![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Bạn của mọi người ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 20,051 Gia nhập vào: 13-February 07 Từ: 103 ngách 2 ngõ Thái Thịnh I Thành viên thứ.: 5 ![]() |
Tiên sinh Ohsawa mỗi khi gặp người lạ thường làm 3 điều:
1. Bấm mạnh vào làn da tay giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ 2. Nhìn đôi tai 3. Quán sát đôi mắt người này Nếu nghe tiên sinh phán "Sapaku" tất là cuộc đời người này không mấy yên ổn và có lẽ trong những ngày, tháng, năm tới đây sẽ gặp rất nhiều khó khăn bi thảm, vì những cơ năng tâm linh gần như mất dây liên lạc mật thiết với thế xác và toàn thể cơ cấu của người này đã mất quân bình. Nhưng: Tất cả chúng ta đều là tam bạch đản, ít hoặc nhiều. Làm sao bây giờ ? ![]() Sau đây là quyển sách quí đó: -------------------- ________Ngọc Trâm_________
|
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Advanced Member ![]() ![]() ![]() Nhóm: Members Bài viết: 229 Gia nhập vào: 22-August 10 Từ: thanh hóa Thành viên thứ.: 24,947 ![]() |
THÁNH LỄ
Hàng bao nhiêu thế kỷ trước Tây lịch, người Nhật ngày xưa đã tôn kính đem chuyện ăn uống lên hàng những thánh lễ. Trong nhà, bếp và phòng ăn là chỗ tôn nghiêm, chính ở đó đã bắt nguồn những diễn tiến huyền bí cho sự sống của con người: sự biến thể từ thảo mộc loại để tạo nên sự sống và sự suy tư cho nhân loại. Trên đời này, chẳng điều gì quan trọng hơn. Cùng với muối và lửa, nước và thức ăn đã chuyển hoá một cách kỳ diệu và huyền bí thành thịt, thành máu, thành tư tưởng, thành linh hồn, biết nhớ đến quá khứ, biết nghĩ đến tương lai... đó là tinh hoa của một tôn giáo phát sinh từ một nền văn minh Á Đông xưa bằng bao nhiêu thế kỷ trước khi Thiên chúa giáo xem phép Bí tích tượng trưng cho mọi huyền bí của sự hoá thể. Đối với người phương Đông, hạt lúa kể từ thời sơ khai của nhân loại đã đồng nghĩa với Thượng đế. Vì thế khônglạ gì mà người Nhật đã thần thánh hoá sự dinh dưỡng. Nữ thần “Toyouké” vị thần của loài thảo mộc là vị thần được sùng bái nhất. Nếu trong phép Bí tích của Đạo Gia tô người ta xem bánh lạt và rượu thánh như xác thân của máu huyết của Đấng Ki tô thì bên Đông phương các bậc hiền triết từ bao nhiêu thế kỷ trước đã có rằng hạt lúa là biểu tượng của Thượng đế. Trước bữa ăn, người người đều dâng lời cầu nguyện. Sự ẩm thực chính là mối tương quan giữa Thượng đế với con người. Các tông giáo chính của Đông phương được thiết lập trên những nguyên tắc nhằm tạo nên hạnh phúc và sức khoẻ ngay trên cõi đời này chứ không ở một cõi địa đàng xa xôi nào khi chúng ta nhắm mắt. Do đó những tôn giáo chính của Đông phương đã đặt một nền tảng vững chắc trên những luật lệ và tín điều chi phối sự nuôi dưỡng xác thân theo những nguyên tắc tiết thực rất nghiêm khắc. Nếu tôn giáo chính nào không giữ vững được ngôi vị của mình cùng với thời gian, chẳng qua vì đã lãng quên hoặc xem nhẹ những nguyên tắc căn bản về sinh vật học và sinh lý học của sự sống, chính những sự kiện này tựu trung nó bổ túc thêm cho luật thiên nhiên. Xác thân tàn tạ thì sự sống cũng không còn. Ăn tất là hy sinh đi một phần nào đó của loài cây xanh huyền diệu để tạo ra một mầm sống mới. Nếu con người vì ngu muội hoặc