IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

> Kính vạn hoa - Phổ chiếu
Just Mini
bài Apr 20 2007, 02:07 PM
Bài viết #1


Rinkitori Tojimomi
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 125
Gia nhập vào: 7-February 07
Từ: nhà không số, phố không tên, đất nước không có trên bản đồ
Thành viên thứ.: 3



KÍNH VẠN HOA

Phổ chiếu


Herman Aihara


Lời giới thiệu

Vào đầu thập niên 90, toàn thể dân Mỹ sống trong tinh thần căng thẳng vì sợ chiến tranh hạt nhân, ung thư, AIDS.

Giữa lúc ấy, bác sĩ Anthony Sattilaro, giám đốc bệnh viện lớn nhất ở Philadelphia, trình bày trên màn ảnh truyền hình, trước nhiều ký giả đại diện cho nhiều tờ báo nổi tiếng, về thành quả tự trị lành ung thư đã di căn của mình ở tinh hoàn, bẹ sườn, xương sống và bàng quang bằng phương pháp Thực Dưỡng (Macrobiotics).

Mọi người thở phào nhẹ nhõm, như vớ được chiếc bè lúc sắp chết đuối. Hàng triệu người đổ xô đến thăm các trung tâm Vega (trung tâm Thực Dưỡng) rải rác trên toàn nước Mỹ để mong thuốc thần đem lại cho sức khoẻ hoàn hảo.

Cuốn Kính vạn hoa còn gọi là Phổ chiếu (Kaleidoscope) của Herman Aihara - người kế tục xuất sắc của Ohsawa - kịp thời tu bổ những sai sót của những môn sinh đã và đang thực nghiệm phương pháp Thực Dưỡng, giúp ổn định tâm tư một số người sắp nhập môn và đang tôn thờ Thực Dưỡng như tiên dược vạn năng.

Chỉ cần lắc nhẹ ống kính vạn hoa thì tức khắc mọi hình sắc bên trong đều đổi thay. Cũng thế, cuộc sống con người đổi thay theo luật tuần hoàn của vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, sáng, chiều, xuân, hạ, thu, đông... trôi dạt theo từng làn sóng tư tưởng, và nhất là sức khoẻ của con người cũng thay đổi theo sự biến đổi đó, mà nguồn gốc là phẩm chất của các món ăn, thức uống.

Tác giả Herman Aihara đã tiếp bước tiên sinh Ohsawa đi du thuyết khắp nơi trên thế giới và cùng với Michio Kushi (hiện đang ở Massachusettes) tiếp tục phong trào Thực Dưỡng ở Mỹ và ở các nơi khác. Trong lúc đi thuyết giảng, ông trả lời rất nhiều câu hỏi của người nghe và các môn sinh. Từ kinh nghiệm của bản thân và từ những buổi tham vấn ấy, tác giả viết ra cuốn sách này.

Những ai muốn hiểu rõ bản chất phương pháp Thực Dưỡng, của Ohsawa, muốn học âm dương theo cách tiếp cận phương Tây, muốn thấu hiểu AIDS, ung thư theo nhãn quan y lý phương Đông, muốn khỏi mất thì giờ, tiền bạc vì bệnh tật..., xin mời đọc Kính vạn hoa (Phổ chiếu). Cuốn sách còn giúp bạn đọc hiểu nguồn gốc con người, hiểu thấu nguyên lý Thiền, để sống hợp với Đạo, với cõi đời vô tận, để sống vui với gia đình, bạn bè và với mọi người trên quả đất này bằng tấm lòng từ bi bác ái, bằng tấm lòng bao dung, đại đồng.

Cuốn sách bao gồm 63 bài ghi chép, bài giảng, tùy bút... độc lập, được viết trải dài theo địa lý (từ châu âu đến châu Mỹ) và theo thời gian từ tháng 1-1979 đến cuối năm 1985. Bạn đọc có thể đọc riêng từng bài như một câu chuyện độc lập. Cũng do vậy, bạn đọc sẽ thấy nhiều ý tưởng, sự kiện được trình bày lặp đi lặp lại trong nhiều bài. Tư tưởng chủ đạo của Thực Dưỡng - như tác giả trình bày trong sách đã ngày càng được minh chứng là đúng đắn và được các môn đệ phái Thực Dưỡng phát triển. Do vậy, để góp phần giúp bạn đọc tìm hiểu quá trình tư tưởng cũng như các giai đoạn phát triển của phong trào Thực Dưỡng, chúng tôi dịch gần như nguyên văn bản "Kaleidoscope" của tác giả Herman Aihara (George Ohsawa Macrobiotic Foundation, Oroville, California, 1986).


