IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Kính vạn hoa - Phổ chiếu
Just Mini
bài Apr 20 2007, 02:07 PM
Bài viết #1


Rinkitori Tojimomi
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 125
Gia nhập vào: 7-February 07
Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ
Thành viên thứ.: 3



KÍNH VẠN HOA

Phổ chiếu


Herman Aihara


Lời giới thiệu

Vào đầu thập niên 90, toàn thể dân Mỹ sống trong tinh thần căng thẳng vì sợ chiến tranh hạt nhân, ung thư, AIDS.

Giữa lúc ấy, bác sĩ Anthony Sattilaro, giám đốc bệnh viện lớn nhất ở Philadelphia, trình bày trên màn ảnh truyền hình, trước nhiều ký giả đại diện cho nhiều tờ báo nổi tiếng, về thành quả tự trị lành ung thư đã di căn của mình ở tinh hoàn, bẹ sườn, xương sống và bàng quang bằng phương pháp Thực Dưỡng (Macrobiotics).

Mọi người thở phào nhẹ nhõm, như vớ được chiếc bè lúc sắp chết đuối. Hàng triệu người đổ xô đến thăm các trung tâm Vega (trung tâm Thực Dưỡng) rải rác trên toàn nước Mỹ để mong thuốc thần đem lại cho sức khoẻ hoàn hảo.

Cuốn Kính vạn hoa còn gọi là Phổ chiếu (Kaleidoscope) của Herman Aihara - người kế tục xuất sắc của Ohsawa - kịp thời tu bổ những sai sót của những môn sinh đã và đang thực nghiệm phương pháp Thực Dưỡng, giúp ổn định tâm tư một số người sắp nhập môn và đang tôn thờ Thực Dưỡng như tiên dược vạn năng.

Chỉ cần lắc nhẹ ống kính vạn hoa thì tức khắc mọi hình sắc bên trong đều đổi thay. Cũng thế, cuộc sống con người đổi thay theo luật tuần hoàn của vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, sáng, chiều, xuân, hạ, thu, đông... trôi dạt theo từng làn sóng tư tưởng, và nhất là sức khoẻ của con người cũng thay đổi theo sự biến đổi đó, mà nguồn gốc là phẩm chất của các món ăn, thức uống.

Tác giả Herman Aihara đã tiếp bước tiên sinh Ohsawa đi du thuyết khắp nơi trên thế giới và cùng với Michio Kushi (hiện đang ở Massachusettes) tiếp tục phong trào Thực Dưỡng ở Mỹ và ở các nơi khác. Trong lúc đi thuyết giảng, ông trả lời rất nhiều câu hỏi của người nghe và các môn sinh. Từ kinh nghiệm của bản thân và từ những buổi tham vấn ấy, tác giả viết ra cuốn sách này.

Những ai muốn hiểu rõ bản chất phương pháp Thực Dưỡng, của Ohsawa, muốn học âm dương theo cách tiếp cận phương Tây, muốn thấu hiểu AIDS, ung thư theo nhãn quan y lý phương Đông, muốn khỏi mất thì giờ, tiền bạc vì bệnh tật..., xin mời đọc Kính vạn hoa (Phổ chiếu). Cuốn sách còn giúp bạn đọc hiểu nguồn gốc con người, hiểu thấu nguyên lý Thiền, để sống hợp với Đạo, với cõi đời vô tận, để sống vui với gia đình, bạn bè và với mọi người trên quả đất này bằng tấm lòng từ bi bác ái, bằng tấm lòng bao dung, đại đồng.

Cuốn sách bao gồm 63 bài ghi chép, bài giảng, tùy bút... độc lập, được viết trải dài theo địa lý (từ châu âu đến châu Mỹ) và theo thời gian từ tháng 1-1979 đến cuối năm 1985. Bạn đọc có thể đọc riêng từng bài như một câu chuyện độc lập. Cũng do vậy, bạn đọc sẽ thấy nhiều ý tưởng, sự kiện được trình bày lặp đi lặp lại trong nhiều bài. Tư tưởng chủ đạo của Thực Dưỡng - như tác giả trình bày trong sách đã ngày càng được minh chứng là đúng đắn và được các môn đệ phái Thực Dưỡng phát triển. Do vậy, để góp phần giúp bạn đọc tìm hiểu quá trình tư tưởng cũng như các giai đoạn phát triển của phong trào Thực Dưỡng, chúng tôi dịch gần như nguyên văn bản "Kaleidoscope" của tác giả Herman Aihara (George Ohsawa Macrobiotic Foundation, Oroville, California, 1986).