tự kiêu tự đại vô tình hay cố ý hành động trái với trật tự thiên nhiên chi phối vũ trụ thì chính điều đó được gọi là tội tổ tông trong Thánh kinh vậy. Người Á Đông từ ngàn xưa đã hiểu rằng tuỳ thuộc sự ăn uống là những quan trọng bậc nhất của nghệ thuật sống thế nào cho được sức khoẻ và hạnh phúc. Nhưng thế nào là sức khoẻ và thế nào là hạnh phúc? Dù ở Nữu ước, Luân đôn hay ở Ba lê, không chắc gì người ta đã định nghĩa đúng những danh từ ấy. Nhưng từ xưa ở Á Đông danh từ hạnh phúc đã được các bậc thánh hiền định nghĩa rồi. Các triết lý và tôn giáo Đông phương gồm có những giáo lý thực tiễn nhằm đạt được năm yếu tố của hạnh phúc. Nhưng thế nào là sức khoẻ và thế nào là hạnh phúc? Dù ở Nữu Ước, Luân đôn hay ở Ba lê, không chắc gì người ta đã định nghĩa đúng những danh từ ấy. Nhưng từ xưa ở Á Đông danh từ hạnh phúc đã được các bậc thánh hiền định nghĩa rồi. Các triết lý và tôn giáo Đông phương gồm có những giáo lý thực tiễn nhằm đạt được năm yếu tố của hạnh phúc: 1. Tràn đầy sinh lực và hứng thú trong cuộc sống. 2. Chẳng chút lo âu gì. 3. Bản năng tự tồn cao độ để vượt qua mọi hiểm nguy. 4. Thích nghi dễ dàng trong mọi hoàn cảnh. 5. Biết quên mình và yêu thương tất cả. Còn thế nào là sức khoẻ? Các bậc thánh hiền Á Đông đã quy định sáu điều kiện cho sức khoẻ như sau: 1. Không mệt mỏi: sự mệt mỏi là kết quả của bệnh hoạn. Người mạnh khoẻ không khi nào mệt mỏi. Người mạnh khoẻ vượt qua mọi trở lực, chế ngự mọi khó khăn, càng nhiều khó khăn càng hứng thú. 2. Ăn ngon. Có khoẻ ăn mới ngon. Dù với một món ăn thật thanh đạm, người có sức khoẻ vẫn thấy ngon miệng và bằng lòng, biết ơn thượng đế. Một miếng bánh mì đen, một chén cơm gạo hẩm mà vẫn ngon, chứng tỏ một chiếc dạ dày tốt. Sự thoả mãn trong tình dục cũng là một điều kiện sức khoẻ. Người nào thiếu sự ham muốn và thoả mãn trong tình dục là kẻ đi ra ngoài trật tự vô biên của vũ trụ và thiếu một yếu tố chính là sức khoẻ. 3. Ngủ ngon. Người mạnh khoẻ chỉ vài ba phút sau kê đầu lên gối là ngủ say, bất cứ ở đâu, lúc nào. Giấc ngủ êm đềm, không mộng mị, thức dậy đúng lúc đã định trước. Mỗi đêm, giấc ngủ của người mạnh khoẻ chỉ gồm từ 4đến 6 giờ đồng hồ là đủ. 4. Ký ức tốt. Ký ức là địa bàn của đời sống. Một yếu tố căn bản rất quan trọng của cá tính. Càng khôn lớn, càng phải nhớ nhiều, một trí nhớ bền bỉ và chính xác, nếu không con người chỉ là một cái máy. Trí nhớ có tốt thì trí phán đoán của con người mới cao. Kém trí nhớ là dấu hiệu của sự kém sức khoẻ. 5. Tính vui tươi. Người mạnh khoẻ không cau có, gắt gỏng, luôn luôn tươi vui và khả ái ngay cả trong trường hợp khó khăn. Giọng nói, thái độ, ngay cả lời chỉ trích của họ cũng nhuốm sự vui vẻ. Họ biết ơn tất cả mọi người, mọi vật chung quanh. Ngay đối với kẻ thù, họ cũng tìm học được những điều hữu ích. 6. Tư tưởng và hành động chính xác. Người mạnh khoẻ có óc suy diễn nhanh và đúng, hành động kịp thời và chính xác trong mọi trường hợp cấp bách mọi thử thách hoặc tai nạn. Họ tự tạo cho mình một hào quang và sự trật tự ở mọi lĩnh vực trong đời sống hàng ngày. Sự sống, sức khoẻ, thánh linh và sự trường cửu vốn là một. Sức khoẻ và hạnh phúc là biểu hiện của trật tự vũ trụ diễn ra trong đời sống hàng ngày ở từng