IPB

Chào mừng Khách ( Đăng nhập | Đăng kí )

7 Trang V  « < 2 3 4 5 6 > »   
Reply to this topicStart new topic
> Kính vạn hoa - Phổ chiếu
Thelast
bài Apr 25 2007, 03:13 PM
Bài viết #31


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



29. Nỗi sợ tylenol
Tháng giêng năm 1983


Cái chết của bảy người vào ngày 6 tháng 10 năm 1982 do uống thuốc giảm đau tylenol đã khiến mọi người bàng hoàng và cả nước Mỹ hoảng sợ, bất an. Đây là một nỗi khủng khiếp lớn bởi chẳng có manh mối nào để giải quyết bí ẩn, tại sao ai lại sát hại người hàng loạt thế.

Kể từ đó đã gần hai tháng trôi qua. Đã vẫn chẳng tìm ra tội phạm lẫn nguyên do. Theo tờ “Newsweek” (11-10-1982), trường hợp trên xảy ra thế này: “Giả thuyết khả dĩ nhất, đó là ai đó đơn giản đã lấy những lọ thuốc từ những cửa hàng bán lẻ - có thể có lựa chọn, có thể ngẫu hứng - rồi đổ thuốc độc chết người vào vài vỏ đựng thuốc và lén trả lại các ngăn để các khách hàng tình cờ mua phải. Nếu vậy, thủ phạm có thể hầu như là bất kể ai - một nhân viên cáu bẳn, chẳng hạn, của hãng Mc Neil hay của Johnson và Johnon hay một kẻ cạnh tranh quá ghen tuông khác. Nhưng nhiều chuyên gia nghĩ rằng thủ phạm đơn giản là một kẻ điên cuồng có ý tưởng độc ác muốn trở thành sát nhân nổi tiếng.”

Nếu đây là chuyện về loạn tâm thần, thì làm sao có thể tránh cho các nạn nhân tương lai? Có thể tất cả loại thuốc sẽ được niêm phong, đóng kín. Nhưng theo các nhà chức trách thì không có sự bảo đảm tuyệt đối rằng chúng sẽ an toàn. Trong sự cố đáng sợ và lộn xộn này, giáo lý và lối sống Thực Dưỡng có thể đưa ra một giải pháp nào chăng. Sau đây là nhận định của tôi.

Tại sao vụ tylenol đã xảy ra vậy? Thói quen và tư tưởng lệ thuộc thuốc là nguyên nhân thực sự của vụ tylenol. Tờ “Thời báo” (11-10-1982) tường trình:

“Adam Jamus 27 tuổi, sáng thứ tư trước (6-10) hơi bị tức ngực, nên anh ta đi mua một lọ tylenol loại mạnh. Khoảng một giờ sau tại nhà mình ở Arrlington Herghts thuộc ngoại ô Chicago, Jamus bị suy tim phổi. Anh ta được chở đi cấp cứu ở bệnh viện, các y bác sĩ đã tận tình làm hết khả năng để cứu sống anh ta. Nhưng bác sĩ Thomas Kim, trưởng khoa cấp cứu của bệnh viện cho biết: ’Có vẻ vô phương cứu chữa rồi, anh ta bị chết đột tử. Một điều gần như bất thường.’ ”

Sáu nạn nhân còn lại cũng đã uống phải tylenol và đã chết theo cách tương tự. Người ta cứ quen lấy thuốc không được kê đơn theo chỉ dẫn thầy thuốc. Nếu bị đau đầu, họ liền ra quầy thuốc gần nhà mua một lọ rồi về uống. Do vậy, năm 1979 người Mỹ tiêu khoảng 1 tỉ USD cho thuốc ho và cảm lạnh và khoảng 1,2 tỉ USD cho thuốc giảm đau. Việc tiêu tốn này đang tăng lên mỗi năm (theo “Thuốc chuyên đề, hướng dẫn về thị trường”, NXB Kinh tế, Oradell, New Jersey).

Thật là ngây ngô và nhẹ dạ! Người ta đã bị tẩy não, nhồi sọ để nghĩ rằng cần cắt cơn đau bằng bất kỳ giá nào và nếu hết cơn là khỏi bệnh. Tư tưởng này - cố cắt cơn bằng bất kỳ giá nào và chẳng bao giờ nghĩ rằng đâu là nguyên nhân thực của cơn đau, đâu là cách chữa khỏi thực sự - là nguyên nhân của vụ tylenol.

Tuy nhiên, có vẻ chẳng ai quan tâm tới những căn nguyên như vậy; thay vào đó họ trách cách đóng thuốc hay chứng điên rồ của xã hội. Chẳng hạn, một bài trong tờ “ Francisco Chronicle” (7-10-1982) nói rằng các nghị sĩ đang kêu gọi ra luật buộc các hãng phải niêm phong miệng lọ của mọi loại thuốc được báng. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng việc gắn niêm phong chai lọ không phải là cách bảo vệ tuyệt đối chống lại sự việc này. Sự an toàn tuyệt đối duy nhất là đừng bao giờ để bị đau tới nỗi phải mua thuốc như vậy.

Khi tôi mới nghe tin vụ tylenol, tôi tưởng điều này sẽ có lợi cho nhiều người bởi họ có thể ngưng uống. Tôi đã lầm. Bảy cái chết do nhiễm độc thuốc đã chẳng thay đổi tâm trí người ta chút nào. Một tháng rưỡi sau, tờ “Chronicle” đưa tin: bảy cái chết do chất độc trong thuốc nhộng tylenol loại mạnh đã khiến ngành công nghiệp sợ rằng dân chúng có thể tránh xa sản phẩm của họ. Nhưng có vẻ dân chúng ít quan tâm tới việc đó hơn ngành công nghiệp thuốc. Cùng tờ đó đưa tin rằng một cuộc điều tra khách hàng cho thấy rằng 54% trong số họ cảm thấy uống thuốc không theo đơn vẫn an toàn. Do vậy, người ta vẫn tiếp tục mua thuốc tây và tin rằng đó là phao cứu mạng của họ. Tuy nhiên, sự thật là thuốc không an toàn cho dù nó có được niêm phong. Uống thuốc là tự tử dần, ngay cả nếu không bị đột tử trong vòng 15 phút như trong vụ tylenol.

Tại sao uống thuốc giảm đau lại là tự tử dần? Câu trả lời rất đơn giản. Thuốc giảm đau là giải pháp tình thế về triệu chứng thôi. Nó không chữa khỏi bệnh chút nào mà chỉ gây tê cảm giác đau. Điều tồi tệ nhất là thuốc cắt cơn không chỉ ngưng đau mà còn ngưng cả tiến trình tự chữa của thân thể. Chẳng hạn, thuốc antihistamin (một trong nhiều dạng thuốc dùng để chữa dị ứng) hay các loại khác để chống sổ mũi.Người ta không nhận thức rằng việc xổ mũi này là hệ thống chữa trị tự nhiên của thân hoạt động bằng cách tống xuất chất độc ra ngoài. Trong “Ai là thầy thuốc của bạn và tại sao” (của Alonô J. Sadman, MD, NXB Keats Pulishing. Inc., 1980), bác sỹ J.Haskel Kritzen trích dẫn:

Tuy vậy, việc mệt mỏi và khó ở khi bị cảm thông thường lại là một nỗ lực có ích của tự nhiên để thải khỏi cơ thể những chất nhầy gây hại đã tích tụ. Do đó, cảm lạnh là một kiểu van an toàn tự nhiên, một biện pháp sửa chữa để thêm cho việc thải cặn chưa hoàn chỉnh. Thời gian, công sức và tiền bạc tiêu vào việc điều tra chứng cảm thông thường, những cố gắng để nhận diện những vi trùng đặc thù suy cho cùng là vô hiệu. Những kết luận rút ra duy nhất là việc sản xuất vô tội vạ hàng loạt thuốc lang băm diệt cảm, các vắc xin phòng ngừa và huyết thanh (serum) vốn không chỉ không đáng mà vô cùng tai hại hơn cả chứng cảm mà người ta đang định chữa.

Năm 1979 các đơn thuốc của bác sĩ có giá trị thuốc lên tới 11 tỉ USD. Mỗi người Mỹ từ trẻ tới già tiêu ít nhất 4 USD vào thuốc cảm, 4 USD cho thuốc giảm đau trong và 50 USD cho các đơn thuốc của các bác sĩ mỗi năm. Tại sao quá nhiều tiền bị lãng phí thế? Thuốc không chữa khỏi mà làm cho tình trạng sức khoẻ tệ hại đi. Một khi đã dùng thuốc thì càng lệ thuộc thêm. Nếu thuốc có thể chữa khỏi lập tức thì lẽ ra đã chẳng còn bệnh nhân nào và các nhà chế thuốc lẽ ra đã phá sản rồi. Tuy vậy, sự thật là việc tổng tiêu thụ thuốc đang tăng mỗi năm (14 tỉ USD năm 1975 và 20 tỉ USD năm 1979).

Bác sĩ Shadman, một trong những bác sĩ (phẫu thuật) hiếm có, vốn chống việc dùng thuốc và tin vào lực chữa của tự nhiên, đã viết ra cách thức mà các nhà sản xuất thuốc lừa dân chúng như sau:

“Mỗi tuần, thùng rác của mọi bác sĩ đều đầy những văn bản ca tụng công dụng của một loạt dài dằng dặc các loại thuốc. Nhiều bản còn kèm mẫu thuốc. Tôi đã không thể tìm được sản phẩm nào có bất kỳ công dụng chữa khỏi bệnh gì, thế mà 14 tỉ USD hoặc hơn bị tiêu tốn mỗi năm để mua chúng.

Công nghiệp thuốc là một trong những ngành có mức tăng giá sản phẩm cao nhất trong nước. Ngân sách cho quảng cáo của nó cũng chiếm tỉ lệ % khá tầm cỡ trong giá tiêu thụ. Tại sao phải tiêu nhiều vào quảng cáo? Bởi cần tạo ra một thị trường. Họ phải khiến cho mọi người tưởng rằng mình phải uống viên thuốc nào đó khi có dấu hiệu đau đầu hay đau bụng đầu tiên”.

Từ quan điểm Thực Dưỡng, các thuốc giảm đau và y học đối trị chỉ ngăn các triệu chứng vốn là tiến trình thải độc của tự nhiên. Do vậy, việc dùng những thuốc như vậy sẽ tạo sự tích độc trong cơ thể. Điều này kéo theo sự kém vận hành của lục phủ ngũ tạng, nhất là thận và cuối cùng dẫn tới tình trạng axit hoá của dịch tế bào. Theo tôi, điều này có thể dẫn tới sự hình thành các u ác. Do đó, việc bắt đầu của các tế bào ung thư có thể bị gây ra bởi sự hoại tử cũng như việc thường xuyên dùng các thuốc diệt triệu chứng. Mỗi khi người ta uống một loại thuốc cắt cơn hay đối trị nào khác là họ đang sửa soạn cho việc hình thành tế bào ung thư.

Sau đây là diễn tiến điều trị cho Gabrielle, nữ, 9 tuổi, do bác sĩ Eugen Underhill, trích từ một bài trong “Ai là bác sĩ của bạn và tại sao?”:

Nằm giường và cứ 3 tiếng uống một viên aspirin.

Chỉ định thuốc giảm đau codeine qua điện thoại.

Khả năng nhiễm viêm gan hoặc viêm xổ vàng da.

Tăng Codeine nhưng không có tác dụng.

Phát hiện gan bị sưng.

Bác sĩ nghĩ bệnh nhân có vẻ bị loạn trí nhưng điều này bị bác bỏ.

Bệnh nhân được nhập viện ở một trong những trung tâm y tế hạng nhất.

Thực hiện xét nghiệm nhưng không thể tưởng tượng được lại nhiều thế.

Lấy máu từ cánh tay hai lần, ngón tay bị chọc vài lần.

Tiêm bằng kim tiêm17 lần trong tuần đầu tiên, rồi không tính được ở các tuần sau.

Cuối cùng chuẩn đoán đó là viêm gan.

Trường hợp này được đưa ra trước cuộc họp hội đồng hàng tuần.

Các bác sĩ có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân bệnh.

Một bác sĩ bắt đầu bàn tới giải phẫu thăm dò.

Liệt kê khả năng bị khối u nhỏ.

X - quang cho thấy các vết mờ trong khoang phổi.

Lệnh phẫu thuật.

Tiếp máu chuẩn bị phẫu thuật.

Phát hiện khối u từ xương sống lan phát mọi nơi.

Kiểu u không hiển thị với chiếu xạ.

Không thuốc nào ích lợi cho kiểu ung thư này.

U ác và hoàn toàn không thể trị.

Bệnh nhân ở bệnh viện tốt nhất và với những bác sĩ tốt nhất.

Chỉ định thuốc demerol.

Tiêm codeine, rồi loại khác, rồi demerol.

Tăng demerol, rồi phenobarbital (gây mê và giảm đau).

Demerol bị mất hiệu nghiệm, phải chuyển sang morphine.

Thịt da xạm đen, tái xám và rất viêm nhức do bị tiêm quá nhiều.

Tiêm thường xuyên vitamin K.

Thỉnh thoảng tiêm penicillin.

Tiếp đạm hai lần vì mắc sởi trong viện.

Vài ngày truyền máu một lần, một thủ tục lê thê và mệt mỏi.

Loạn triệu chứng. Các bác sĩ đoán mò diễn biến tiếp sau.

Ngay cả bệnh nhân cũng thấy các bác sĩ chẳng biết gì cả.

