![]() |
![]() |
![]()
Bài viết
#1
|
|
![]() Rinkitori Tojimomi ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 125 Gia nhập vào: 7-February 07 Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ Thành viên thứ.: 3 ![]() |
KÍNH VẠN HOA Phổ chiếu Herman Aihara Lời giới thiệu Vào đầu thập niên 90, toàn thể dân Mỹ sống trong tinh thần căng thẳng vì sợ chiến tranh hạt nhân, ung thư, AIDS. Giữa lúc ấy, bác sĩ Anthony Sattilaro, giám đốc bệnh viện lớn nhất ở Philadelphia, trình bày trên màn ảnh truyền hình, trước nhiều ký giả đại diện cho nhiều tờ báo nổi tiếng, về thành quả tự trị lành ung thư đã di căn của mình ở tinh hoàn, bẹ sườn, xương sống và bàng quang bằng phương pháp Thực Dưỡng (Macrobiotics). Mọi người thở phào nhẹ nhõm, như vớ được chiếc bè lúc sắp chết đuối. Hàng triệu người đổ xô đến thăm các trung tâm Vega (trung tâm Thực Dưỡng) rải rác trên toàn nước Mỹ để mong thuốc thần đem lại cho sức khoẻ hoàn hảo. Cuốn Kính vạn hoa còn gọi là Phổ chiếu (Kaleidoscope) của Herman Aihara - người kế tục xuất sắc của Ohsawa - kịp thời tu bổ những sai sót của những môn sinh đã và đang thực nghiệm phương pháp Thực Dưỡng, giúp ổn định tâm tư một số người sắp nhập môn và đang tôn thờ Thực Dưỡng như tiên dược vạn năng. Chỉ cần lắc nhẹ ống kính vạn hoa thì tức khắc mọi hình sắc bên trong đều đổi thay. Cũng thế, cuộc sống con người đổi thay theo luật tuần hoàn của vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, sáng, chiều, xuân, hạ, thu, đông... trôi dạt theo từng làn sóng tư tưởng, và nhất là sức khoẻ của con người cũng thay đổi theo sự biến đổi đó, mà nguồn gốc là phẩm chất của các món ăn, thức uống. Tác giả Herman Aihara đã tiếp bước tiên sinh Ohsawa đi du thuyết khắp nơi trên thế giới và cùng với Michio Kushi (hiện đang ở Massachusettes) tiếp tục phong trào Thực Dưỡng ở Mỹ và ở các nơi khác. Trong lúc đi thuyết giảng, ông trả lời rất nhiều câu hỏi của người nghe và các môn sinh. Từ kinh nghiệm của bản thân và từ những buổi tham vấn ấy, tác giả viết ra cuốn sách này. Những ai muốn hiểu rõ bản chất phương pháp Thực Dưỡng, của Ohsawa, muốn học âm dương theo cách tiếp cận phương Tây, muốn thấu hiểu AIDS, ung thư theo nhãn quan y lý phương Đông, muốn khỏi mất thì giờ, tiền bạc vì bệnh tật..., xin mời đọc Kính vạn hoa (Phổ chiếu). Cuốn sách còn giúp bạn đọc hiểu nguồn gốc con người, hiểu thấu nguyên lý Thiền, để sống hợp với Đạo, với cõi đời vô tận, để sống vui với gia đình, bạn bè và với mọi người trên quả đất này bằng tấm lòng từ bi bác ái, bằng tấm lòng bao dung, đại đồng. Cuốn sách bao gồm 63 bài ghi chép, bài giảng, tùy bút... độc lập, được viết trải dài theo địa lý (từ châu âu đến châu Mỹ) và theo thời gian từ tháng 1-1979 đến cuối năm 1985. Bạn đọc có thể đọc riêng từng bài như một câu chuyện độc lập. Cũng do vậy, bạn đọc sẽ thấy nhiều ý tưởng, sự kiện được trình bày lặp đi lặp lại trong nhiều bài. Tư tưởng chủ đạo của Thực Dưỡng - như tác giả trình bày trong sách đã ngày càng được minh chứng là đúng đắn và được các môn đệ phái Thực Dưỡng phát triển. Do vậy, để góp phần giúp bạn đọc tìm hiểu quá trình tư tưởng cũng như các giai đoạn phát triển của phong trào Thực Dưỡng, chúng tôi dịch gần như nguyên văn bản "Kaleidoscope" của tác giả Herman Aihara (George Ohsawa Macrobiotic Foundation, Oroville, California, 1986). -------------------- Mini chan ga ichiban