chi tiết nhỏ nhặt nhất. Trong sáu điều kiện sức khoẻ trên, ba điều kiện đầu thuộc về sinh lý học. Còn ại thuộc về tâm lý học. Người Á Đông căn cứ vào tiêu chuẩn này để định sức khoẻ của mình, 10 điểm cho mỗi điều kiện sinh lý học, 20 điểm cho điều kiện thứ tư và thứ năm; 30 điểm cho điều kiện thứ sáu. Tự cho điểm một cách thẳng thắn mà được 40 trên tổng số 100 điểm là tương đối mạnh khoẻ. Bởi vì không một ai biết rõ ta bằng chính ta, phải không các bạn. Hoa Kỳ có nhiều bệnh viện thần kinh và dưỡng đường, có nhiều bác sĩ về thần kinh học và phân tâm học hơn bất cứ xứ nào, người ta ước lượng cứ mỗi mười người Mỹ thì sẽ có một người vào bệnh viện thần kinh ít nhất một lần trong đời. Tại các nhà hộ sinh công và tư, những bà mẹ được săn sóc rất chu đáo trong thời kỳ thai nghén, thế mà mỗi 15 phút, lại có một đứa bé đần độn ra đời. Nước Mỹ có khoảng 5 triệu rưỡi người đần độn và theo sự ước lượng chính thức thì năm năm nữa con số ấy sẽ lên đến 6,4 triệu, hơn cả dân số thành phố Los Angeles! Kỹ nghệ thuốc men khổng lồ Mỹ quốc hàng năm chế ra đủ loại thuốc kỳ diệu, thế mà cứ đến mùa lạnh, là phân nửa dân số bị ho hen cảm cúm. Văn hoá Mỹ gần như nâng lên hàng tôn giáo việc mưu tìm sự thoả mãn tình dục và hạnh phúc, thế mà sách vở báo chí và thống kê hình sự đều đầy rẫy những câu chuyện đáng thương của những người bị thác loạn về tình dục. Hai mươi triệu người Mỹ bị các chứng dị ứng (allergie) mười lăm triệu đau thần kinh, mười sáu triệu bị khủng hoảng tâm lý và thần kinh, mười triệu bị bệnh kinh niên động mạch cố kết và đau tim, tám triệu lở loét nội tạng, khoảng một triệu bị tê bại, bị lao, chứng ngạnh hoá đa hình và tê liệt hệ xương sống. Trên mười triệu người bị mắt kém, cũng ngần ấy bị điếc, nhiều hoặc ít, mười lăm triệu bị hiếm muộn, trên bốn triệu ghiền rượu kinh niên, hàng ngàn người nghiền ma tuý hay xì ke. Và khoảng 40 triệu - hay trong năm người thì có một người bị bệnh mập phì. Mỗi năm mỗi người Mỹ trung bình bỏ ra vào khoảng 300 Mỹ kim về thuốc men - hơn cả lợi tức tổng quát của nhiều gia đình ở một vài nước khác. Họ tiêu trên 100 triệu Mỹ kim mỗi năm về thuốc ngủ, nhiều triệu khác mua thuốc khác để thức. Mỗi năm họ tiêu thụ khoảng bảy triệu kí aspirine- hàng tấn thuốc viên để chữa bệnh bón, để uống cho xuống cân, để ăn cho ngon, cho nhiều, để ăn ít đi, thuốc kích thích, thuốc để trị cái tật hay uống thuốc... Nền y học chính thức của Mỹ phân chia ra không biết bao nhiêu ngành - có không biết bao nhiêu người chuyên về bao thứ bệnh, về mỗi khu vực riêng biệt của thân thể con người - nhiều đến nỗi người bệnh không biết uống thứ thuốc gì nữa - vì có quá nhiều thứ thuốc đặc biệt, chính các bác sĩ cũng luống cuống và rối trí trước sự phức tạp do chính họ đã tạo ra. Vì sao có tình trạng hỗn độn này trong một nước mà khoa học và kỹ thuật đã đạt được những thành quả sáng chói như thế? Thật ra chẳng riêng gì Hoa Kỳ, mà phần lớn các nước văn minh Tây phương, nhất là các nước chịu ảnh hưởng sâu xa của nước này, đều cùng chung một tình trạng. Nhưng chỉ ở Mỹ quốc mới nổi bật được sự tương phản giữa sự quá dồi dào về vật chất với sự suy yếu về tâm linh cùng thể xác con người. Ngã tư Đại lộ thứ 5 và đường thứ 52 thành