. Tối đó họ dọn trà đá cho chúng tôi. Sau gần một trăm giờ không uống nước tôi bị cám dỗ. Tôi lấy muỗng cà phê múc một ít uống nhắp nhắp. Tôi bị phỏng miệng như uống phải Listerrine sôi. Chẳng mấy chốc việc rắc rối trong phòng giấy viên giám ngục đã lan ra khắp khám đường. Từ đó các tù nhân chia ra từng nhóm để nghe tôi giảng về y lý Đông phương. Dĩ nhiên là có nhiều kẻ không tin nên buông ra những lời giễu cợt. Nhưng đến khuya, khi đèn đuốc tắt hết, những người quá mập hoặc bệnh tật thường đến bên tôi hỏi han cách thức chữa trị. Đến ngày thứ sáu, tôi đột nhiên được phóng thích. Tôi chỉ còn có 62 ký rưỡi. Mắt tuy có sâu thêm đôi chút, mấy gói bánh gạo tôi chưa động tới, nhưng tình trạng tôi lại khả quan hơn khi mới vào tù. Chỉ có một lần trong đời tôi bị lâm vào hoàn cảnh tương tự: ấy là khi bị kẹt sau giới tuyến của địch quân ở Alsave (Pháp) mà không có gì ăn uống cả. Thật ra, nói chung thì cơm gạo lứt cũng đã hơn hẳn thức ăn của quân đội. Điều này làm cho tôi suy nghĩ nhiều đến sự dẻo dai của quân du kích trong rừng rậm Á châu với cách tiếp tế thô sơ bằng gạo nhét đầy trong túi đeo lưng vẫn hơn hẳn những quân đội phương tây với lối trang bị và tiếp tế đầy đủ của họ.
Ông Ohsawa đã viết: “Hãy tự chữa cho lành trước khi làm vịêc gì khác”. Tôi đem cuốn sách nhỏ ra đọc lại từ đầu chí cuối.Cuốn sách ấy đã thành cuốn kinh nhật tụng của tôi, và tôi cảm thấy đã hoàn toàn lành bệnh. Khi tôi ghé thăm Irma, bà ta thất vọng vì sự tuyệt thực vì tĩnh tâm của tôi đã bị chấm dứt quá đột ngột như vậy. Nhưng dễ gì mà muốn vào tù ra khám bất cứ lúc nào? Chúng tôi vừa ăn kem gạo lứt vừa nói chuyện rất lâu. Tôi đã định sẵn một số câu hỏi. Giờ đây tôi thấy mình đã hoàn toàn được giải thoát, tôi vô cùng biết ơn tất cả mọi người mọi việc giúp tôi thu nhập được nhiều kinh nghiệm; tôi tự hỏi có bao nhiêu người ở Nữu Ước đã đọc bài báo đăng trong tờ Herald Tribune và có phản ứng như tôi. Irma có vẻ bực dọc: “Chắc chẳng bao nhiêu, vài bà già, Carmen, anh, thế thôi”.
Thật khó mà tin được, Carmen vẫn tiếp tục theo phép dưỡng sinh, và ngày càng đẹp ra. Điều làm tôi suy nghĩ là chính tôi chưa lôi cuốn được ai. Đây là vấn đề cũ rích, vấn đề giao tế.
Irama có một tập bản thảo dịch ra tiếng Anh từ cuốn sách mới nhất của ông Ohsawa xuất bản ở Ba lê về bệnh ung thư. Bà muốn đem in thành sách. Hai nhà xuất bản Mỹ thoạt tiên từ chối không nhận. Tình cờ người chủ bút của một trong hai nhà xuất bản ấy lại là người mà tôi quen và kính mến. Tôi gọi điện cho ông ta, nhưng không gặp, bởi vậy tôi gửi cho ông ta một bức thư cố nài xin xét lại vấn đề. Tôi mua thêm một cuốn ZEN nữa gửi cho ông chủ bút một nhà xuất bản khác hy vọng ông ta sẽ đọc và để ý đến, vì đối với cuốn sách nhỏ của ông Ohsawa thật là quan trọng. Nếu không tìm được cách nào để phổ biến cuốn sách ấy tại Mỹ thì tất cả chúng tôi thật là bị chứng tam bạch vô phương cứu chữa. Đồng thời trở lại công việc thường lệ, nhưng một tuần lễ kẹt chân trong nhà giam cũng đã làm tôi lỡ làng nhiều chuyện.
Irma lại khác, bà tỏ ra biết ơn những biến cố tai hại đó của tôi. Bà hẹn sẽ tin cho tôi hay nếu nhận được thư trả lời của Đại lộ Madison. Bà bảo tôi: “Sao anh không thử viết một bài về kinh nghiệm riêng của anh gửi cho một tạp chí nào đó”. Điều này, thật tôi chưa bao giờ nghĩ tới.
Trước kia tờ Herald Tribune không chịu đăng tải tin ăn khách về lời tiên tri bi thảm và độc nhất về cái chết của ba nhân vật quốc tế nói trên, thì dễ gì bây giờ tôi thuyết phục được họ đăng bài của tôi. Câu chuyện năm sáu ngày trong khám đường để chữa được bệnh trĩ và bệnh nhức đầu của tôi có vẻ tầm thường quá, tôi lúng túng chẳng biết phải viết ra làm sao. Tôi hứa với bà sẽ suy nghĩ lại, và rồi tôi đã giữ lời hứa.
Theo ông Ohsawa, trên đời này chẳng có sự hiện hữu nào tốt hay xấu cả, mà chỉ có Âm và Dương thôi. Bề mặt càng lớn bao nhiêu, thì bề trái càng to bấy nhiêu, đó là định luật bất di bất dịch ông thường nhắc đến. Bệnh tật là ngưỡng cửa đưa đến sức khoẻ. Bi kịch sẽ dẫn đến hài kịch. Tai ương trở thành diễm phúc. Đúng như vậy, vụ thảm sát Dallas đối với tôi là cả một ân huệ, vì chính nó là mấu chốt của cả một chuỗi dài biến chuyển đã cứu sống tôi. Nhiều tháng trước khi xảy ra vụ này, tôi không hề đọc sách báo. Nếu vụ thảm sát tổng thống Kennedy không xảy ra để tôi phải theo dõi tường tận mọi chi tiết thì chắc chắn tôi đã không gặp duyên lành này. Tôi chỉ xin ghi lại một vài điều chính như vậy mà thôi.
Kể lể cà kê trên mặt báo, chắc chắn sẽ làm mất thì giờ độc giả, mà vắn tắt quá thì chuyện của tôi lại không đầu không đuôi. Tôi muốn viết lại câu chuyện của Irma, nhưng làm sao hay bằng chính bà tự viết lấy, Irma có vẻ thất vọng vì tôi từ chối. Một lần nữa tôi lại thất bại.
Bỗng một hôm tôi nhận được một bức thư của ông Felix Morrow Giám đốc hãng University Books. Thư gửi đã hơn 10 hôm, nhưng cứ đi loanh quanh theo tôi vào khám đường rồi chuyển ra lại, nên đến trễ. Hôm nhận thư, là một ngày thứ bảy của tháng bảy. Văn phòng ông Morrow không làm việc ngày đó. Gần suốt ngày thứ Hai tôi lại phải có mặt ở Toà án. Mãi đến xế chiều tôi mới điện thoại được cho ông ta, và chính ông ta đã trả lời tôi, vào lúc nhân viên đã ra về hết. Chính ông cũng vừa thu xếp xong hành lý và đang sửa soạn ra về để hôm sau lên đường đi Âu Châu, còn tôi sáng hôm sau lại phải ra toà lần nữa. Ông Felix cho hay sẽ trở về ngày 18 tháng 8. Tôi hẹn sẽ gọi dây nói cho ông ta, vì ông có một chuyện muốn bàn với tôi. Câu chuyện chỉ giản dị có thế.
Nhưng ngày 7 tháng 7 thì tôi có việc phải sang Luân đôn. Một cuốn phim do tôi thực hiện từ tháng Hai đã bắt đầu đem trình chiếu ở Manhattan trong thời gian tôi bị mất tự do. Tôi đã hợp tác cùng một Giám đốc người Pháp để viết ra bản phân cảnh và sau những khó khăn thường lệ cuốn phim đã được một công ty người Âu sản xuất. Nhưng hiện nay cuốn phim đang gặp một vài rắc rối và đã bị ngưng chiếu. Phải thay đổi các vai nên bản phân cảnh cũng phải viết lại. Nhóm người Pháp đã trở về Balê để tìm cách vớt vát phần nào cuốn phim hoặc nếu cần phải quay lại toàn diện.