--------------------
Mini chan ga ichiban



..::Mini::..
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
Just Mini
bài Apr 20 2007, 03:11 PM
Bài viết #2


Rinkitori Tojimomi
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 125
Gia nhập vào: 7-February 07
Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ
Thành viên thứ.: 3



26. tại sao phương pháp Thực Dưỡng khuyến nghị nên dùng cốc loại?
Tháng 6 năm 1982


Khi tôi đi thuyết giảng về lối ăn uống theo phương pháp Thực Dưỡng cho giáo viên, y tá, bác sĩ, sinh viên tại Đại học California (phân khoa dinh dưỡng của đại học Berkeley) thì có một câu hỏi được nêu lên: tại sao phương pháp Thực Dưỡng khuyến nghị nên dùng cốc loại nhiều như vậy? (Thật ra lúc ấy có hai câu hỏi, câu hỏi kia là làm sao cách ăn uống Thực Dưỡng có thể cung cấp đầy đủ B12?).

Tôi trả lời rằng: xét đoán theo hình thể, 32 cái răng của ta gồm có 20 cái dùng cho hạt, 8 cái cho rau quả và 4 cái còn lại dùng cho thịt. Do đó ta nên thuận theo thiên nhiên mà dùng các loại thực phẩm theo tỷ lệ vừa kể. Còn một lý do nữa dựa trên quan điểm kinh tế và xã hội. Nói rõ hơn, ngũ cốc rẻ tiền nhất và dồi dào calo nhất, chỉ có ngũ cốc mới chống nổi nạn đói kém... Tuy nhiên lúc ấy tôi không có đủ lập luận vững chắc để dẫn chứng giá trị dinh dưỡng và trị liệu hữu hiệu của cốc loại. Không những tôi không đủ khả năng, mà theo tôi biết được, chưa có vị trưởng thượng nào của phương pháp Thực Dưỡng giải thích tại sao chúng ta cần ăn tỉ lệ ngũ cốc như vậy: 50-60% cho mỗi bữa ăn. Ngay cả Ohsawa cũng không nói về điều này.

Thế rồi niềm vui bất chợt đến với tôi, khi cuốn “Các mục tiêu ẩm thực Mỹ” do ủy ban Thượng viện chuyên về dinh dưỡng xuất bản năm 1977, đã cho biết mục tiêu thứ nhất như sau: gia tăng tiêu dùng cácbon hyđrát để tiếp thu 55-60% năng lượng. Bản tường trình dẫn giải: trước nhất bữa ăn có năng lượng cácbon hyđrát phức hợp cao có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim. “Hầu hết các dân tộc hấp thụ 65%-85% năng lượng dưới hình thức cácbon hyđrát do cốc loại lứt và củ đem lại, đều ít bị tai biến tim mạch” (Kiến thức dinh dưỡng ngày nay của bác sỹ William E. và Sonja J. Connor xuất bản năm 1976). Sách viết tiếp: Trong bài tường trình, anh em bác sĩ Connor kết luận là các bữa ăn dồi dào cácbon hyđrát đều thích ứng cho cả người khoẻ lẫn người dư mỡ trong máu, miễn là cácbon hyđrát phải hầu như xuất phát từ cốc loại và rau củ.

Việc sử dụng số lượng cao cácbon hyđrát phức hợp (ngũ cốc lứt) của người thượng cổ có căn bản lịch sử hẳn hoi, tiết kiệm được chi tiêu và tỏ ra ít gây bệnh, đặc biệt là bệnh có mỡ ở tim mạch. Anh em bác sĩ Connor cũng báo cáo rằng cácbon hyđrát phức hợp là cần thiết trong việc trị bệnh tiểu đường vì nó làm giảm nguy cơ bị bệnh xơ cứng động mạch và dư mỡ trong máu, là hai chứng liên quan đến bệnh tiểu đường. Nhờ cácbon hyđrát phức hợp mà mức cholestrol và chất béo trong cơ thể được hạ thấp. Theo dõi vài bệnh nhân tiểu đường họ nhận thấy lối ăn uống dồi dào cácbon hyđrát cũng đưa đến kết quả tốt, tức là khả năng dung nạp đường glucô được cải thiện. Có người thì mực insulin được quân bình. Một lý do nữa khiến ta phải tăng lượng cácbon hyđrát trong các bữa ăn là để thêm chất xơ. Bác sĩ Denis P. Burkitt, người biện hộ cho việc tận dụng chất xơ trong các bữa ăn đã quy định rằng: thêm món ăn có chất xơ, chất xơ thiên nhiên của chính món ấy thay vì chất xơ trộn thêm vào các sản phẩm tinh chế (chà xát) như bánh mì trắng chẳng hạn, sẽ làm giảm đi rõ rệt số bệnh ung thư và các bệnh khác, đặc biệt là bệnh về đường ruột.