--------------------
Mini chan ga ichiban



..::Mini::..
Go to the top of the page
 
+Quote Post
 
Start new topic
Trả lời
Thelast
bài Apr 28 2007, 03:43 PM
Bài viết #2


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



36. Từ suy nghĩ đến phán đoán
Tháng 6 năm 1983


Phương pháp Thực Dưỡng mà bạn đang nghiên cứu hay dự định nghiên cứu, gồm cả cách ăn uống cổ xưa đã bị quên lãng trong dòng sự kiện lịch sử nhân loại. Do đó hiện thời cách ăn uống ấy lại trở nên mới lạ đối với nhiều người ở phương Đông cũng như phương Tây. Còn có một hình thái nữa của phương pháp Thực Dưỡng, đó là phương cách tư duy. Lối suy nghĩ của Thực Dưỡng cũng đã có từ xa xưa nhưng nó cũng bị mai một vì phần nào nó chịu ảnh hưởng của nền giáo dục học hiện đại, mà lề lối giáo dục theo khuôn mẫu gây nguy hại cho trực giác hay tư duy tự phát.

Tư duy tự phát là gì? Mẩu chuyện sau đâysẽ mô tả cho bạn thấy:

Trước kia, một hãng giầy Mỹ có hai đại diện đến châu Phi nghiên cứu thị trường tiêu thụ giày. Người thứ nhất báo cáo về: giầy bán không chạy ở đây vì không ai đi giầy cả. Còn người thứ hai nói: vì chưa có ai đi giầy nên tiềm năng bán hàng là rấtlớn. ý kiến của thương gia thứ nhất có tính cách khuôn sáo. Suy nghĩ của thương gia thứ hai thanh thoát hơn. Luôn luôn có tư duy khuôn sáo và tư duy tự phát. Trong nhiều trường hợp tư duy theo kiến thức ngày nay khởi đầu đã từng là tư duy tự phát trước kia.

Khi Nicholas Copernicus (1473-1543) viết cuốn “Bàn về sự quay của các thiên thể” thì phái tư duy theo khuôn sáo cho là trái đất nằm yên ở trung tâm vũ trụ. Nhưng ông ta nảy ra ý tưởng rằng trái đất có thể xoay quanh mặt trời. Đó hoàn toàn là lối tư duy tự phát. Quan sát các hành tinh di chuyển bằng ống kính viễn vọng, Galileo Galilei xác nhận là trái đất quay xung quanh mặt trời. Hiện giờ thì ý tưởng khuôn sáo chấp nhận ý kiến của Galileo truyền dạy. Giữa hai nhà tư tưởng cấp tiến này, Copernicus không vướng chấp kiến thức nào có sẵn, trong khi đó Galileo nương theo lý luận sẵn có mà trở thành tư tưởng gia logic.

Lúc nào tư tưởng theo khuôn sáo không giải đáp được các nghi vấn thì khi đó tư tưởng tự phát mới soi sáng được vấn đề. Hầu hết các lý thuyết khoa học do tư duy tự phát tạo ra. Nhiều khoa học gia đã sử dụng cách thức này để khai thông các khó khăn, khi tư duy theo khuôn mẫu không kết quả.

Khi Einstein tìm ra thuyết tương đối, ông không làm một thực nghiệm nào cả. Ông chỉ dò xét luận thuyết liên quan đến cấu trúc của hệ thống Newton mà trước kia các khoa học gia xem là hoàn hảo, nhưng có đưa khái niệm về tương đối vào trong đó. Đó là cách vận dụng tư duy tự phát không lệ thuộc định kiến.

Có một cuốn sách quý tựa đề là Suy nghĩ mới lạ (New think) của Edward de Bono (Basic Books Inc., 1968) trong đó nói có hai loại tư duy: tư duy theo chiều đứng và tư duy phi logíc(vertical thinking and lateral thinking), theo Bono thì:

Tư duy theo chiều đứng đắc dụng nhất từ trước đến giờ. Các máy vi tính điện tử là điển hình của lối suy nghĩ này. Giải pháp được xác định bởi lập trình viên, người này chỉ định chiều hướng để tháo gỡ các gút mắc của vấn đề. Rồi thì máy tính xúc tiến giải đáp vấn đề một cách hợp lý và hữu hiệu các vấn đề đặt ra.