Tôi cần một bức ảnh căn cước mới để lập sổ thông hành. Trước khi lên máy bay, tôi gọi điện cho thư ký của Felix Morrow hỏi địa chỉ các khách sạn của ông ta tại Ba Lê và Luân đôn, nơi độc nhất tôi được biết một người theo dưỡng sinh và biết nấu các món ăn dưỡng sinh. Vì thế đến phi trường Luân đôn là tôi gọi điện thoại cho hai người: có Sheila (cô ta mời tôi dùng cơm tối có món xúp bí với cơm gạo lứt) và ông Morrow. Khách sạn trả lời là ông đi vắng, tôi nhờ viết giấy nhắn lại vì nghĩ rằng có lẽ ông ta cũng đi nghỉ cuối tuần như mọi người ở vùng quê. Nhưng tôi lầm vì sáng chủ nhật ông gọi điện thoại mời tôi dùng cơm trưa tại khách sạn.
Sáu tháng qua, tôi đã quen với hình vóc mảnh mai hiện tại và không còn quan tâmđến sự biến dạng ấy nữa. Tôi quên mất rằng thời gian trước đó tôi chỉ tình cờ gặp Felix có một lần ở ngoài đường, còn bà Felix thì đã từ mấy năm nay tôi chưa gặp lại. Dĩ nhiên bà ta không nhận ra tôi, nhưng Felix thì ngạc nhiên vô cùng và hỏi tôi mãi về sự thay đổi đó. Đáng lẽ với người khác tôi phải kể lại câu chuyện từ đầu, nhưng với Felix Morrow tôi có thể đi ngay vào vấn đề. Tôi hỏi ông ta
- Đã bao giờ anh nghe đến một người Nhật tên là Sakurawa hay Ohsawa chưa. Thông thường chẳng những Felix biết tường tận người được hỏi tới, mà chính Felix cũng đã có lần gặp được ông trong một chuyến ông Ohsawa viếng thăm Nữu Ước. Felix chỉ ngạc nhiên về một điểm trong câu chuyện của tôi. Dưới cái nhìn của một tay xuất bản sách, ông ta khó tin rằng chỉ nhờ một cuốn sách cỏn con mà tôi đã biến đổi được cả cuộc đời.
Chúng tôi nói chuyện rất lâu, bỗng nhiên Felix ngã người dựa vào lưng ghế rồi nói: “Tôi có một dự tính dành cho anh đây”. - Thật sự với Felix khó mà suy diễn được ông ta đang nghĩ gì, sẽ làm gì - Ông tiếp: “Ngay lần đầu tiên gặp ông Ohsawa tôi rất cảm kích. Tôi luôn luôn bị dằn vặt vì đã không theo được ông hoặc chưa làm được một cái gì sau buổi gặp gỡ đó. Nếu anh dịch lại cuốn sách của ông, tôi sẵn sàng in và phát hành”.
Hiện bản dịch bằng tiếng Anh được in ở Nhật cần phải sửa chữa lại rất nhiều vì không làm hài lòng ông Ohsawa. Điều này không chối cãi được. Chính ông đã bảo với ông Felix như thế. Tiếng Nhật dễ dịch ra tiếng Pháp hơn tiếng Anh. Tiếng Pháp của tôi rất tồi và không dùng được. Nhưng Felix tỏ ý rất cương quyết, không ai có kinh nghiệm nhiều như anh. Đó mới là điều quan yếu. “Chúng ta cùng qua Ba lê gặp ông ta để xin phép in”.
Trước đó, Irma đã thông báo cho tôi là ông Ohsawa sẽ qua Nữu ước trong kỳ hè này, nhưng chưa biết ngày giờ nào. Tôi liền điện thoại cho bà ta để hỏi kỹ lại và biết rằng ông Ohsawa hiện đang có mặt ở Califonia và sắp đi Nữu Ước. Ông sẽ ghé Ba lê ngày 17 tháng 7 , lưu tại đây một ngày rồi đi miền Nam nước Pháp. Còn Felix thì ngày hôm sau cũng đi Ba lê và chờ ở đó đến ngày 18. Tôi nhờ Irma cố gắng xin ông Ohsawa cho chúng tôi gặp tại Ba lê ngày thứ hai 17 tháng 8 . Khi tôi nói lại cho ông Felix biết mọi việc, thì bà vợ nhẹ nhàng nói với chồng : “Anh nhớ nhé, một khi anh cho in cuốn sách ấy ra là anh phải ăn theo phương pháp dưỡng sinh đấy!”.
Tôi cũng tin cho Sheila hay, cô ta reo lên trong điện thoại: “Hay quá!”.
Tình cờ buổi tổi trước ngày rời Luân đôn, tôi xem đài truyền hình BBC được thấy Tướng De Gaulle đến Saint Tropez chủ toạ lễ Nhị thập Chu niên ngày Quân đội Đồng minh đổ bộ lên bờ bể miền Nam nước Pháp 15/8/1944.
Tôi đang bận tâm với cuộc gặp gỡ vào hôm 17 tháng 8 nên quên bẵng mất là ngày 15 tháng 8 đối với tôi cũng là một ngày kỷ niệm. Tôi lục lọi trong đám giấy tờ cũ để tìm lại tờ chứng minh như hồi xưa do Đoàn quân đầu tiên của Pháp cấp cho tôi, vì tôi đã từng phục vụ trong quân đội này 15 tháng. Tôi định gỡ lấy chiếc ảnh đem dán vào sổ thông hành mới, biết đâu một ngày kia ở Ba lê tôi lại chẳng cần đến nó để chứng tỏ với mọi người tôi cũng là một “cựu chiến sĩ” như ai. Trong lúc tôi lục soạn, tôi lại vớ được một tấm hình của tôi chụp trên bãi biển kỳ nghỉ hè vừa rồi. Không hiểu sao bức hình lại nằm đó, và ngay chính cả tôi cũng không nhận ra người trong hình là tôi nữa. Tôi đem so sánh với chiếc ảnh vừa chụp để làm sổ thông hành. Thảo nào mà bạn bè tôi có phản ứng như thế trước sự thay đổi của tôi. Hè năm ngoái tôi mập phì như Oliver Hardy mà bây giờ thì lỏng khỏng giống hệt Steve Mc Queen! Tôi bèn xếp cả hai bức hình vào cuốn sổ thông hành để dành xem như một kỷ niệm buồn cười.
Ở Ba lê, sánh thứ hai tôi đến thẳng chỗ hẹn là nhà sách Ohsawa tại đường Lamartine. Tôi tới trễ vì mãi mới tìm được tắc xi. Felix Morrow đợi tôi ở cửa. Chưa kịp xin lỗi anh ta, thì Felix đã nói: “xong rồi. Ông Ohsawa hoàn toàn đồng ý và đang mong gặp anh”.
Thoạt bước vào nhà sách, một người Nhật dáng mảnh khảnh, có vẻ là một thư ký, đang lúi húi gói một chồng sách và buộc dây lại, không ngờ đó chính là nhà tiên tri, nhưng điều này tôi chỉ được biết khi ông Felix chào ông ta bằng tiếng Pháp. Tôi đã rõ năm nay ông 72 tuổi rồi, và báo chí thì luôn luôn ca tụng ông chỉ như người 50; khi được thấy những dáng điệu trẻ trung của ông, thì lại càng khó mà tin được rằng đó là một ông lão đã ngoài thất tuần, Felix cho tôi hay từ lúc đặt chân đến đây, ngoài tiếng mẹ đẻ ông chỉ dùng tiếng Pháp để giao tiếp với mọi người. Chỉ tiếng Pháp mà thôi! Ông đưa tay nắm lấy hai tay tôi, tôi cảm thấy sinh lực của ông truyền qua người tôi. Ông cười mà nói: “Ông chính là người đã sụt 25kg mà không cần hỏi gì tôi cả. Thật phi thường! Ông cúi xuống gói tiếp cho xong mấy cuốn sách đoạn trao cả cho tôi, như ngụ ý nói: “Đây tất cả những gì tôi viết được trong đời tôi, hãy sử dụng thế nào cho hữu ích. Bây giờ thì đến lượt ông đó”.