![]() ..::Mini::.. |
|
|
![]() |
![]()
Bài viết
#2
|
|
![]() Rinkitori Tojimomi ![]() ![]() ![]() Nhóm: Administrators Bài viết: 125 Gia nhập vào: 7-February 07 Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ Thành viên thứ.: 3 ![]() |
21. Từ bệnh tim đến bệnh ung thư
Tháng 7 năm 1981 Trước kia tại Mỹ số tử vong vì bệnh tim và tim mạch là mối lo sợ hàng đầu của dân chúng. Đến nay thì thống kê của chính phủ cho biết tỷ lệ tử vong vì các bệnh này đã giảm đi 10% đối với bệnh tim và 16% đối với bệnh tim mạch (từ 1960-1977). Sức khoẻ của dân chúng đã cải thiện rồi chăng? Trong 20 năm qua, các ăn uống đã đổi thay rất nhiều. Có 5 điểm sau đây giải thích sự thay đổi này: 1. Vào năm 1962, sau khi Rachel Carson viết cuốn “Mùa xuân yên tĩnh” thì vấn đề ô nhiễm môi sinh được chú ý rất nhiều. Mọi người quan tâm đến thực phẩm và chọn các thực phẩm thiên nhiên, không tinh chế, không bị pha trộn thuốc bảo quản hay màu thực phẩm. 2. Ancel Keys đã hướng dẫn một cuộc thực nghiệm với 12.000 người, suốt thời gian từ 1948 đến 1960 và kết luận rằng các bệnh tim và tim mạch đều do lượng cholesterol cao trong thực phẩm gây ra. Bản báo cáo của A. Keys đã được đăng ở trang bìa của thời báo Times khoảng năm 1960. Lúc ấy tiên sinh Ohsawa đang ở căn chung cư của tôi tại Nữu Ước và tiên sinh rất thích bài báo ấy. Bài báo khuyến cáo dân Mỹ hãy giảm bớt các thức ăn quá béo như thịt bò, heo, gà, trứng và pho mát, khuyến khích nên dùng dầu thực vật thay cho mỡ động vật, bơ thảo mộc thay cho bơ động vật, dùng sữa ít chất béo hơn sữa thường dùng... 3. Có một sự thay đổi lớn lao trong chế độ ăn uống của người Mỹ là nhờ bác sỹ người Anh tên là Denis Burkitt. Ông từng làm việc tại một bệnh viện ở Nam Phi vào thập niên 1950 và ghi nhận rằng có một bộ lạc không có bệnh tim mạch trong suốt 5 năm. Ông rất thắc mắc và muốn tìm rõ nguyên nhân. Ông thấy dân bản xứ chỉ ăn 10% chất béo trong số thực phẩm thường dùng hàng ngày mà họ còn ăn thức ăn nhiều xơ. Ông cũng thấy rằng những người nào trong bộ lạc ăn uống theo chế độ của dân da trắng (đường, thức ăn bị tinh lọc, mất chất xơ...) đều bị bệnh tim và tim mạch. Người dân nào ăn uống theo lối cổ truyền thì vẫn tráng kiện. 4. Tác dụng của chất cholesterol và chất xơ đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Họ kết luận: Thực phẩm chứa nhiều cholesterol và có ít chất xơ là căn nguyên quan trọng nhất gây ra bệnh tim và tim mạch. Khám phá mới này đã được in thành cuốn sách “Các mục tiêu dinh dưỡng của nước Mỹ ”, do Uỷ ban Thượng viện chuyên trách về dinh dưỡng soạn thảo, đứng đầu là Thượng nghị sĩ McGovern – tháng Giêng, 1977). Về sau, khuyến nghị trong sách đã phải sửa đổi do áp lực của các kỹ nghệ gia sản xuất thịt, sữa và đường. 