Tiêm luminol.

Tiêm paraldehyde trị co giật. Lặp lại khi lên cơn.

Ghi chú: bệnh nhân chết.


Đây chỉ là một trong những chuyện buồn về bệnh mà thuốc men điều trị duy nhất là cắt cơn. Câu chuyện cho thấy ngành y chẳng dính gì tới chữa lành mà chỉ dừng đau lại. Thế nhưng, chế độ Thực Dưỡng đã tỏ ra ưu việt hơn bất kỳ thuốc cắt cơn nào, ngay cả những bệnh nhân ung thư nghiêm trọng cũng đã giảm đau rất nhiều sau khi tuân thủ nghiêm ngặt liệu pháp Thực Dưỡng từ một tuần trở lên.

Tóm lại, vụ tylenol là một cảnh báo cho những người phụ thuộc vào thuốc và bác sĩ để giảm đau và dịu triệu chứng nhất thời. Nó khuyên họ thay đổi cách ăn và nên ăn kiêng, để cho chẳng cần thêm thuốc tây hay thuốc cắt cơn nào.

Ta nên không bị đau đầu chút nào vào bất kỳ lúc nào. Nếu bị, bạn phải ngừng ăn đường và thức ăn chứa đường, đồ uống xổi (nước ngọt đóng lon, chai...) và giảm lượng nước mà bạn nạp vào. Bạn có thể ngạc nhiên khi thay đổi chế độ ăn uống đơn giản chữa được đa phần chứng đau nhức đầu. Thế rồi bạn sẽ ngạc nhiên là tại sao người ta phải tiêu 1 tỉ đô la để đình chỉ một chứng đau đơn giản như vậy.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Apr 26 2007, 07:55 AM
Bài viết #32


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



30. Chúc mừng năm mới 1983
Tháng giêng năm 1983


Theo lịch ta, năm nay rơi vào quẻ bĩ: thịnh âm, hành thuỷ, Quí Hợi. Đây cũng là năm cuối của vòng can chi 60 năm. Điều này cũng như một hạt giống vùi trong đất đang hấp thụ chất dinh dưỡng nhưng chưa nảy mầm. Có nghĩa những điều tốt lành chưa tới.

Với tôi, có vẻ Thực Dưỡng hiện nay đang ở trong lòng đất và chưa được biết đến trong quảng đại quần chúng. Nó đang lớn nhưng không được biết tới. Những bài của bác sĩ Sattilaro, sách báo, việc xuất hiện trên tivi đã quảng cáo một chút cho Thực Dưỡng, nhưng chân giá trị của Thực Dưỡng vẫn chưa được giới thiệu. Tiềm năng của nó, giá trị và tính bất tử của nó còn mờ mịt với đại đa số.

Tôi đã tra Kinh Dịch về tình hình của Thực Dưỡng năm nay. Đó là quẻ 54 (hôn nhân) bằng 7 dương, 9 dương, 6 âm, 7 dương, 8 âm, 8 âm. Điều này có nghĩa Thực Dưỡng gây nên việc kết duyên giữa triết học phương Đông và y học phương Tây. Tuy vậy, có nhiều khó khăn trong cuộc kết duyên này bởi tính “xung” trong âm và dương. Khi tôi đổi đệ nhị dương (9) thành âm và đệ tam âm (6) thành dương, thì tôi được quẻ 49 (Biến dịch, hay cách tân).

Cuộc tương phùng giữa triết học phương Đông và y học phương Tây sẽ tạo ra một cuộc cách mạng trong lối sống và văn hoá phương Tây. Vài mầm mống cho một cuộc cách mạng như vậy sẽ bắt đầu vào cuối năm nay. Nếu một cuộc cách mạng như vậy được thực hiện, đó sẽ là cuộc cách mạng lớn nhất trong lịch sử nhân loại.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Apr 26 2007, 08:04 AM
Bài viết #33


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



31. “lời Phán quyết”
Tháng 2 năm 1983


Một bài báo về bộ phim “Lời phán quyết” của Paul Newman, đã khiến tôi đi xem nó ở Oakland trong kì nghỉ vừa rồi.

Câu chuyện xoay quanh một luật sư công giáo người Ailen nghiện rượu, theo kiện bốn vụ án trong ba năm và đều bị bại. Tại sao? Chẳng ai biết, nhưng Thực Dưỡng có một lời đáp. Giờ anh ta đang khởi sự một vụ kiện về bất cẩn chống một bác sĩ bị tố cáo đã dùng nhầm thuốc gây mê. Anh ta tin vào thắng lợi tới mức từ chối chấp nhận khoản tiền thanh toán kếch xù do luật sư bào chữa biếu.

Tuy vậy, những khả năng thắng lợi của anh ta rơi rụng dần vì sự phản bác khôn ngoan ranh mãnh và cách điều khiển các nhân chứng của luật sư bào chữa. Hy vọng thắng lợi duy nhất và cuối cùng của anh ta - lời chứng của cô y tá đã tiến hành gây mê cho bệnh nhân theo lệnh của bác sĩ - đã bị sự biện luận khôn ngoan của luật sư bào chữa vô hiệu hoá.

Anh ta đã thua, thất bại hoàn toàn, tại sao? Giác quan thường bảo ta đấy là tại tật nghiện rượu của anh ta. Tại sao anh ta không thể ngừng uống? Bởi anh ta không hạnh phúc. Một cách để có hạnh phúc đối với anh ta là thay đổi lối sống, bao gồm thay đổi chế độ ăn uống. Đây không phải chuyện của bộ phim, tất nhiên, phim rất thực tế. Nó không đưa ra một kết cục sung sướng. Từ đầu tới cuối, phim tỏ ra rằng viên luật sư nghiện rượu hẳn thua kiện. Các tình tiết được sắp xếp hợp lý. Cả từ nhãn quan Thực Dưỡng nữa, anh ta phải thất bại bởi đang sống một cách không lành mạnh và do vậy trí phán đoán không tốt. Tuy nhiên, tính thật thà, chân thành và trung thực của viên luật sư tội nghiệp - vốn là đức hạnh duy nhất anh ta có - đã gây được một điều thần kỳ. Điều này là nhờ hệ thống hội thẩm khi được áp dụng trong xử án tại Hoa Kỳ. Chế độ ban hội thẩm xuất xứ từ đâu? Ưu và nhược điểm của nó thế nào? Những câu hỏi này nảy sinh trong trí óc tôi.

Sự ra đời của ý tưởng đầu tiên về chế độ ban hội thẩm hình như đã có từ thời xa xưa, ở Hy Lạp cổ. Tuy vậy, hệ thống đó đã bị Hoàng đế Hy Lạp bãi bỏ vào khoảng năm 352 trước CN, bởi nó trở nên quá mạnh và độc lập. Rồi nó xuất hiện ở Bắc Âu rồi tới Normandy (Pháp) khoảng năm 890. Nó đã vượt sang Anh khi William De Conqueror chinh phục xứ Anh năm 1066 trước CN.

Khi thực dân Anh tới Tân thế giới, hình thức ban hội thẩm là một phần của văn hoá Anh mà họ mang vào Mỹ. Tháng 10-1765, các đại diện của 9 thuộc địa nhóm họp tại Nữu Ước và công bố “Tuyên ngôn về các quyền con người” vốn dựa trên các quyền thông luật của dân Anh. Một trong những quyền mà các thuộc địa tuyên bố trong bản tuyên ngôn đó là quyền xét xử bởi ban hội thẩm.

Chế độ ban hội thẩm ở Hoa Kỳ bắt đầu như vậy khi mỗi thuộc địa đã được thừa nhận thành bang. Khi đó mỗi bang lập một Hiến pháp và bảo kê quyền xử án do ban hội thẩm - trừ bang Louisiana, vốn do Pháp điều hành trước khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ mua lại tiểu bang này. Tóm lại, hệ thống ban hội thẩm ở Hoa Kỳ là phần mở rộng trực tiếp và tương ứng với hệ thống hội thẩm đoàn của Anh quốc.

Câu hỏi thứ hai xảy ra trong đầu tôi, đó là về mặt hay và mặt dở của hệ thống đó. Theo luật sư xét xử Morris J. Bloomstein, có nhiều điều mà theo đó việc áp dụng một ban hội thẩm trong mọi trường hợp là lãng phí thời gian và tiền bạc. Điều quan trọng nhất chống lại hệ thống ban hội thẩm là chất lượng của công lý có thể được cải thiện chăng nếu các phiên xử được quyết định bởi một quan toà thay vì bởi các bồi thẩm. Theo ý tôi, toàn bộ vấn đề về chế độ bồi thẩm đoàn có thể gói gọn thành vấn đề sau: “Liệu 12 bồi thẩm có mang lại phán quyết chuẩn hơn là một quan toà hay không?”

Trong hầu hết trường hợp, đối với phán quyết thuộc loại tiêu cực, một nhóm đông người đưa ra một phán quyết dở hơn mỗi người độc lập đưa ra. Chẳng hạn, lịch sử cho ta thấy rằng trong chiến tranh, nhiều binh lính thuộc nhiều nơi đã giết cả người dân thường vô tội, gồm luôn trẻ em và người già. Nhiều người trở nên bạo lực khi họ tụ thành nhóm, như là trong sinh viên hay thổ dân bạo loạn. Người đơn lẻ thì có thể có ý thức, nhưng đám đông có thể phi lý trí. Cũng như vậy thì một nhóm bồi thẩm có thể giảm chất lượng phán quyết và khi các bồi thẩm không có trí tuệ thông minh hơn dân thường, thì làm sao có thể trông mong rằng phán quyết của những người thường này tốt hơn là từ một chuyên gia luật được huấn luyện chính qui?

Theo ý tôi, trong trường hợp một nhóm nhỏ như ban hội thẩm, phán quyết cá nhân thêm vào để sinh ra phán quyết chuẩn, cân bình hơn là từ một người, dù là quan toà được đào tạo cao cấp. Về điều này, Morris Bloomstein nói trong cuốn sách của ông “Phán quyết: ban hội thẩm” (Dold, Mead và Co. 1972: “Nhìn vào trí nhớ và trí tuệ của các bồi thẩm, đa số các luật sư xét xử thấy rằng các bồi thẩm không quên các sự kiện và thể chế luật pháp một cách quá dễ dàng được. Nếu một người quên thì người khác nhớ. Đấy là việc tái thu nhập tập thể và trí tuệ của 12 hội thẩm viên cộng lại, không phải của riêng người nào”.

Cuối cùng, chế độ hội thẩm thành một áp dụng dân chủ của thi hành luật. Đây là tin vào chính ta thay vì tin vào chính phủ và đó là một thể hiện của công lý, vốn là điều mọi người đều có. Đây là một hệ thống hay, ta nên giữ và phát triển nó. Bloomstein viết; “Ngài Patrick Devlin đã gọi ban hội thẩm là “Cây đèn của tự do”. Cầu mong rằng cây đèn đó không bao giờ bị tắt vì nếu để bóng tối lấn lướt, những quyền cao xa hơn chắc chắn sẽ bị mất đi... Như trong những ngày mà các bậc ông cha thành lập nên nước Mỹ của Thomas Jefferson của Datrichk Henry, hệ hội thẩm vẫn còn là trụ cột trung tâm của “ngôi đền công lý”, một trụ cột mà phải còn vững chắc để cho tự do có thể biểu lộ”.

Sự kiện sau đây chỉ ra công lý của người Anh vốn đã tạo nên hệ bồi thẩm đoàn hiện tại, lại trích từ “Phán quyết” của Bloomstein. Chừng nào tinh thần công lý này còn tồn tại, thì còn tự do nhân loại.

“Điều kinh ngạc, tuy vậy, đó là duy lý vẫn còn được áp dụng cho ban hội thẩm tới tận năm 1670. Vào thời đó, có hai người vốn bị hành hạ vì niềm tin tôn giáo của họ bị dẫn tới toà vì hội họp với đồng đạo của họ một cách bất hợp pháp. Dưới những khuôn mẫu thịnh vượng thời đó, không nghi ngờ gì rằng họ phạm tội. Nhưng với ý thức nổi dậy chống lại tính nghiệt ngã của luật, vị quan toà thấy rằng bị cáo không bị phạm tội. Toàn bộ ban hội thẩm lập tức bị quan toà qui là có tội vì ép cung. Bạo loạn bộc phát khắp nước Anh. Cuối cùng khi phúc thẩm, toàn bộ quan niệm về duy lý sụp đổ. Một trong hai bị cáo là William Penn, sáng lập nên Pennsylvania.”

Trong tình hình đầy bệnh hoạn, kinh tế bất ổn, lo sợ chiến tranh thế giới nhiễm tội lỗi này, một nhóm người (trong “Phán quyết”) đã đứng lên vì công lý. Bộ phim này đưa ra một hy vọng cho nhân loại: chừng nào công lý này còn tồn tại trong chúng ta thì nhân loại còn chưa diệt vong. Như Ohsawa nói, điều kiện thứ bảy của sức khoẻ là chân thực. Chừng nào ta còn chân thực, thì ta lành mạnh.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Apr 26 2007, 08:08 AM
Bài viết #34


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



32. lợi ích của muối
Tháng 3 năm 1983


Phương pháp Thực Dưỡng không bao giờ dùng muối tinh chế mà lại dùng muối thiên nhiên vì muối tinh chế đã bị mất rất nhiều chất khoáng, đặc biệt là các loại khoáng chất vi lượng, khó tìm được trong các thức ăn khác. Các loại khoáng chất này giúp enzym có tác dụng trong việc tiêu hóa và biến dưỡng. Thiếu các khoáng chất này, muối sẽ là chất kích thích có thể gây hại cho tim.