Thật là bất ngờ, tôi đã bị dồn vào chân tường. Tôi không thông thạo tiếng Pháp thì làm sao diễn tả được những gì tôi muốn nói. Vì thế tôi chỉ còn cách lôi ra hai chiếc ảnh kẹp trong cuốn sổ thông hành và đưa cả cho ông Ohsawa.
Ông há miệng, phá lên cười, đoạn gọi mọi người trong tiệm đến vừa nói chuyện bằng tiếng Nhật, vừa đưa ảnh tôi cho họ xem. Ông lại nhìn kỹ chiếc ảnh mới nhất của tôi rồi lẩm bẩm: “cẫn còn hơi sanpaku”. Tôi gật đầu xác nhận; ông bảo tôi lấy kính ra và ngẩng cao đầu cho ông xem. Ông nhìn thẳng vào mắt tôi, nắn nhẹ hai trái tai của tôi. Rồi thì ông lật ngửa bàn tay phải tôi lên, ấn mạnh tay vào phần thịt bên dưới ngón cái. Tôi nhăn mặt vì đau đớn: “Chà, chà...” giọng ông không được vui”. Trước kia tình trạng của ông tệ lắm, may là ông đã tự cứu kịp thời. Sáu tháng nữa ông sẽ khá hơn...”. Đoạn ông nhìn lại hai chiếc ảnh vừa cười vừa nói: “Kỳ lạ” và tỏ ý muốn được giữ lại. Tôi ghi tên và đề ngày sau lưng mỗi chiếc ảnh, đưa cho ông. Ông kẹp chúng cẩn thận vào sổ thông hành của ông, rồi đứng lên tươi cười. “Thế là xong, bây giờ tôi mời ông đi dùng cơm trưa”.
Câu nói sao mà nghe êm dịu lạ lùng!
Suốt một ngày hôm nay tôi đã được chút gì vào bụng đâu. Ở Ba lê có nhiều quán ăn dưỡng sinh lắm và cũng từ mấy tháng nay rồi tôi không còn lui tới những nơi cao lâu tửu quán nữa. Chúng tôi bắt đầu đi ngược lên đường Lamartine và “Tiên sinh Ohasawa”, mọi người vẫn thường gọi ông như vậy, nhẹ bước trên mặt đường dáng điệu đầy phấn khởi như một đứa trẻ. Ông giới thiệu tôi với tiên sinh Hoki, một trong những nhà yogi tăm tiếng của Nhật, và là đồng nghiệp cùng tháp tùng với ông từ quê nhà sang đây. Ông Hoki chỉ nói tiếng Nhật, và ngoài ra một ít tiếng Mỹ vừa học được. Giữa hai người, họ dùng tiếng mẹ đẻ với nhau, nhưng chúng tôi thì dùng tiếng Pháp với ông Ohsawa và tiếng Anh với ông Hoki
Ông Ohsawa bao giờ cũng là người phân biệt được trước tiên một chiếc tắc xi trống giữa đám xe cộ tấp nập vào giờ cơm trưa của Ba lê và cũng là người đầu tiên bước xuống đường ra hiệu cho tài xế ngừng lại. Dĩ nhiên vào tháng tám này thì có đến phân nửa phố xá Ba lê vắng hẳn đi, vì đó là thời kỳ đóng cửa hàng năm và là mùa đi nghỉ mát của dân ở đây. Hơn nữa ngày thứ hai lại là ngày giao hàng (jour des fournisseur) ngày đóng cửa hàng tuần cho tiệm buôn và tiệm ăn.
Chúng tôi đi xuyên qua nửa thành phố mới đến tiệm ăn Nhật bản do ông Ohsawa đã chọn, nhưng tiệm lại đóng cửa nốt. Thường thì những quán ăn dưỡng sinh vẫn mở cửa ngày thứ hai, nhưng đặc biệt trưa nay họ không bán để mừng ngày tiên sinh đến. Thế là chúng tôi đành phải trả tiền cho xe tắc xi, và đứng với nhau ngoài đường để chờ mấy người nữa đã cùng hẹn đến đây. Việc di chuyển thật rắc rối nhưng tiên sinh vẫn không nản lòng, và cuối cùng đưa được cả đoàn người chúng tôi mười người đến một quán ăn khác ở xóm Montparnasse còn mở cửa.
“Papa” Ohsawa chỉ huy mọi việc, đặc bàn, sắp chỗ, lựa món ăn, mọi việc, mọi chi tiết thật rành rẽ.
Khi người bồi dọn món cá sống ra, với đôi đũa như nhảy múa trên tay, tiên sinh bày vẽ cách thức ăn các món xốt, rồi tự tay rót rượu sa kê cho mọi người. Qua món “Tempura” khi tôi định gắp một miếng gucchini, ông liền đưa đũa đạt ra và chỉ vào món tôm hùm mà nói: “Món Dương trước đã, rồi hãy dùng món Âm”. Cơm ở đây lại là cơm trắng, Felix Morrow tỏ ý ngạc nhiên khi thấy tiên sinh Hoki xới cơm vào đĩa, ông này liền nói: “ăn cơm trắng không sái phép dưỡng sinh, chỉ có một điều là phải ăn gấp năm lần mới bổ bằng cơm gạo lứt".
Ngồi cạnh Ohsawa tiên sinh, đối diện ngay trước tôi là một bà lịch sự, thanh nhã, từ Bruxelles đến: đó là bà L. Khi ông đưa ảnh tôi cho bà xem tôi phải cố gắng trả lời những câu hỏi của bà. Ông Ohsawa hỏi: “ông có tin rằng bà L đã trên trên 70 tuổi không. Phải ông thấy bà ta bảy năm về trước! “Tiên sinh vừa nói vừa vuốt nhẹ làn tóc màu nâu lợt của bà, hồi đó tóc đã bạc hết, bây giờ trông bà như khoảng 55 tuổi là cùng. Bà giải thích rằng trước trận thế chiến bà đã là kẻ tật nguyền, bán thân bất toại, phải luôn luôn nằm lì, chạy chữa đến cả chục bác sĩ chuyên môn nổi tiếng ở Âu châu mà bệnh vẫn hoàn bệnh. Bà đang thầm mong cho được sớm dứt nợ đời, thì được vài người bạn thân khuyên còn nước còn tát, nên tìm đến tiên sinh. Bà nói: “Tôi còn nhớ rõ lắm, Tiên sinh đến cạnh giường và nhìn tôi. Tôi hoàn toàn bại liệt, chỉ ước được chết mà thôi. Tiên sinh vén mái tóc bạc trắng của tôi lên để nhìn voà đôi tai, và nắn nhẹ hai trái tai tôi, đoạn tiên sinh cười thật tươi và nói: “Trái tai của bà rất tốt, rời ra như treo vào vành tai. Bẩm chất bà tốt lắm. Bệnh bà có thể tự chữa lành được....!”.
“Sau đó tôi ngưng hết thuốc men, và suốt ba ngày chỉ ăn cơm gạo lứt. Cuối ngày thứ ba tôi bị nhức đầu khủng khiếp và tôi nghĩ e tôi phải chết mất. Tôi lại buồn nôn ghê gớm. Nhưng hôm sau cơn đau đầu biến mất. Mười ngày sau tôi dậy được và đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm tời nằm bẹp dí một chỗ. Tôi đã đi được. Chuyện thật là khó tin”.
Đây cũng là lần đầu tiên tôi gặp trường hợp một người có phản ứng mãnh liệt sau ba ngày ăn theo dưỡng sinh. Sau khi lành bệnh một cách kỳ diệu như vậy, bà sang Nhật rồi Hoa Kỳ, tại đây bà gặp bà Irma Paule, và bây giờ thì bà dành hầu hết thì giờ của bà cho phong trào Dưỡng sinh. Bà cũng vừa từ Bruxelles qua đây để dự buổi nói chuyện của ông Ohsawa vào chiều mai, rồi sẽ đi thẳng đến trại họp mặt Ohsawa được tổ chức hàng năm vào mùa hè tại một vùng phụ cận thành phố Bordeaux.
Ông Ohsawa đề nghị “ Ông nên đi với chúng tôi vài ngày, cơm dưỡng sinh ở đây do tôi chỉ dẫn cách thức nấu nướng, tôi sẽ làm cho ông khoẻ lâu”.