phố Nữu Ước có thể xem như nơi tập trung và tiêu biểu cho hầu hết mọi ngã tư đường trên đất nước Mỹ quốc. Nhưng mỗi lần tôi trở lại nước Mỹ và mỗi lần qua chỗ nói trên, tôi như bị thôi miên và bàng hoàng khiếp đảm. Có lúc tôi không tin chính mắt tôi nữa khi nhìn vào mặt những người Mỹ đi qua đó mỗi phút. Những thống kê rùng rợn - chính thức hoặc không chính thức - chỉ nói lên được một phần câu chuyện. Còn toàn bộ câu chuyện phải do chính những đôi mắt của người Mỹ kể lại. Thể xác không nói dối. Và đôi mắt - cửa sổ của linh hồn - lại càng ít nói dối hơn nữa. Hầu như tất cả những người Mỹ tôi được gặp đều ít nhất bị chứng tam bạch đản. Từ xưa, người Á Đông nào cũng biết ý nghĩa rùng rợn của danh từ Sanpaku. Nhưng có một điều lạ là người Tây phương không có chữ nào đồng nghĩa với nó cả. Danh từ Sanpaku nghĩa đen là ba vùng trắng: nó chỉ tình trạng của con mắt để lộ ra khoảng trắng quanh con ngươi. Đối với một đứa bé sơ sinh mạnh khoẻ, một phần dưới của con người hình cầu sậm màu giữa con mắt - được che khuất trong mí dưới, tựa hình mặt trời đang mọc. Trái lại, ở người chết hai bên con ngươi trợn ngược lên phía trên như muốn lẫn vào trong sọ, để lộ ngoài hai vùng trắng hai bên, còn thêm một vùng trắng thứ ba giữa con người và mí mắt dưới: đó gọi là tam bạch đản (ba vùng trắng): Sanpaku. Bất cứ ai khi gần chết (không phân biệt già trẻ), lúc đau ốm bệnh hoạn, hoặc về già con người đi dần lên phía trên, rút dần vào sọ, để hiện ra ba vùng trắng đã nói ở trên. Tình trạng tam bạch đản đó, từ nghìn xưa người Á Đông đã biết tới, và thường nhìn vào mắt nhau để xét đoán. Dấu hiệu tam bạch đản hiện ra ở người nào, chứng tỏ từ mặt thể xác đến tâm linh người đó đang bị xáo trộn và mất thăng bằng. Đời sống của họ đã đi ra ngoài trật tự chung của vũ trụ; bệnh tật, đau khổ và tai nạn đang chờ đón họ. Tình trạng tam bạch đản là lởi cảnh cáo, một dấu hiệu của thiên nhiên cho ta hay rằng sự sống của ta đang bị đe doạ có thể sẽ đi đến một kết thúc bi thảm. Nếu bạn còn hồ nghi, bạn hãy nhìn kỹ khuôn mặt các nhân vật lịch sử và những nhà lãnh đạo của thế giới mà sự nghiệp đã bị cắt ngang vì cái chết quá đột ngột. Adolf Hitler, Abraham Lincoln, Ngô Đình Diệm, tướng Abdul Karim Kassem, Marie Antoinette, Quận công Ferdinand, Tổng thống John F. Kennedy , tất cả đều bị chứng tam bạch đản! Sanpaku cũng không buông tha cả những người đẹp: nhìn ảnh Marilyn Monroe, là thấy nàng bị chứng tam bạch đản rất nặng. Còn nhiều người đẹp khác, những nàng kiểu mẫu kiều diễm trình bày y phục trong các tạp chí thời trang đều có ít nhiều chứng tam bạch đản. Những người này nên sớm lo liệu cho tình trạng an toàn của mình trong tương lai. Cũng như những cơn đau, tam bạch đản là một dấu hiệu rất hữu ích. Nó báo trước sự mất quân bình của con người để kịp thời chữa trị. Các bạn hãy tự quan sát lấy mình và những người thân yêu - Các bạn có bị chứng tam bạch đản không? Một phương thức trị liệu mà các bạn có thể tìm thấy là cải thiện bằng cách ăn uống - hay nói cách khác là một lối tiết thực- để chữa trị tình trạng suy kém sức khoẻ của mình. Tôi lớn lên và được nuôi dưỡng trong niềm tin tưởng về nền y học Tây phương. Nhưng điều may mắn cho tôi, là tôi mắc