Giống hệt như nước đổ xuống triền núi, nó ngưng đọng ở các hốc đá và quy tụ ở các lòng sông, tư duy theo chiều đứng cũng diễn ra theo cách tương tự, theo những đường có thể dự đoán được. Nhờ dòng liên tiếp đó mà định hình được khả năng của hướng chảy trong tương lai.

Kiểu tư duy phi lôgíc được đánh giá dễ dàng nhất qua hành động. Biết bao người đã từng vướng mắc một vấn đề mà tưởng chừng như không bao giờ giải quyết nổi, rồi đến lúc nào đó bất chợt họ bừng ngộ - một giải pháp hết sức đơn giản phơi bày trước mắt. Vừa nghĩ đến vấn đề, giải pháp liền hiển lộ, quá sáng tỏ đến độ ta không hiểu sao lúc trước ta lại tối tăm đến vậy.

Nếu tư duy theo chiều đứng có giá trị xác suất cao thì tư duy phi lôgíc lại có giá trị xác suất thấp. Nhưng đó là những đường kênh mới được khai mở để đổi dòng chảy. Mấy kênh cũ bị lấp đi với hy vọng nước tự tìm ra được hướng lưu thông mới êm xuôi hơn. Khi luồng tư tưởng với giá trị xác suất thấp dấy lên một ý tưởng mới và hữu ích thì có một thời điểm phát kiến (Eureka moment) và tức khắc giá trị xác suất đang ở mức thấp nhảy vọt lên tầng tột đỉnh. Đó là khoảng cách nước ở trong ống xi phôn được hút lên cao một cách gắng gượng rồi bỗng chốc chảy thông thương nhẹ nhàng. Đây là thời điểm mà lối tư duy phi lôgíc luôn nhằm vươn tới.

Tóm lại, tư duy theo chiều đứng giống như trong trò giải trí mà người ta để các khối vuông chồng lên từng cái một, một cách cẩn thận. Còn trong trường hợp suy tư theo chiều rộng thì các khối vuông ấy nằm ngổn ngang không theo khuôn mẫu nào.

Thông điệp hệ trọng trong cuốn “Suy nghĩ mới” khuyên ta trải tầm suy nghĩ lên cả hai bên cạnh nếu muốn có óc sáng tạo tự do và khắc phục mọi khó khăn. Các thầy thuốc phương Đông có dạy ta cách suy tư theo chiều rộng và muốn đạt kết quả về sức khoẻ phải tuân thủ kỹ thuật và tập luyện.

ở phương Đông, nhiều kỹ thuật tư duy đã từng được phổ biến. Một trong các kỹ thuật đó là lối suy nghĩ theo nguyên lý âm dương và cũng là lối suy nghĩ có chiều rộng, dựa vào diệu dụng của âm dương. Colombus cho thuyền về phía Tây để rồi cập bến đảo West Indies (thuộc bờ biển trung Mỹ). Nếu về phía Đông có lẽ ông đã gặp xứ ấn Độ như đã dự định lúc đầu. Thế thì người ta có thể tìm hai hướng suy nghĩ và hành động.

Sau hàng trăm cuộc thí nghiệm, các khoa học gia đã nhận thấy rằng: hai bán cầu não sinh ra khác biệt nhau. Phần bên trái nghiêng về tư duy lý luận, logic. Phần bên phải chuyên về hình dáng và ảnh tượng, thuộc về trực giác, phi logic, thơ ca, lãng mạn, huyền bí. Xem tivi tăng cường hiệu năng phần não bên trái. Cho nên thế hệ mới thời nay chỉ giỏi với các trò giải trí điện tử mà kém về trí học và khả năng trực giác, thơ ca, tâm linh. Dùng lý Âm Dương mà quán chiếu thì sự sai biệt càng thấy rõ: phần óc bên trái thì âm, bên phải thì dương. Không cần đến khoa học hiện đại chúng ta cũng có thể tưởng tượng sự khác biệt giữa phần óc trái và óc bên phải nếu ta hiểu được diệu dụng của Âm và Dương.