Thay vì dùng muối tinh chế, ta chỉ nên dùng muối thiên nhiên trong việc nấu ăn hay dùng gia vị phù hợp với dầu hay các chất hữu cơ khác, để mao trạng ở ruột có thể hấp thu.

Dùng muối trong khi nấu ăn hay giã với vừng (“muối vừng” còn được dùng như món gia vị cho vào đồ nấu, xào, kho... làm thức ăn rất thơm ngon - Xem “Cách nấu ăn phòng chống ung thư theo phương pháp Thực Dưỡng”, NXB KHKT, 2003 - ND) là cách thức chế biến muối thành chất hữu cơ. Muối ở dạng này không tác động đến hệ thần kinh nhiều như muối tinh chế khi ngấm qua mạch máu và cũng không kích thích thận nhiều, do đó có thể thấm vào các chất lỏng ở trong và giữa các tế bào. Bấy giờ thành phần hữu cơ tách rời ra khỏi muối và muối tiếp nhận ion, rồi giữ vững kiềm tính của các chất lỏng này cho chúng được dương hóa.

Nhờ vậy hệ thần kinh, nhất là thần kinh ở não được ổn định. Nói cách khác nếu các chất lỏng này được dương hóa và có kiềm tính thì hệ thần kinh và kích thích tố ở nội tạng được quân bình, kể cả khi ta bị vi khuẩn xâm nhập.

Phương pháp Thực Dưỡng đề nghị thêm muối, rồi nấu ít nhất 20 phút để muối kết hợp với chất hữu cơ như dầu ăn, chất béo hay chất đạm và ngược lại cũng đủ thời gian để thực phẩm có độ đậm của muối.

Quan điểm thông thường cho rằng muối là nguyên nhân tích nước là sai lầm. Nước bị lưu giữ do thẩm thấu của hai chất lỏng ngăn ra bởi một màng mỏng. Nếu lượng muối trong huyết tương cao hơn trong các thể dịch trong tế bào thì nước đi từ các thể dịch đó qua huyết tương rồi ra nước tiểu, và ta bị mất nước. Nếu muối tập trung trong thể dịch của các phần liên tế bào thì nước ngấm qua đó, tTa lưu trữ nước, cơ thể bị ứ nước.

Nguyên nhân gây ra lượng muối cao trong các liên bào và dịch thể là do lượng muối cũ đã được hấp thụ trước đây. Lượng muối này tăng lên khi chúng ta ăn nhiều thịt. Người nào ăn pho mát, thịt thì cơ thể giữ nước và chất béo, họ có thể phát phì. Nếu muối cũ chưa tiêu thì không nên thêm muối mới, vì lượng nước cứ tăng theo bữa ăn sẽ gây ra chứng áp huyết cao. Nếu thải trừ được lượng muối và chất béo ta sẽ được khoẻ mạnh và trẻ trung tức khắc. Không tống khứ được muối cũ và chất béo thì ngay cả cách ăn đúng theo phương pháp Thực Dưỡng cũng đem lại ít lợi ích.

Làm cách nào loại trừ muối cũ?

Qua mồ hôi, nước với muối và chất béo có từ các mô, các cơ bắp bài tiết ra ngoài bằng mồ hôi làm ta giảm được số cân dư thừa, bớt được sự béo phì. Làm cách nào để ra mồ hôi? Hãy làm việc chân tay vất vả. Lười nhác sẽ đưa đến tình trạng mập phì bạc nhược. Ai làm việc vất vả sẽ cường tráng nhờ tiêu dùng được hết lượng muối cần thiết, mà không lưu giữ muối cũ. Muối cũ làm cho các mô bị cứng và cơ thể bị lão hóa nhanh chóng. Mỗi ngày ta đổ mồ hôi được 10 phút sẽ trẻ ra 10 tuổi. Ta có thể đi bộ, thể dục, tắm hơi... Tốt hơn là làm vườn, hoặc thu dọn lau chùi nhà cửa... Chăm lao động sẽ có sức khoẻ tốt lại được nhiều người thương quí, hãy làm những việc trong nhà không ai muốn làm như cọ toilet hay rửa bát...

Muối tạo ra chất kiềm mạnh nhất. Do đó rau quả nấu với muối sẽ trở nên giàu chất kiềm. Nhiều bệnh do axit tác dụng, vậy sử dụng muối nêm tương ứng sẽ trị lành, ví dụ dùng món củ cải dầm tương lâu năm để nấu, xào các món canh hay xúp.

Ung thư (có âm tính vì bành trướng) phải được trị liệu bằng muối (có dương tính vì co rút).

Muối tạo năng lượng và sức đối kháng hùng mạnh để phòng chống các bệnh do vi khuẩn. Nhờ vậy người dùng thức ăn mặn mới đạt được hệ thống miễn dịch kiên cố.

Khi ngưng ăn thịt ta phải dùng muối, nếu không thì dễ mắc bệnh truyền nhiễm, dễ bị các bệnh giun, ghẻ, vết thương dễ làm độc, tinh thần hay u uất, nhu nhược..

Một môn sinh phải chia tay chúng tôi sau sáu tháng chung sống. Anh ta nói rằng vì đồ ăn quá mặn và dương nên anh ta buộc phải thường xuyên ra ngoài ăn kem. Có nhiều người cũng như vậy, đặc biệt là đối với những người trước đây ăn thịt. Họ không thể ăn thức ăn mên nhiều muối hay hoa quả dương, mặc dù đối với những người khác chúng lại không quá mặn. Chính là do muối cũ còn lưu trữ lại trong cơ thể họ.

Sở dĩ một số người không ăn được mặn vì:

Thứ nhất, muối từ các bữa ăn nhiều thịt trước kia còn tồn lại.

Thứ hai, thận suy không lọc được khoáng chất, đặc biệt là natri trong muối nên chất này kích thích hệ thần kinh giao cảm làm ta khát nước, ngăn trở hoạt động của gan, thận, tim, lá lách... để rồi do phản ứng dây chuyền tạo ra tình trạng chán ngán lười nhác...

Thứ ba, cảm thấy quá mặn vì phán đoán sai lệch. Môn sinh Thực Dưỡng tưởng rằng mình quá dương nên ăn mặn không được (dương không thu hút dương), trái lại cơ thể của môn sinh còn âm thịnh. Hầu hết các trường hợp như thế đều do thận suy, không đủ khả năng thải trừ các chất độc và natri. Các chất này phải ở lại trong máu và trong các thể dịch khác, trong các tế bào để tạo ra phản ứng sinh lý hay tâm lý. Đổ lỗi cho các món ăn quá dương nên anh mới háu ăn các món âm . Đổ lỗi cho thức ăn chứ không quay về nhận xét bản thân, không nghĩ cách điều trị thận mà tìm cách dập tắt những triệu chứng ở thận bằng các thức ăn âm. Vì vậy tình trạng làm việc của thận không được cải thiện, dù bạn có ăn kiêng trong nhiều năm. Đây là trường hợp khó giải quyết. Người mê lầm có thể oán trách cách ăn Thực Dưỡng rồi từ bỏ vì nghĩ rằng không thích hợp.

Để khỏi rơi vào tình trạng này chúng ta hãy tìm hiểu cho thật kỹ phương pháp Thực Dưỡng. Không quá lệ thuộc vào cân lượng chất liệu chế biến thực phẩm trong sách dạy nấu ăn. Mỗi người tự nấu cho mình và tự nhận biết lỗi lầm. Đây là lối giáo dục: hành để hiểu rõ, để khai triển trí phán đoán. Lúc đầu bạn nấu với liều lượng ghi trong sách chỉ dẫn nấu ăn, rồi dần dần lờ nó đi, để suy nghiệm ra liều lượng khác thích hợp với bạn và gia đình hơn.

Natri và clo nằm ở ngoài tế bào, còn Ka và photphat ở bên trong. Chúng phối hợp với nhau nhằm giữ quân bình cần thiết cho hoạt động của tế bào các cơ quan. Trong huyết tương, natri giúp quân bình axit và kiềm. Natri cũng góp phần kích thích hoạt động thần kinh và có ảnh hưởng đến sự co dãn cơ bắp.

Trong tiến trình tiêu hóa các thức ăn, muối đóng vai trò quan trọng. Trong dịch vị thì clo của muối (NaCl) giúp tạo ra axit clo hydric (HCl) cần cho tiêu hóa ở dạ dày. Clo (Cl2) cũng nhập vào chất lỏng ở các mô như natri vậy.

Muối giúp tạo ra nước mật để tiêu thực trong ruột, ngoài ra nó còn giúp sự nhu động của hệ tiêu hóa và tác dụng đến năng lực của cơ bắp.

Muối giúp vận chuyển chất iốt, chỉ cần cho ít iốt đủ ngừa bướu cổ.

Muối có gây độc hại hay không tùy thuộc vào lượng dùng. Lượng làm biến chất. Luật thiên nhiên đơn giản này do tiên sinh Ohsawa truyền dạy có giá trị với việc sử dụng mọi thực phẩm. Thiếu muối món ăn không ngon, quá nhiều muối sinh độc tố. Nhưng nếu chỉ nói muối có hại là kết luận vội vàng. Bác sĩ dùng Arsenic (thạch tín) trị giang mai, dĩ nhiên với liều lượng thích hợp. Đó là dược liệu độc hại nhất ở trên thế gian này.

Độc dược và tiên dược là bề phải và bề trái của mọi sự vật. Bệnh tật và sức khoẻ, xấu và tốt... là hai mặt của nhất thể. Không có món ăn, thức uống nào lại không có hai đặc tính này.

Tuy nhiên thực phẩm chế biến với hóa chất luôn luôn độc hại (chỉ có một khía cạnh) vì nghịch với trật tự tự nhiên.

Nhà khoa học người Pháp Kervan đã công thức hóa giả thuyết “sự biến đổi nguyên tử của sinh vật”. Nếu ta chấp nhận quan điểm này thì natri từ thịt được chứa lâu ngày trong cơ thể, có thể biến thành kali :

Na23 + O16 → K39

Sự biến đổi này chỉ xảy ra được nếu ta làm việc vất vả sao cho để ra mồ hôi thật nhiều - trong điều kiện này, natri trở nên quá dương, do đó sẽ hòa hợp vững vàng với ôxy đến độ biến đổi cả nhân nữa.

Như đã đề cập ở phần trên, hàm lượng nhỏ chất khoáng trong muối rất quan trọng trong sự trao đổi chất. Dầu sao, phần lớn muối bán trên thị trường bị thiếu các chất khoáng hàm lượng nhỏ này. Vì vậy, muối tinh không bổ dưỡng lại có hại cho sức khoẻ nếu dùng quá nhiều.

Dưới mắt chúng tôi, những người bị huyết áp cao, nhờ ăn ít muối mà hạ được áp huyết vì hầu hết họ đã ăn nhiều thịt. Động mạch bị cholesterol làm nghẽn và chất muối cũ còn lại làm cho các bắp thịt và động mạch bị cứng.

Do đó dùng ít hay không dùng muối, hoặc dùng các món ăn có chứa kali sẽ làm dịu chứng áp huyết cao. Nhưng cứ kéo dài lối ăn uống này có thể bị thiếu hụt natri nên dễ mệt mỏi, tay chân lạnh, thường bị chuột rút...

Muối thiên nhiên quả thật cần thiết cho sức khoẻ.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Apr 26 2007, 08:11 AM
Bài viết #35


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



33. Bệnh tái phát
Tháng 3 năm 1983


Cô C. chữa bệnh theo phương pháp Thực Dưỡng một cách trung thành trong vòng 4 năm. Cô trở nên khoẻ mạnh. Cô thích thú với việc ăn kiêng của mình, nhưng cô đã áp dụng nó quá khắt khe. Rồi sau đó, cô bắt đầu ăn uống buông thả. Theo những thư để lại của cô, khoảng tháng 3-1982, cô bắt đầu ăn uống buông thả ít một, sau đó nhiều lên. Hàng ngày, cô ăn trưa với trứng luộc, bánh mì nướng với 2 đến 3 tách cà phê. Thỉnh thoảng cô ăn bánh sandwich và gà tây. Cô cũng ăn bánh quy và phomát vào buổi tối nếu cô cảm thấy thèm, mặc dù cô thường không thích ăn chúng.

Đến tháng 10 cô bắt đầu sụt cân, miệng và bộ phận sinh dục bị bỏng, nóng rát. Cô liền quay lại dùng ngũ cốc, rau quả lần nữa một cách nghiêm khắc, nhưng tình huống không khả quan. Cô bắt đầu lo âu, thắc mắc.

Tôi có nhận một bức thư của cô, chữ viết rất khó đọc nên tôi để lưu trong bàn làm việc trong hồ sơ “sẽ trả lời” trong vòng 2 – 3 tuần. Vì không nhận được thư phúc đáp, cô đã tìm hỏi nhiều người. Họ trả lời hay khuyên bảo khác nhau, do đó cô bị bối rối.

Tới giai đoạn này cô đành gửi tiếp thư cho tôi, khiến tôi phải suy nghĩ. Tại sao lần đầu cô hết bệnh dễ dàng, mà lần này lại như thế? Tôi đã theo dõi nhiều trường hợp tương tự của mấy người bạn theo pháp Thực Dưỡng. Ông O. trị dứt bệnh ung thư nhờ phương pháp này, rồi sau đó suốt 7 năm ăn uống không đúng pháp, bệnh tái phát. Lần này không điều phục được bệnh nên phải chết. Ông N. áp dụng Thực Dưỡng trong 20 năm do trị dứt ung thư bằng lối ăn kiêng khem, sau đó lại ăn uống không đúng hướng, ung thư trở lại và ông chết sau đó.