Felix Morrow cũng tỏ ra thích thú với đề nghị ấy, vì đó là cơ hội lý tưởng cho tôi học hỏi thêm mà viết bài.
Một lần nữa tôi bỏ chương trình đã vạch ra. Ông Felix không cần phải nói nhiều để thuyết phục tôi. Được sống vài ngày bên cạnh ông Ohsawa là dịp may hiếm có trong đời, chuyện in sách hãy tạm gác lại một bên đã!
Chuyến đi Bordeaux được xem như chuyến đi trên đoạn đường cuối của một hành trình vào xứ thần tiên.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm, đọc lại suốt lượt mấy cuốn sách của tiên sinh cho tôi.
Gần khuya, tôi được điện báo tin là sẽ được đi cùng chuyến bay với tiên sinh đi Bordeaux. Vào ngày sau đó, chúng tôi cùng gặp nhau ở phi trường Orly lúc trời chưa sáng hẳn. Một thanh niên lịch sự người Nhật trong bộ đồng phục mùa xanh của hãng Air France lo hết mọi việc cho chúng tôi: từ chiếc vé cho đến hành lý, thủ tục. Ông ta hướng dẫn chúng tôi ra tận cầu thang máy bay như với những nhân vật quan trọng, và tôi được tiên sinh giới thiệu đó là con trai ông. Ở Bordeaux chúng tôi được ông Suy Massat đón tiếp. Massat là người xuất bản nguyệt san Pháp ngữ “YIN/YANG” và giám đốc Trại họp mặt St Méderd de Guizeres cách Bordeaux chừng 50 cây số.
Chúng tôi vội vàng lên xe đi. Người lái xe cũng là một người dưỡng sinh, ông ta kể lại cho tiên sinh nghe trường hợp của mình. Khi còn làm chủ một tiệm giải khát nhỏ, sau khi được bác sĩ cho biết là mắc bệnh “nan y”, ông ta đã tự chữa lành bệnh bằng phép dưỡng sinh. Bây giờ thì ông đã bỏ tất cả, để làm lại tất cả. Lương tâm không còn cho phép y đầu độc người khác bằng từng tách cà phê, từng ly rượu nhỏ hoặc từng thùng rượu mạnh. Câu chuyện giản dị, nhưng có tính chất tiên tri. Bắt đầu theo dưỡng sinh, điều đó rất dễ, quá dễ. Nhưng rồi sự chuyển hoán (transmutation) xảy ra làm thay đổi hết mọi sự thế là không còn cách gì lui bước nữa được - dầu chỉ để bán cà phê hay nhiều thức khác.
Đại khách sạn Le Pare ở St Médard de Guizere thuộc tỉnh Gironde trông thật đồ sộ, chỉ là một khách sạn kiểu cổ và thiếu tiện nghi nhưng đã được sửa lại để dùng làm trại Họp mặt Ohsawa trong mùa hè này. Các phòng ở tầng trệt được sửa sang lại thành phòng ăn và phong đọc sách chung. Nhà bếp dành cho toán nấu ăn chiếm ngụ, hầu hết các phòng khác đều có các môn đồ từ các xứ miền Âu tây đến ở. Vườn hoa rộng lớn cây cối xanh tươi đầy bóng mát, bao bọc mặt sau khu vườn là tường cao cùng các cơ sở phụ thuộc: chuồng gà, nhà giặt, nhà vệ sinh, giếng nước... Khắp vườn mọc lên những chiếu lều muôn màu muôn sắc cùng những toa xe kéo đầy đủ tiện nghi của đoàn người đi trẩy hội từ khắp Âu châu đổ về đây.
Quán rượu của khách sạn, giống như loại cây tượng trưng cho sự Thiện và sự Ác trong khu vườn Địa đàng ngàn xưa, còn nguyên vẹn và vẫn mở cửa bán cho người ngoài.
Trong khi mọi người quây quần quanh Ohsawa Tiên sinh để chào mừng và hỏi han nhau, tôi để ý trước tiên đến các đứa bé- những đứa bé dưỡng sinh mà tôi thấy lần đầu tiên; tất cả đều gọn gàng, rắn chắc, bình tĩnh với cặp mắt có cái nhìn sắc bén của người Nhật Bản. Tôi theo dõi chúng tường tận suốt hai ngày liền và chỉ có mỗi một lần tôi nghe một đứa khóc trong buổi thuyết trình.
Sau bữa cơm trưa - một tuyệt kỹ về môn nấu ăn Dưỡng sinh xứng đáng với vị khách tham dự - Ohsawa Tiên sinh quàng tay tôi dẫn tôi đi xem phong cảnh ngôi làng và vùng quê lân cận. Trong suốt 24 tiếng đồng hồ tôi đã ngấu nghiến tất cả mấy cuốn sách của Tiên sinh để cố thưởng thức những điều Tiên sinh viết ra trong ba mươi năm nay, cho nên không lạ gì mà thấy chính tiên sinh từ lời mời đến tư tưởng đã vượt xa hẳn tất cả những gì đã nói bằng giấy trắng mực đen. Tiên sinh đã để hết tâm trí vào một vấn đề mà ông gọi là cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ ba. Giống như Lão Tử đã chia đời sống của Ngài làm bốn thời kỳ, Tiên sinh cũng chia đời mình làm nhiều thời kỳ: 1)Sự phát triển của triết lý vô vi, khó nhất; 2) Dưỡng sinh; 3) Phổ biến truyền bá và cuối cùng luyện kim.
Bây giờ Tiên sinh đã bước vào khúc cuối của thời kỳ thứ ba và sắp đi vào giai đoạn kết thúc. Tiên sinh đã quyết định sẽ chỉ qua Âu Châu một lần nữa để diễn thuyết và truyền bá vào năm 1964; sau đó Tiên sinh trở về quê nhà dành hết thì giờ và năng lực vào việc thí nghiệm và thực hành sự chuyển hoá sinh hoá học.
Vài ba năm trước, công cuộc nghiên cứu khai phá của nhà sinh hoá học Pháp L.Kervan, tác giả cuốn “chuyển hoá sinh vật học” (transmutation biologique) đã làm cho Tiên sinh rất cảm kích. Sự trao đổi giữa ông Kervran với Tiên sinh, cùng với công cuộc nghiên cứu của Tiên sinh sau này, đã đưa đến kết quả - vào tháng Giêng năm 1964 tại Tokyo lần đầu tiên chuyển hoá được sodium Na thành potassium K với nhiệt độ và áp lực thấp, Tiên sinh đã làm lại cuộc thí nghiệm ấy vào đầu tháng Bảy trước một nhóm bác học danh tiếng Nhật Bản và lãnh tụ chính trị cầm đầu Quốc hội Nhật. Những chi phí của ngành này rất nhiều và vì thế đã làm chậm trễ chuyến du hành qua Califonia Nữu Ước, Âu châu, cuộc viếng thăm Tây phương hàng năm của tiên sinh.
Ảnh hưởng của sự thành công này của Tiên sinh rộng lớn khó lường được. Nước nhật có thể không cần nhập cảng Potassium nữa. Tổng số nhập cảng lên đến hàng triệu tấn mỗi năm - mà ngược lại có thể xuất cảng hàng triệu tấn Sodium với giá rẻ do biển cả là tài nguyên vô tận cung cấp. Ngoài ra Tiên sinh cũng tìm được từ lâu công thức chuyển hoá thành sắt các chất hoá học sẵn có.
Báo chí kinh doanh của người Mỹ thường miêu tả thời đại này như một kỷ nguyên luyện kim, nhưng vấn đề họ nói đến nhiều nhất, lại chỉ là cách thức tân tiến nhất để chế ra loại da bằng nhựa hay vải nhân tạo. Tuồng như họ không đề cập đến những kiến thức có ảnh hưởng sâu xa đang nung nấu tâm trí của Tiên sinh, ngay cả lúc Tiên sinh đang thoăn thoắt bước đi, trong ngôi làng Pháp yên tĩnh này.
Tại Nữu Ước đã có một tổ hợp Dược viện lớn đến tiếp xúc với Tiên sinh để đề nghị mua lại công thức chuyển hoá Na thành K với giá hàng trăm ngàn Mỹ kim. Phải làm sao đây? Hoặc là Tiên sinh bán đứt công thức ấy cho tư bản Mỹ, hoặc là bằng mọi giá giữ lại quyền lợi cho giới doanh thương Nhật dù chỉ trong một thời gian ngắn thôi?