Suy luận theo âm dương khuyên ta cũng nên nghĩ ở một hướng rồi xoay ý nghĩ ngược lại để thành được vòng tròn đầy sung mãn. Suy luận của ta dễ bị phiến diện nếu chỉ vận dụng công năng của phần bên này óc nhiều hơn bên kia. Thấu suốt dịch lý âm dương giúp ta tư duy thoải mái trong cõi tương đối này.

Phương pháp Thực Dưỡng có đặc tính là suy luận theo nghịch lý (paradoxical). Lối suy tư này là của phương Đông. Theo cảm nghĩ của nhà tâm lý học danh tiếng Erich Foremm, theo ông có hai loại logic mà từ đó phát sinh ra hai cách tư duy. Một là tư duy Aristote là logic hợp lý; và loại kia là tư duy nghịch lý mà nền tảng là logic nghịch lý.

Logic Aristote nền tảng là luật đồng nhất (A là A), quy luật mâu thuẫn (A không phải là không-A) và quy luật loại trừ (X không thể là A và không-A cùng một lúc).

Quy luật logic này là nền tảng của tư duy khoa học phương Tây. Dù sao, trong cuốn Nghệ thuật của tình yêu (Harper & Row, 1974), Erich Fromm nói: “Tiên đề logic Aristote thấm đẫm thói quen của tư tưởng cảm giác rõ ràng và hiển nhiên, trong khi mặt khác lại tuyên bố rằng X là A và không A cùng một lúc dường như là phi lý”.

Với tâm trí đơn giản, không suy nghĩ sâu sắc, lời tuyên bố “A là A” là phải. Nhưng nếu quan sát tỷ mỉ về thế giới và kinh nghiệm, nó rõ ràng là không A trong sự tồn tại cũng đồng nhất với A khác. Nói cách khác, “A là A” là tư duy tưởng tượng, không có thực, không thực tế, bởi vì A luôn luôn thay đổi. A không còn là A nữa ở khoảnh khắc sau. Suy nghĩ như vậy là nghịch lý, được nói rõ qua sự thuyết giảng của Lão Tử, Phật và những nhà hiền triết phương Đông khác.

Ohsawa gọi tư duy nghịch lý là “Trí phán đoán siêu xuất”. Trong 7 tầng (giai đoạn) phán đoán, nó là cái cuối cùng hoặc là cái đầu tiên.

Giai tầng 7 của phán đoán: trí phán đoán siêu xuất (supreme judgment) có thể được miêu tả như sau:

1. Không có gì là đồng nhất cả. Đây là quy luật phủ nhận sự đồng nhất và có giá trị ở mọi lúc, mọi nơi. Nó là chân lý và trí phán đoán siêu xuất.

2. Cái bắt đầu cũng là cái kết thúc (A → không A).

Đây là sự phủ định của quy luật mâu thuẫn. Nó cũng nói lên rằng mọi sự đều thay đổi. “Mọi thứ đều biến dịch” là quan niệm nền tảng của ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản. Một nhà thơ lớn Trung Hoa, Ri Tei Pei, viết: “Thế gian là nhà trọ mà ta không thể dừng lại hoặc thời gian là nhà lữ hành mà ta gọi là giấc mơ cuộc đời”.

Một nhà thơ lớn người Nhật, Basho, bắt đầu trong cuốn Haiku của ông Okuno Hosomichi bằng câu: “... Cuộc đời của chúng ta không là gì cả ngoài một cuộc phiêu lưu. Một vài người đi bằng ngựa, vài người khác thì bằng thuyền hay đi bộ. Trong nhiều sự việc, mọi thứ đều là cuộc phiêu lưu. Xa xưa, cuộc phiêu lưu tự bản thân nó là nơi nghỉ ngơi”. Nói cách khác, câu nói “mọi thứ đều biến dịch”lại không hề thay đổi. Vì vậy, đây là chân lý - trí phán đoán tối cao.

3. Cái gì có bề mặt thì cũng có bề trái. Giống như bề phải và bề trái của mọi sự vật, âm và dương là hai khía cạnh của X (vô cực hay nhất thể), nói ngắn gọn âm và dương là hai mặt của vô biên.

Điều chúng ta vừa nghị luận có thể trình bày như sau: thái cực tự phân thành Âm và Dương, Âm và Dương sinh ra vạn vật, mọi hiện tượng.