Trong khi tôi đang miên man suy tư thì một bức thư từ Nhật Bản gửi đến cho biết một bậc trưởng thượng Thực Dưỡng vừa tạ thế. Dù đã 80 tuổi nhưng ông ta có thể sống thêm nữa chứ. Nghiền ngẫm về cái chết này, tôi hiểu được bí ẩn của phương pháp Thực Dưỡng.

Người trị liệu bằng phương pháp Thực Dưỡng không trị dứt hẳn bệnh nên chất độc hay phần suy yếu của cơ quan nào đó vẫn tồn tại. Triệu chứng không xuất hiện được vì thức ăn hữu hiệu đã kiềm giữ nó. Nhưng khi trở lại ăn uống bừa bãi thì chất độc lại phát triển, bệnh tái phát. Độc tố lần này mạnh hơn, vì bệnh tiềm ẩn sâu hơn, do đó khó điều trị hơn lần đầu. Bệnh nhân thắc mắc nhiều, nhận nhiều ý kiến bên ngoài nên dễ bối rối hơn và bệnh phát triển mạnh hơn.

Vậy điều quan trọng nhất là hiểu và đặt niềm tin vào phương pháp Thực Dưỡng. Từ niềm tin này, ta sẽ tìm và hiểu tường tận thuyết Thực Dưỡng.

Dù bệnh đã lành được 4 năm, nhưng cô C. không bao giờ nghiên cứu triết học và nguyên lý Thực Dưỡng nên phải bị gian nan lần thứ nhì. Tôi xin nhận trách nhiệm về khuyết điểm này. Thay vì chỉ dẫn cho cô hiểu các nguyên lý để giúp cô tự chữa lành bệnh hay ít ra cũng không bị bối rối, thụ động, tôi lại chỉ cho cô cách ăn uống mà thôi!



Ung thư là một trong những bệnh tật nan y của nhân loại trong thời thời đại ngày nay. Càng ngày càng nhiều người mắc phải căn bệnh oái oăm mà tây y gần như hoàn toàn bó tay này. Trước khi ra mắt cuốn sách Cách nấu ăn phòng chống ung thư theo phương pháp Thực Dưỡng (NXB KHKT, 2003) và Cuốn Axít và kiềm (NXB VHDT, 2004) với nhiều cảnh báo về nguy cơ ung thư và cách phòng ngừa nó bằng cách ăn uống và phương thức sinh hoạt hữu hiệu ra sao,. chúng tôi xin nêu ra vài điều căn bản mà chúng ta cần nên lưu ý trong đời sống.

Từ nhiều năm nay chúng tôi theo dõi rất nhiều người tự chữa lành ung thư theo phương pháp Thực Dưỡng Ohsawa do sách hoặc do chúng tôi hướng dẫn trực tiếp, có nhiều người đã hoàn toàn lành mạnh và tươi khoẻ như báo chí đã đăng tin (ví dụ, báo An ninh thế giới ngày 25-7-2002). Trong khi đó không ít người đã thu hoạch một cách mỹ mãn sức khoẻ lúc ban đầu, có người được 2-3 năm, có người 5 năm... rồi cuối cùng cũng bị chết trong sự ái ngại thông cảm của chúng tôi. Và điều này trở nên một sự nhức nhối nội tâm làm cho chúng tôi trăn trở bấy lâu. Một số người thấy bệnh tình ổn định, chỉ ăn có miếng gan gà cũng phát bệnh trở lại và chết rất nhanh. Có người bệnh ổn định 3 năm, gặp khi nhà có cỗ, ăn có miếng thịt gà, sau đó người nổi hạch, lập tức ăn uống nghiêm chỉnh trở lại cũng không ngăn nổi bệnh tái phát nhanh chóng. Tại thành phố Hồ Chí Minh có người bị hai khối u hai bên gan, đọc sách thấy ăn gạo lứt chữa được bệnh, ăn theo được 3 tháng thấy yên ổn khoẻ khoắn bèn mở rộng cách ăn (chắc chắn có ăn thêm cá thịt) thì thấy bệnh trở lại nặng hơn và không biết làm sao... Ông này chắc chưa đi kiểm tra lại kết quả của bệnh viện xem ung thư đã hết chưa và chưa biết rõ nguồn gốc bệnh tật, dùng gạo lứt như một món thuốc, ăn vào cốt mau hết bệnh để lại sống như trước đó (ăn uống những thứ khoái khẩu như trước), để quay lại nếp sống tạo bệnh cũ... Những người quan niệm về gạo lứt như một thứ đối chứng trị liệu như vậy là do trí phán đoán còn ở giai đoạn thấp và giáo sư Ohsawa tuyên bố là nếu trí phán đoán không tăng trưởng thì trước sau gì bệnh cũng sẽ quay trở lại. Căn nguyên là ở trí phán đoán. Tiên sinh còn nói nếu bạn ăn theo cách này mà để bệnh trở lại thì thường khó chữa hơn rất nhiều so với lúc đầu. Điều này gieo vào chúng tôi bao nghi nan và ngày nay chúng tôi đã bắt đầu sáng tỏ ý chỉ của tiên sinh. Tại sao có những người biến chuyển nhanh và đôi người thì lại ì ra? Căn nguyên là gì? Có rất nhiều lý do cho điều này nhưng chắc chắn là còn do đức tin và sự hiểu biết của bạn tới đâu và bạn thực hành ra sao?

Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy nếu người nào mắc những bệnh hiểm nghèo được chữa lành theo phương pháp Thực Dưỡng, mà phát nguyện sống cuộc sống học tập và cống hiến sự hiểu biết cho mọi người thì dễ dàng chuyển hoá sâu xa, nhất là những người nghiên cứu và thực hành Phật Pháp, Thiền, Yoga, mà có thầy giỏi chỉ dẫn, thì dễ dàng từ bỏ những thói quen xấu và làm chủ miếng ăn dễ dàng, vì khi nào làm chủ hoàn toàn được ăn uống thì bệnh tật mới không có nguy cơ tái phát. Để thực hiện được điều này dễ dàng trong khi bạn bị những chứng bệnh nan y thì chúng tôi khuyên và thấy được những ai ăn chay trường theo phương pháp Thực Dưỡng thì mới có thể yên tâm về bệnh tật được. Và nếu bạn bị ung thư mà biết đến gạo lứt muối mè thì từ nay hãy tự xác định là trường chay suốt đời cho khoẻ nhẹ tấm thân- ND.
DM



--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Apr 26 2007, 08:28 AM
Bài viết #36


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



34. Gandhi
Tháng 4 năm 1983


Chắc hẳn bạn đã xem những bộ phim về Gandhi. Nó sẽ cho bạn thấy một tinh thần đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, cũng như sự ngờ vực sâu sắc liên quan đến tính tự nhiên của con người, bởi vì thậm chí sự vĩ đại của Gandhi cũng không thể chữa lành bệnh bạo lực của con người. Dù sao, trước khi xem phim, bạn chắc đã đọc tiểu sử của Gandhi. ở đây, để bạn tham khảo, tôi trích vài lời giới thiệu trong cuốn sách mà tôi học được từ nhà văn người Pháp, Romain Rolland nhan đề Mahatma Gandhi (NXB Garland, 1973) và cuốn Tuổi trẻ vĩnh cửucủa George Ohsawa.

Trong toàn bộ cuộc đời, Gandhi theo đuổi chân lý và bên ngoài ông đấu tranh với sự bất công của chính phủ Anh. Vũ khí của ông là “sự bất hợp tác và bất bạo lực”. Gandhi có lẽ học được điều này từ “phong trào chống luật pháp” của Thoreau và Tolstoy. Chiến lược bất hợp tác của Gandhi và Uỷ ban của sự bất hợp tác, bao gồm:

Từ bỏ tất cả các chức vụ

Tẩy chay nền giáo dục Anh.

Không tham gia các đảng phái và các chức vụ chính quyền trong chính phủ Anh.

Không chấp nhận bất cứ nghĩa vụ công dân hay quân sự nào.

Truyền bá học thuyết của Swadeshi (phong trào bài trừ hàng ngoại: Swa là bản thân hay cái tôi; deshi là đất nước. Vì vậy Swadeshi là sự độc lập dân tộc. Sự bất hợp tác thường được giải thích với cảm giác hẹp hơn là sự độc lập kinh tế).


Những nhà lãnh đạo nền công nghiệp Mỹ trong những năm 80, cũng theo đường lối của Gandhi tẩy chay hàng hóa Nhật, để giữ vững nền công nghiệp của họ.

Gandhi thuyết giảng học thuyết của Swadeshi chỉ để củng cố sự độc lập kinh tế của ấn Độ. Sự áp dụng đầu tiên học thuyết của Swadeshi là sự tẩy chay rượu châu Âu. Ông khẩn cầu những nhà buôn bán rượu dừng việc bán rượu ngoại. Toàn bộ ấn Độ đáp lại lời thỉnh cầu của Gandhi, nhưng có quá nhiều đám đông bắt đầu phá phách các cửa hàng rượu và buộc chúng đóng cửa đến nỗi Gandhi phải nói với họ: “Các bạn không cần phải cố gắng bắt buộc người khác bằng vũ lực”.

Bước tiếp theo của Gandhi là từ bỏ nhập khẩu quần áo vải bông, thay vì đó, ông khuyến khích dân ấn Độ sử dụng thời gian nhàn rỗi của mình để may quần áo. Romain Rolland giải thích: “80% dân số ấn Độ làm nông nghiệp và thực tế không có công ăn việc làm 4 tháng trong một năm. Một phần mười dân số thường bị rơi vào nạn đói kém...”

Dù sao, Gandhi đã đi quá xa trong yêu cầu đốt cháy tất cả hàng hoá nhập ngoại ở Bombay vào tháng 8 năm 1921. Theo Rolland, Gandhi giải thích hành động này như sau: Các nguyên liệu được đốt cháy như một sự biểu lộ lòng căm thù với nước Anh, và là dấu hiệu sự quả quyết của ấn Độ để cắt đứt với quá khứ. Nó là ca phẫu thuật cần thiết”. Hành động này là nguyên nhân của những cuộc tranh luận giữa những nhà trí thức, người ủng hộ phong trào bất hợp tác.

Vì mục đích chính của Gandhi là thống nhất ấn Độ - điều đó nói lên sự thống nhất tất cả các tôn giáo, chủng tộc, đảng phái và các giai cấp nên ông nghĩ việc giảng dạy thống nhất là quan trọng và ông chọn trường gọi là Satyagrah Ashram (ashram có nghĩa là nơi của kỷ luật). Đặc tính của trường Ashram này là duy nhất bởi vì nó liên quan đến người dạy nhiều hơn là người học. Người thầy phải theo những lời nguyện sau:

Lời nguyện của chân lý: điều này vô cùng giống với điều kiện sức khoẻ số 7 của Ohsawa, đó là tính ngay thẳng (trung thực, lương thiện) và công bằng. Ohsawa nghĩ rằng tính ngay thẳng trong tất cả mọi thời đại là dấu hiệu quan trọng của sức khỏe, hạnh phúc và sự vĩ đại. Ohsawa khâm phục Gandhi chính bởi tính thẳng thắn của ông.

Lời nguyện không giết tróc (Ahimsa): Nhiều người bắt đầu việc ăn chay của mình từ điều này; tuy nhiên, họ không nhận ra rằng nếu họ dùng thuốc kháng sinh hay thực phẩm có phun thuốc trừ sâu thì họ đã vi phạm lời nguyện này rồi.

Lời nguyện sống độc thân: lời nguyện này không có nghĩa là không lập gia đình, mà ý là một người lập gia đình sẽ xem vợ mình như là một người bạn đời. Người đó không quan hệ tình dục với người khác, không chỉ về mặt thể xác, mà cả về mặt tinh thần, tôn trọng và giữ lời cam kết.

Làm chủ khẩu vị: Gandhi là một nhà vô địch của chế độ ăn uống Thực Dưỡng bởi vì ông chỉ ăn một lượng nhỏ lúa gạo và rau quả trong suốt cuộc đời mình. Thậm chí ông thề không uống cả sữa bò, bởi vì nó chống lại lời nguyện ashima. Ông tự soi xét bản thân sâu sắc và thú nhận ông đã khổ sở như thế nào khi ăn thịt.

Lời nguyện không trộm cắp: Ohsawa thường nói với chúng tôi rằng: sẽ là ăn cắp nếu chúng tôi sở hữu thêm nhiều quần áo, nhà cửa, hay thậm chí thực phẩm nhiều hơn số chúng tôi cần. Chúng ta ăn cắp chúng, thậm chí nếu chúng ta nghĩ mình đã trả tiền chúng. Ví dụ, nếu chúng ta ăn hơn một quả táo mỗi ngày, chúng ta đang ăn cắp quả táo của người khác bởi vì táo không đủ cung cấp cho toàn bộ dân số quả đất. Tương tự với thực phẩm động vật. Người giàu trả giá cao cho thức ăn và người nghèo không thể mua chúng. Chúng ta không suy nghĩ rằng điều này là ăn cắp nhưng ý thức của Gandhi về điều này là như vậy.