Cái kiến thức hoá học của tôi lại càng nghèo nàn hơn cả vốn liếng tiếng Pháp của tôi nữa. Đêm trước tôi đã thức trắng để nghiền ngẫm nền triết lý xưa cổ ẩn tàng trong nghệ thuật cắm hoa qua nguồn gốc bệnh thận và cách chữa chạy, qua cách thức điều chế một loại cà phê mới với rễ bồ công anh (dandelion) thì bây giờ đây tôi lại phải đương đầu với những câu hỏi hóc búa về vũ trụ học dành cho viện nghiên cứu tiến hoá nhân loại.
Thoạt tiên tôi khuyên Tiên sinh nên lấy tiền của người Hoa Kỳ và bán công thức cho họ, Thế là cái công thức chuyển hoán Oshawa sẽ trở thành một điều bí mật được đánh giá. Nếu cái kỹ thụât đơn giản của khoa dưỡng sinh cũng được đánh giá y như vậy, nó có thể lôi cuốn được sự chú ý của thế giới. Hiện giờ trái lại nó có vẻ là một phong trào thầm lặng của một số người.
Ý kiến của tôi làm cho Tiên sinh thích thú. Tôi cảm thấy rõ tôi còn ở dưới tiên sinh ít nhất là hai bậc: một người dưỡng sinh mới nhập môn - với một kiến thức thô sơ chẳng biết gì về đạo vô vi - mà đã muốn bước lên diễn đàn để thuyết pháp. Tôi cảm thấy dễ thở hơn với các đề tài về văn nghệ sĩ, các vấn đề chính trị và hôn nhân. Chúng tôi cùng đồng quan niệm về cách phân loại và cấu tạo thảo mộc tiên sinh cũng bảo tôi nên đọc lại Edgar Snow. Tiên sinh tỏ ý rất muốn được viếng thăm Trung Quốc để tìm hiểu rõ hơn những tin tức nói về sự phục hưng nền y khoa cổ truyền Trung Hoa do chính phủ nước này chủ xướng.
Cũng như mọi người khác, Tiên sinh rất mong ước được giáp mặt Chủ tịch Mao Trạch Đông, siêu danh nhân duy nhất “bất khả diện kiến”.
Về phương diện hôn nhân, đặc biệt là tại Hoa Kỳ, Tiên sinh tỏ ý lo lắng thật sự, và không tỏ ý ngạc nhiên mấy về chuyện hôn nhân của tôi. Với vẻ như kinh hãi, tiên sinh bảo:
“Đàn bà Mỹ dương quá”. Rồi ông hỏi ngày sinh của tôi và vợ tôi.Đúng như Tiên sinh ước đoán, hai chúng tôi sinh cách nhau không đầy ba tháng thay vì thời gian lý tưởng sáu tháng theo tiêu chuẩn cổ truyền của người Nhật.
Chiều hôm ấy, thêm sự có mặt của Hoki Tiên sinh làm cho trại hè càng hào hứng. Ông Hoki là nhà Yoki tân tiến nhất, vừa từ Ba lê đến bằng xe hơi. Cứ nhìn ông chậm rãi đếm bước trên đường phố nhỏ hẹp của một thành phố tỉnh nhỏ nước Pháp cũ kỹ từ thế kỷ thứ 17 với chiếc áo dài đen trên mình, và đôi dép Nhật dưới chân, hình ảnh đó quá đủ để làm cho một tay chuyên sản xuất phim loại đời sống mới phải sửng sốt. Nhưng điều làm tôi sửng sốt hơn nữa là khi thấy ông Hoki thò tay vào chiếc áo cổ truyền của ông lấy ra một gói thuốc lá Kool mời tôi hút... Đây đúng là cảnh tượng có thể làm đề tài quảng cáo cho Đại lộ Madison vì ở đây người ta đã chán ngấy vì lời phao rằng nhà này đang làm quảng cáo cho bệnh ung thư.
Trong buổi ăn tối, ông Hoki ngồi đối diện tôi. Trước cách ngồi lịch sự ngay thẳng và thoải mái của ông, tôi cảm thấy mình như quá cẩu thả bê bối. Cái vẻ thoát tục và điềm đạm của ông chứng tỏ một lối sống riêng biệt. Đột nhiên nhanh như cắt, ông đưa tay rút bó hoa trong chiếc bình pha lê để trước mặt, nhanh nhẹn tỉa bớt vài cành lá xanh, loại thêm một vài cành nhỏ, rồi cắm trở lại vào bình. Bó hoa bây giờ đã được sắp xếp theo lối cổ điển trong sự quân bình âm dương. Không một điều gì, dầu chỉ nhỏ mọn như một đoá hoa, được phép đi ra ngoài nguyên tắc của sự quân bình trong lễ nghi ẩm thực dinh dưỡng.
Các đề tài diễn thuyết của Ohsawa Tiên sinh chiều hôm ấy và ngày hôm sau đều đặt trọng tâm vào cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ ba. Tôi xin được lướt qua vấn đề vì năm tới tất cả vấn đề này được in ra thành sách.
Tối hôm ấy một người Pháp đã đứng tuổi từ ngoài khu phố lẻn vào giảng đường và lặng lẽ chiếm một chỗ ngồi gần cửa. Có lẽ ông ta tưởng đâu sẽ được giảng về những cách thức ăn uống kỳ lạ do chính con người mà ma lực đã truyền đi khắp làng. Nhưng y cũng như tôi có cảm tưởng như bị lạc vào rừng công thức hoá học và nghịch thuyết về sinh vật học, nên cuối cùng y lặng lẽ rút lui.
Sau bài thuyết trình, trong khi kiểm điểm sự tiến triển của phong trào dưỡng sinh ở Hoa Kỳ, Ohsawa Tiên sinh lấy trong ví ra hai chiếc ảnh bất hủ của tôi - anh mập Oliver Hardy chụp trước, và anh chàng rắn rỏi Steve Mc Queen chụp sau - đưa cho các thính giả chuyền tay nhau xem. Hai chiếc ảnh đã làm cho mọi người sửng sốt và lạ lùng. Tôi nghiêng mình vụng về chào cử toạ và lễ phép xin họ miễn cho khỏi phải nói gì cả. Nhưng cử chỉ của tôi lại trở thành một lối tự giới thiệu với tất cả. Từ đó tôi là kẻ mang danh “ông nhà văn Mỹ đã sụt 25 ký lô”.
Xét theo từng khía cạnh riêng biết của mỗi cá nhân hay nói chung cho tất cả mọi người có mặt tại đây cuộc họp mặt trại hè Oshawa quá đủ để cung cấp tài liệu viết thành cả lố truyện không đầu không đuôi hoặc một cuốn sách thật hay. Chẳng hạn hai bà ngồi cạnh nhau trong bữa ăn tối. Một bà là vợ một viên chức ngoại giao Hoa Kỳ. Trong chuyến du ngoạn Hy Lạp bà thình lình bị đau ruột nặng. Trở về Hoa thịnh đốn bà vào nằm tại bệnh viện suốt mấy tuần liền mà bệnh không hề thuyên giảm. Người con trai của bà đang theo học tại Đại học đường Harvard , nhờ những buổi học Nhu đạo và Hiệp khí đạo được nghe nói đến thuyết dưỡng sinh Ohsawa. Sau khi nghe tin mẹ bị bệnh liền xin nghỉ về đưa bà ra khỏi bệnh viện. Cậu tự tay nấu cơm gạo lứt cho mẹ dùng, chỉ trong mười ngày thì bà khỏi bệnh. Từ Luân đôn bà đáp máy bay qua Pháp rồi thuê xe hơi tự lái về Saint Médard tham dự các buổi thuyết giảng của Ohsawa Tiên sinh. Bà kia trạc tuổi trung niên người Do Thái từ Ba lê xuống. Bà mắc bệnh khủng hoảng thần kinh sau khi bị bọn Đức quốc xã giam cầm hai năm, phải nằm ở bệnh viện mười bảy năm ở Ba lê để điều trị. Một người chị ruột của bà đã từng áp dụng khoa dưỡng sinh có hiệu quả liền tìm cách đem bà ra khỏi bệnh viện. Ba tuần sau lại đưa bà đến trại hè này. Sau mấy ngày ăn theo phương thức số 7, bà ta bây giờ tinh thần đã minh mẫn và thư thái như mọi người khác./
Trong hai ngày ở trại, để trao đổi kinh nghiệm tôi phải kể đi kể lại chuyện tôi e có đến cả năm chục lần. Chỉ một trong những mẩu chuyện vụn vặt này cũng đủ để làm bài mở đầu thật hay cho cuốn sách dưỡng sinh còn hay hơn là chính của tôi vậy.