Ohsawa gọi trí phán đoán siêu xuất là “Trật tự vũ trụ”, tương quan giữa trí siêu đẳng và trật tự vũ trụ được lý giải như sau: Trí siêu đẳng là tính giác ngộ vô biên, trong khi đó thì trật tự vũ trụ là ý niệm về sự cấu trúc của vô biên.

Vì trí siêu đẳng là tính nhận biết thường xuyên về vô biên hay chính là vô biên nên tự tính của nó là toàn hảo chân thật và là tình thương bao la. Tự tính ấy hiện hữu khắp nơi và mọi lúc. Nó giống như làn sóng vô tuyến truyền thanh và truyền hình. Nó ở trong không gian, nhưng ta không nhận biết được nếu không rà bắt đúng tần số. Các trí phán đoán thấp kém hơn cũng giống như làn sóng vô tuyến truyền thanh hay truyền hình chứ không phải riêng trí phán đoán siêu đẳng.

Khi vô biên (hay thái cực) kia hạ xuống giai tầng âm dương, rồi đến năng lượng, tiền nguyên tử, phân tử và thảo mộc, rồi đến động vật thì giai tầng của trí phán đoán siêu đẳng hay giai tầng thứ 7 cũng hạ thấp để biến thành các trí phán đoán thô hơn, vì hạ trí là thành phần của thượng trí.

Giai tầng 6 của trí phán đoán: tư duy tư tưởng (judgment of ideology) được xem như sát cánh với trí tối thượng. Nhân tính thiện hay ác, con người tội lỗi hay vô tội, thế gian này tuyệt vời, mỹ lệ hay loài người đang khổ đau, duy vật hay duy tâm, tất cả các ý nghĩ ấy đều dấy khởi từ giai tầng này.

Giai tầng 5 của trí phán đoán: do óc tư duy tư tưởng mà sự suy lường về xã hội, về tôn giáo nảy sinh vì trí óc đó vốn đã hàm xúc các sự kiện xã hội rồi. Chẳng hạn ý nghĩ “nhân chi sơ tính bản thiện” phát sinh ra Thần đạo (Shinto) và môn phái Nichiren - quan niệm “con người tội lỗi” đã ra đời Thiên Chúa giáo và pháp môn Shin (Phật giáo).
Suy nghĩ về kinh tế làm nẩy sinh các học thuyết kinh tế như Tư bản, Cộng sản.

Giai tầng 4 của trí phán đoán: từ óc phán đoán về xã hội và tôn giáo mà nảy sinh ra trí phán đoán trí thức (tức có sắc thái thuần túy và nghệ thuật), trí này cấu tạo ra những quan niệm khoa học và các học thuyết. Những tư tưởng về xã hội, tôn giáo có ảnh hưởng đến nghệ thuật, âm nhạc và văn học.

Giai tầng 3 của trí phán đoán: nương theo trí phán đoán trí thức, lý trí và óc phán đoán nghệ thuật, tâm thức cảm thọ (cảm xúc) dấy khởi ưa ghét, vui buồn, khoái lạc hay than phiền...

Giai tầng 2 của trí phán đoán: óc suy luận bằng giác quan như nhận thức màu sắc và âm thanh, nhiệt độ, hình thể, xúc giác.

Giai tầng 1 của trí phán đoán: giai tầng dưới cùng, đẳng cấp thấp nhất của trí phán đoán, hành động do hệ thần kinh tự trị dấy khởi chức năng máy móc có tính cách phản xạ của tính giác lộ diện.

Các trạng thái của trí phán đoán biến dịch từ nhất thể cho đến trực giác. Tuy nhiên trí này cần xác thân con người để thể hiện. Nói cách khác, thân thể người ta hay động vật cần vài điều kiện thích nghi để biểu lộ hành vi máy móc phản ứng theo trực giác, như ta thường thấy trên cơ thể đơn bào, hoặc trí phán đoán qua giác quan nơi các loài cá và loài thú.

Một người đã tiến hóa cao có thể dễ dàng biểu lộ óc phán xét tri thức (intellectual), xã hội (social), tôn giáo (religious) và tư tưởng (ideological).

Người nào chứng ngộ trí phán đoán tối thượng siêu đẳng tức là tình thương vạn vật và công bằng tuyệt đối, người đó là kẻ tự do nhất, hạnh phúc nhất, công bằng nhất.