Lời nguyện không sở hữu: một trong những nguyên tắc mà Ohsawa dạy là hãy sống chỉ với những đồ vật hoàn toàn cần thiết. Vì vậy vào khoảng vào đầu những năm 70, nhiều kẻ híp pi bỏ nhà cửa và cố gắng sống không có vật sở hữu. Giờ đây, nhiều thanh niên Mỹ gia nhập lối sống đó, tức là ném đi mọi thứ sở hữu của mình. Các bậc cha mẹ Mỹ không hiểu rằng không sở hữu là một phẩm chất đạo đức ở phương Đông, nhưng lại là thứ điên rồ ở phương Tây.

Nhiều nhà tư tưởng cố gắng vô ích để thành lập các cộng đồng với nguyên tắc này. Có một cộng đồng ở Nhật đã thành công khi theo nguyên tắc này hơn 80 năm, gọi là Itto-En, thành lập bởi Tenko Nishida. Người sống ở trong cộng đồng này không sở hữu bất cứ thứ gì. Mọi thứ đều được sở hữu bởi cộng đồng.

Lời nguyện của Swadeshi: Gandhi dạy không sử dụng hàng công nghiệp và hàng hóa ngoại nhập. Nguyên tắc Thực Dưỡng dạy ăn thực phẩm đúng mùa và tại địa phương. Lời khuyên Thực Dưỡng cuối cùng của Ohsawa là nên dùng thực phẩm Thực Dưỡng chỉ trong vòng bán kính 50km. Nói cách khác, chúng ta nên giữ lời nguyện của Swadeshi trong ăn uống.

Lời nguyện không sợ hãi: theo Ohsawa, một người hoàn toàn tin tưởng vào Thượng đế (luật của vũ trụ) thì không sợ hãi. Vì vậy người ấy sống trung thực. Thêm nữa, tính không sợ hãi là đặc điểm của người đã đạt tới trí phán đoán siêu xuất.

Sự vô song của ashram không chỉ với lời nguyện của người thầy, mà cũng có những quy định đối với đệ tử:

Học viên được thừa nhận ở bất cứ độ tuổi nào; dù sao, họ phải thuộc Ashram trong toàn bộ khoá học, nó kéo dài khoảng 10 năm.

Học viên sống tách rời gia đình và không thăm cha mẹ.

Học viên mặc áo quần và ăn uống đơn giản, ăn chay nghiêm khắc.

Không có ngày nghỉ, mặc dù hàng tuần học có một ngày rưỡi cho công việc sáng tạo cá nhân.

Học viên đi bộ khắp ấn Độ trong 3 tháng một năm.

Tất cả học viên nghiên cứu đạo Hindu và những phương ngôn Dravidi cũng như năm ngôn ngữ viết tay ấn Độ, tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai.

Họ học nông nghiệp, dệt may cũng như lịch sử, địa lý, toán học, kinh tế và tiếng Phạn (Sanskrit).

Họ được học miễn phí.

Gandhi suy nghĩ phương pháp này như một động cơ chính của toàn bộ phong trào. Gandhi là một người có quyền lực như một nhà chính trị và người lãnh đạo tinh thần vào năm 1921. Mọi người coi ông như một vị thánh. Ông là nhà lãnh đạo vĩ đại mãi mãi của ấn Độ.

Bề mặt càng rộng, bề lưng càng lớn - đó là trật tự vũ trụ. Bề mặt của Gandhi là sự thành công của ông như một người lãnh đạo. Bề lưng là sự tương phản lý thuyết với Rabindranath Tagore. Tagore chỉ là một nhà thơ, nhưng ông tự xem mình là sứ giả tinh thần từ châu á tới châu Âu. Ông vừa quay lại từ châu Âu, nơi ông yêu cầu mọi người chung sức hợp tác để tạo ra một trường thế giới ở Santiniketan. Tinh thần bất hợp tác của Gandhi tương phản với cách suy nghĩ, tinh thần và sự hiểu biết của Tagore, cái được nuôi dưỡng bởi tất cả mọi nền văn hóa trên thế giới.

Gandhi cố gắng thống nhất ấn Độ vì sự từ chối nước Anh. Với Tagore thì điều này đối lập lại. Với ông, thống nhất là cái bao trùm và hiểu biết mọi thứ; do đó nó không thể đạt được thông qua sự phản đối. Tagore nghĩ thế kỷ hiện tại bị chi phối bởi văn minh Âu Tây bởi vì văn minh phương Tây có nhiệm vụ hoàn thiện. Nền văn minh phương Đông phải học từ văn minh phương Tây. Vì thiếu sự suy nghĩ này, nước Nhật bắt đầu thế chiến thứ II và bị thua trận. Sau khi thua trận, Nhật Bản cố gắng học mọi thứ từ phương Tây. Nhật Bản sử dụng thành thạo kỹ thuật, công nghệ phương Tây hơn hẳn các nước phương Tây và là nền kinh tế vĩ đại nhất trên thế giới.

Nếu chúng ta muốn tìm nhược điểm nào của Gandhi thì nó là sự loại trừ nền văn hoá phương Tây - trong khi Tagore từ chối sự phủ nhận văn hoá phương Tây. Tagore lo ngại sự phát triển của tinh thần loại trừ. Tagore không sợ Gandhi, mà ông sợ những kẻ mù quáng theo sau tư tưởng bất bạo lực của Gandhi trong phong trào chống lại nước Anh. Thực tế, tinh thần bài trừ đó thậm chí còn gây ra tinh thần chống Hồi giáo hay tinh thần chống đạo Hindu giữa những người ấn. Điều này là sự vỡ mộng lớn nhất của Gandhi và cuối cùng dẫn tới cái chết của ông.

Tự bản thân Gandhi không có tính bài trừ gì cả, mà sử dụng nó chỉ như là một chiến thuật để phục hồi lại ấn Độ. Nhưng chiến thuật này đã phá huỷ cả ấn Độ cũng như cả ông. Ohsawa, do đó, đã dạy chúng ta đừng bao giờ loại trừ.

Theo Ohsawa, bài học lớn nhất và đức hạnh cao cả của Gandhi là đã biết tự soi xét mình. Gandhi có lẽ đã làm xong công việc lớn hơn cả Phật hay Chúa Jesu. Dù sao, sự vĩ đại của ông không những là sự hoàn thành thuộc chính trị hay tính thánh thiện của ông, mà còn là sự tự soi xét mình và tính khiêm tốn. Gandhi luôn luôn tự đánh giá mình là kẻ nói dối, người vi phạm lời thề và người không khiêm tốn. Thú vị thay, người nghĩ mình là bình thường lại thường là con người vĩ đại. Gandhi là một con người vĩ đại. Ông luôn coi là lỗi của mình khi nào có người ấn liên quan tới hành động bạo lực và mỗi khi như vậy là ông bắt đầu làm trong sạch linh hồn mình bằng ăn kiêng. Ông ăn kiêng bởi vì ông nghĩ linh hồn mình xấu xa, tội lỗi. Tính tự xem xét bản thân của ông đã dẫn dụ 30 triệu người ấn mà chẳng cần đến quyền lực hay tiền bạc.

Gandhi nói: “Không có sự tự soi xét bản thân và tự làm trong sạch mình thì sẽ khó mà nhận ra chân ngã”.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Apr 26 2007, 08:31 AM
Bài viết #37


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



35. Nghệ thuật ăn uống phá lệ
Tháng 5 năm 1983


Theo quan niệm Thực Dưỡng, việc ăn uống ngoại lệ cũng đòi hỏi phải đem lại sự hạnh phúc. Để làm được điều đó, ta cần phải học nghệ thuật ăn uống phá lệ.

Trước nhất không cần cảm thấy tội lỗi khi ăn uống phá lệ, vì mặc cảm tội lỗi gây ung hại cho cuộc sống hơn là chính việc ăn uống buông thả.

Vào buổi đầu theo phương pháp Thực Dưỡng, các môn sinh hay lén đi tiệm ăn không để các môn sinh khác trông thấy, vì sợ hổ thẹn. Hổ thẹn có sao đâu! Mặc cảm tội lỗi mới làm ta day dứt.

Ông Gandhi có lần lỡ ăn thịt, điều này trái với lời nguyền của ông với đấng thiêng liêng, nó làm ông khổ tâm. Theo tôi ông nên cảm thấy hổ thẹn do sự mềm lòng không giữ nổi lời hứa hơn là cảm thấy có tội. Ai đang sống hòa đồng với Thượng Đế hay trật tự vũ trụ sẽ không có cảm giác tội lỗi. Mặc cảm tội lỗi khởi lên khi ta tách ra khỏi Nhất thể, Thượng đế hay trật tự vũ trụ (dù sao, rất khó để tiến tới trạng thái tâm lý này, vậy không nên mặc cảm tội lỗi ngay cả khi mình có lỗi).).

Còn một lý do bị mặc cảm tội lỗi là ăn thực phẩm quá âm. Hãy ăn ít lại các món âm như các thức ăn ngọt làm với đường (bánh, nước giải khát, cà phê, dấm, rượu, trái cây...). Phải ghi nhận kỹ điều này.

Kế tiếp, ta không nên “thưởng thức” một mình, mà nên cùng với bạn bè, để ăn từ tốn và không xô bồ quá trớn.

Điểm thứ ba, đừng ăn liền nhau 3 món cực âm hay cực dương. Chúng ta có thể ăn kem và cà phê, chứ không nên vừa dùng kem vừa cà phê và thêm trái cây. Chúng ta có thể ăn cá và súp misô, chứ không nên ăn cá, súp misô lại thêm phó mát.

Điểm thứ tư, đừng dùng thức ăn quá âm hoặc nhiều dầu trong ba ngày liên tiếp. Khi tôi đi thuyết trình ở Los Angeles, tôi dùng bữa ở hiệu ăn, suốt ba đêm liền tôi chỉ tráng miệng bằng bánh kem. Hôm sau đến San Diego để thuyết trình tôi bị mất tiếng do dùng quá nhiều bánh kem. Phải gần một tuần tôi mới trở lại bình thường do ăn bánh kem ba lần liên tiếp. Nếu tôi chỉ ăn hai tối, tôi đã không bị như vậy. Tôi sẽ không bao giờ ăn bánh kem ba lần liên tiếp như vậy nữa.

Nếu bạn đến dự tiệc, đừng sợ ăn uống phá lệ. Một bữa ăn sẽ không giết chết bạn được đâu. Giữ tình bạn tốt hơn là giữ việc ăn kiêng. Ăn uống quan trọng, nhưng đừng quá khắt khe về mặt tinh thần. Nếu chúng ta có óc quan sát, chúng ta sẽ đạt được sự linh hoạt trong ăn uống.

Nếu bạn biết nghệ thuật ăn uống phá lệ, bạn sẽ ít khổ sở hơn.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Apr 28 2007, 03:43 PM
Bài viết #38


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



36. Từ suy nghĩ đến phán đoán
Tháng 6 năm 1983


Phương pháp Thực Dưỡng mà bạn đang nghiên cứu hay dự định nghiên cứu, gồm cả cách ăn uống cổ xưa đã bị quên lãng trong dòng sự kiện lịch sử nhân loại. Do đó hiện thời cách ăn uống ấy lại trở nên mới lạ đối với nhiều người ở phương Đông cũng như phương Tây. Còn có một hình thái nữa của phương pháp Thực Dưỡng, đó là phương cách tư duy. Lối suy nghĩ của Thực Dưỡng cũng đã có từ xa xưa nhưng nó cũng bị mai một vì phần nào nó chịu ảnh hưởng của nền giáo dục học hiện đại, mà lề lối giáo dục theo khuôn mẫu gây nguy hại cho trực giác hay tư duy tự phát.

Tư duy tự phát là gì? Mẩu chuyện sau đâysẽ mô tả cho bạn thấy:

Trước kia, một hãng giầy Mỹ có hai đại diện đến châu Phi nghiên cứu thị trường tiêu thụ giày. Người thứ nhất báo cáo về: giầy bán không chạy ở đây vì không ai đi giầy cả. Còn người thứ hai nói: vì chưa có ai đi giầy nên tiềm năng bán hàng là rấtlớn. ý kiến của thương gia thứ nhất có tính cách khuôn sáo. Suy nghĩ của thương gia thứ hai thanh thoát hơn. Luôn luôn có tư duy khuôn sáo và tư duy tự phát. Trong nhiều trường hợp tư duy theo kiến thức ngày nay khởi đầu đã từng là tư duy tự phát trước kia.

Khi Nicholas Copernicus (1473-1543) viết cuốn “Bàn về sự quay của các thiên thể” thì phái tư duy theo khuôn sáo cho là trái đất nằm yên ở trung tâm vũ trụ. Nhưng ông ta nảy ra ý tưởng rằng trái đất có thể xoay quanh mặt trời. Đó hoàn toàn là lối tư duy tự phát. Quan sát các hành tinh di chuyển bằng ống kính viễn vọng, Galileo Galilei xác nhận là trái đất quay xung quanh mặt trời. Hiện giờ thì ý tưởng khuôn sáo chấp nhận ý kiến của Galileo truyền dạy. Giữa hai nhà tư tưởng cấp tiến này, Copernicus không vướng chấp kiến thức nào có sẵn, trong khi đó Galileo nương theo lý luận sẵn có mà trở thành tư tưởng gia logic.

Lúc nào tư tưởng theo khuôn sáo không giải đáp được các nghi vấn thì khi đó tư tưởng tự phát mới soi sáng được vấn đề. Hầu hết các lý thuyết khoa học do tư duy tự phát tạo ra. Nhiều khoa học gia đã sử dụng cách thức này để khai thông các khó khăn, khi tư duy theo khuôn mẫu không kết quả.