Tuy nhiên chương trình ở trại Ohsawa không phải chỉ gồm có cơm,. muối và thuyết trình. Chương trình khởi sự mỗi ngày bằng một giờ học Hiệp khí đạo trên bãi cỏ xanh phía sau khách sạn. Các môn nhu đạo, karate và hiệp khí đạo hồi đó rất thịnh hành bên Pháp, cho nên trong các giờ dưỡng sinh Pháp một trong những câu châm ngôn thường được nhắc đến là “ Thứ nhất Dưỡng sinh, thứ nhì Nhu đạo”. Tôi nêu lên câu đó để tránh khỏi tập và chỉ đứng xem thôi. Đối với những người không nhìn quen, thật là một cảnh khôi hài khi thấy các bà đã ngoài lục tuần, tóc muối tiêu nghiêng mình chào nhau thật lễ độ trước khi vật nhau té lăn cù trên đám cỏ ướt sương mai.
Sau bốn mươi tám giờ sinh hoạt trong một thế giới kỳ lạ như vậy, tôi được điện thoại gọi về Ba lê gấp. Tôi cố trở lại khách sạn Le Parc thêm vài ngày mà không được. Thế là tôi lại phải tự nấu lấy cơm gạo lứt mà ăn. Người ta bảo “Bụt nhà không thiêng” là thế. Một người Mỹ lại đi truyền bá triết thuyết Á Đông giữa Kinh thành ánh sáng của Âu châu, nghe thật trái tai và lạ lùng làm sao!
Không cố gắng truyền bá, và cũng không có hai chiếc ảnh kia, dù muốn dù không tôi cũng đã trở thành người cha của một gia đình dưỡng sinh ngày càng đông ngay tại Ba lê. Khởi đầu là tại một tiệm cà phê ở đại lộ Champs Elysees khi tôi giải thích tại sao tôi không uống nước. Chiều đó, hai người điện thoại lại xin “nhập môn” . Hai rồi năm, năm rồi mười. Từ đó tôi không thèm đếm nữa. Mọi thứ bệnh, từ bệnh sang thấp đến bệnh sưng khớp xương chưa đầy mười ngày đã lành. Tôi nghe kể lại rằng cuộc sống của nhiều người đã biến đổi hẳn vì tình cờ họ gặp được những người đã từng liên lạc với tôi, những người mà tôi chưa hề một lần gặp mặt. Người bạn này truyền cho người bạn kia, vợ chồng truyền cho nhau, rồi gia đình nhà vợ, gia đình nhà chồng, cho các gia đình bạn bè, cứ thế lan rộng mãi ra. Họ kéo nhau đến nhà sách Ohsawa ở đường Lamartine, tại đó có sẵn cuốn sách của Tiên sinh đã được dịch ra Pháp ngữ, rồi họ đến viếng tiệm Les Trois Epis, siêu thị dưỡng sinh tí hon ở đường Lamatine, họ mua sản phẩm dưỡng sinh và khởi sự chữa lành chẳng khó nhọc gì cả. Thật khác xa Nữu Ước nơi mà gặp toàn trở ngại. Có lẽ Oshawa Tiên sinh có lý. Đường số 57 và đại lộ thứ ba là thủ đô của trung tâm cư ngụ của những người bị chứng tam bạch đản trên cõi đời này.
Vào cuối tháng 9, khi bản tường trình của Uỷ ban, do người cầm đầu là quan toà Earl Warren, được công bố, và vào đầu tháng chín khi những cung từ của các nhân chứng vụ thảm sát Dallas được phổ biến, tôi say mê đọc từng chữ của tập tài liệu như đã theo dõi báo chí cách đây mấy tháng. Nhưng lần này tôi đọc với một nhãn quan khác hẳn nhãn quan của người đã từng bị chứng tam bạch đản.
Tôi sục sạo trong hàng loạt chi tiết và đánh dấu những câu quan trọng mà về sau tôi ráp lại với nhau:
- “Vài giây sau đó thì tiếng súng nổ liên tiếp. Tổng thống đưa tay lên tận cổ. Người ông như bất động trong giây lát rồi hơi chúi đầu về phía trước. Một viên đạn đã xuyên qua gáy ông. Lẽ ra vết thương ngay cổ không làm nguy hại đến tính mạng của Tổng thống Kennedy. Thống đốc Connally cảm thấy như bị ai đập mạnh sau lưng ông cũng bị trúng một viên. Sức mạnh của tầm đạn xoay người ông qua bên phải và bà Connally kéo ông ngồi thụp xuống. Liền đó Tổng thống Kennedy bị bồi thêm một viên đạn khác vào sau đầu, chính là vết thương trí mạng. Tổng thống ngã hẳn về phía bên trái vào chân bà Kennedy.
Thống đốc Connally:
“Lắm khi tôi tự hỏi tại sao tôi đã phản ứng quá chậm chạp. Tôi nhớ rõ là tôi có thốt lên một lời gì. Tôi nói: “Ồ không, không, không. Lạy chúa, chúng sẽ giết hết chúng mình. Tại sao lúc đó tôi lại không nói: “Nằm xuống, nằm xuống trong xe...” Nhưng tôi đã không nói thế...
Bà Kennedy:
- Rồi bỗng nhiên Thống đốc Connally la lên: “Ồ không, không, không”.... và tiếp đó là những tiếng nổ rùng rợn. Các ông đã rõ. Chồng tôi không thốt được tiếng nào. Vì thế khi tôi quay sang mặt, tôi chỉ còn nhớ là bộ điệu nhà tôi lúc bấy giờ trông có vẻ kỳ dị, một tay giơ lên, có lẽ là tay trái, tôi thấy một mảnh sọ màu đo đỏ như màu thịt, tôi có cảm tưởng như lúc ấy nhà tôi hơi nhức đầu. Tất cả chỉ có thế. Không có máu hoặc gì khác. Rồi hình như nhà tôi làm như vầy (nhái lại điệu bộ) đưa tay lên trán đoạn ngã chúi vào người tôi. Thế rồi tôi ôm choàng lấy nhà tôi kêu lên:”Ồ không, không, không...” Tôi muốn nói: “Lạy chúa, họ đã bắn chồng tôi”. Tôi cũng nhớ là tôi đã gào lên: “Em yêu anh, anh ơi”.
Theo phần lớn các lời khai thì chỉ có ba phát súng. Uỷ ban kết luận rằng có lẽ một phát trật chiếc xe mui của Tổng thống và ba phát được bắn trong thời gian 4,8 giây đến hơn 7 giây. Mấy người chứng chuyên môn đoán chắc rằng nếu phát súng thứ hai trật đích, Oswald có đủ thì giờ từ 4,8 đến 5,6 giây để bắn ba phát tiếp. Nếu từ phát thứ nhất hoặc phát thứ ba trật, Oswald có hơn 7 giây để bắn ba phát”.