5. Hiện nay cách ăn uống dành cho bệnh tim được phổ biến nhất là chế độ ăn kiêng của Pritikin: không muối, không đường, ít protein và chất béo (10% thực phẩm gốc động vật) và không dùng thêm chất dầu, do đã có sẵn trong ngũ cốc lứt, rau củ và trái cây. Lối ăn uống này rất giống với ăn uống của phương pháp Thực Dưỡng và rất thích hợp cho mọi người. Nhưng vì không am tường nguyên lý Âm Dương nên muối bị cấm dùng còn trái cây thì lại được khuyên dùng. Trái cây, nếu dùng nhiều, sẽ làm cho một số người bị âm thịnh và sức khoẻ bị mất quân bình. Những sự thay đổi về chế độ ăn là nguyên do chính khiến cho tỷ lệ tử vong vì bệnh tim giảm trong thời gian từ năm 1960-1977. Tuy vậy sức khỏe người dân Mỹ vẫn không được cải thiện vì trong thời gian này (1960-1977), tỷ lệ chết về ung thư lại tăng 16%. Rõ ràng là số người chết vì ung thư đã thế mạng cho số người chết vì tim mạch và chính quyền đã cải cách lối ăn uống cho người bệnh tim, chứ không phải cho người mắc bệnh ung thư. Giờ đây chính phủ lại tìm phương cách ăn uống ngừa và trị ung thư. Tại sao số bệnh nhân về tim và tim mạch giảm đi trong khi số bệnh nhân ung thư lại tăng? Bệnh tim đã giảm vì dân chúng dùng ít chất béo và dùng nhiều chất xơ hơn. Ung thư hoành hành vì lượng đường và lượng hóa chất tiêu thụ đã tăng vọt. Nhưng nguyên do lớn nhất là muối bị khai trừ. Các chuyên viên dinh dưỡng và y khoa sợ muối, tất cả đều chống đối muối. Vì thực phẩm gốc động vật và thực phẩm chế biến đã chứa nhiều muối nên các vị này vin cớ đó để khuyên bệnh nhân đừng dùng muối để nêm khi nấu ăn và muối gia vị trên bàn ăn. Nhưng ta nên nhớ muối là món tạo ra chất kiềm mạnh nhất. Thiếu chất này cơ thể thiếu sức đề kháng, sức miễn nhiễm và không ngăn chặn nổi sự phát triển của tế bào ung thư. Muối có nhiều dương tính nên cản trở sự phát triển của các tế bào u ác mang âm tính. Những người ăn chay dùng thực phẩm thảo mộc và những người không dùng thực phẩm chế biến, nếu không dùng muối để nêm khi nấu ăn thì không đủ lượng Na để duy trì môi trường kiềm trong thể dịch, nói cách khác là đã tạo ra sự mất quân bình giữa kali và natri (K/Na) trong dung dịch ở phần liên bào hay phần nội vi tế bào. Thiếu muối, ung thư không thể bị kiềm chế. Nhưng muối tinh chế cũng không tốt. Ta nên nêm thức ăn bằng muối thiên nhiên khi nấu nướng để chất natri phối hợp dần với chất bột, chất đạm hay chất béo mà không cản trở hoạt động của tim. Ngược với muối dùng để nấu ăn, muối ở bàn ăn (muối tinh) làm thay đổi hàm lượng Na trong máu quá nhanh gây tác hại cho nhịp tim dễ đưa đến bệnh tim. Khi dùng cốc loại, rau trái tươi không nấu với muối thì bữa ăn thiếu hẳn natri. Vậy thì thế quân bình (tỉ lệ) K/Na trong cơ thể cũng bị chao đảo, bệnh tật lại sinh ra. Vậy là dân Mỹ giảm lượng muối để ngừa bệnh tim mà không cứu xét tường tận cách chọn thức ăn. Nếu thực phẩm động vật hay thực phẩm đã được chế biến sẵn thì muối không cần thiết, nhưng khi dùng thực phẩm thảo mộc tươi hoặc không dùng thực phẩm gốc động vật thì muối lại cần thiết. Sự thay đổi lượng Natri và Kali trong đậu đỗ Thực phẩm (100g) Na (mg) K (mg) Đậu tươi 0, 9 380 Đậu đông lạnh 100, 0 160 Đậu đóng hộp 230, 0 180 Khi nấu ăn theo phương pháp Thực Dưỡng, misô và tương được sử dụng làm gia vị thay thế muối. Hai loại này chứa nhiều natri, ngoài ra còn có kali và chất đạm, như vậy chúng không chỉ cung cấp muối mà còn có axit amin (đặc biệt là vitamin B12), chất trở thành quan trọng khi ta không dùng thực phẩm động vật. Hơn nữa, misô và tương còn giầu chất kiềm. Vì vậy