Khi Einstein tìm ra thuyết tương đối, ông không làm một thực nghiệm nào cả. Ông chỉ dò xét luận thuyết liên quan đến cấu trúc của hệ thống Newton mà trước kia các khoa học gia xem là hoàn hảo, nhưng có đưa khái niệm về tương đối vào trong đó. Đó là cách vận dụng tư duy tự phát không lệ thuộc định kiến.

Có một cuốn sách quý tựa đề là Suy nghĩ mới lạ (New think) của Edward de Bono (Basic Books Inc., 1968) trong đó nói có hai loại tư duy: tư duy theo chiều đứng và tư duy phi logíc(vertical thinking and lateral thinking), theo Bono thì:

Tư duy theo chiều đứng đắc dụng nhất từ trước đến giờ. Các máy vi tính điện tử là điển hình của lối suy nghĩ này. Giải pháp được xác định bởi lập trình viên, người này chỉ định chiều hướng để tháo gỡ các gút mắc của vấn đề. Rồi thì máy tính xúc tiến giải đáp vấn đề một cách hợp lý và hữu hiệu các vấn đề đặt ra.

Giống hệt như nước đổ xuống triền núi, nó ngưng đọng ở các hốc đá và quy tụ ở các lòng sông, tư duy theo chiều đứng cũng diễn ra theo cách tương tự, theo những đường có thể dự đoán được. Nhờ dòng liên tiếp đó mà định hình được khả năng của hướng chảy trong tương lai.

Kiểu tư duy phi lôgíc được đánh giá dễ dàng nhất qua hành động. Biết bao người đã từng vướng mắc một vấn đề mà tưởng chừng như không bao giờ giải quyết nổi, rồi đến lúc nào đó bất chợt họ bừng ngộ - một giải pháp hết sức đơn giản phơi bày trước mắt. Vừa nghĩ đến vấn đề, giải pháp liền hiển lộ, quá sáng tỏ đến độ ta không hiểu sao lúc trước ta lại tối tăm đến vậy.

Nếu tư duy theo chiều đứng có giá trị xác suất cao thì tư duy phi lôgíc lại có giá trị xác suất thấp. Nhưng đó là những đường kênh mới được khai mở để đổi dòng chảy. Mấy kênh cũ bị lấp đi với hy vọng nước tự tìm ra được hướng lưu thông mới êm xuôi hơn. Khi luồng tư tưởng với giá trị xác suất thấp dấy lên một ý tưởng mới và hữu ích thì có một thời điểm phát kiến (Eureka moment) và tức khắc giá trị xác suất đang ở mức thấp nhảy vọt lên tầng tột đỉnh. Đó là khoảng cách nước ở trong ống xi phôn được hút lên cao một cách gắng gượng rồi bỗng chốc chảy thông thương nhẹ nhàng. Đây là thời điểm mà lối tư duy phi lôgíc luôn nhằm vươn tới.

Tóm lại, tư duy theo chiều đứng giống như trong trò giải trí mà người ta để các khối vuông chồng lên từng cái một, một cách cẩn thận. Còn trong trường hợp suy tư theo chiều rộng thì các khối vuông ấy nằm ngổn ngang không theo khuôn mẫu nào.

Thông điệp hệ trọng trong cuốn “Suy nghĩ mới” khuyên ta trải tầm suy nghĩ lên cả hai bên cạnh nếu muốn có óc sáng tạo tự do và khắc phục mọi khó khăn. Các thầy thuốc phương Đông có dạy ta cách suy tư theo chiều rộng và muốn đạt kết quả về sức khoẻ phải tuân thủ kỹ thuật và tập luyện.

ở phương Đông, nhiều kỹ thuật tư duy đã từng được phổ biến. Một trong các kỹ thuật đó là lối suy nghĩ theo nguyên lý âm dương và cũng là lối suy nghĩ có chiều rộng, dựa vào diệu dụng của âm dương. Colombus cho thuyền về phía Tây để rồi cập bến đảo West Indies (thuộc bờ biển trung Mỹ). Nếu về phía Đông có lẽ ông đã gặp xứ ấn Độ như đã dự định lúc đầu. Thế thì người ta có thể tìm hai hướng suy nghĩ và hành động.

Sau hàng trăm cuộc thí nghiệm, các khoa học gia đã nhận thấy rằng: hai bán cầu não sinh ra khác biệt nhau. Phần bên trái nghiêng về tư duy lý luận, logic. Phần bên phải chuyên về hình dáng và ảnh tượng, thuộc về trực giác, phi logic, thơ ca, lãng mạn, huyền bí. Xem tivi tăng cường hiệu năng phần não bên trái. Cho nên thế hệ mới thời nay chỉ giỏi với các trò giải trí điện tử mà kém về trí học và khả năng trực giác, thơ ca, tâm linh. Dùng lý Âm Dương mà quán chiếu thì sự sai biệt càng thấy rõ: phần óc bên trái thì âm, bên phải thì dương. Không cần đến khoa học hiện đại chúng ta cũng có thể tưởng tượng sự khác biệt giữa phần óc trái và óc bên phải nếu ta hiểu được diệu dụng của Âm và Dương.

Suy luận theo âm dương khuyên ta cũng nên nghĩ ở một hướng rồi xoay ý nghĩ ngược lại để thành được vòng tròn đầy sung mãn. Suy luận của ta dễ bị phiến diện nếu chỉ vận dụng công năng của phần bên này óc nhiều hơn bên kia. Thấu suốt dịch lý âm dương giúp ta tư duy thoải mái trong cõi tương đối này.

Phương pháp Thực Dưỡng có đặc tính là suy luận theo nghịch lý (paradoxical). Lối suy tư này là của phương Đông. Theo cảm nghĩ của nhà tâm lý học danh tiếng Erich Foremm, theo ông có hai loại logic mà từ đó phát sinh ra hai cách tư duy. Một là tư duy Aristote là logic hợp lý; và loại kia là tư duy nghịch lý mà nền tảng là logic nghịch lý.

Logic Aristote nền tảng là luật đồng nhất (A là A), quy luật mâu thuẫn (A không phải là không-A) và quy luật loại trừ (X không thể là A và không-A cùng một lúc).

Quy luật logic này là nền tảng của tư duy khoa học phương Tây. Dù sao, trong cuốn Nghệ thuật của tình yêu (Harper & Row, 1974), Erich Fromm nói: “Tiên đề logic Aristote thấm đẫm thói quen của tư tưởng cảm giác rõ ràng và hiển nhiên, trong khi mặt khác lại tuyên bố rằng X là A và không A cùng một lúc dường như là phi lý”.

Với tâm trí đơn giản, không suy nghĩ sâu sắc, lời tuyên bố “A là A” là phải. Nhưng nếu quan sát tỷ mỉ về thế giới và kinh nghiệm, nó rõ ràng là không A trong sự tồn tại cũng đồng nhất với A khác. Nói cách khác, “A là A” là tư duy tưởng tượng, không có thực, không thực tế, bởi vì A luôn luôn thay đổi. A không còn là A nữa ở khoảnh khắc sau. Suy nghĩ như vậy là nghịch lý, được nói rõ qua sự thuyết giảng của Lão Tử, Phật và những nhà hiền triết phương Đông khác.

Ohsawa gọi tư duy nghịch lý là “Trí phán đoán siêu xuất”. Trong 7 tầng (giai đoạn) phán đoán, nó là cái cuối cùng hoặc là cái đầu tiên.

Giai tầng 7 của phán đoán: trí phán đoán siêu xuất (supreme judgment) có thể được miêu tả như sau:

1. Không có gì là đồng nhất cả. Đây là quy luật phủ nhận sự đồng nhất và có giá trị ở mọi lúc, mọi nơi. Nó là chân lý và trí phán đoán siêu xuất.

2. Cái bắt đầu cũng là cái kết thúc (A → không A).

Đây là sự phủ định của quy luật mâu thuẫn. Nó cũng nói lên rằng mọi sự đều thay đổi. “Mọi thứ đều biến dịch” là quan niệm nền tảng của ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản. Một nhà thơ lớn Trung Hoa, Ri Tei Pei, viết: “Thế gian là nhà trọ mà ta không thể dừng lại hoặc thời gian là nhà lữ hành mà ta gọi là giấc mơ cuộc đời”.

Một nhà thơ lớn người Nhật, Basho, bắt đầu trong cuốn Haiku của ông Okuno Hosomichi bằng câu: “... Cuộc đời của chúng ta không là gì cả ngoài một cuộc phiêu lưu. Một vài người đi bằng ngựa, vài người khác thì bằng thuyền hay đi bộ. Trong nhiều sự việc, mọi thứ đều là cuộc phiêu lưu. Xa xưa, cuộc phiêu lưu tự bản thân nó là nơi nghỉ ngơi”. Nói cách khác, câu nói “mọi thứ đều biến dịch”lại không hề thay đổi. Vì vậy, đây là chân lý - trí phán đoán tối cao.

3. Cái gì có bề mặt thì cũng có bề trái. Giống như bề phải và bề trái của mọi sự vật, âm và dương là hai khía cạnh của X (vô cực hay nhất thể), nói ngắn gọn âm và dương là hai mặt của vô biên.

Điều chúng ta vừa nghị luận có thể trình bày như sau: thái cực tự phân thành Âm và Dương, Âm và Dương sinh ra vạn vật, mọi hiện tượng.

Ohsawa gọi trí phán đoán siêu xuất là “Trật tự vũ trụ”, tương quan giữa trí siêu đẳng và trật tự vũ trụ được lý giải như sau: Trí siêu đẳng là tính giác ngộ vô biên, trong khi đó thì trật tự vũ trụ là ý niệm về sự cấu trúc của vô biên.

Vì trí siêu đẳng là tính nhận biết thường xuyên về vô biên hay chính là vô biên nên tự tính của nó là toàn hảo chân thật và là tình thương bao la. Tự tính ấy hiện hữu khắp nơi và mọi lúc. Nó giống như làn sóng vô tuyến truyền thanh và truyền hình. Nó ở trong không gian, nhưng ta không nhận biết được nếu không rà bắt đúng tần số. Các trí phán đoán thấp kém hơn cũng giống như làn sóng vô tuyến truyền thanh hay truyền hình chứ không phải riêng trí phán đoán siêu đẳng.

Khi vô biên (hay thái cực) kia hạ xuống giai tầng âm dương, rồi đến năng lượng, tiền nguyên tử, phân tử và thảo mộc, rồi đến động vật thì giai tầng của trí phán đoán siêu đẳng hay giai tầng thứ 7 cũng hạ thấp để biến thành các trí phán đoán thô hơn, vì hạ trí là thành phần của thượng trí.

Giai tầng 6 của trí phán đoán: tư duy tư tưởng (judgment of ideology) được xem như sát cánh với trí tối thượng. Nhân tính thiện hay ác, con người tội lỗi hay vô tội, thế gian này tuyệt vời, mỹ lệ hay loài người đang khổ đau, duy vật hay duy tâm, tất cả các ý nghĩ ấy đều dấy khởi từ giai tầng này.

Giai tầng 5 của trí phán đoán: do óc tư duy tư tưởng mà sự suy lường về xã hội, về tôn giáo nảy sinh vì trí óc đó vốn đã hàm xúc các sự kiện xã hội rồi. Chẳng hạn ý nghĩ “nhân chi sơ tính bản thiện” phát sinh ra Thần đạo (Shinto) và môn phái Nichiren - quan niệm “con người tội lỗi” đã ra đời Thiên Chúa giáo và pháp môn Shin (Phật giáo).
Suy nghĩ về kinh tế làm nẩy sinh các học thuyết kinh tế như Tư bản, Cộng sản.

Giai tầng 4 của trí phán đoán: từ óc phán đoán về xã hội và tôn giáo mà nảy sinh ra trí phán đoán trí thức (tức có sắc thái thuần túy và nghệ thuật), trí này cấu tạo ra những quan niệm khoa học và các học thuyết. Những tư tưởng về xã hội, tôn giáo có ảnh hưởng đến nghệ thuật, âm nhạc và văn học.

Giai tầng 3 của trí phán đoán: nương theo trí phán đoán trí thức, lý trí và óc phán đoán nghệ thuật, tâm thức cảm thọ (cảm xúc) dấy khởi ưa ghét, vui buồn, khoái lạc hay than phiền...

Giai tầng 2 của trí phán đoán: óc suy luận bằng giác quan như nhận thức màu sắc và âm thanh, nhiệt độ, hình thể, xúc giác.

Giai tầng 1 của trí phán đoán: giai tầng dưới cùng, đẳng cấp thấp nhất của trí phán đoán, hành động do hệ thần kinh tự trị dấy khởi chức năng máy móc có tính cách phản xạ của tính giác lộ diện.

Các trạng thái của trí phán đoán biến dịch từ nhất thể cho đến trực giác. Tuy nhiên trí này cần xác thân con người để thể hiện. Nói cách khác, thân thể người ta hay động vật cần vài điều kiện thích nghi để biểu lộ hành vi máy móc phản ứng theo trực giác, như ta thường thấy trên cơ thể đơn bào, hoặc trí phán đoán qua giác quan nơi các loài cá và loài thú.

Một người đã tiến hóa cao có thể dễ dàng biểu lộ óc phán xét tri thức (intellectual), xã hội (social), tôn giáo (religious) và tư tưởng (ideological).

Người nào chứng ngộ trí phán đoán tối thượng siêu đẳng tức là tình thương vạn vật và công bằng tuyệt đối, người đó là kẻ tự do nhất, hạnh phúc nhất, công bằng nhất.