Khoảng thời gian giữa phát súng đầu tiên không nguy hiểm - trúng cổ Tổng thống và phát thứ hai trí mạng trúng sọ ông là từ 4,8 đến 7,8 giây. Những người ngồi trong chiếc xe mui - bà Connally, phản ứng kịp thời, dìu chồng xuống thoát nạn, còn Thống đốc Connally, bà Kennedy và chính Tổng thống có từ 4,8 đến 7,8 giây để phản ứng hoặc bằng tư tưởng, hoặc bằng lời nói, hoặc bằng hành động. Bỗng nhiên tôi nhận thấy rằng cảnh rùng rợn nhất trong mấy cuốn phim màu của một nhân chứng quay được là cảnh Tổng thống đứng yên như pho tượng không biết làm gì hơn là đưa tay lên cổ, làm thành một mục tiêu bất động.,
Dĩ nhiên Uỷ ban không nói gì nhiều để làm sáng tỏ vấn đề này, chỉ nói đại khái là sau khi phân tích mấy cuốn phim, người ta căn cứ trên sự kiện là một người khi trúng đạn có thể không phản ứng ngay, và theo các chuyên viên, trong một vài trường hợp nạn nhân có thể không hay biết là mình đã trúng đạn ở đâu, hoặc lúc nào. Điều này rất đúng, phản ứng khi lâm nạn tuỳ theo mỗi cá nhân. Theo kinh nghiệm, trong chiến trận, trong các tai nạn xe hơi, trong lúc sắp chết đuối, khi gặp một nguy cơ nào, một vài giây đồng hồ có thể là cả một thế kỷ định đoạt sự sống chết. Bản năng có kịp thời để phản ứng mau lẹ, đúng lúc và chính xác trước mọi biến cố hay không, đó là cách đo lường khả năng phản ứng của mỗi cá nhân trong quân đội. Và đây cũng là điều kiện thứ sáu, điều kiện quan trọng nhất trong các điều kiện sức khoẻ được nhấn mạnh trong cuốn sách nhỏ của ông Ohsawa, căn cứ trên những sách vở Á Đông lưu truyền xưa cả 5000 năm nay. Năm điều kia được cho điểm từ 10 đến 20, riêng điều kiện chót và quan trọng nhất này được cho đến 30 điểm.
Khi bị chứng tam bạch đản có nghĩa là ta đã mất phần nào bản năng phản ứng tự nhiên - như một con vật - trước cơn nguy.
Hai mươi năm về trước, Thiếu uý Hải quân John F. Kennedy đã tự cứu mình và cả tính mạng vài đồng đội thoát chết trên chiếc tàu P.T.109. Nhưng hồi đó Thiếu uý Kennedy không bị chứng tam bạch đản, còn Tổng tống Kennedy thì trái lại.
Trong một tờ nguyệt san Yin Yang, xuất bản ở Ba lê tôi có đọc được bài của ông Ohsawa nói về cảm tưởng của chính ông trước sự ứng nghiệm rùng rợn lời tiên tri về cái chết bi thảm của Tổng thống Kennedy. Ở Hoa Kỳ, sau những tin tức đầu tiên dừ Dallas, hai phe tả hữu đổ trách nhiệm lẫn cho nhau Còn ông Ohsawa đã tự trách mình và các môn đệ của ông, nhất là giới dưỡng sinh ở Ba lê, đông đảo và được học hỏi nhiều hơn nhóm ở Hoa Kỳ, ông ta tự phê bình:

Chúng ta biết cách ngừa và chữa lành tình trạng tam bạch đản, nhưng chẳng ai tìm cách giúp Tổng thống Kennedy. Phải chi một nhóm văn hoá Pháp lớn gửi cho ông một bức thư với hàng ngàn chữ ký! Chúng ta đã không làm, và chính ta đã trở thành đồng loã của bọn sát nhân. Tôi ân hận vô cùng. Vì sao các ông đã không làm như vậy? Vì sao các ông đã để mất dịp đó? Các ông qúa độc đoán! Điều này cũng là tam bạch đản đó. Đời người độc đoán cũng sẽ kết thúc bi thảm như TT Kennedy.
Tôi còn nhớ đã xem hình của Roy Cohn đăng trong báo chí Nữu Ước hồi năm ngoái khi y ra toà. Tôi chưa hề thấy ai bị chứng tam bạch đản nặng bằng y. Vì sao tôi không cố gặp y?Vì sao? Vì tôi ghét sự phách lối của y. Như thế có nghĩa là cả hai chúng tôi bị chứng tam bạch đản!
Khi tôi giáp mặt vợ tôi ở toà án, tôi nhận thấy thêm một điều mới lạ ở nàng: vợ tôi bị chứng tam bạch đản rất nặng và đã từ rất nhiều năm nay. Tôi đã chẳng tìm cách gì để giúp nàng cả. Tôi đã cố tiếp xúc với một số người để giúp đỡ họ, trừ ra nàng. Nhưng thế là tôi vẫn còn bị chứng tam bạch đản.
Vì vậy tôi bỗng nhận thấy việc cho xuất bản cuốn sách này là một sự cần thiết. Tôi chẳng ưa thích được nghề đi bán sách dạo từng nhà, nhưng bây giờ tôi có thể bắt đầu việc đó bằng cuốn sách này.
Tất cả biến cố trong mấy tháng qua, những tai nạn kỳ lạ, những sự trùng hợp rùng rợn, những sự gặp gỡ khó giải thích được, tất cả những sự kiện ấy bỗng nhiên có vẻ như được sắp xếp có lớp lang với nhau.
“Phải tự chữa lành đã, rồi hãy mưu tính bất cứ chuyện gì”. Điều này tôi hải mất cả một năm sau mới thấy được ánh sáng. Trong một năm ấy, tôi đã mất đi 25 kí sức nặng để có được một thân hình hoàn toàn đổi khác. Về mặt thể xác tôi hơn hẳn hồi 25 tuổi. Còn các phương diện khác, dầu khiêm nhường đến đâu cũng phải nhìn nhận rằng hồi xưa khó mà có thể so sánh được với bây giờ.
Ba Lê tháng 1-1965
W.D
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này
Diệu Minh   Mắt của kẻ ác = Tam bạch đản   Apr 23 2007, 08:43 AM
Diệu Minh   Luôn luôn tự quan sát mắt mình và mắt n...   Apr 13 2008, 11:01 PM
babelon   Cháu bị âm toàn diện, hic hic. Cháu đang ...   Jun 4 2009, 11:57 AM
Diệu Minh   Cháu bị âm toàn diện, hic hic. Cháu đang ...   Sep 2 2010, 08:24 PM
UPani   Uầy cô ơi. Răng hô với răng chìa vào th...   Jun 4 2009, 05:20 PM
UPani   Chắc những người tướng đẹp thì quân...   Jun 4 2009, 05:20 PM
Vien Linh   " Hữu tâm vô tướng , tướng tự tâ...   Jun 9 2009, 06:55 PM
Diệu Minh   http://vnexpress.net/Files/Subject/3B/A1/6C/22/thu...   Dec 24 2009, 02:37 PM
Diệu Minh   http://dantri.vcmedia.vn/Uploaded/2009/12/24/giet-...   Dec 25 2009, 02:27 AM
muvitinh   http://i244.photobucket.com/albums/gg14/muvitinh61...   Jan 29 2010, 06:49 PM
muvitinh   http://i244.photobucket.com/albums/gg14/muvitinh61...   Jan 29 2010, 06:55 PM
niemphat   Thank co TRAM,nhieu lan soi qua guong thay minh ta...   Sep 2 2010, 08:05 AM
niemphat   Sach de tai tuong so trong duong sinh nhiu khong c...   Sep 2 2010, 08:12 AM
Diệu Minh   Có quyển nổi tiếng: "Gương mặt b...   Sep 2 2010, 08:16 PM
Diệu Minh   http://dantri.vcmedia.vn/Uploaded/2010/09/16/shi41...   Sep 16 2010, 01:59 PM
Diệu Minh   http://i180.photobucket.com/albums/x315/tramhamngu...   Oct 4 2010, 11:01 PM
Diệu Minh   http://i180.photobucket.com/albums/x315/tramhamngu...   Oct 11 2010, 10:17 PM
LIOVI   Mắt tam bạch đản thời nay quá nhiều , ...   Oct 11 2010, 10:59 PM
Diệu Minh   Tên tam bạch này đã giết cả hai cha mẹ...   Jul 20 2011, 06:21 PM