sử dụng chúng tốt hơn muối. Y học hiện đại biết nguyên nhân của bệnh tim nhưng chưa rõ nguyên nhân của ung thư, mặc dù theo thống kê, ăn uống hàng ngày có thể là nguyên nhân chính. Theo Cẩm nang của Hiệp hội Ung thư Mỹ năm 1980, 58,04% trường hợp chết liên quan đến thực phẩm hàng ngày, bao gồm cả bệnh tim, đột quỵ, đái đường, xơ gan, viêm thận, xơ cứng động mạch và ung thư vú, ung thư ruột kết. Mặc dù họ thừa nhận nguyên nhân ung thư vú và ung thư ruột là do sự tiêu thụ nhiều chất béo, họ vẫn không lưu ý, cân nhắc rằng ăn uống hàng ngày là nguyên nhân của các loại ung thư khác. Ví dụ, kẻ giết người số một là ung thư phổi. Theo các chuyên gia về ung thư, hút thuốc là nguyên nhân của ung thư phổi. ở Mỹ, hàng năm có 100.000 người chết vì ung thư phổi, trong số đó có 80% nghiện thuốc lá. Hiệp hội Ung thư Mỹ vin vào cớ đó đế tuyên bố là hút thuốc gây ra ung thư phổi. Tuy nhiên, 80% đàn ông Nhật hút thuốc, nhưng tỷ lệ chết do ung thư phổi lại thấp thứ hai trên thế giới. Vậy nếu hút thuốc lá là nguyên nhân của ung thư phổi thì lẽ ra phải ngược lại. Theo tôi, thực phẩm và các chất gây ung thư trong ăn uống hàng ngày là tác nhân của ung thư phổi và hút thuốc là nguồn kích hoạt (tác nhân là một chất hay một lực tác động làm thay đổi gen trong các tế bào, còn nguồn kích hoạt làm tế bào ác tính phát triển). Do đó, nếu ăn uống đúng, người ta sẽ không thể bị bệnh ung thư phổi. Do không hiểu biết nguyên nhân của ung thư, y khoa hiện đại có 3 cách điều trị cho bệnh ung thư. Tất cả đều tìm cách xoay sở để phá huỷ hay loại trừ tế bào ung thư: phẫu thuật, xạ trị và truyền hóa chất. Theo báo cáo chính thức, những phương cách điều trị này được Hiệp hội Y khoa Mỹ phê chuẩn. Việc “chữa trị” này có nghĩa là bệnh nhân sống được 5 năm sau khi tế bào ung thư được loại trừ. Nói cách khác, người bệnh không cần trở nên khoẻ mạnh (hay ít ra là hạnh phúc), mà việc điều trị chỉ loại trừ tế bào ung thư. Thông thường, ung thư xuất hiện trở lại, sớm hay muộn. Những cách điều trị này chỉ có hiệu quả trong 1/3 các trường hợp ung thư và chúng còn để lại hậu quả xấu. Nhiều người không thích cách chữa trị này. Họ thích cách điều trị không chính thống hơn, ví dụ như họ sẵn sàng điều trị ở các phòng khám ở ngoài nước Mỹ. II Theo tôi, tất cả cách chữa trị ung thư - chính thống hay không chính thống, phương pháp Hoxsey, Gerson, Krebiozen, Interferon, Laetrile và Thymosin - đều là phương pháp đối chứng trị liệu (chữa trên bệnh mà không chữa từ nguyên nhân). Nếu họ có thành công đi nữa thì đó cũng không phải cách chữa trị thật sự, bởi vì họ không chữa căn nguyên của ung thư. Thực tế, khoa học không biết nguyên nhân của ung thư. Đâu là nguyên nhân của ung thư? Đâu là nhân tố làm thay đổi DNA và RNA? Hiệp hội Ung thư Mỹ dự đoán rằng 58,04% trường hợp chết vào năm 1980 có liên quan đến ăn uống. Theo họ, ung thư vú và ruột liên quan đến ăn uống hàng ngày. Tổ chức ACS không cho rằng chế độ ăn uống là nguyên nhân của ung thư phổi; thay vì đó, họ tuyên bố hút thuốc lá là nguyên nhân của ung thư phổi. Điều này không đúng với trường hợp ở Nhật. Số người chết vì ung thư ở Nhật phần lớn là do ung thư dạ dày. Tại sao đàn ông Nhật không chết vì ung thư phổi? ở Mỹ, 