Trí siêu đẳng hằng sáng ngời trong mọi người nhưng các đẳng cấp nào của trí ấy được tiếp thu và hiện trên màn ảnh cuộc đời ta lại tùy thuộc vào thể chất và điều kiện sinh lực của ta hiện có. Để lĩnh hội được trí phán đoán ở giai tầng cao hơn ta cần phải thường xuyên cải thiện điều kiện sinh lý, tâm linh. Bữa ăn bổ dưỡng, thiền định, luyện tập thân thể bằng phương pháp thích hợp, đọc kinh... và giữ kỷ cương giúp cho ta vươn lên giai tầng cao của trí phán đoán.

Cầu nguyện không là gì khác ngoài sự thỉnh nguyện sự rung động tinh thần để chúng ta có thể nhận thức sáng sủa hơn.

Vậy thì quán chiếu cõi vô biên ta nhận thấy 7 giai tầng: từ giai tầng của hành vi máy móc phản ứng theo trực giác cho đến trí cứu cánh siêu đẳng. Vào lúc chào đời, trí năng của ta ở giai tầng máy móc, nương theo trực giác. Vài ngày sau ta có khả năng nhận thức bằng giác quan, ta cảm thọ được nhiệt độ, hình dáng, màu sắc... Sau vài tháng chúng ta biết thương ghét, trí óc ta đang ở giai tầng cảm tình. Đến giai tầng 4 ta có thể suy luận hợp lý, phân biệt các hiện tượng. Lên đến giai tầng thứ 5, ta cảm ứng được tôn giáo như Phật giáo, Kitô giáo và hiểu được các học thuyết như Tư bản, Cộng sản... Đến giai tầng 6, trí phán đoán khởi xuất ra ý niệm về tư tưởng như nhị nguyên luận, duy tâm, duy vật, cuộc sống hư hay thực... Đến giai tầng thứ 7 là giai tầng của trí phán đoán tối thượng của tri giác vô biên. Đó là tình thương bao la, là trí quán chiếu cùng khắp vượt ngoài các đối đãi, hết vướng bận. Trí cứu cánh biểu lộ ở đây, bây giờ và mãi mãi. Nhưng sự cảm ứng chân lý, bác ái và hạnh phúc tùy thuộc vào điều kiện sinh lực hiện tại và thể chất bẩm sinh để bộc lộ.

Trong cuốn “Sách về trí phán đoán” Ohsawa có viết: “Dù sao ta không thể ngộ nhập trí siêu đẳng này ngay từ lúc đầu. Ta phải khai triển óc phán đoán ở tầng mức thấp hơn trước đã. Thế thì ta phải cam chịu nóng lạnh, đói khát và khổ cực không phải chỉ ở tuổi thiếu niên mà cả cuộc đời. Tuổi thọ càng cao cuộc đời lại thêm động loạn và buồn thảm, ta thương người, người lại bội bạc ta. Ta luôn luôn thất vọng mà cuộc sống không như thế thì óc phán đoán của ta không tiến hóa được”. Sau khi trải qua chướng ngại, ưu sầu, niềm vui và cãi vã, chúng ta lên đến giai tầng 6 rồi 7 của trí phán đoán.

Các giai tầng từ 1 đến 6 là các nhánh rễ của giai tầng 7. Ta không nên loại bỏ các đẳng cấp thấp của trí phán đoán để nhảy vọt lên trên trí siêu đẳng. Nhưng muốn hưởng phúc lạc, ta phải đạt đến giai tầng 7, tức ngộ được trí tối thượng thừa. Để an trí trong cõi đó ta phải ăn uống những món thích hợp cho sức khoẻ, phải thiền định, tụng niệm và thực hành các phương pháp thể dục nào thích hợp với thể lực của ta.

Điều tối quan trọng là phải tự thệ nguyện:

1. Nhất quyết không khai trừ bất cứ ai, bất cứ vật gì kể cả ung bướu ra khỏi danh sách bạn hữu.
2. Nhất quyết chấp nhận mọi khó khăn với cả tấm lòng hoan hỉ, kể cả kẻ ghét bỏ ta.
3. Nhất quyết không than trách bất cứ lúc nào ta gặp bất hạnh hay sự đối xử thậm tệ.
4. Nhất quyết giữ lời hứa bằng mọi cách.
5. Nhất quyết không nói dối.
6. Nhất quyết cám ơn tất cả, kể cả những kẻ bội bạc, bất chính và căm thù ta.
7. Nhất quyết xem mọi vật, mọi người đồng nhất, không phân biệt.


Chỉ cần thực hiện được một trong các lời nguyện trên đây là ta ngộ nhập được trí siêu đẳng.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Apr 28 2007, 07:25 PM
Bài viết #39


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



37. Làm sao khắc phục lo sợ?
Trích từ một bài giảng ở Vega
Tháng 6 năm 1983


Lo sợ là tâm trạng của hầu hết mọi người thời nay. Có vài phương cách giúp chúng ta vượt qua nó.

Cách thứ nhất liên quan đến sinh lý, đó là thân thể và phải được xử lý bằng ăn uống. Để chiến thắng nỗi sợ hãi, trước nhất đừng dùng đường, đường làm cho lo sợ thêm trầm trọng. Không dùng đường là bước đi đầu tiên để chiến thắng sợ hãi.Cách thứ hai là uống ít nước. Sự lo sợ liên quan đến chức năng thận hoạt động kém, nên hãy hạn chế việc dùng nước dưới mọi hình thức để thận đỡ vất vả. Càng uống càng sợ hãi, càng lo âu. Thú vị thay, bạn có thể biến đổi nhanh chóng tâm trạng này: chỉ cần một ngày uống một ít thôi cũng đủ cho sợ sệt giảm đi rõ rệt. Rất, rất đơn giản!

Cách thứ ba thuộc tâm lý và nhằm giác ngộ tâm linh nơi bản thân. Điều này khó hơn, cần hiểu sâu hơn, nên bạn cần thấu suốt định luật vũ trụ toàn diện vào phương pháp Thực Dưỡng. Trước nhất bạn phải quyết chí làm cho được lời thệ nguyện: “Tôi sẽ trị lành bệnh cho tôi”. Quyết chí là hết sợ vì ngay lúc ấy bạn trở thành một con người khác rồi! Lời nguyện ấy xuất phát từ đại ngã trong đó không có sợ sệt, chỉ có sự nhận biết êm ả, sáng suốt, chứ lời nguyện ấy không xuất phát từ cái phàm ngã của bạn. Thế thì lời thề đó được đại ngã khởi niệm và cái tiểu ngã chỉ là chiếc máy tiếp thu. Muốn suy lường mức độ thành công hay thất bại của bản thân, bạn hãy quán xét mức độ hiểu biết về một sự thật hiển lộ quanh bạn chỉ là thành phần của đại ngã mà thôi. Nếu bạn hiểu rõ điều này, bạn có thể san bằng mọi khó khăn. Tất cả mọi khó khăn dù là ung thư hay chỉ là sự thèm thuồng ray rứt muốn đi ăn kem lạnh ngay, đều mọc rễ trong nếp sống theo tiểu ngã chứ không phải đại ngã.

Mỗi sáng tại phòng học của Viện Nghiên cứu Thực Dưỡng Vega, chúng tôi đều hợp xướng bài Hannya Shin Gyo, để hướng tâm về đại ngã. Trong lĩnh vực tâm lý học, các học giả lập luận với cái tiểu ngã và giúp người đời tìm cách chiến thắng nó, nhưng họ không cho bạn điều kiện để liên lạc với đại ngã. Bạn phải vượt qua tiểu ngã để đến chân ngã. Uy lực hợp nhất đại ngã và tiểu ngã được gọi là Hannya trong Hoa ngữ hay Phạn ngữ. Hannya là gì? Là tiểu ngã đạt tới đại ngã hay nhất thể. Khi ta đạt đến đại ngã và hòa hợp với thể ấy ta không còn sợ hãi hay lo âu. Cố gắng vươn lên cái ngã cao quý là mục tiêu của đạo học phương Đông, là kỷ cương phương Đông. Các samurai Nhật phải qua giai đoạn huấn nhục cam go và thái độ quan trọng nhất phải tự luyện cho kỳ được là vươn tới đại ngã. Khi hội nhập với nhất thể họ không còn ngại chiến đấu nữa. Còn dính dáng với tiểu ngã là còn lo âu “ồ, tôi sắp mất mạng”, chúng ta luôn luôn lo sợ một ngày nào đó kẻ mạnh hơn ta sẽ uy hiếp ta. Chừng nào mà ta còn sống với cái nhỏ thì sợ hãi và lo âu cứ quấy nhiễu ta mãi.

Thành thử dù bạn có sức khoẻ hay một triệu đôla bạn vẫn không tránh khỏi băn khoăn và mất mát. Nếu tâm tư bạn vướng mắc cái tiểu ngã phàm tục và dù bạn rất tráng kiện, bạn vẫn phập phồng trong vọng tưởng một tương lai ốm đau! Khi bạn bệnh và tâm bạn bị phàm ngã điều khiển thì bạn nghĩ ngợi: làm sao cho hết bệnh đây! Chắc chắn phải chết! Nhưng nếu bạn biết được bạn có cái đại ngã chân thường trùm khắp cả hư không, thế là bạn sống thanh thản ở mọi hoàn cảnh. Tại sao vậy? Vì đại ngã là vĩnh cửu, tiểu ngã là giả tạm, yểu số, chỉ 50 năm thôi thế mà ta dính chặt vào nó, chỉ cảm giác được nó mà thôi. Ta mê luyến nó quá. Ta nghĩ ta là cái ngã thô thiển đó và ta bị nhồi sọ như vậy từ trước đến giờ. Đây là lỗi lầm của nền giáo dục phổ thông đương thời.

Tôi sinh ở miền Nam Nhật Bản. Lên 9 tuổi, tôi lên Tokyo ở với cậu mợ tôi, cậu mợ không có con, còn ba má tôi có đến 10 đứa và rất nghèo. Nơi tôi sinh ra là vùng quê êm đềm, âm quá! Tôi lớn lên trong môi trường rất âm. Ngược lại, Tokyo là trung tâm công nghiệp. Gần nhà tôi có một xí nghiệp, tiếng máy inh ỏi cả ngày. Quá nhiều dương khí và tiếng động. Mẹ đỡ đầu của tôi cho tôi ăn cá mỗi ngày 2 lần, bữa ăn nào cũng có cá. Tôi càng ngày càng trở nên dương hơn. Thế là tôi đã thừa hưởng một thể chất âm và đang sống trong môi trường dương. Hai cực đoan đang xung đột trong tôi. Tôi lừng khừng trước mọi vấn đề. Hôm nay muốn làm việc theo cách này, ngày mai theo cách khác. Tôi rất đãng trí do có đột biến trong cách ăn và môi sinh, thật đáng buồn!

Khi tôi thôi học, tôi lại đi tán gái, ve vãn vũ nữ hoặc gái điếm. Khi quân đội Mỹ tới Nhật Bản, việc họ làm đầu tiên là xây cất các nơi giải trí cho quân đội. Tôi hay la cà đến các chỗ ấy! Nếp sống của tôi đổi thay mà tôi không hay biết. ở tận đáy lòng tôi càng hướng nhiều tới tâm linh, nhưng bên ngoài tôi lại theo đuổi sắc dục. Cậu tôi lo lắng hết sức nên đi tìm vợ cho tôi. Tôi ưng thuận. Rắc rối nổ bùng: vợ tôi và mợ tôi không hợp nhau. Vợ tôi khổ tâm nhưng không tâm sự với tôi điều này. Ngày nọ nàng bỏ nhà ra đi đem theo một lượng thuốc ngủ lớn để tự vẫn, mấy tháng sau thì nàng chết. Tôi bị quá đảo lộn đến mức mất cả trí nhớ. Tôi chỉ còn cách đến với Ohsawa để mong tìm được lẽ sống.

Thời ấy có khoảng hai hay ba mươi học viên, mỗi người có trách nhiệm với công việc, chẳng hạn như xuất bản sách rồi đi bán rong trên đường phố, dọn dẹp nhà cửa... Tôi không thể làm được việc gì hết, tôi như mất hồn vía; tôi chỉ ăn, ngủ và tham dự các buổi giảng của Ohsawa. Các buổi thuyết trình có tầm quan trọng sống chết đối với tôi nên tôi lắng nghe rất chăm chú, suốt một tháng.

Một tháng trôi qua, tôi đã hiểu ra. Tôi hiểu rõ rằng tôi không phải là cái ngã hẹp hòi mà tôi là thành phần của cái ngã rộng mênh mông. Các tế bào tạo dựng nên cả một thân thể, nhưng từng tế bào thì lại tách rời nhau bởi một màng mỏng. Các tế bào kết hợp thành thân thể. Thân xác của từng người cách biệt với thân xác của những người khác bằng một màng mỏng gọi là da. Và chúng ta sống liên kết với nhau trên địa cầu. Và hành tinh ta đang sống cách ly với các thiên thể khác bằng một lớp “da” khí quyển, nhưng nếu được kết hợp với nhau thì tạo nên vũ trụ. Những cá thể dù là tế bào hay con người được ngăn cách nhau bởi tấm màng mỏng, nhưng trên thực tế tất cả là một.