Trí siêu đẳng hằng sáng ngời trong mọi người nhưng các đẳng cấp nào của trí ấy được tiếp thu và hiện trên màn ảnh cuộc đời ta lại tùy thuộc vào thể chất và điều kiện sinh lực của ta hiện có. Để lĩnh hội được trí phán đoán ở giai tầng cao hơn ta cần phải thường xuyên cải thiện điều kiện sinh lý, tâm linh. Bữa ăn bổ dưỡng, thiền định, luyện tập thân thể bằng phương pháp thích hợp, đọc kinh... và giữ kỷ cương giúp cho ta vươn lên giai tầng cao của trí phán đoán.

Cầu nguyện không là gì khác ngoài sự thỉnh nguyện sự rung động tinh thần để chúng ta có thể nhận thức sáng sủa hơn.

Vậy thì quán chiếu cõi vô biên ta nhận thấy 7 giai tầng: từ giai tầng của hành vi máy móc phản ứng theo trực giác cho đến trí cứu cánh siêu đẳng. Vào lúc chào đời, trí năng của ta ở giai tầng máy móc, nương theo trực giác. Vài ngày sau ta có khả năng nhận thức bằng giác quan, ta cảm thọ được nhiệt độ, hình dáng, màu sắc... Sau vài tháng chúng ta biết thương ghét, trí óc ta đang ở giai tầng cảm tình. Đến giai tầng 4 ta có thể suy luận hợp lý, phân biệt các hiện tượng. Lên đến giai tầng thứ 5, ta cảm ứng được tôn giáo như Phật giáo, Kitô giáo và hiểu được các học thuyết như Tư bản, Cộng sản... Đến giai tầng 6, trí phán đoán khởi xuất ra ý niệm về tư tưởng như nhị nguyên luận, duy tâm, duy vật, cuộc sống hư hay thực... Đến giai tầng thứ 7 là giai tầng của trí phán đoán tối thượng của tri giác vô biên. Đó là tình thương bao la, là trí quán chiếu cùng khắp vượt ngoài các đối đãi, hết vướng bận. Trí cứu cánh biểu lộ ở đây, bây giờ và mãi mãi. Nhưng sự cảm ứng chân lý, bác ái và hạnh phúc tùy thuộc vào điều kiện sinh lực hiện tại và thể chất bẩm sinh để bộc lộ.

Trong cuốn “Sách về trí phán đoán” Ohsawa có viết: “Dù sao ta không thể ngộ nhập trí siêu đẳng này ngay từ lúc đầu. Ta phải khai triển óc phán đoán ở tầng mức thấp hơn trước đã. Thế thì ta phải cam chịu nóng lạnh, đói khát và khổ cực không phải chỉ ở tuổi thiếu niên mà cả cuộc đời. Tuổi thọ càng cao cuộc đời lại thêm động loạn và buồn thảm, ta thương người, người lại bội bạc ta. Ta luôn luôn thất vọng mà cuộc sống không như thế thì óc phán đoán của ta không tiến hóa được”. Sau khi trải qua chướng ngại, ưu sầu, niềm vui và cãi vã, chúng ta lên đến giai tầng 6 rồi 7 của trí phán đoán.

Các giai tầng từ 1 đến 6 là các nhánh rễ của giai tầng 7. Ta không nên loại bỏ các đẳng cấp thấp của trí phán đoán để nhảy vọt lên trên trí siêu đẳng. Nhưng muốn hưởng phúc lạc, ta phải đạt đến giai tầng 7, tức ngộ được trí tối thượng thừa. Để an trí trong cõi đó ta phải ăn uống những món thích hợp cho sức khoẻ, phải thiền định, tụng niệm và thực hành các phương pháp thể dục nào thích hợp với thể lực của ta.

Điều tối quan trọng là phải tự thệ nguyện:

1. Nhất quyết không khai trừ bất cứ ai, bất cứ vật gì kể cả ung bướu ra khỏi danh sách bạn hữu.
2. Nhất quyết chấp nhận mọi khó khăn với cả tấm lòng hoan hỉ, kể cả kẻ ghét bỏ ta.
3. Nhất quyết không than trách bất cứ lúc nào ta gặp bất hạnh hay sự đối xử thậm tệ.
4. Nhất quyết giữ lời hứa bằng mọi cách.
5. Nhất quyết không nói dối.
6. Nhất quyết cám ơn tất cả, kể cả những kẻ bội bạc, bất chính và căm thù ta.
7. Nhất quyết xem mọi vật, mọi người đồng nhất, không phân biệt.