Sau cùng, gia tăng dùng cácbon hyđrát phức hợp có thể dễ dàng giúp cho cơ thể không tăng trọng lượng. Giáo sư Olaf Mickelson tại Đại học ở tiểu bang Michigan báo cáo trong General Foods World, tháng 7-1985: “Ngược lại với nhiều người nghĩ: dùng nhiều bánh mì là cách ăn làm tăng cân thì công trình nghiên cứu mới đây ở Viện của chúng tôi cho thấy rằng, các thanh niên trẻ và hơi nặng cân đã làm sụt cân bằng phương cách không đau đớn và không phải gắng sức nếu họ dùng 12 lát bánh mì hàng ngày. Kết quả là họ no trước khi họ tiếp thu hết liều lượng calo tiêu chuẩn thông thường. Các đối tượng này trước kia bị nhồi sọ là phải hạn chế ăn bánh mì. Chỉ trong 8 tuần lễ, trung bình mỗi đối tượng mất được 12,7 cân Anh (khoảng gần 6kg –ND)Thượng viện Mỹ đề nghị nên dùng nhiều cácbon hyđrát vì họ theo dõi các thống kê chứ không lý giải theo khoa học. Cuốn sách bán chạy nhất “Hãy sống lâu hơn” của Nathan Pritikins giải thích rất rõ ràng. Để nuôi sống cơ thể, mỗi ngày ta cần dùng một số lượng calo từ protein, chất béo và cácbon hyđrát. Ta không tùy thuộc quá nhiều vào protein (thịt cá, trứng, sữa...) vì nó thải ra chất độc khi thức ăn nằm quá lâu trong ruột. Chất kế tiếp phải được loại trừ ngay là cácbon hyđrát (chất bột tinh chế) vì nó chứa đường đơn thuần nên gây hậu quả độc hại nếu ăn nhiều (tìm đọc phần Đường trắng - chất độc trắng, trong Khoa học ăn chay, NXB Khoa học Kỹ Thuật, Hà Nội, 1993 - ND). Cũng vì lý do này mà các chuyên viên nghiên cứu dinh dưỡng đã yêu cầu dùng chất đường từ việc ăn ngũ cốc lứt gọi là đường kép hay còn gọi là carbonhydrat phức hợp vì nó ngấm vào máu từ từ mà không gây đột biến và không gây hại lá lách như khi ta ăn ngũ cốc xát trắng, chất đường đơn trong ngũ cốc xát trắng ngấm vào máu nhanh gây hại lá lách. Vì lý do này ta giải thích dễ dàng lý do vì sao có nhiều người ăn chay theo lối phi Thực Dưỡng vẫn bị các bệnh như đái đường, nhức mỏi... Còn chất béo ta nên tìm từ ngũ cốc lứt như món muối vừng, bơ vừng,... và ngay trong hạt gạo lứt cũng có chất dầu cám nằm ở lớp vỏ cám...

Thế rồi học thuyết của Ancel Keys xuất hiện: qua 15 nghiên cứu các trường hợp của 281 thương gia, rằng mức cholesterol và huyết áp cao là nguyên nhân của tử vong vì bệnh tật. Nghiên cứu của A. Keys về sau được mở rộng hơn, với 12.000 người thuộc 7 quốc gia. Một lần nữa, bác sĩ Keys lại nhận xét rằng, các chất béo trong máu có liên quan đến nhiều trường hợp bệnh tim cũng như mức cholesterol.

Sau đó các khoa học gia nghiên cứu mấy sắc dân sơ khai như là dân Bantus, dân Tân Ghinê và dân Ecuador. Kết quả luôn như sau: mức chất béo và cholesterol trong cơ thể thấp có nghĩa là nguy cơ bệnh tim cũng thấp.

Hơn nữa, để xác minh rằng thực trạng này không phải do sức đề kháng thiên nhiên của các giống dân ấy, bác sĩ Keys tìm hiểu cư dân Nhật Bản ở 3 nơi khác nhau, cũng như trong cuốn “Hãy sống lâu hơn” có viết: ở Nhật, dân chúng ít bị bệnh tim. Trái lại rất nhiều người Nhật ở Hawaii bị bệnh tim. Trong khi nhóm ở Los Angeles thì rõ ràng có tỷ lệ bệnh nhân tim mạch ngang hàng với tỷ lệ bệnh nhân về tim mạch của Mỹ. Nhờ nghiên cứu này mà màn bí mật về sức đề kháng của dân Nhật được bật mí. Và chính món ăn là nguyên nhân bệnh tim.

Suốt 20 năm (50-70), nhiều phòng thí nghiệm được chỉ thị tìm cho ra manh mối về bệnh tim của súc vật. Đến năm 1959, một số khỉ được nuôi với các thức ăn gần giống như của người Mỹ dùng hàng ngày - khoảng 42% là chất béo và khoảng 30gr cholesterol. Kết luận cho thấy là các con khỉ này đều bị chứng rối loạn tim. Từ đấy, việc thử nghiệm được thực hiện nhiều lần với các loại thú khác; nhiều chất béo, nhiều cholesterol gây ra bệnh tim. Có một thời người ta nghĩ rằng chất béo không no có ích lợi cho sức khoẻ của tim, nhưng các cuộc thí nghiệm cho thấy các chất ấy không tốt hơn các chất béo no (Friedman. M. et al., JAMA 193: 882, 1965; Bierenbaum, M et al. ; Circulation 42: 943, 1970).