bệnh nan y ngay từ thuở thiếu thời, bắt buộc tôi phải tự tìm cách cứu chữa lấy mình. Gia đình tôi như hầu hết các gia đình Nhật Bản khác vào đầu thế kỷ 20, bị ảnh hưởng mãnh liệt của y học, kỹ thuật và tôn giáo Tây phương du nhập ở Nhật bản khi Đô đốc Perry đặt chân lên đất Nhật cách đây gần nửa thế kỷ. Nhưng rồi lần lượt mẹ tôi từ trần lúc 39 tuổi, hai người chị tôi mất khi chưa được 10 tuổi và một người anh tôi mất năm 16 tuổi, tất cả đều được chữa trị bằng thuốc Tây nhưng vô hiệu. Chính những vị bác sỹ Tây y ấy cho biết bệnh lao của tôi đã đến thời kỳ vô phương cứu chữa, cộng thêm bệnh loét dạ dày và vô số các bệnh khác nữa. Lúc bấy giờ tôi được 16 tuổi, tuổi từ trần của anh tôi. Bị khoa học tây y ruồng bỏ, tôi đành phải tìm cách tự cứu, không còn trông mong vào y khoa Tây phương hiện đại... Tôi quyết tâm trở thành bác sĩ của chính tôi. Thế là tôi bắt đầu nghiên cứu Đông y, một khoa học đã có từ hơn 5 ngàn năm nay, nhưng dưới làn sóng xâm nhập ồ ạt của nền văn minh Tây phương, nó bị chính phủ Nhật bản chúng tôi gạt bỏ ra ngoài. Và trong vòng chưa đầy năm năm, tôi đã tự cứu sống được tôi, nhờ đeo đuổi và áp dụng phương thức trị liệu này. Bởi vậy tôi quyết chí đeo đuổi việc học hành, nghiên cứu và dành hết quãng đời còn lại để đi sâu vào khoa triết lý y học Đông phương đã cứu sống tôi. Trước khi tôi ra đời không bao lâu có một vị bác sĩ danh tiếng Nhật Bản, ông Sagen Isiduka, đã tái khám và tìm hiểu được trở lại lý thuyết Duy nhất nguyên lý, một nguyên lý xưa hàng năm ngàn năm của Á Đông. Bác Isiduka chứng minh hiệu lực của Nguyên lý Âm Dương về mặt y khoa và sinh hoá học khi ông khám phá ra sự tương phản hỗ tương giữa Sodium (Na) và Potassium (K) nguyên tắc này đóng một vai trò căn bản trong đời sống con người. Ông Sagen Isiduka chữa lành được hàng trăm ngàn bệnh nhân đáng thương bị các bác sỹ Tây phương từ chối cứu chữa vì liệt họ vào loại nan y. Tại Tokyo, tiếng tăm ông lừng lẫy đến nỗi thư gửi cho ông chỉ cần đề: “Bác sĩ chống bác sĩ” là thư đến tay ông. Khi ông mất, đám tang ông dài hơn 3 cây số. Sau này thì trên thực tế chỉ có một mình tôi là người độc nhất tiếp tục công trình của ông. Gạt ra ngoài tất cả các vấn đề thuộc về tâm lý, triết học và tâm linh sẽ nghiên cứu sau, tôi bắt đầu công cuộc nghiên cứu của riêng tôi bằng cách tìm hiểu đâu là ngùôn gốc vật lý và sinh vật học của cơ thể con người. Trước nhất tôi đi sâu vào công việc khảo sát sự dinh dưỡng bằng cả hai mặt lý thuyết và thực hành, và đây là những nguyên tắc căn bản bất di bất dịch của sự dinh dưỡng con người. 1. Có ăn mới sống - có ăn mới có thể suy nghĩ, nói năng, hành động, thương yêu thù hận, gây gổ, cưới vợ lấy chồng, sinh con đẻ cái, chém giết lẫn nhau. 2. Không ăn là không làm gì được, và tất nhiên không thể sinh tồn được. Như vậy thức ăn phải là mối bận tâm đầu tiên của con người, kể cả người đạo đức nhất cũng vậy. Không có thức ăn làm sao có Đức phật và Đấng Christ. Có ăn mới có sinh tồn. Con người, cũng như mọi sinh vật, chỉ là thức ăn được chuyển hoá. Nhưng thức ăn nào đây? Điều tôi khám phá ra trước tiên là tất cả thức ăn đều bắt nguồn từ thảo mộc. Không một động vật nào sinh tồn được, nếu không có thảo mộc. Cơ thể con