100.000 người chết hàng năm là kết quả của ung thư phổi và 80% số này là người hút thuốc. Do vậy, tổ chức ACS tuyên bố thuốc lá là nguyên nhân của ung thư phổi. Vậy thì đâu là nguyên nhân cho 20% còn lại, những người không hút thuốc mà bị ung thư phổi, như đàn ông Nhật? Nguyên do gây ung thư được chứng minh qua số người Nhật di dân sang Mỹ. Tôi là một người trong số đó. Số tử vong vì ung thư bao tử ở Nhật được xếp hạng thứ nhì trên thế giới và dân Nhật lại ít bị ung thư vú và ruột già. Còn tại Mỹ, số bệnh nhân ung thư ruột già rất cao và ung thư dạ dày ở mức độ thấp. Những người Nhật khi di cư qua Hawaii thích ăn gà, bò, pho mát... hơn là cá, là món ăn chứa ít chất béo. Họ cũng thường dùng đường qua các loại nước giải khát, thay vì dùng đường qua các món nấu nướng. Càng sống lâu trên nước Mỹ họ càng dùng nhiều thức ăn Mỹ nhiều hơn nên có nguy cơ cao mắc ung thư vú và ruột, là những căn bệnh phổ biến tại đây. Bác sĩ Gio Gori, phó giám đốc viện ung thư quốc gia có thông báo cho ủy ban Thượng viện vào tháng 7,1976: Hẳn có liên hệ mật thiết giữa chất béo trong các món ăn với bệnh ung thư ruột già và ung thư vú. Lượng chất béo tiêu dùng càng tăng thì nguy cơ bị ung thư ruột già và ung thư vú cũng tăng cao theo biểu đồ tuyến tính. Chúng tôi thấy rằng ung thư ruột già có liên quan chặt chẽ với thịt trong các bữa ăn, dù chúng tôi chưa rõ là đạm hay chất béo chứa trong thịt là tác nhân. Theo các bác sĩ Nhật - K. Chishima và K. Morishta - các tế bào cơ thể được biến đổi từ tế bào máu (hồng huyết cầu). Vậy thì nguyên nhân của ung thư là sự thay đổi ác tính từ máu sang tế bào. Theo Ohsawa và Ohmori, là các bậc trưởng thượng của phương pháp Thực Dưỡng, thì ung thư sinh ra do dùng quá nhiều đường và thực phẩm gốc động vật như phó mát, cá, thịt và trứng; và chính các thực phẩm ấy làm suy thoái phẩm chất của máu, từ đó ung thư phát sinh. III Trong cuốn Trận chiến vĩ đại nhất (The Greatest Battle) do nhà xuất bản Random phát hành năm 1976, trang 41, bác sĩ Ronald J. Glasser trình bày rõ ràng cách phát triển của tế bào ung thư: Dựa trên quan điểm sinh vật học mà tìm hiểu thì các protein trong nhân tế bào bị các chất gây ung thư làm tổn thương. Cội gốc của các protein này được bảo toàn hàng tỷ năm trong các nhân tế bào. Qua mười năm nghiên cứu công phu, chúng tôi thấy rằng dù cho các chất gây ung thư là hóa chất hay có công năng vật lý, dù các sắc chất của chúng có biến đổi thế nào, các thuốc nhuộm benzopyrene hay aniline, chất amian hay tia X, thì chúng vẫn giữ nguyên đặc tính căn bản: chúng tác hại đến vật chất di truyền của tế bào, khi nhập vào trong tế bào chúng đi ngay vào nhân và phá huỷ các axit nucleic. Với liều lượng cao, các chất gây ung thư tiêu diệt tế bào, chúng là thuốc độc của tế bào. Với liều lượng thấp, chúng không tiêu huỷ tế bào mà làm tế bào biến đổi và sự đột biến gen do chất gây ung thư là nguyên nhân của ung thư. Theo bác sĩ Glasser, chất gây ung thư, mà đối tượng là các tế bào bình thường, được gọi là chất khai mở và chất kích thích - nguyên nhân của việc chuyển hóa tế bào thành u ác, được gọi là chất thúc đẩy. Kết luận của bác sĩ về chất khai mở và chất thúc đẩy có ý nghĩa rất quan trọng: “Như vậy một khi