Thế thì việc nghiên cứu về bệnh tim đã loại bỏ các thức ăn quá béo, chỉ còn phương cách duy nhất đem năng lượng cho cơ thể là ăn nhiều cácbon hyđrát. Tuy nhiên thức ăn dồi dào cácbon hyđrát đã từng bị cấm đối với bệnh tiểu đường do tin tưởng rằng chất này gây tình trạng hôn mê cho bệnh nhân, mà thực ra triệu chứng này chỉ xảy ra khi họ lạm dụng đường. Mỉa mai thay bữa ăn nhiều cácbon hyđrát được khuyến cáo áp dụng không chỉ cho cho bệnh tim mà còn cả bệnh tiểu đường. I.M. Rabinowitch vào năm 1935, Wolff và Priess năm 1956 và W.E. Connor năm 1963 đã nghiên cứu cách trị liệu tiểu đường bằng thực phẩm ít béo. Họ nhận thấy rằng bệnh trạng được cải thiện hơn hẳn với các lối ăn khác dành cho bệnh nhân tiểu đường.

Trên thực tế, điều quan trọng mà các khoa học gia ấy đã hiểu được là có một sự khác biệt rõ rệt giữa cácbon hyđrát phức hợp (ngũ cốc lứt) và cácbon hyđrát đơn chất (ngũ cốc xát trắng). Cácbon hyđrát đơn chất trong bữa ăn biến thành chất béo, tăng chất béo trong máu và gây ra bệnh tiểu đường. Trái lại cácbon hyđrát phức hợp có tác dụng ngược lại. Theo Pritikin, cácbon hyđrát đơn chất tăng lượng béo và cholesterol, vậy thì cái gì không tốt lành cho tiểu đường cũng không hay cho bệnh tim. Ông viết: kinh nghiệm về các bữa ăn ít béo và việc không có bệnh tiểu đường trong các bộ tộc tiền sử đưa đến sự phòng ngừa chứng bệnh ấy trong nhiều trường hợp bằng cách ăn ít chất béo và nhiều cácbon hyđrát. Dĩ nhiên, cácbon hyđrát này không có nghĩa là cácbon hyđrát đơn chất như đường, mật ong, mật mía...

Theo quan điểm Thực Dưỡng, thực phẩm là nền tảng của đời sống và đời sống là biểu tượng của thức ăn. Do đó thuyết tiến hóa có thể được luận giải trên quan điểm Thực Dưỡng.

Khoảng 4 tỷ năm trước đây, trái đất bị nước bao phủ (chất vô cơ), rồi một thành phần được biến thành (khoảng 3,5 tỷ năm trước) cácbon hyđrát, chất béo hay protein (chất hữu cơ). Từ 3 tỷ năm, vi khuẩn xuất hiện trong nước; có thể sấm sét là nguyên nhân gây ra biến chuyển từ chất hữu cơ thành vi khuẩn. Những vi khuẩn này là các sinh vật đầu tiên trên mặt đất (đời sống thảo mộc).

Từ những loại thảo mộc đơn sơ này, loài phiêu sinh vật (planton) phát sinh ra. Một số phiêu sinh vật này năng động (dương) hơn, vì thời tiết lạnh hơn (âm). Trong khí hậu lạnh loài thảo mộc có âm tính phải chết và loài có dương tính tồn tại (âm dương hút nhau). Do đó sinh thể nào được nuôi dưỡng bằng phiêu sinh vật (những sinh vật trôi nổi ở biển, sông hồ) có nhiều dương tính đương nhiên trở nên dương thịnh. Khi các sinh vật thảo mộc trở nên dương thì biến dạng thành động vật. Sự kiện này xảy ra 1,5 tỷ năm. Khoảng 1 tỷ năm về trước, bọt biển xuất hiện. Đời sống thú vật và các loài sò ốc xuất hiện 500 triệu năm về trước và cách đây 400 triệu năm các loài cá phát sinh. Khi lục địa xuất hiện cách đây 300 triệu năm, cây cối bắt đầu mọc. Xuất hiện các loài lưỡng cư, sống được trên đất và dưới nước. Chừng 250 triệu năm về trước có các loài dương xỉ và rêu; loài bò sát phát sinh rồi đến côn trùng, cách nay khoảng 200 triệu năm; khí hậu ấm áp đã khiến khủng long và dương xỉ xuất hiện.