người không tiêu thụ được những chất vô cơ, biến chế các chất vô cơ, thành protein, các bôhirat, chất béo hay khoáng chất. Những hỗn hợp đó là do tác dụng của thảo mộc mà ra, sự diễn biến ấy là một hiện tượng kỳ diệu của loài thảo mộc. Thảo mộc hút các chất vô cơ để biến chúng thành thức ăn hữu cơ, đây là một phép lạ về sự diễn tiến tạo nên do sự hỗ tương tác dụng của các năng lực thiên nhiên, phép lạ ấy không một phòng thí nghiệm nào của loài người bắt chước được. Ăn thịt, là thực hiện hai lần diễn tiến ấy: lần đầu nơi con vật, lần thứ hai trong con người. Loài thảo mộc làm việc không ngừng để tạo nên lá, nên rễ, nên củ và các loại trái nuôi dưỡng động vật. Thảo mộc là mẹ của mọi động vật. Lá cây, hạt củ, trái, các thức đó biến thành cơ thể động vật do sự tiêu hoá và đồng hoá (assimilation). Nếu có lúc nào đó, bạn được thơ thẩn một mình dưới vòm cây xanh ngát một màu giữa rừng u tịch, phải chăng bạn có cảm giác bình yên như đứa con trẻ trong vòng tay chở che âu yếm của bà mẹ. Con người là chúa muôn loài. Tất cả loài sinh vật sinh ra để phục vụ hay giải trí cho con người. Mỗi loài đều có quyền sinh tồn của riêng nó. Nhưng phải chăng để thoả mãn giác quan mà con người phải ăn thịt động vật? Về mặt tương quan giữa con người và Thiên nhiên (ecologically) tất cả chúng ta đều là con của mẹ thảo mộc. Không có thảo mộc, không một động vật nào tồn tại trên trái đất này. Chúng ta hoàn toàn lệ thuộc - trực tiếp hay gián tiếp - vào các sản phẩm thảo mộc. Hồng huyết cầu tuỳ thuộc vào lục diệp tố. Tất cả thức ăn thảo mộc đều là vật liệu thuần nhất để bảo trì và cấu tạo cơ thể con người còn thịt động vật và các sản phẩm phụ thì ngược lại. Thảo mộc là thức ăn thượng đẳng, cho nên ta phải ăn thảo mộc và các sản phẩm trực tiếp của nó. Đó là một định lý sinh vật học và một định luật thiên nhiên thiết yếu. Trước khi Chúa phán: “các con hãy đi các nơi mà sinh sản” , trong cuốn “Sáng thế ký” thì ngài phán : “Ta ban cho các con thảo mộc sinh tươi làm thức ăn”. Các dân tộc Đông phương, nhất là Trung Hoa và Nhật Bản đã ăn chay từ hàng ngàn năm nay. Những món chay cổ truyền của người Nhật rất ngon, trình bày đẹp mắt, rất bổ dưỡng. Chúng bắt nguồn từ hai cuốn sách quan trọng của y khoa Đông phương: cuốn Charak - Samhita, phần I và cuốn Nội kinh của Hoàng đế Houana. Hai cuốn sách này gồm hết tinh tuý nguyên thuỷ nền triết học Đông phương. Sau nhiều năm nghiên cứu tôi tin chắc rằng con người phải trung thành với định luật thiên nhiên và tuỳ thuộc hoàn toàn vào người mẹ thảo mộc. Nếu vì lý do khí hậu và kinh tế mà trong trường hợp cấp bách - phải ăn thịt động vật, thì nên dùng rất ít và nấu nướng cẩn thận để làm giảm động vật tính của nó càng nhiều càng tốt. Về phương diện cấu tạo, bản chất hàm răng và bộ ruột chứng tỏ con người phải ăn chay. Rau cỏ và thức ăn thông thường hợp lý và thiên nhiên, việc ăn thịt và sản phẩm động vật có tính cách thuần lý và mạo hiểm. Nhưng ăn chay mà không căn cứ trên triết lý của Duy Nhất Nguyên Lý cũng không đủ và có thể là ta chỉ ăn tuỳ hứng: đáng lẽ phải tiết thực, con người lại quá ham ăn ham uống. Muốn đạt được sức khoẻ và hạnh phúc, con người phải giản dị trong việc ẩm thực và luôn luôn ý thức