tế bào bị chất gây ung thư đe dọa, nó sẽ trở thành u tiền ác tính và sẽ không bao giờ quay trở lại trạng thái bình thường, sẽ luôn là đối tượng tiềm năng của chất kích thích - không phụ thuộc vào thời gian dài hay ngắn trong tương lai, tức là không phụ thuộc vào thời gian kể từ tiếp xúc lần đầu tiên của tế bào với chất gây ung thư để chuyển hoá từ tiền u ác thành u ác.” Dường như suy nghĩ của bác sĩ Glasser về bệnh ung thư đã hoàn toàn đúng, nhưng ông đã không giải thích rõ chất khai mở và chất kích thích là những chất nào. Theo tôi, chất khai mở là chất gây ung thư (chất hóa học, bức xạ, chất amian...) còn chất kích thích là dohút thuốc; và ăn các thực phẩm chứa nhiều axit như đường; thực phẩm nhiều chất béo như thịt, cá, trứng, phomát. Dẫn đến môi trường axít trong dịch thể. Theo sinh lý học, môi trường dịch thể (chất lỏng ở giữa các nội bào) có tính kiềm nhẹ. Nếu chúng trở thành axit, tế bào sẽ bị chết. Nếu dịch thể tế bào não tới 6.9 pH, chúng ta bị hôn mê. Nếu chúng ta duy trì điều kiện axit nhẹ nhưng không đủ độ axit để giết tế bào thì dịch thể axit này sẽ xúc tác sự phát triển của tế bào ác tính hay sản sinh các tế bào ác tính. Nói cách khác, dịch thể axit nội bào sẽ là điều kiện để tế bào ung thư hình thành và phát triển. Vậy đâu là nguyên nhân để xác định tình trạng các chất dịch trong cơ thể có tính axít? Tất cả các thực phẩm có thể phân chia thành 2 nhóm: nhóm axit và nhóm kiềm. ăn quá nhiều thực phẩm tạo axit sẽ là nguyên nhân làm axit hóa dịch thể. Giữa 2 loại này, đậu đỗ và ngũ cốc là thực phẩm axit nhẹ. Thực phẩm động vật và đường là thực phẩm axit nặng. Do đó, ăn chay phòng chống được ung thư. (Tìm đọc “Axít và kiềm”, NXB Văn hoá Dân tộc, 2004 - ND) Thực phẩm tạo axit (Theo thứ tự từ âm đến dương, từ trên xuống dưới cũng như đối với từng loại) Phần lớn các chất hóa học, thuốc ngủ, ma tuý, đường, kẹo, nước ngọt, dấm, sacarin, rượu vôtca, một số rượu khác, rượu uýtky, rượu sakê, bia. Dầu ngô, dầu ô liu, dầu vừng, bơ mè, bơ vừng. Đào lộn hột, lạc, hạnh nhân, hạt dẻ. Tương đậu nành, đậu xanh, đậu phụ, đậu trắng, đậu ngựa, đậu bầu dục, đậu đen, đậu nhỏ, đậu đỏ. Mì ống, spaghetti. Bắp ngô, yến mạch, lúa mạch, lúa mạch đen, lúa mì, lúa gạo, kiều mạch. Tôm cua, sò hến, lươn, cá chép, cá thịt trắng, phó mát, chim, thịt đỏ, cá ngừ, cá hồi, trứng. Thực phẩm tạo kiềm (Theo thứ tự từ âm đến dương, từ trên xuống dưới cũng như đối với từng loại) Rượu tự nhiên, sakê tự nhiên, côla, cacao, nước hoa quả, cà phê, trà (xoăn), nước khoáng, nước sôđa, nước giếng. Mật ong, mù tạc, gừng, hạt tiêu, bột cà-ri, quế. Hoa quả nhiệt đới, quả chà là, quả sung, quả vả, quả cam, quả nho, nho khô, chuối, táo, quả anh đào, quả dâu tây. Khoai tây, cà, cà chua, shiitake (nấm Đông Cô), khoai sọ, dưa chuột, khoai lang, nấm, rau bina, măng tây, bí đỏ, súp lơ (bông cải), cần tây, bắp cải, bí, bí ngô, hành, củ cải, cải, củ cải (daikon), nori, hijiki, cà rốt. Hạt bí, hạt bí ngô, hạt hướng dương, hạt vừng. Wakame, kombu (phổ tai), hạt kê, củ sen, củ burdock (ngưu báng), rễ bồ công anh, jinenjo. Trà bancha, trà sắn dây (cát căn), trà gạo lứt, trà bồ công anh, trà mu, trà gừng. Muối vừng, nước xốt đậu nành, mi-sô, ô mai, muối. Theo triết