Rồi khí hậu trở lại lạnh lẽo, dương xỉ chết dần mòn và được thay thế bởi loại thực vật hạt trần. Cách đây 150 triệu năm, các loài thú sống nhờ mấy thứ cây ấy như chim và động vật có vú xuất hiện. Cách đây 100 triệu năm, thực vật, ngũ cốc xuất hiện tạo thành thức ăn dương cho động vật có vú. Động vật có vú có dương tính thịnh hơn ăn thịt động vật khác. Vậy có thú ăn thịt xuất hiện. Một vài loại thú khác sống trên cây, tạo nên nguồn cội loại dã nhân. Cách nay 75 triệu năm, vì cây cối thưa mỏng đi nên các loài dã nhân phải rời cây cối, từ đó loài khỉ không đuôi và khỉ có đuôi xuất hiện (dù thực phẩm của chúng vẫn ở trên cây nhưng chúng có khả năng sống cả dưới đất hay trên cây) cách đây 50 triệu năm.

Cỏ bắt đầu mọc từ khoảng 25 triệu năm nay. Loài khỉ không đuôi tìm được cốc loại để ăn. Chúng khởi sự đứng trên 2 chân cách đây 10 triệu năm. Theo tôi, nhờ ăn hạt mà loài khỉ đứng lên được và phát triển bộ óc. Nhờ đứng được, 2 tay mới rảnh rang để sử dụng vào việc thủ công. Đây là nguồn cội của người tiền sử (homo-sapiens). Họ tìm ra lửa cách đây một triệu năm. Đây là giống người khôn ngoan đầu tiên.

Phải qua hàng trăm ngàn năm, người tiền sử mới khai triển nghề nông. Quyển bách khoa Britanica nói rằng: Xuyên suốt hàng trăm ngàn năm qua thời kỳ đồ đá, giống người tiền sử sống bằng nguồn lợi thiên nhiên, sử dụng cả thực vật lẫn động vật. Loài người khác biệt loài thú ở chỗ họ có thể lực yếu kém hơn nhưng lại có dụng cụ và vũ khí do trí óc phát triển tạo ra - theo ý tôi, đây là kết quả của sự ăn cốc loại. Cuốn Britanica viết tiếp: Vào giai đoạn cuối cùng của thời kỳ băng hà, băng tuyết tan đi, đưa đến một khí hậu khác biệt khoảng 10.000 năm trước công nguyên. Sự thay đổi môi sinh gây ra một thử thách khiến loài người phải tìm ra cách kiểm soát và khai thác môi trường ấy, nghĩa là phải trồng trọt và chăn nuôi súc vật. Tiến được bước này, con người không còn phải theo đuổi các loài thú di cư tùy mùa hay truy tìm cả chỗ cốc loại mọc, mà tự sản xuất lấy thực phẩm quanh vùng họ ở. Việc định cư tùy thuộc vào sự cung và cầu của thực phẩm do nông nghiệp và chăn nuôi tiếp trợ. Từ các thôn ấp đầu tiên, người ta phát triển xây cất thị xã rồi sau tiến đến nền văn minh cao hơn: các xứ Babylon, Ai Cập, Hy Lạp và La Mã đều phát triển từ việc canh tác lúa mạch, lúa mì và hạt kê. Nền văn hóa cổ xưa của ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản xuất phát từ nông nghiệp trồng lúa gạo. Các giống dân cổ xưa của nền văn minh Inca, Maya và Aztec ở Tân Thế Giới đều dùng lúa mì, ngô, trước khi Christoph Columbus tìm ra châu Mỹ. Do đó có vài nền văn minh sáng tạo ra các chuyện thần thoại tôn sùng cốc loại như thần linh.

Có xã hội làm ra bộ luật về thực phẩm căn cứ trên cốc loại. Đạo Mormon dạy rằng tất cả cốc loại được chỉ định nuôi người và thú vật, chăm lo sự sống chẳng những của người mà còn của loài thú ở ngoài đồng, trên trời và của tất cả thú hoang hoặc chạy bằng chân hoặc loài bò sát (chương 25, cuốn Một kỳ công và một kỳ quan, Le Grand Richards, Công ty sách Deseret, 1969).

Theo cuốn sách nghi lễ “Gegu” viết vào năm 804 trước CN thì Hoàng đế của Nhật Bản, hiệu là Yuryaku dựng nên lăng tẩm Ise (năm 457 trước CN) để tôn thờ nữ thần Amaterasu, vị nữ thần cao nhất của Thần đạo Nhật Bản . Một đêm nọ, Hoàng đế nằm mơ thấy nữ thần nói với ông rằng: “Tôi rất lấy làm cảm kích việc ông ban tặng tôi, nhưng ông lại phạm lỗi lầm nghiêm trọng vì đã bỏ phế Toyoke No Okami, thần của lúa gạo mà tôi mến mộ nhất. Xin ông hãy cho dời ngài đến đây ngay.” Hoàng đế ngạc nhiên, bèn cho xây cất đền Toyoke No Okami liền ngay năm sau. Đền này được gọi là Gegu (đền dành cho du khách) và đền thờ Amaterasu được gọi là Naigu (đền dành cho bản quốc). Huyền sử Nhật Bản cũng có truyền rằng Amaterasu Ohmikami bảo người Nhật phải dùng gạo như thức ăn chủ yếu. Tuyên cáo của vị nữ thần này là một trong những giáo lệnh quan trọng nhất của xứ Phù tang. Tuy nhiên, điều răn này bị mọi người bỏ quên, ngoại trừ vài người trong đó có Ohsawa.