Trên tiến trình suy tư, bạn thường hòa mình với tiểu ngã, nhưng thật ra đại ngã vô biên đang suy tư và tiểu ngã hay bộ óc đang thu nhận, giống như tivi. Các tín hiệu, dưới hình thái rung chuyển, đến với ta từ khắp phía và bộ óc của ta thu nhận những tín hiệu này. Vậy thì lo lắng là từ bên ngoài vào, sợ sệt và niềm tin cũng thế. Mà bạn thì nhận loại tín hiệu nào? Cái đó tùy thuộc vào bộ máy thu của bạn. Tín hiệu ở khắp nơi, lúc nào cũng có sẵn. Tuy nhiên dù bạn có tivi mà không vặn lên thì làm sao bắt được băng tần. Có vặn lên mới bắt được đài phát. Đài này cho hát tuồng vui, đài kia cho hát tuồng buồn, tất cả tùy thuộc vào bạn. Muốn sống trong tâm trạng buồn thì chọn chương trình buồn, muốn vui thì chọn tuồng hát vui, từ trong ấy cả. Mọi tín hiệu đều bao quanh ta và tiểu ngã chọn lựa băng tần.

Nếu bạn ăn nhiều cốc loại và rau quả, uống ít lại không dùng đường, thì bạn thu nhập ít nỗi sợ sệt hơn. Đấy là điều tôi học được ở trường Ohsawa. Tiên sinh không dạy làm thuốc dán, hay áp gừng, không chỉ bảo cách ăn uống hay chọn thực phẩm, không nói món này âm món kia dương, cũng không bảo cách nấu nướng - món ăn ở trường đôi khi quá tệ nuốt không nổi! ở Nhật, chúng tôi không học âm dương. Sau khi đến Mỹ rồi, tôi mới tìm học. Michio cũng vậy, chúng tôi cùng tìm hiểu thêm. Tôi chỉ học được một điều của Ohsawa: đại ngã chính là tôi và cũng chính là bạn đấy. Các cá thể đều rời nhau và trông khác biệt. Đúng không bạn? Nhưng nguồn cội của cộng đồng các cá thể là một, là đại ngã. Đối với tôi đây là sự khám phá vĩ đại nhất, vui sướng nhất. Tôi nhận thấy mọi người đều như nhau, tất cả là anh, là chị, là người láng giềng như tôi. Người Mỹ trông khác tôi khi tôi vừa bước lên đất nước này, nhưng rồi họ cũng giống tôi, người thì âm thịnh hơn, kẻ thì dương thịnh hơn, nhưng vẫn là diệu dụng nhất thể.

Khi bạn bắt đầu hiểu thể tính này thì mọi lo âu phôi phai dần và lúc nào ngộ nhập được thể tính hằng giác đó, lo âu không còn nữa. Phải thấu hiểu rõ như thế mới chiến thắng được sợ hãi. Đó là con đường ngộ nhập nhất thể, là bản giác, tính hằng giác hay nhất thể. Lúc nào hiểu tường tận thế nào là chân ngã, thế nào là vọng ngã giả tạm thì lúc ấy bạn đang sống trong tự tại, trong thể tánh sáng suốt, thanh tịnh.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post
Thelast
bài Apr 28 2007, 07:31 PM
Bài viết #40


The last...
***

Nhóm: Administrators
Bài viết: 1,324
Gia nhập vào: 10-February 07
Thành viên thứ.: 4



38. Quan điểm quan trọng nhất của OHSAWA
Tháng 7 năm 1983


Hầu hết mọi người đều xem Ohsawa như là người sáng lập ra lối dinh dưỡng lấy cốc loại lứt làm nền tảng. Tính đến nay, hai mươi năm đã trôi qua từ khi ông bắt đầu thuyết giảng ở xứ này. Lối ăn uống Thực Dưỡng bị một số bác sĩ lên án là kẻ thù số một của quần chúng vì nó nguy hại nhất. Nhưng cách ăn uống theo phương pháp Thực Dưỡng vẫn được nhiều môn sinh ủng hộ, để rồi sau đó quan điểm về dinh dưỡng của khoa học cũng phải từ từ xoay chiều. Mấy năm gần đây, các tổ chức đặc trách về dinh dưỡng, hay nói cho rõ ràng hơn, về cách ăn uống cần thiết cho sức khoẻ (như cơ quan đặc trách về dinh dưỡng Mỹ, như cách ăn uống theo quan niệm Pritikin) có quan niệm rất gần với phương pháp Thực Dưỡng. Theo thiển ý của tôi khoa học càng tiến bộ thì cách ăn uống Thực Dưỡng càng tỏ rõ tính chất ưu việt của nó.

Đây là một trong các cống hiến lớn lao của tiên sinh Ohsawa cho nhân loại. Tuy nhiên ông còn nhiều cống hiến khác trọng đại hơn như thuyết giảng về tâm hồn, trí nhớ, suy tư và quán xét. Theo ý riêng của tôi, luận thuyết của ông về các lĩnh vực này còn rõ ràng hơn lối giảng giải của Phật, Chúa Kitô, Khổng Tử và cả của Lão Tử nữa.

Nhưng tôi không thể tìm thấy bản thảo nào của tiên sinh về vấn đề này chỉ trừ tác phẩm bằng Nhật ngữ. Tôi đã xem lại cuốn “Thiền Thực Dưỡng” (trung tâm OHSAWA xuất bản năm 1965), “Nguyên lý vô song” (The Unique Principle - 1976) và “Thời đại nguyên tử” (The Atomic Age - 1977). Thế mà tiên sinh luôn luôn giảng giải những vấn đề này trong các buổi thuyết trình. Thực ra tiên sinh ít nói đến ăn uống. Một luật sư người Mỹ, thân hữu của tôi, sau khi tham dự nhiều buổi thuyết giảng đã nói: quan điểm này thật phi thường.

Do đó những ai chưa được tham dự các buổi thuyết giảng của tiên sinh, thì được xem như thiếu mất những quan niệm cần yếu cho đời mình. Tôi cảm thấy có trách nhiệm thông tin những luận điểm này đến các người Mỹ và những ai chưa có dịp nghe tiên sinh nói chuyện.

Ohsawa đã dạy gì về quan điểm siêu xuất này?

Trong cuốn “Sách về trí phán đoán” do Trung tâm Ohsawa xuất bản năm 1980, tiên sinh viết:

Con người là chiếc máy thu thanh. Máy thu thanh này vận hành bằng hàng triệu, hàng tỷ ống tuýp chân không nho nhỏ. Đây là cội nguồn sinh ra khác biệt giữa các cá nhân. Giá trị của những ống tuýp này tùy thuộc vào chất thể và sự tinh xảo của kỹ thuật chế tạo chất thể là thực phẩm và kỹ thuật là cách chọn cách nấu nướng thức ăn cùng với thói quen ăn uống.

Đấy là lý do tại sao con người có thể suy nghĩ và hiểu về vũ trụ bao la và tất cả những gì tiềm tàng trong đó. Nhờ đó ta lý giải được tại sao có vô số ký ức, tại sao con người hiểu nhau... Mỗi người chỉ có một khối óc, thế mà nó tương ứng với khối óc của toàn thể loài người. Đó là lý do chính để ta có khả năng học bất cứ ngôn ngữ nào, có khả năng thu nhận các sự vật không ở trong tầm mắt của ta mà ở cách xa hàng ngàn dặm, dù ngủ hay thức. Và người ta còn có thể nhìn thấy được biến cố ở tương lai nếu tâm tư không vướng mắc cảnh đời, nếu tâm tư trùm khắp nó một cách đa năng và toàn giác.

Chính đây là cứ điểm của phép lạ. Trí nhớ, quả tim hay bộ óc để suy nghĩ và phán xét không trú ẩn trong cái hộp nho nhỏ, thường được gọi là cái đầu này. Trái lại chúng ta đang ở trong vũ trụ vô biên mà đó mới chính là cái đầu đích thực.

Cũng trong cuốn sách nói về trí phán đoán, Ohsawa có viết về nguồn gốc của loài người là thực vật, nguyên tố, tiền nguyên tử, năng lượng, phân cực âm dương và tận cùng là nhất thể. Đến đây, ta có thể kết luận rằng âm và dương là tay trái và tay phải của vô biên hay đấng sáng tạo, của kẻ phá hoại và của đấng tái tạo mọi sự vật hiện hữu. Tiên sinh gọi quan niệm về vũ trụ và biểu tượng của trật tự này là hình xoắn ốc. Tuy nhiên tiên sinh không dẫn chiếu vị trí của tâm linh hay tâm trí trên hình xoắn ốc này.

Vào năm 1940, tiên sinh cho xuất bản cuốn “Trật tự vũ trụ” (hiện cuốn sách này đã có bản dịch Việt ngữ - ND). Trong sách này tiên sinh có giảng về vấn đề nêu trên. Tôi xin cố gắng dịch một phần như sau:

Chúng ta hãy làm sáng tỏ về tâm linh (spirit). Trước nhất, tâm linh không có trọng lượng, kích thước, thời gian và tuổi thọ của nó không thể cảm nghiệm được. Nó có tuổi. Tâm linh lúc nào cũng thế, từ trước đến giờ. Nó không có năng lực vật chất, không tăng trưởng. Hiện nay tôi được tăng trưởng kiến thức nhưng tâm linh tôi như hồi còn thanh xuân.

Vậy thì tâm linh ở đâu? Có kẻ tin rằng ở trong óc, người thì nghĩ rằng nó ở trong tim. Nhưng qua bao cuộc khám nghiệm thể xác vẫn chưa tìm thấy tâm linh.

Để nhận thức được tâm linh, chỉ có một khả năng quán chiếu. Quán chiếu là công cụ tâm linh. Dẫu rằng ta không biết thể xác tạo dựng nên bằng cách nào, nhưng rõ ràng là tồn tại khả năng suy nghĩ, quán chiếu. Khi ta nghĩ thì cái gì xảy đến cho khả năng tư duy này? Nó biết chăng? Không, khả năng này vẫn tồn tại khi ngủ, nhưng xuất hiện dưới hình trạng thường được gọi là giấc mơ.

Có hai loại giấc mơ: một loại phi lý, không thể, tạm gọi là ảo mộng. Một loại gọi là thực mộng, nhờ đó mà người ta có thể thấy được biến cố xảy ra cách 1.000 dặm, hay cái người ta có thể gặp vào thời điểm sắp tới. Khi theo phép Thực Dưỡng tôi thường thấy có mộng thực như vậy và hàng ngàn người cũng xác nhận sự kiện ấy.

ở bất cứ hoàn cảnh nào, giấc mơ và suy tư đều là những điều huyền diệu. Thuở còn bé tôi mơ thấy mình là nhà viết tiểu thuyết, tôi mơ thấy cách cứu mẹ khỏi tay tử thần để tôi và anh tôi khỏi bị bơ vơ. Tôi mơ thấy đi Pháp và học Pháp ngữ. Huyền diệu thay, tất cả giấc mơ của tôi đều trở thành sự thật. Tôi không biết cuộc sống của mình là một giấc mơ hay giấc mơ là cuộc sống!

Các giấc mơ có nhiều đặc tính khác nhau. Trước nhất, giấc mơ không có giới hạn, ta có thể mơ mộng thấy bất cứ việc gì, bất cứ thời gian nào, ở đâu... Kế đó, thể xác không đau đớn. Thế giới giấc mơ thì vô biên. Các đặc tính này giống như đặc tính của thế giới tâm linh. Do đó giấc mơ và tâm linh giống hệt nhau. Khi ta đang mơ là ta đang ở trong cõi vô cùng, cõi tự do. Cũng thế, khi hòa nhập thế giới tâm linh là ta được tự do, không bị lệ thuộc thời gian.

Thế giới tâm linh thì vô tận, tự do, nên phiền não không hiện hữu và tất cả mọi sự vật đều bình đẳng. Cõi này được gọi là thái cực, thượng đế, vũ trụ hay cõi tuyệt đối. Cõi vô cực này tạo nên cõi hữu hạn, tương đối, âm và dương. Cuộc tạo dựng này không phải chỉ xảy ra cách đây hàng tỷ năm, mà kỳ thực hiện đang tiếp diễn. Đúng thế, tâm linh hay thượng đế là đáng sáng tạo ra vũ trụ, các nền văn minh của con người.

Có rất nhiều cuốn sách viết về đề tài này, chẳng hạn như Maka Hannya Hara Mitta Shin Gyo, Đạo đức kinh, Kinh Dịch, Upanishad, Kinh thánh... Dù sao, các học giả đã bóp méo ý nghĩa thực sự và con người hiện đại đã mất niềm tin vào ý nghĩa của tâm linh, suy tư và mối liên hệ giữa thượng đế và thế giới tương đối này. Vì sự bóp méo đó mà thế giới này đầy rẫy bất hạnh, chiến tranh và sự bất hoà. Để làm sáng tỏ sự hiểu biết về tâm linh (thế giới của suy tư và vĩnh cửu), tôi viết cuốn sách này và biểu đồ theo hình xoắn ốc. Con người ta đau khổ từ bất hạnh, hài lòng thưởng ngoạn sự xoay vần của tạo hóa. Từ đó, bạn sẽ tìm thấy con đường tới hạnh phúc.

Biểu đồ xoắn ốc vô song của Ohsawa ở cuối sách.


--------------------
The last
Go to the top of the page
 
+Quote Post

7 Trang V  « < 2 3 4 5 6 > » 
Reply to this topicStart new topic
1 người đang đọc chủ đề này (1 khách và 0 thành viên dấu mặt)
0 Thành viên:

 



.::Phiên bản rút gọn::. Thời gian bây giờ là: 17th June 2025 - 10:27 PM