lý phương Đông, mọi thứ đều có thể chia ra thành 2 loại: âm và dương. Âm là sự bành trướng (đi lên, lạnh, trọng lượng nhẹ, về phía tím hay lạnh của quang phổ), trong khi dương thì đối lập lại (đi xuống, nóng, về phía đỏ và ấm của quang phổ...). Thực phẩm axit thì trội âm, như chất béo, dầu, đường là nguyên nhân của ung thư ở phần trên của cơ thể, bởi vì âm đi lên. Ngược lại, thực phẩm axit trội dương hơn như sản phẩm động vật sẽ sinh ra ung thư ở phần dưới của cơ thể, bởi vì dương có xu hướng đi xuống. Thực phẩm giữa hai loại này là đậu đỗ và ngũ cốc (gạo trắng, bột mỳ trắng, tôm, cua, sò, hến...) sinh ra ung thư ở phần giữa cơ thể. Mặc dù đậu đỗ và ngũ cốc loại là thực phẩm chứa axit, nhưng chúng lại cần thiết trong việc ăn uống để giữ gìn sức khoẻ. Chúng là nguồn gốc của hydratcacbon, protein, chất béo, chất khoáng, các vitamin và enzim. ở Trung Quốc và Nhật Bản, người ta xem chúng là nguồn thực phẩm chính từ hàng ngàn năm nay. Dù sao, lúa gạo và đậu đỗ là loại thực phẩm tạo axit, do đó ta cũng cần cả thực phẩm tạo kiềm để đạt được sức khoẻ quân bình. Để kiềm hóa máu và dịch thể, một người cần phải ăn thực phẩm kiềm tính. Quan trọng là phải lựa chọn được thực phẩm kiềm tính âm cho người thặng dương hay cho bệnh nhân ung thư thuộc loại dương (như ung thư ruột). Mặt đỏ là kết quả của ăn uống thặng dương với quá nhiều thực phẩm động vật và natri (có khi lại do rượu). Những người này sẽ cần cân bằng với rau quả âm. Người nhợt nhạt, xanh xám (hay ung thư thuộc âm tính) cần thực phẩm dương giàu kali như cà rốt, củ ngưu báng, củ sen, mi-sô, trà nhân sâm, trà mu. Hoa quả là thực phẩm giàu kali. Tuy nhiên, dư thừa đường hoa quả (fruco) sẽ trở thành chất béo, nguyên nhân của tắc động mạch. Do đó, hoa quả không nên dùng nhiều. Mật ong và xirô giàu kali. Chúng giàu disaccharide như đường tinh chế, nên không nên dùng nhiều, đặc biệt với bệnh nhân ung thư. Cà phê là loại kali nhưng rất âm. Bệnh nhân ung thư âm tính nên tránh dùng. Những thực phẩm âm làm tăng sự lan rộng của ung thư di căn. IV Tháng Tư năm 1981, tạp chí Khoa học có đăng bài “Tại sao các tế bào ung thư chạy tán loạn?” của tác giả Ben Patrusky. Bài viết này đã đặt ra các vấn đề mà hầu hết mọi người ngày nay đều quan tâm. Mỗi một nhà ung thư học cũng đang đi tìm câu trả lời để cứu chữa cho hàng triệu bệnh nhân hoặc để có được danh tiếng cho đời. Theo tôi, vấn đề thật đơn giản nhưng không được các nhà khoa học giải đáp vì họ đang đi tìm câu trả lời trong khi không thừa nhận thực tế đơn giản là tất cả các tế bào, dù lành tính hay ác tính, đều hấp thụ thực phẩm chúng ta ăn vào. Bí mật của căn bệnh ung thư nằm ở các thực phẩm này. Do vậy tôi cố gắng trả lời các câu hỏi do tác giả đặt ra với hy vọng là các suy nghĩ của tôi sẽ thu hút được sự chú ý của các nhà khoa học để điều tra các thực phẩm mà tế bào hấp thụ. Tại sao tế bào không phát triển một cách vô hạn? Tế bào trong cơ thể chúng ta bao gồm chất đạm, axít amin, đường, mỡ, khoáng chất, enzym, vitamin... Một số chất hoạt động bành trướng (âm) và một số chất lại hoạt động co cụm (dương). Nếu các nhân tố có tính bành trướng chiếm ưu thế, tế bào sẽ phát triển lớn hơn. Ngược lại các nhân tố có tính co cụm chiếm