Chỉ cần thực hiện được một trong các lời nguyện trên đây là ta ngộ nhập được trí siêu đẳng.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post

Gửi trong chủ đề này
..::Mini::..   Kính vạn hoa - Phổ chiếu   Apr 20 2007, 02:07 PM
..::Mini::..   [size=3][b]1.Thông điệp đầu năm 1980 [righ...   Apr 20 2007, 02:17 PM
..::Mini::..   [b]2. những bài giảng trong chuyến đi Châ...   Apr 20 2007, 02:30 PM
..::Mini::..   [b][size=3]3. Thị trấn jones [right][i]Tháng ...   Apr 20 2007, 02:34 PM
..::Mini::..   [size=3][b]4. Trung Hoa trở mình [right][i]Thá...   Apr 20 2007, 02:35 PM
..::Mini::..   [size=3][b]5. Nội Kinh, Chương 1 [right][i]Th...   Apr 20 2007, 02:38 PM
..::Mini::..   [size=3][b]6. chứng Bệnh âm thịnh [right][i...   Apr 20 2007, 02:42 PM
..::Mini::..   [size=3][b]7. câu chuyện về Sagen Ishizuka [r...   Apr 20 2007, 02:44 PM
..::Mini::..   [size=3][b]8. ấn Loát và món Tempura [right][...   Apr 20 2007, 02:46 PM
..::Mini::..   [size=3][b]9. câu chuyện về soba [right][i]Th...   Apr 20 2007, 02:48 PM
..::Mini::..   [size=3][b]10. Lòng tri ân [right][i]Tháng 4 n...   Apr 20 2007, 02:50 PM
..::Mini::..   [size=3][b]11. Năm người phụ nữ Mỹ Chuy...   Apr 20 2007, 02:51 PM
..::Mini::..   [size=3][b]12. Những suy nghĩ về tai nạn b...   Apr 20 2007, 02:52 PM
..::Mini::..   [size=3][b]13. chữa lành ung thư chưa đủ...   Apr 20 2007, 02:53 PM
..::Mini::..   [size=3][b]14. Nấu ăn với lòng từ ái [i][...   Apr 20 2007, 02:53 PM
..::Mini::..   [size=3][b]15. Sinh nhật george ohsawa lần th...   Apr 20 2007, 02:54 PM
..::Mini::..   [b]16. điều kiện thứ 7 của sức khoẻ ...   Apr 20 2007, 02:56 PM
..::Mini::..   [size=3][b]17. Quan niệm về kẻ thù [b]Mừn...   Apr 20 2007, 02:57 PM
..::Mini::..   [size=3][b]18. Một đêm tại trung tâm Vega [...   Apr 20 2007, 02:58 PM
..::Mini::..   [size=3][b]19. Khoản cá cược nặng đô [ri...   Apr 20 2007, 03:00 PM
..::Mini::..   [size=3][b]20. Một bệnh nhân ung thư hạnh ...   Apr 20 2007, 03:01 PM
..::Mini::..   [size=3][b]21. Từ bệnh tim đến bệnh ung t...   Apr 20 2007, 03:02 PM
..::Mini::..   [b]22. Chuyến du thuyết hè năm 1981 [right][...   Apr 20 2007, 03:03 PM
..::Mini::..   [size=3][b]23. nhỏ là mạnh [b]Hội chứng r...   Apr 20 2007, 03:06 PM
..::Mini::..   [size=3][b]24. Hoa Kỳ học tập từ Nhật B...   Apr 20 2007, 03:07 PM
..::Mini::..   [size=3][b]25. sự giáo dục của người m...   Apr 20 2007, 03:08 PM
..::Mini::..   [size=3][b]26. tại sao phương pháp Thực Dư...   Apr 20 2007, 03:11 PM
phannhathieu   Chị Trâm ơi, E định scan từ từ những...   Apr 20 2007, 04:40 PM
Thelast   [size=3][b]27. nền Kinh tế nước Mỹ [right...   Apr 25 2007, 02:59 PM
Thelast   [size=3][b]28. cốt tủy của Thực Dưỡng [...   Apr 25 2007, 03:11 PM
Thelast   [size=3][b]29. Nỗi sợ tylenol [right][i]Tháng...   Apr 25 2007, 03:13 PM
Thelast   [size=3][b]30. Chúc mừng năm mới 1983 [right...   Apr 26 2007, 07:55 AM