Tóm lại, phương pháp Thực Dưỡng yêu cầu nên dùng cốc loại như thực phẩm chính (50-60% của thực
phẩm dùng hàng ngày) vì các lý do sau đây:

1. Con người tiến hóa từ thể đơn bào đến con người khôn ngoan (homo sapiens) nhờ sự biến đổi thức ăn. Đến giai đoạn hiện nay, thực phẩm chính của con người là cốc loại vì tỷ lệ răng 5/8 dành cho cốc loại, 1/4 cho rau quả và chỉ có 1/8 dùng để ăn thịt.

2. Tỷ lệ Kali/Natri của cốc loại rất gần với tỷ lệ của tế bào thân thể (10K/1Na). Do đó cốc loại có phẩm chất lý tưởng để vun bồi và bảo trì cơ thể.

3. Cácbon hyđrát chứa trong cốc loại lứt là cácbon hyđrát phức hợp, nên biến thành đường glucô rất chậm. Do đó ăn cốc loại không gây rối loạn chức năng biến dưỡng đường.

4. Bữa ăn quá nhiều protein (vượt quá 16% calo cần dùng cho cơ thể) gây ảnh hưởng tiêu cực cho công năng khoáng chất - chủ yếu là mất canxi - và do đó làm chua máu và thể dịch. Vì vậy protein không thể có vai trò dinh dưỡng chính yếu được. Theo kết quả nghiên cứu mới đây, các chất béo dù no hay không no cũng gây ra bệnh xơ cứng động mạch, từ đó dẫn đến bệnh tim mạch, tiểu đường. Dù chất béo có cho ta năng lượng nhiều nhất, nhưng nó không thể là món ăn chủ yếu được.

5. Trên quan điểm dinh dưỡng, cốc loại lứt, các loại rau quả có một hạt hầu hết đều chứa cácbon hyđrát, chút ít chất béo (lipit), protein, khoáng chất và các vitamin. Nhiều nhà dinh dưỡng học khuyên ta nên dùng cácbon hyđrát phức hợp vì nó là món ăn cần thiết nhất cho loài người.

6. Trên quan điểm kinh tế, cốc loại là nguồn dinh dưỡng và có lượng calo kinh tế nhất. Cốc loại có dạngđặc cứng và khô ráo nên dễ bảo quản khỏi hư thối.

7. Cốc loại được trồng khắp mọi nơi trên thế giới, chỉ có cốc loại mới đủ nuôi sống hết loài người. Nên dùng luôn lớp vỏ cám (lứt).

Cốc loại cho cơ thể một liều lượng calo nhiều nhất so với các loại thức ăn khác, tính trên diện tích đất. Độ chừng 20-30 người có thể sống trên một mẫu đất nếu họ dùng cốc loại lứt. Ngược lại một con bò cần 10-15 mẫu đất trong một năm để ăn cỏ và chỉ cho có 300-400 pound thịt (khoảng 150-200 kg). Nếu mỗi người dùng ít nhất 250 pound thịt mỗi năm thì rõ ràng dùng thịt như món ăn chính là vấn đề nan giải vì không đủ đất để nuôi sống cả một thế giới gồm toàn loài ăn thịt! Hậu quả phải đến là xung đột. Quá khứ đã chứng minh rằng chiến tranh là để chiếm đất và tương lai của chúng ta cũng không sáng sủa gì. Chiến tranh không tránh khỏi trên hành tinh này vì thiếu ăn, trừ khi ta dùng cốc loại như thức ăn chính (khoảng 50% thực phẩm ta dùng phải là cốc loại và rau quả).

Từ ngữ Trung Hoa “wa” (hòa) có nghĩa là “hòa bình” hay hòa hợp. Đó là sự phối hợp của hai từ “ ” (cây sinh ra cốc loại) và “ ” (khẩu,- miệng). Vậy từ này gợi ý: ăn cốc loại thì có sự hòa hợp trong cơ thể, có sự hòa bình trên thế giới.

Hiện nay, có nhiều phong trào đòi hòa bình (1982). Tuy nhiên những ai không sống bằng cốc loại lứt mà lại ủng hộ phong trào này thì rõ ràng chỉ vì tình cảm thiên lệch mà hành động.

8. Cốc loại đặc biệt là lúa mì, lúa gạo, bắp ngô... từng là thức ăn căn bản trải qua bao thế kỷ. Giá trị dinh dưỡng và hương vị của nó đã được hằng triệu người thử nghiệm và được xác nhận là tuyệt hảo.