ưu thế, tế bào sẽ thu nhỏ lại. Cần lưu ý là tế bào lớn lên hoặc nhỏ lại phụ thuộc vào tỷ lệ giữa các chất có tính bành trướng (K, P, S, Cl, O và N) và các chất có tính co cụm (Na, Mg và H). Tuy nhiên, tế bào không phát triển một cách vô hạn vì phụ thuộc vào thực phẩm cung cấp. Chất dinh dưỡng đi vào tế bào bằng cách thẩm thấu qua màng của nó. Muốn cung cấp đủ chất dinh dưỡng thì bề mặt của màng phải đủ lớn để các chất đó thẩm thấu và đủ để duy trì hoạt động của mỗi tế bào. Nếu r là bán kính của một tế bào, với giả thiết tế bào đó là hình cầu, A là diện tích bề mặt của tế bào, và V là thể tích tế bào thì ta có mối quan hệ sau giữa r, A và V: V = 4/3 r3 A = 4 r2 Các đẳng thức này cho thấy bán kính của tế bào liên quan tới thể tích của nó theo hàm mũ 3 (lập phương) và liên quan tới diện tích bề mặt thì theo hàm mũ 2 (bình phương). Nói cách khác, khi bán kính tăng lên thì thể tích phát triển nhanh hơn diện tích bề mặt. Khi tế bào đạt tới kích thước nhất định (điểm cân bằng), thì các chất dinh dưỡng qua bề mặt không đủ nuôi sống tế bào và tế bào sẽ dừng phát triển. Đây là cơ chế kiểm soát tự động của tế bào lành tính. Tại sao tế bào phân chia? Khi diện tích bề mặt và thể tích tế bào đạt tới điểm cân bằng thì tế bào dừng phát triển. Tuy nhiên, nếu các nhân tố có tính bành trướng chiếm ưu thế so với các nhân tố có tính co cụm trong thực phẩm cung cấp thì tế bào sẽ hấp thụ chúng ngay cả sau khi dừng phát triển, lực bành trướng hoặc co cụm sẽ làm phân chia tế bào, tạo thành tế bào con. Khi tế bào phân chia, diện tích bề mặt lớn hơn so với thể tích, do vậy tế bào lại phát triển. Khi đạt tới điểm cân bằng, nếu nhân tố bành trướng tiếp tục chiếm ưu thế thì tế bào sẽ lại phân chia. Tại sao tế bào ác tính lại phát triển lộn xộn? Tế bào ác tính cần thức ăn để sống và phát triển. Tuy nhiên chất dinh dưỡng chúng hấp thụ khác với tế bào bình thường. Tế bào ác tính duy trì đời sống bằng các chất thải của tế bào bình thường. Hơn nữa tế bào ác tính không cần ôxy. Đây chính là lý do vì sao các tế bào ung thư hầu như không bị diệt hết (tham khảo bài viết “Các tế bào không thể chết” đăng trên tạp chí Khoa học, tháng Tư 1981). Kích thước của tế bào ác tính cũng bị giới hạn bởi tỷ lệ giữa diện tích bề mặt A và thể tích V. Nhưng nếu tế bào ác tính nhận được các chất dinh dưỡng có tính axít (bành trướng), thì chúng sẽ phát triển và phân chia nhanh hơn tế bào bình thường. Nguyên nhân gì làm cho tế bào bình thường chuyển thành tế bào ác tính? Tôi tán thành ý kiến của bác sĩ Glasser cho rằng chất gây ung thư là chất khai mở của bệnh ung thư. Tuy nhiên bệnh ung thư không hoành hành ngay khi các chất gây ung thư hoạt động. Phải có một chất thúc đẩy làm phát triển tế bào ung thư. Có hai luận thuyết về việc hình thành bệnh ung thư, chất khai mở và chất thúc đẩy, giải thích cơ chế gây bệnh ung thư khá rõ ràng. Theo tôi, môi trường axít của dịch bào là chất thúc đẩy mạnh nhất. Nguyên nhân tạo ra môi trường axít là do hô hấp kém và tiêu thụ quá nhiều thức ăn tạo axít so với thức ăn tạo kiềm. -------------------- Mini chan ga ichiban
![]() ..::Mini::.. |
|
|
![]() ![]() |
.::Phiên bản rút gọn::. | Thời gian bây giờ là: 17th June 2025 - 06:24 PM |