Thelast   [size=3][b]31. “lời Phán quyết” [right][i...   Apr 26 2007, 08:04 AM
Thelast   [size=3][b]32. lợi ích của muối [right][i]T...   Apr 26 2007, 08:08 AM
Thelast   [size=3][b]33. Bệnh tái phát [right][i]Tháng ...   Apr 26 2007, 08:11 AM
Thelast   [b]34. Gandhi [right][i]Tháng 4 năm 1983 Chắc...   Apr 26 2007, 08:28 AM
Thelast   [b]35. Nghệ thuật ăn uống phá lệ [right]...   Apr 26 2007, 08:31 AM
Thelast   [b]36. Từ suy nghĩ đến phán đoán [right]...   Apr 28 2007, 03:43 PM
Thelast   [size=3][b]37. Làm sao khắc phục lo sợ? [i]...   Apr 28 2007, 07:25 PM
Thelast   [size=3][b]38. Quan điểm quan trọng nhất c...   Apr 28 2007, 07:31 PM
Thelast   [size=3][b]39. Nguyên nhân của bệnh tật [r...   Apr 28 2007, 07:33 PM
Thelast   [size=3][b]40. Hãy cho tôi thời gian [right][i...   Apr 28 2007, 07:35 PM
Thelast   [size=3][b]41. Một cách phòng chống AIDS [ri...   Apr 28 2007, 07:39 PM
Thelast   [size=3][b]42. Chúc mừng năm mới 1984 [right...   Apr 28 2007, 07:41 PM
Thelast   [size=3][b]43. Người lãnh đạo Phong Trào T...   Apr 28 2007, 07:47 PM
Thelast   [size=3][b]44. Thực Dưỡng và y khoa: sự c...   Apr 28 2007, 07:50 PM
Thelast   [size=3][b]45. Thay đổi biến dịch ra sao [r...   Apr 28 2007, 09:12 PM
Thelast   [size=3][b]46. tưởng nhớ ohsawa lần thứ 1...   Apr 28 2007, 09:18 PM
Thelast   [size=3][b]47. Chuyến du thuyết đến thành ...   Apr 28 2007, 09:42 PM
Thelast   [size=3][b]48. Vài cảm nghĩ về hôn nhân (T...   Apr 29 2007, 10:35 AM
Thelast   [size=3][b]49. Các mục tiêu của phương ph...   Apr 29 2007, 10:40 AM
Thelast   [size=3][b]50. Một cộng đồng lạ thường...   Apr 29 2007, 10:46 AM
Thelast   [size=3][b]51. Tại sao tôi đến trái đất ...   Apr 29 2007, 10:52 AM
Thelast   [b]52. tình bằng hữu [right][i]Mùa thu năm ...   Apr 29 2007, 10:54 AM
Thelast   53. Tâm thanh tịnh [right][i]Tháng 10 năm 198...   Apr 29 2007, 11:00 AM
Thelast   [b]54. Tinh thần Thực Dưỡng ohsawa [right][...   Apr 29 2007, 02:28 PM
Thelast   [size=3][b]55. Nắm Giữ và từ bỏ Cuộc n...   Apr 29 2007, 02:33 PM
Thelast   [size=3][b]56. Sức khoẻ thực sự [right][i]...   Apr 29 2007, 02:39 PM
Thelast   [size=3][b]57. Chúc mừng năm mới, 1985 [righ...   Apr 29 2007, 02:44 PM
Thelast   [size=3][b]58. Tai hoạ tiềm ẩn của phươn...   Apr 29 2007, 02:48 PM
Thelast   [size=3][b]59. âm dương là gì? [right][i]Thá...   Apr 29 2007, 02:50 PM
Thelast   [size=3][b]60. “Ohsawa sẽ tới!” [right...   Apr 29 2007, 02:53 PM
Thelast   [b]61. Bệnh bị nhiễm qua đường sinh dụ...   Apr 29 2007, 02:56 PM
Thelast   [size=3][b]62. trí phán Đoán Siêu Xuất [rig...   Apr 29 2007, 02:59 PM
Thelast   63. Bản CHất mới của phương pháp Thực...   Apr 29 2007, 03:01 PM


Reply to this topicStart new topic
2 người đang đọc chủ đề này (2 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 17th June 2025 - 06:31 PM