9. Theo triết học phương Đông, dương tùy thuộc âm và dương thu hút âm. Do đó loài thú có dương tính (kể cả con người) phải sống nhờ loài thảo mộc (âm) mà trong loài này cốc loại lại có đặc tính duy nhất: đặc cứng, khô, dồi dào natri. Cốc loại là món ăn tốt nhất trong vương quốc rau quả, giúp cho con người được tráng kiện (dương).

Đấy là lý do vững vàng nhất, khuyên con người dùng cốc loại.

10. Sau cùng, do kinh nghiệm của nhiều người, cốc loại dùng như món ăn chính yếu đã thoả mãn được dạ dày loài người và vị giác của con người. Cốc loại chắc chắn cải thiện được sức khoẻ, không biệt lệ, nếu không bị chà xát mất vỏ cám, được nấu kỹ và ăn điều độ. Theo đông y, ngũ cốc sinh tinh. Tinh là thành phần quí nhất trong thể vật lý của con người. Theo quan niệm cổ, con người có 3 thứ quí nhất: Tinh - Khí - Thần.

Vì các lý do này, chúng tôi xin đề nghị hãy dùng cốc loại như thức ăn chính yếu.


--------------------
Mini chan ga ichiban



..::Mini::..
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này
..::Mini::..   Kính vạn hoa - Phổ chiếu   Apr 20 2007, 02:07 PM
..::Mini::..   [size=3][b]1.Thông điệp đầu năm 1980 [righ...   Apr 20 2007, 02:17 PM
..::Mini::..   [b]2. những bài giảng trong chuyến đi Châ...   Apr 20 2007, 02:30 PM
..::Mini::..   [b][size=3]3. Thị trấn jones [right][i]Tháng ...   Apr 20 2007, 02:34 PM
..::Mini::..   [size=3][b]4. Trung Hoa trở mình [right][i]Thá...   Apr 20 2007, 02:35 PM
..::Mini::..   [size=3][b]5. Nội Kinh, Chương 1 [right][i]Th...   Apr 20 2007, 02:38 PM
..::Mini::..   [size=3][b]6. chứng Bệnh âm thịnh [right][i...   Apr 20 2007, 02:42 PM
..::Mini::..   [size=3][b]7. câu chuyện về Sagen Ishizuka [r...   Apr 20 2007, 02:44 PM
..::Mini::..   [size=3][b]8. ấn Loát và món Tempura [right][...   Apr 20 2007, 02:46 PM
..::Mini::..   [size=3][b]9. câu chuyện về soba [right][i]Th...   Apr 20 2007, 02:48 PM
..::Mini::..   [size=3][b]10. Lòng tri ân [right][i]Tháng 4 n...   Apr 20 2007, 02:50 PM
..::Mini::..   [size=3][b]11. Năm người phụ nữ Mỹ Chuy...   Apr 20 2007, 02:51 PM
..::Mini::..   [size=3][b]12. Những suy nghĩ về tai nạn b...   Apr 20 2007, 02:52 PM
..::Mini::..   [size=3][b]13. chữa lành ung thư chưa đủ...   Apr 20 2007, 02:53 PM
..::Mini::..   [size=3][b]14. Nấu ăn với lòng từ ái [i][...   Apr 20 2007, 02:53 PM
..::Mini::..   [size=3][b]15. Sinh nhật george ohsawa lần th...   Apr 20 2007, 02:54 PM
..::Mini::..   [b]16. điều kiện thứ 7 của sức khoẻ ...   Apr 20 2007, 02:56 PM
..::Mini::..   [size=3][b]17. Quan niệm về kẻ thù [b]Mừn...   Apr 20 2007, 02:57 PM
..::Mini::..   [size=3][b]18. Một đêm tại trung tâm Vega [...   Apr 20 2007, 02:58 PM
..::Mini::..   [size=3][b]19. Khoản cá cược nặng đô [ri...   Apr 20 2007, 03:00 PM
..::Mini::..   [size=3][b]20. Một bệnh nhân ung thư hạnh ...   Apr 20 2007, 03:01 PM
..::Mini::..   [size=3][b]21. Từ bệnh tim đến bệnh ung t...   Apr 20 2007, 03:02 PM
..::Mini::..   [b]22. Chuyến du thuyết hè năm 1981 [right][...   Apr 20 2007, 03:03 PM
..::Mini::..   [size=3][b]23. nhỏ là mạnh [b]Hội chứng r...   Apr 20 2007, 03:06 PM
..::Mini::..   [size=3][b]24. Hoa Kỳ học tập từ Nhật B...   Apr 20 2007, 03:07 PM
..::Mini::..   [size=3][b]25. sự giáo dục của người m...   Apr 20 2007, 03:08 PM