về trật tự vũ trụ. Hai định luật đầu tiên trong căn bản luận lý của thuyết Duy Nhất Nguyên lý là: - Có nhân, phải có quả. - Có bề mặt, phải có bề trái. Hai định luật này là nền tảng của mọi tôn giáo và của nền Triết học y lý Đông phương. Nhân và quả vốn đối lập nhau nhưng cả hai cùng phải có, không thể thiếu một. Cũng vậy, trên thế giới vật chất tương đối này, bề mặt phải ngược với bề trái. Sinh dẫn đến tử - vui đưa đến buồn - đẹp tìm đến xấu- động trở thành tĩnh - Sức mạnh đưa đến suy yếu - Mọi kết cuộc sẽ ngược lại với lúc khởi đầu. Thái cực kia. Đó là định luật bất di bất dịch của thiên nhiên mà tôi gọi là Trật tự vũ trụ. Định luật đơn giản nhưng sâu sắc này chi phối sự sống trong cõi đời tương đối khác biệt với cõi tuyệt đối vô biên trường cửu. Khi nhận thức được như vậy, thì cơn bệnh gọi là nan y không còn gì là khó hiểu, là bất trị cả. Bằng không thì dầu với một chứng bệnh hết sức tầm thường, cũng chẳng bao giờ ta biết cách chữa trị. Người nào vì bệnh tật, vì tai nạn mà chết sớm, chính là vì họ mất đi cái quyền được sống, hậu quả tất nhiên sau nhiều năm tháng vi phạm trật tự của thiên nhiên, thiên nhiên vốn giàu lòng khoan thứ, bệnh tật đến với ta, có nghĩa là một sự cảnh cáo, một sự báo nguy để ta cảnh giác. Bệnh tật không phải là một hình phạt, mà là một cơ hội chót để ta dành lại quyền được sống. Chỉ cần để ý đến cơ thể, là biết được chúng ta phải làm gì. Nhưng than ôi, đã có mấy ai thèm biết tới những lời báo động đó; tin tưởng vào cái là “y khoa khoa học”, họ giao phó tính mạng mình cho mấy ông thầy thuốc được đào tạo để “chặn đứng triệu chứng và làm dịu mất đi tiếng chuông báo thiêng liêng đó của thiên nhiên”. Tôi không đồng ý với Tây y về hai điểm: Điều thứ nhất Tây y không để ý đến vấn đề đạo đức và tâm linh, và bằng mọi giá phát triển những phương pháp và chế biến các loại thuốc chỉ nhằm huỷ diệt triệu chứng của bệnh tật. Điều thứ nhì là các phép trị liệu Âu tây, các thứ thuốc huyền diệu chặn đứng triệu chứng bệnh tật của một thế hệ lắm khi gây ra thêm nhiều bệnh khác cho các thế hệ nối tiếp. Y khoa xã hội hoá ở bên Anh, đột nhiên tung ra thị trường hàng loạt sinh tố và thuốc men mới. Kết quả là người ta khám phá ra nhiều điều hay. Bà mẹ nào trong lúc thai nghén uống quá nhiều sinh tố D, sẽ sinh ra những đứa con tật nguyền và chậm tiến. Gần đây hơn, những thứ thuốc gọi là anti-histamine mà người ta khuyến khích tác dụng phụ dùng để trị bệnh buồn nôn buổi sáng lại gây nên tật nguyền cho súc vật. Đó lại cũng là kết quả đáng tiếc của lòng tin mù quáng (cuồng tín) vào khoa đối chứng trị liệu mà nạn nhân đáng thương là những đứa bé sắp ra đời. Y khoa Đông phương đặt nền tảng trên những định lụât thiên nhiên có từ xưa cho nên không nhằm huỷ diệt các triệu chứng của căn bệnh mà nhắm ngay vào nguồn gốc của bệnh tật. Từ xưa ở Đông phương y khoa đã tiến từ khoa triệu chứng trị liệu đến khoa phòng bệnh trị liệu, rồi từ đó tiến đến Yoga (thiền) và nghệ thụât sức khoẻ có tính chất tôn giáo - Sau đó nó tiến đến Dưỡng sinh (Thuật Trường sinh) Y khoa xã hội hay nôm na gọi là sức khoẻ công cộng, cùng với triết học y lý chân chính đồng hoá để rồi trở nên một phần của cả hệ thống luận lý về vũ trụ - Vệ đà