Diệu Minh   http://vnexpress.net/Files/Subject/3b/bd/21/f1/mat...   Feb 9 2012, 06:07 AM
Diệu Minh   http://imgs.vietnamnet.vn/Images/2012/02/18/14/201...   Feb 18 2012, 09:01 PM
Diệu Minh   http://imgs.vietnamnet.vn/Images/2012/02/18/14/201...   Feb 19 2012, 08:14 AM
Diệu Minh   Ăm thịt đồng loại? những người mắt ...   Jun 1 2012, 11:55 AM
home   nguy hiểm thật   Jun 1 2012, 07:26 PM
Diệu Minh   http://imgs.vietnamnet.vn/Images/2012/06/06/18/201...   Jun 7 2012, 08:23 AM
hoa sen ben ho   Cô ơi, có phải nhìn mắt mình có thể th...   Jun 7 2012, 02:28 PM
Diệu Minh   Cô ơi, có phải nhìn mắt mình có thể th...   Jul 10 2012, 03:03 PM
BAS   Cô ơi, có phải nhìn mắt mình có thể th...   Jul 23 2012, 06:55 PM
giangnoel   Cô Trâm ơi, Giờ mới để ý, mắt cháu ...   Jul 10 2012, 09:24 AM
Diệu Minh   Cô Trâm ơi, Giờ mới để ý, mắt cháu ...   Jul 10 2012, 03:06 PM
Diệu Minh   http://vnexpress.net/gl/phap-luat/2012/07/...rong-...   Jul 12 2012, 01:35 PM
Diệu Minh   http://dantri.com.vn/c36/s36-622661/tong-t...hana-...   Jul 25 2012, 06:55 PM
giangnoel   Tấm hình này là chụp ở góc độ thấp ...   Jul 26 2012, 12:08 PM
Diệu Minh   Thì tiên sinh chả nói tất cả mọi ngư...   Jul 26 2012, 12:42 PM
Diệu Minh   http://vtc.vn/7-342803/phap-luat/loi-khai-...-gai-...   Jul 30 2012, 10:58 PM
Diệu Minh   http://dantri.com.vn/c170/s170-645728/vu-s...hieu-...   Sep 29 2012, 07:49 PM
viethoang   đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt...   Nov 2 2012, 10:27 PM
Diệu Minh   http://dantri.com.vn/c170/s170-660327/bat-...uon-h...   Nov 8 2012, 12:23 PM
Diệu Minh   http://dantri4.vcmedia.vn/F5PTk2fd0dyFcSMai7us/Ima...   Dec 23 2012, 01:00 PM
justmevn   :)) Vậy người châu Á đa phần là đ...   Dec 23 2012, 03:47 PM
Diệu Minh   http://imgs.vietnamnet.vn/Images/2013/03/23/15/201...   Mar 23 2013, 09:21 PM
Diệu Minh   http://dantri.com.vn/su-kien/chan-dung-ten...biet-...   May 31 2013, 08:27 PM
justmevn   Đa phần mắt ai cũng không đều nhau c...   May 31 2013, 09:37 PM
Diệu Minh   http://sohanews2.vcmedia.vn/2013/Sam_Rainsy-91799....   Aug 7 2013, 07:02 PM
Diệu Minh   http://dantri4.vcmedia.vn/mZ4CmU0ghSWg7wdoD7ro/Ima...   Aug 7 2013, 09:19 PM
tusen   http://baodatviet.vn/dataimages/201308/original/im...   Aug 10 2013, 10:30 PM
thành viên mới   Xem trình diễn nhãn cầu bật khỏi hốc m...   Sep 3 2013, 07:29 PM
leos73   G.OHSAWA THUẬT DƯỠNG SINH VÀ Đ...   Oct 12 2013, 07:56 AM
leos73   THÁNH LỄ Hàng bao nhiêu thế kỷ trước T...   Oct 12 2013, 08:06 AM
leos73   ĐỨC TIN VÀ Y KHOA Nhiều soạn giả, nh...   Oct 12 2013, 08:18 AM
leos73   NGUYÊN NHÂN Bệnh tật là gì? Theo lời nh...   Oct 12 2013, 08:21 AM
leos73   SỰ TRỊ LIỆU Bệnh tật không nhất thi...   Oct 12 2013, 08:42 AM
leos73   SỰ KIỂM ĐIỂM HÀNG NGÀY Hạnh phúc đau ...   Oct 12 2013, 08:51 AM
leos73   SỰ LIÊN QUAN GIỮA THỨC ĂN VÀ PHÁI NAM N...   Oct 12 2013, 09:05 AM
leos73   CẦU NGUYỆN VÀ NHỊN ĐÓI Bốn trăm năm t...   Oct 12 2013, 09:07 AM
leos73   THUỐC DÙNG NGOÀI Mỗi lần có dịp thăm v...   Oct 12 2013, 09:10 AM
leos73   THUỐC UỐNG SỐT - Uống kousou (bột sắn...   Oct 12 2013, 09:12 AM
leos73   PHÉP MẦU NHIỆM Tất cả mọi thứ bệnh,...   Oct 12 2013, 09:17 AM
leos73   MUỐI Biển cả đón nhận tất cả mọi ...   Oct 12 2013, 09:19 AM
leos73   ĐƯỜNG Về đường (sucrose) Y khoa Tây ph...   Oct 12 2013, 09:24 AM
leos73   SỮA Từ ngàn xưa, người Trung Hoa, ngườ...   Oct 12 2013, 09:26 AM
leos73   CHẤT LỎNG Lượng nước hàng ngày khó m...   Oct 12 2013, 09:28 AM
leos73   NHAI KỸ Theo lời Thánh Gandhi: “Hãy nhai t...   Oct 12 2013, 09:31 AM
leos73   THỨC ĂN CHÍNH Một trong những sự kiện ...   Oct 12 2013, 09:40 AM
leos73   THỨC ĂN TINH THẦN GẠO LỨT - Gạo lứt t...   Oct 12 2013, 09:48 AM
leos73   CÁC THỨC UỐNG KHÁC CÀ PHÊ OHSAWA- Đây l...   Oct 12 2013, 09:57 AM
leos73   TÍNH ĐỒNG NHẤT CỦA VŨ TRỤ Đố ai tìm...   Oct 12 2013, 10:00 AM
leos73   BẢNG THỨC ĂN DƯỠNG SINH HÀNG NGÀY ...   Oct 12 2013, 11:10 AM
leos73   HIỆN TƯỢNG VẬT LÝ BẢNG ÂM DƯƠNG Xu h...   Oct 12 2013, 02:34 PM
Diệu Minh   http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-...ng-29...   Oct 28 2013, 04:35 PM
thành viên mới   http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-...ng-29...   Nov 3 2013, 11:18 AM
Diệu Minh   http://dantri21.vcmedia.vn/zoom/327_245/5vbKT1cccc...   Dec 19 2013, 01:28 PM
Diệu Minh   http://dantri4.vcmedia.vn/kLmtCyYGgph1lHhk1u5h/Ima...   Dec 25 2013, 08:38 PM
Diệu Minh   http://imgs.vietnamnet.vn/Images/vnn/2014/04/09/15...   Apr 17 2014, 04:59 AM
Diệu Minh   http://dantri4.vcmedia.vn/DVDhXuovZ8m77cpT6Cx/Imag...   Jun 3 2014, 06:36 PM
member   http://i144.photobucket.com/albums/r180/Macrobioti...   Sep 23 2014, 06:02 PM
Diệu Minh   Đao phủ Is: http://m.f29.img.vnecdn.net/2015/0...   Mar 6 2015, 09:35 PM
Diệu Minh   http://m.f29.img.vnecdn.net/2015/03/17/16-03-2015-...   Mar 18 2015, 08:30 PM
Diệu Minh   http://m.f29.img.vnecdn.net/2015/02/19/baghdadi-63...   Mar 18 2015, 08:32 PM
member   http://i144.photobucket.com/albums/r180/Macrobioti...   Mar 25 2015, 06:28 AM
Diệu Minh   http://img.v3.news.zdn.vn/w660/Uploaded/fsmmy/2015...   Mar 25 2015, 07:27 PM
Diệu Minh   http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/hoangnam/2...   Mar 26 2015, 10:04 PM
thành viên mới   http://uphinhnhanh.com/images/5191751_vu_van_tien_...   Aug 11 2015, 08:15 PM
Diệu Minh   [url=http://uphinhnhanh.com/view-5191751_vu_van_ti...   Aug 12 2015, 05:15 AM
thành viên mới   http://uphinhnhanh.com/images/5491116_11952010_418...   Aug 28 2015, 07:22 AM
Diệu Minh   http://i614.photobucket.com/albums/tt230/buithanhh...   Dec 7 2015, 08:57 AM
HoaTraiTim   http://i614.photobucket.com/albums/tt230/buithanhh...   Dec 9 2015, 11:21 AM
tusen   http://www.baomoi.com/huy-dong-40-nguoi-ng.../c/19...   Jun 11 2016, 11:19 AM
Diệu Minh   [img]http://i107.photobucket.com/albums/m283/tramh...   Jun 14 2016, 06:25 PM
Diệu Minh   http://laodong.com.vn/the-gioi/soc-be-trai...chet-...   May 9 2017, 01:28 PM


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 14th June 2024 - 02:27 AM