..::Mini::..   [size=3][b]26. tại sao phương pháp Thực Dư...   Apr 20 2007, 03:11 PM
phannhathieu   Chị Trâm ơi, E định scan từ từ những...   Apr 20 2007, 04:40 PM
Thelast   [size=3][b]27. nền Kinh tế nước Mỹ [right...   Apr 25 2007, 02:59 PM
Thelast   [size=3][b]28. cốt tủy của Thực Dưỡng [...   Apr 25 2007, 03:11 PM
Thelast   [size=3][b]29. Nỗi sợ tylenol [right][i]Tháng...   Apr 25 2007, 03:13 PM
Thelast   [size=3][b]30. Chúc mừng năm mới 1983 [right...   Apr 26 2007, 07:55 AM
Thelast   [size=3][b]31. “lời Phán quyết” [right][i...   Apr 26 2007, 08:04 AM
Thelast   [size=3][b]32. lợi ích của muối [right][i]T...   Apr 26 2007, 08:08 AM
Thelast   [size=3][b]33. Bệnh tái phát [right][i]Tháng ...   Apr 26 2007, 08:11 AM
Thelast   [b]34. Gandhi [right][i]Tháng 4 năm 1983 Chắc...   Apr 26 2007, 08:28 AM
Thelast   [b]35. Nghệ thuật ăn uống phá lệ [right]...   Apr 26 2007, 08:31 AM
Thelast   [b]36. Từ suy nghĩ đến phán đoán [right]...   Apr 28 2007, 03:43 PM
Thelast   [size=3][b]37. Làm sao khắc phục lo sợ? [i]...   Apr 28 2007, 07:25 PM
Thelast   [size=3][b]38. Quan điểm quan trọng nhất c...   Apr 28 2007, 07:31 PM
Thelast   [size=3][b]39. Nguyên nhân của bệnh tật [r...   Apr 28 2007, 07:33 PM
Thelast   [size=3][b]40. Hãy cho tôi thời gian [right][i...   Apr 28 2007, 07:35 PM
Thelast   [size=3][b]41. Một cách phòng chống AIDS [ri...   Apr 28 2007, 07:39 PM
Thelast   [size=3][b]42. Chúc mừng năm mới 1984 [right...   Apr 28 2007, 07:41 PM
Thelast   [size=3][b]43. Người lãnh đạo Phong Trào T...   Apr 28 2007, 07:47 PM
Thelast   [size=3][b]44. Thực Dưỡng và y khoa: sự c...   Apr 28 2007, 07:50 PM
Thelast   [size=3][b]45. Thay đổi biến dịch ra sao [r...   Apr 28 2007, 09:12 PM
Thelast   [size=3][b]46. tưởng nhớ ohsawa lần thứ 1...   Apr 28 2007, 09:18 PM
Thelast   [size=3][b]47. Chuyến du thuyết đến thành ...   Apr 28 2007, 09:42 PM
Thelast   [size=3][b]48. Vài cảm nghĩ về hôn nhân (T...   Apr 29 2007, 10:35 AM
Thelast   [size=3][b]49. Các mục tiêu của phương ph...   Apr 29 2007, 10:40 AM
Thelast   [size=3][b]50. Một cộng đồng lạ thường...   Apr 29 2007, 10:46 AM
Thelast   [size=3][b]51. Tại sao tôi đến trái đất ...   Apr 29 2007, 10:52 AM
Thelast   [b]52. tình bằng hữu [right][i]Mùa thu năm ...   Apr 29 2007, 10:54 AM
Thelast   53. Tâm thanh tịnh [right][i]Tháng 10 năm 198...   Apr 29 2007, 11:00 AM
Thelast   [b]54. Tinh thần Thực Dưỡng ohsawa [right][...   Apr 29 2007, 02:28 PM
Thelast   [size=3][b]55. Nắm Giữ và từ bỏ Cuộc n...   Apr 29 2007, 02:33 PM
Thelast   [size=3][b]56. Sức khoẻ thực sự [right][i]...   Apr 29 2007, 02:39 PM
Thelast   [size=3][b]57. Chúc mừng năm mới, 1985 [righ...   Apr 29 2007, 02:44 PM
Thelast   [size=3][b]58. Tai hoạ tiềm ẩn của phươn...   Apr 29 2007, 02:48 PM
Thelast   [size=3][b]59. âm dương là gì? [right][i]Thá...   Apr 29 2007, 02:50 PM
Thelast   [size=3][b]60. “Ohsawa sẽ tới!” [right...   Apr 29 2007, 02:53 PM
Thelast   [b]61. Bệnh bị nhiễm qua đường sinh dụ...   Apr 29 2007, 02:56 PM
Thelast   [size=3][b]62. trí phán Đoán Siêu Xuất [rig...   Apr 29 2007, 02:59 PM
Thelast   63. Bản CHất mới của phương pháp Thực...   Apr 29 2007, 03:01 PM


Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 18th June 2025 - 02:51 PM