giáo, Ấn độ giáo, Bà la môn giáo, Do Thái giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Thần đạo giáo, và sau hết là Lão giáo. Mục đích chính của các tôn giáo là đưa con người đến chỗ siêu thoát (extase) tự do vô biên, công bình tuyệt đối và hạnh phúc vĩnh cửu - bằng cách áp dụng những giáo lý triết lý thiết thực của Nguyên lý duy nhất. Các môn đệ của y khoa triệu chứng trị liệu hiện đại - hình thức sơ khai và thô sơ nhất của y khoa - nghiên cứu các ngành y khoa của người Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản và Ả Rập qua nhãn quan hẹp hòi của họ, nên họ lúng túng trong cái mê hồn trận (labyrinthe) của một rừng cỏ cây và thuốc trị rắn cắn. Lý do là y khoa triệu chứng trị liệu hiện đại chỉ chú tâm chữa trị các triệu chứng bệnh tật với bất cứ giá nào và người ta dùng cả những kỹ thụât tàn bạo, ích kỷ hay phi luân mà gần như không ý thức được việc cần phải chữa tận gốc cơn bệnh ngay nơi người bệnh. Chúng ta có thể tóm tắt cá giai đoạn tiến triển y khoa như sau: 1. Triệu chứng trị liệu: huỷ diệt triệu chứng của con bệnh. 2. Phòng bệnh trị liệu. 3. Nghệ thuật sức khoẻ: nghiên cứu phương pháp và cách thức nằhm đạt được và duy trì sức khoẻ thể chất. 4. Y khoa trường sinh: nghệ thuật hoàn đồng và trường sinh. 5. Y khoa giáo dục và xã hội luân lý nhằm tạo sức khoẻ cho người dân, tự do và công bằng trong xã hội. 6. Triết học y lý nhằm vào bình diện tâm linh của tư tưởng và trí phán đoán. 7. Y khoa tối thượng, có tánh cách giáo dục, sinh vật học và sinh lý học nhằm làm cho con người trở nên vị lương y của chính mình, làm cho người bệnh tự nhận thức được ý nghĩa của hệ thống luận về vũ trụ. Y khoa tối tượng chẳng những chữa lành mọi bệnh tật hiện tại lẫn tương lai mà còn tạo nên một nền tảng sức khoẻ và hạnh phúc thật sự. Muốn có được một nền y khoa toàn diện chữa trị tận gốc và vĩnh viễn mọi căn bệnh,ta phải đạt đến giai đoạn cuối cùng, giai đoạn y khoa tối thượng. Tôi thấy là người Âu Mỹ tìm chân lý trong một rừng chi tiết bằng những kỹ thuật phân tích. Cả một hệ thống chuyên viên cứ vùi đầu vào kính hiển vi để tìm tòi, phân tích tỉ mỉ cách cấu tạo các mô,các tế bào, họ quá chú tâm đến các chi tiết mà không để ý đến toàn bộ hệ thống cấu tạo của con người, nào tai nào mắt, nào môi, lòng bàn tay, ngón tay, hình dạng, thân thể, dáng điệu, hành động. Bởi vì chân lý vốn là toàn bộ. Y khoa tối thượng giai đoạn thứ 7 và cao nhất - quá đơn giản về mặt kỹ thuật nhưng lại rất thâm sâu về nền tảng triết lý. Nó không chữa trị triệu chứng mà lại nhắm vào căn nguyên cơn bệnh. Vì lẽ nguồn gốc của bệnh tật là sự vi phạm trật tự vũ trụ do tính ngu dốt hay kiêu căng mà ra, y khoa tối thượng nặng về kiên tâm trì chí, và đôi khi nặng về triết lý và giáo dục hơn là chấm dứt cơn bệnh tức khắc bằng cách dùng thuốc hoặc giải phẫu. Y khoa tối thượng dạy con người cách thức làm cho bản năng sinh tồn và năng lực nội tại tác dụng thế nào để đạt cho được sự suy xét đúng đắn. Theo triết lý Thiền Tông Phật giáo thì bệnh tật mở đường cho con người đón nhận sức khoẻ hoàn toàn và hạnh phúc mà chỉ y khoa tối thượng mới có thể đem lại cho y. |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 15th June 2025 - 11:12 PM |